Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

tiểu luận cao cấp chính trị QUAN điểm của CHỦ NGHĨA mác LÊNIN về mối QUAN hệ BIỆN CHỨNG GIỮA lực LƯỢNG sản XUẤT và QUAN hệ sản XUẤT vận DỤNG tại cục CÔNG tác PHÍA NAM, bộ CÔNG THƯƠNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.61 KB, 17 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II

BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ TẬP TRUNG

TÊN MƠN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

TÊN BÀI THU HOẠCH: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT - VẬN DỤNG TẠI CỤC CƠNG TÁC
PHÍA NAM, BỘ CƠNG THƯƠNG HIỆN NAY

ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số
Bằng chữ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021


2
2

MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG
Chương 1.

1.1.
1.2.


1
2

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản

2
2
5

Chương 2. xuất và quan hệ sản xuất tại cục cơng tác phía Nam, Bộ

Cơng thương hiện nay
Thực trạng vận dụng dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực
2.1.

lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tại Cục Công tác phía
Nam, Bộ Cơng thương
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng mối quan hệ

2.2.

8

8


giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tại Cục cơng
tác phía Nam, Bộ Công thương hiện nay hiện nay
Trách nhiệm của người lãnh đạo quản lý

2.3.
PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

11
13
14
15

Phần I: MỞ ĐẦU

Lý luận hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung có vị trí đặc biệt quan
trọng của Triết học Mác - Lênin. Là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận
cho nhận thức và hoạt động thực tiễn trong đổi mới đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Trong lý luận hình thái kinh tế - xã hội
chỉ ra cho chúng ta thấy hai quy luật cơ bản quyết định sự vận động phát triển
của xã hội loài người đó là: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất (hay còn gọi là mối quan hệ biện chứng giữa


3
3

lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất) và Quy luật về mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội, (còn gọi là mối
quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng).

Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội ra đời cách đây hơn một thế kỷ,
trước những biến đổi to lớn, sâu sắc của thời đại, song học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và tính cách mạng sâu sắc,
đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Đây là một trong những quy luật cơ bản, là cơ sở lý luận và
phương pháp luận khoa học về nhận thức và cải tạo xã hội.
Chính vì vậy, nghiên cứu nội dung: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Vận dụng ở Cục cơng tác phía Nam, Bộ Cơng thương hiện nay ” là
vấn đề có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn.

Phần II: NỘI DUNG
Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤ VÀ
QUAN HỆ SẢN
1.1 Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức mà con người tiến hành sản xuất trong
một giai đoạn lịch sử nhất định. Cách thức này một mặt biểu hiện trong việc
sử dụng cụng cụ lao động nhất định (sản xuất bằng cái gì). Mặt khác biểu hiện
trong việc tổ chức hoạt động sản xuất với những quan hệ sản xuất nhất định.


4
4

Phương thức sản xuất do hai mặt kết hợp thành là lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Trong đó lực lượng sản xuất là nội dung cịn quan hệ sản xuất là
hình thức của phương thức sản xuất
1.1.1 Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao với tư liệu sản

xuất. Biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Lực lượng sản xuất được gom góp, chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Mỗi thế hệ dựa trên những lực lượng sản xuất đã có để tạo ra lực lượng
sản xuất mới. Trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau trình độ của lực
lượng sản xuất biểu hiện rõ nhất ở cụng cụ lao động. Đến lượt nó, trình độ của
cụng cụ biểu hiện ở phân cơng lao động ở năng suất lao động. Năng suất lao
động là thước đo trình độ của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố hợp thành:
Người lao động là yếu tố đầu tiên chủ yếu của mọi quá trình sản xuất bao
gồm các nhân tố, nhu cầu sinh sống tự nhiên của con người. Nhu cầu thúc đẩy
hoạt động, sức lao động của người lao động là những sức thần kinh, sức cơ
bắp mà con người vận dụng để sử dụng, điều khiển cụng cụ lao động kinh
nghiệm và kỹ năng lao động; là sự hiểu biết về đối tượng tính năng tác dụng
của cơng cụ lao động , mơi trường, sự thành thạo ít hay nhiều trong việc sử
dụng công cụ khả năng cải tiến cơng cụ. Tồn bộ những nhân tố ấy kết hợp
trong người lao động làm thành yếu tố người lao động.
Tư liệu sản xuất bao gồm: Tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư
liệu lao động và những phương tiện, vật liệu khác dùng để tăng cường, hỗ trợ
cho tác động cụng cụ lao động lên đối tượng. Tư liệu lao động là vật hay hệ
thống những vật được con người đặt giữa mình với đối tượng lao động để
truyền những tác động của con người lên đối tượng nhằm biến đổi chúng
thành những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người. Do đó, tư liệu lao


5
5

động được coi là cánh tay thứ 2 của con người. Nó kéo dài và tăng cường sức
mạnh thế giới quan con người… Tư liệu lao động do con người sáng tạo ra,
trong đó cơng cụ sản xuất đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc biến đổi

tự nhiên.
Đối tượng lao động là toàn bộ những khách thể tự nhiên hoặc những vật
liệu tự nhiên đó được con người làm biến đổi nhưng chưa thành sản phẩm.
Những khách thể và vật liệu này có thể biến thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu
con người và sự tác động của con người. Đối tượng lao động mang lại cho
con người tư liệu sinh hoạt.
C. Mác viết: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng
sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu
lao động nào"[1, tr. 269].
Ngày nay khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tức
là trở thành yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất. Khác với trước đây việc
ứng dụng và sáng tạo những thành tựu khoa học kỹ thuật ở cách xa sản xuất
Những yếu tố nói trên của lực lượng sản xuất liên hệ chặt chẽ với nhau
và chỉ có ở trong sự kết hợp đó chúng mới là lực lượng sản xuất. Còn trong sự
tách rời chúng chỉ là lực lượng sản xuất ở dạng tiềm năng. Trong những yếu
tố của lực lượng sản xuất, thì con người lao động giữ vai trị quyết định. Vì
con người không những tạo ra lực lượng sản xuất mà cịn sử dụng nó, lực
lượng sản xuất chỉ là sự biểu hiện những năng lực của bản thân con người.
1.1.2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ của con người với nhau trong q trình sản
xuất. Đó là quan hệ tất yếu khách quan được hình thành trong quá trình sản
xuất của cá nhân với nhau.
Quan hệ sản xuất được thể hiện trên ba mặt: Quan hệ giữa người với
người trong việc sở hữu tư liệu sản xuất; quan hệ giữa người - người trong


6
6

việc tổ chức và phân công lao động xã hội; quan hệ giữa người và người trong

việc phân phối sản phẩm xã hội.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình thành một cách
khách quan khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, tùy tiện của nội lực lượng
sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Để tiến hành sản xuất, con người
chẳng những phải quan hệ với tự nhiên mà mà còn phải quan hệ với nhau để
trao đổi hoạt động và kết quả lao động, do đó sản xuất bao giờ cũng mang bản
chất xã hội. C.Mác chỉ ra: “Người ta chỉ sản xuất bằng cách hợp tác với nhau
một cách nào đó và trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta
phải để lại mối liên hệ và quan hệ chặt chẽ với nhau và chỉ có trong phạm vi
những mối liên hệ và quan hệ đó thì mới có sự tác động của họ vào giới tự
nhiên, tức là sản xuất” [5, tr.258].
Ba mặt của quan hệ sản xuất có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với những mặt khác
trong hệ thống sản xuất. Trong lịch sử có hai hình thức sở hữu cơ bản: Sở hữu
tư nhân là hình thức mà trong đó một thiểu số cá nhân nhất định sở hữu đại bộ
phận những tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội, như hình thức sở hữu này lợi
ích cá nhân chi phối q trình sản xuất. Sở hữu xã hội là hình thức sở hữu của
cá nhân liên kết thành các tập thể sở hữu. Trong sở hữu xã hội, lợi ích tập thể
của xã hội chi phối nền sản xuất xã hội.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt hợp thành một
phương thức sản xuất luôn tác động biện chứng với nhau, trong đó lực lượng
sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó mối liên hệ này được gọi là quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực


7
7


lượng sản xuất. Quy luật này chỉ ra sự phụ thuộc tất yếu khách quan của quan
hệ sản xuất vào lực lượng sản xuất và sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất
đối với lực lượng sản xuất. Bản chất của quy luật này là sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
1.2.1. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức trong
phát triển sản xuất. Nội dung quyết định hình thức.
Lực lượng sản xuất là yếu tố động, cách mạng trong phương thức sản
xuất vì trong quá trình lao động con người không ngừng cải tiến công cụ do
kinh nghiệm ln được tích lũy do nhu cầu sản xuất khơng ngừng tăng lên.
Trong khi đó quan hệ sản xuất có khuynh hướng bảo thủ, ổn định. Do đó
những thay đổi của phát triển sản xuất đều bắt nguồn sâu xa trước hết là sự tự
biến đổi của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định sự phân cơng lao động xã hội do đó
quyết định quan hệ giữa các tập đoàn người về mặt sở hữu tư liệu sản xuất
thơng qua quyết định q trình tổ chức lao động xã hội và phân phối sản
phẩm.
Khi lực lượng sản xuất phát triển mâu thuẫn với quan hệ cũ đang kìm
hãm nó,thì nó địi hỏi phải được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp
để cho sản xuất phát triển. Như vậy sự thay thế quan hệ sản xuất này bằng
quan hệ sản xuất khác do lực lượng sản xuất quy định chứ không phải do
quan hệ sản xuất. Khi quan hệ sản xuất mới thay thế quan hệ sản xuất cũ thì
phương thức sản xuất cũ cũng kết thúc và phương thức sản xuất mới ra đời.
1.2.2. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất không chịu sự tác động của lực lượng sản xuất một
cách thụ động mà có tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.


8

8

Trước hết quan hệ sản xuất là mặt không thể thiếu của phát triển sản
xuất lực lượng sản xuất không thể tồn tại, phát triển ở bên ngoài quan hệ sản
xuất, nó là hình thức tất nhiên của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất có
thể tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển bằng cách nó sắp xếp các yếu tố của lực
lượng sản xuất đúng vị trí, chức năng của chúng làm cho chúng phát huy
được tính năng, tác dụng của chúng. Nhưng khi quan hệ sản xuất phù hợp
không phù hợp với lực lượng sản xuất thì trở thành xiềng xích trói buộc đối
với lực lượng sản xuất làm cho chúng không phát huy tác dụng. Sự không phù
hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất có thể xảy ra theo 2 xu
hướng vượt quá hoặc lạc hậu so với lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất xác định mục đích xã hội của nền sản xuất nào, tổ
chức sản xuất được tiến hành vì lợi ích của tập đồn sản xuất nào, tổ chức sản
xuất vì lợi ích nào và phân phối, sản phẩm có lợi cho ai. Như thế có nghĩa là
mọi mặt của quan hệ sản xuất đều ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến lực
lượng sản xuất trực tiếp.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất là quy luật
chung cơ bản của q trình lịch sử lồi người nó tác động trong những giai
đoạn lịch sử cơ bản của xã hội là nguyên nhân căn bản của sự hình thành và
phát triển ổn định của những cấu trúc kinh tế xã hội xác định trong lịch sử.
Đồng thời cũng là nguyên nhân của những bước chuyển lịch sử cơ bản từ giai
đoạn lịch sử này sang giai đoạn khác.Từ phát triển sản xuất nguyên thủy sang
phát triển sản xuất chiếm hữu nô lệ, tiếp theo là phương thức phong kiến rồi
sang phương thức tư bản và cuối cùng là sang phát triển sản xuất cộng sản
chủ nghĩa.



9
9

Sự tác động của quan hệ này trong lịch sử đã xác định vai trò quy định
của phát triển sản xuất trong sự hình thành và phát triển của những cấu trúc xã
hội nhất định.
Điều kiện tự nhiên và dân số là những yếu tố tất yếu, tác động thường
xuyên đến quá trình sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn nhất định
cho sản xuất và cũng như quá trình tồn tại và phát triển xã hội. Nhưng khơng
phải là nhân tố quyết định.Chỉ có sự phát triển của phương thức sản xuất mới
là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Nước ta đang ở thời kỳ quá độ từ một nước sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu tiến thẳng lên một phương thức sản xuất cao hơn phát triển sản xuất cộng
sản bỏ qua phương thức sản xuất TBCN. Sở dĩ có thể tiến hành như vậy là vì
trên tồn thể giới phương thức sản xuất tư bản đã không cịn chiếm vị trí độc
tơn kế từ khi cách mạng CNXH ở nước Nga bùng nổ và thắng lợi.
Nhưng cần phải hiểu được sự bỏ qua không phải một cách máy móc mà
trái lại phải tiếp thu tất cả những thành tựu khoa học, kỹ thuật phương thức tổ
chức nền kinh tế tiến triển mà xã hội tư bản đã đặt được để phát triển triển nền
kinh tế của chúng ta. Khơng những thế cịn phải tiếp nhận cả những yếu tố
của những giai đoạn phát triển kinh tế thấp hơn đang có mặt ở nước ta để
hướng chúng vào mục tiêu cuối cùng là phương thức sản xuất cộng sản.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT TẠI CỤC
CƠNG TÁC PHÍA NAM, BỘ CƠNG THƯƠNG HIỆN NAY
2.1. Thực trạng vận dụng dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tại Cục Cơng tác phía Nam, Bộ Cơng
thương
Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất khẳng định vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với



10
10

quan hệ sản xuất. Từ đó khẳng định: Muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ
phát triển lực lượng sản xuất, mà trước hết là lực lượng lao động và công cụ lao
động.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “lực lượng sản xuất hàng đầu
của toàn thể nhân loại là cơng nhân là người lao động”. Chính những người
lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng
lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết là công cụ lao động, tác
động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá
trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người không
ngừng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người ngày càng phát triển.
Trong q trình đó khơng những con người sử dụng trí tuệ nội tại của mình
mà cịn được kế thừa những kinh nghiệm qua học hỏi lẫn nhau giữa những
người lao động cho nên có thể nói kinh nghiệm cũng là một lực lượng sản
xuất. Kinh nghiệm được tích luỹ dần trở thành kỹ năng và cao hơn nữa nó có
thể trở thành tri thức khoa học, kỹ thuật, cơng nghệ. Có thể khẳng định rằng
nhân tố con người đóng vai trị quyết định q trình lao động sản xuất ra của
cải vật chất.
Nhận thức đúng quy luật này, Đảng ta trong q trình lãnh đạo đã có
những phát triển về nhận thức. Cụ thể, ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
xác định: “Hoàn thiện thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi
để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng
khoa học, công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho
phát triển.” [2, tr. 101]. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
tiếp tục khẳng định phải xây dựng: “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát

triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một


11
11

động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”[3, tr.103]. Đến Đại hội XIII
chủ trương: “chuyển mạnh nền kinh tế sang mơ hình tăng
trưởng dựa trên năng suất, tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi
mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao” [4, tr.120].
Vai trị nhiệm vụ của Cục Cơng tác phía Nam (Bộ Cơng thương) rất lớn,
địi hỏi sự nỗ lực cao của tồn thể cán bộ, cơng nhân viên trong các lĩnh vực,
nhiệm vụ được phân công, đặc biệt là cơng tác kết nối, làm đầu mối cho Bộ,
tích cực chủ động phối hợp với các cấp, các ngành, các hiệp hội doanh
nghiệp, tổ chức có liên quan trong khu vực phía Nam, nhất là tại TP. Hồ Chí
Minh và các tỉnh trong khu vực trọng điểm phía Nam như Bình Dương, Đồng
Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu... là khu vực có liên quan nhiều đến các cơng tác điều
hành chính sách phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp - thương mại, luôn
thường xuyên diễn ra với quy mơ lớn, có độ sâu, có tỷ trọng cung ứng hàng
hóa xuất khẩu cao so với cả nước. Cục cần thường xuyên kết nối với các đơn
vị trong Bộ Công Thương, như: Cục Xúc tiến thương mại, Vụ XNK, Vụ Phát
triển nguồn nhân lực, Cục Hóa chất…, để thay mặt Bộ chỉ đạo, điều hành và
thực hiện tốt các chủ trương của Chính phủ, chỉ đạo của Bộ Cơng Thương
trong các cơng tác có liên quan tại khu vực phía Nam. Chính vì thế, Bộ Cơng
thương nói chung và Cục cơng tác phía Nam nói riêng đã có những chủ
trương, biện pháp nhằm phát triển lực lượng sản xuất mà cụ thể và trực tiếp
đó chính là nâng cao chất lượng của người lao động và không ngừng cải tiến
công cụ lao động (với tư cách là những phương tiện vật chất đảm bảo q

trình làm việc cơng tác), nhằm phát huy hiệu quả tối đa, góp phần hồn thành
tốt nhiệm vụ được giao.
Những năm qua, về phát triển yếu tố lực lượng sản xuất Cục cơng tác
phía Nam đã chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực. Trong 5 năm (2016


12
12

– 2021) đã tiến hành bồi dưỡng, tạo điều kiện học tập nâng cao trình độ, kỹ
năng cơng tác cho cán bộ, công nhân viên; quan tâm chăm lo sức khỏe và tinh
thần của cán bộ, công nhân viên với 117 cán bộ nhân viên. Tiếp tục hồn thiện
về cơng tác đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện làm việc để đảm bảo công
tác của lãnh đạo Bộ và các đơn vị thuộc Bộ tại phía Nam. Dưới góc độ yếu tố
quan hệ sản xuất, Cục cơng tác phía Nam đã đề xuất Bộ Cơng thương có chế
độ đãi ngộ hợp lý, đề bạt nâng bậc lương, ngạch lương phù hợp với trình độ,
năng lực của cán bộ, cơng nhân viên.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại những hạn chế như: Một số cán
bộ, công nhân viên của Cục trình độ, năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu
ngày càng cao của công việc; một số phương tiện máy móc, kỹ thuật, cơ sở
vật chất đảm bảo cho q trình làm việc cơng tác chưa kịp thời được nâng
cấp; một vài đơn vị chưa thực sự đẩy mạnh ứng dụng khoa học cơng nghệ vào
q trình cơng tác, làm việc; Chế độ khen thưởng, bồi dưỡng và chăm sóc sức
khỏe, tinh thần và cả đề xuất tăng lương cho cán bộ cơng nhân viên có thời
điểm cịn chậm.... Chính vì thế, vấn đề đặt ra là phải làm gì để phát triển yếu
tố lực lượng sản xuất cũng như từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù
hợp với điều kiện của Cục cơng tác phía Nam.
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật ngày nay trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp. Song khoa học kỹ thuật là một bộ phận của lực
lượng sản xuất, và yếu tố quyết định vẫn là con người. Vì khoa học kỹ thuật

dù nâng cao địa vị, vị thế, vai trò, sức mạnh của con người nhưng suy cho
cùng đều do con người chế tạo ra. Chính vì vậy, khoa học kỹ thuật muốn phát
triển phải chịu sự chi phối, thông qua con người. Cho nên, sự phát triển của
khoa học và công nghệ diễn ra một cách nhanh chóng và mạnh mẽ trên nhiều
lĩnh vực, thì nhân tố con người – đặc biệt là con người có tri thức ngày càng
đóng vai trị quyết định hơn trong lực lượng sản xuất. Trong sự nghiệp đổi


13
13

mới CNH, HĐH của đất nước ta, con người và nguồn nhân lực được coi là
nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững nền kinh tế nước ta. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến
lược phát triển nguồn nhân lực, phát triển con người một cách toàn diện cả thể
lực lẫn trí lực; cùng với đó cơng nghệ thông tin cũng trở thành ưu tiên hàng
đầu trong chiến lược phát triển của nước ta. Có như vậy, mới có những điều
kiện thuận lợi để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH trong thời kỳ quá
độ của nước ta cũng như đáp ứng xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên
thế giới.
2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng mối quan hệ giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tại Cục cơng tác phía Nam, Bộ
Cơng thương hiện nay hiện nay
Qn triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển lực lượng sản
xuất và từng bước hoàn thiện về quan hệ sản xuất, trên cơ sở những chủ
trương, định hướng của Bộ Cơng thương, Cục cơng tác phía Nam xác định
một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng mối quan hệ giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất trong tình hình thực tế của Cục như sau:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, cơng nhân viên Cục
cơng tác phía Nam về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước về chiến lược phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất
lượng cao ở cơ quan, đơn vị, cũng như chiến lược đẩy mạnh ứng dụng khoa
học công nghệ đây là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để cơ quan hoàn thành
nhiệm vụ.
Đây là vấn đề có tính ngun tắc, bởi mọi chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước đều phải được các cấp Bộ, nghành, và cơ sở địa phương
triển khai thực hiện một cách nghiêm túc. Bộ Cơng thuong nói chung và Cục
cơng tác phía Nam nói riêng khơng nằm ngồi
Hai là, cơ quan Cục cơng tác phía Nam phải trực tiếp đào tạo (hoặc gửi


14
14

đi đào tạo) được nguồn nhân lực có chất lượng cao thích nghi với sự đổi mới
và phát triển nhanh, đáp ứng được nhu cầu rút ngắn q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa dựa vào tri thức.
Có thể nói rằng lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm cụ ở Cục cơng tác
phía Nam là tồn thể cán bộ, cơng nhân viên của Cục, do đó học là lực lượng
lao động chủ yếu quyết định thắng lợi nhiệm vụ được giao. Vậy thì vận dụng
nội dung phát triển yếu tố lực lượng sản xuất của triết học Mác – Lênin chính
là phải tạo ra được nguồn nhân lực có chất lượng cao, muốn làm được điều đó
trước hết phải đào tạo và gửi đào tạo cán bộ, nhân viên về trình độ chun
mơn, về kỹ năng cơng tác để thực sự tạo ra nguồn lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ của Cục. Bên cạnh đó, cần chăm lo bồi dưỡng và phát triển
đội ngũ nhân tài ở cơ quan Cục cơng tác phía Nam để tạo được bước chuyển
biến mạnh mẽ trong phát triển kinh tế theo hướng dựa vào tri thức.
Ba là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hệ thống, cách thức quản lý, tập trung
vào vấn đề quản lý chất lượng công việc ở Cục cơng tác phía Nam.
Có thể nói, cách thức, hệ thống và chất lượng quản lý cơng việc xét đến

cùng nó thuộc về yếu tố quan hệ sản xuất, mà triết học Mác – Lênin chỉ ra
rằng khi quan hệ sản xuất phù hợp nó sẽ mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển. Điều đó có nghĩa là, khi đổi mới cách thức quản lý phù hợp sẽ tạo
động lực phát triển nguồn nhân lực. Xác định được vấn đề đó, cơ quan Cục
cơng tác phía Nam đã và sẽ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hệ thống, cách thức
quản lý cơng việc trong đó tập trung vào vấn đề quản lý chất lượng cơng việc
làm hàng đầu. Đó cũng chính là góp phần từng bước hồn thiện quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất theo quan điểm của Đảng ta.
Bốn là, quan tâm chăm lo các chế độ cho người lao động trong đó tập
trung vào chế độ tiền lương, chăm sóc sức khỏe và đảm bảo đời sống tinh
thần từ đó tạo ra động lực để phát triển nguồn lao động chất lượng tồn diện
trên các mắt trí lực, thể lực và tâm lực.


15
15

2.3. Trách nhiệm của người lãnh đạo quản lý
Trên cương vị là người lãnh đạo quản lý, bản thân luôn nhận thức đầy đủ
và đúng đắn quan điểm của Đảng và Nhà nước khi vận dụng triết học Mác –
Lênin nói chung và vận dụng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất nói riêng trong hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế ở
nước ta. Bên cạnh đó, đã tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, Bộ Cơng Thương và quy định của Cục cơng tác phía Nam
đến tồn thể cán bộ, công nhân viên về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Với tư cách là Phó Cục trưởng Cục cơng tác phía Nam, tơi nhận thấy cần
phải kịp thời tham mưu cho lãnh đạo cấp trên những biện pháp, giải pháp
nhằm phát triển nguồn nhân lực, trong đó cùng với Ban lãnh đạo, đề xuất
nhân sự đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; đề xuất sắp xếp

công việc phù hợp phát huy được năng lực của cán bộ, công nhân viên; triển
khai thực hiện ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý và làm việc; kiểm
tra việc thực hiện các chế độ chính sách (trong đó có chính sách tiền lương)
của người lao động; quan tâm chăm lo sức khỏe và tinh thần của người lao
động từ đó xây dựng được nguồn nhân lực cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của
cơ quan.


16
16

Phần III. KẾT LUẬN
Triết học Mác-Lênin trang bị cho chúng ta thế giới quan và phương
pháp luận trong nhận thức và cải tạo xã hội. Nghiên cứu nội dung mối quan
hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cho chúng ta cách
nhìn đúng đắn, tồn diện và khách quan về quan điểm, đường lối, chủ trưởng
của Đảng và Nhà nước ta trong tập trung phát triển lực lượng sản xuất (trực
tiếp là phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ)
cũng như quan điểm từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở nắm rõ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất đặc biệt là chính sự phát triển không ngừng của lực lượng
sản xuất trong phạm vi ổn định của quan hệ sản xuất lại tất yếu dẫn đến khả
năng ngày càng bộc lộ sự xung đột với những hình thức kinh tế hiện thời và
tất yếu địi hỏi phải có những thay đổi nhất định của quan hệ sản xuất thì mới
có thể có được sự phát triển hơn nữa của lưc lượng sản xuất. Như vậy, sự vận
động của mâu thuẫn biện chứng giữa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là đi từ sự thống nhất đến xung đột và một khi xung đột đó được giải
quyết thì lại tái thiết lập quá trình này lặp đi lặp lại trong lịch sử tạo ra quá
trình vận động và phát triển của phương thức sản xuất – của nền sản xuất xã

hội và sự phát triern của lịch sử xã hội lồi người. Và cũng chính từ quy luật
đó chứng minh nhận thức, tư duy của Đảng là muốn phát triển kinh tế phải bắt
đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, mà trước hết là người lao động và công
cụ lao động. Điều này là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với quy luật xã hội
mà triết học Mác đã chỉ ra. Và do đó, những giá trị khoa học mang tính cách
mạng của triết học Mác – Lênin cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.


17
17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1998, t.23.
2. Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011.
3. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb. CTQG, H, 2016.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ
XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, H.2021.
5. Hội đồng lý luận trung ương chỉ đạo và biên soạn giáo trình Quốc gia các
mơn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình Triết học
Mác - lênin, Nxb Chính trị Quốc gia. H.2008.



×