Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Phân tích k12 vợ nhặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.82 KB, 25 trang )

TÀI LIỆU NGỮ VĂN
NGỮ VĂN KHỐI 12
TÊN BÀI HỌC: VỢ NHẶT

MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Học sinh nêu được vài nét về tác giả, hoàn cảnh ra đời, đối tượng, mục đích sáng tác, chủ đề
và giá trị của Vợ nhặt
2. Học sinh phân tích được nội dung của: Hình tượng nhân vật Tràng
3. Hình tượng nhân vật bà cụ Tứ
4. Hình tượng nhân vật cơ vợ nhặt
5. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
6. Một số chi tiết tiêu biểu
“Những người đói, họ khơng nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống”
Nồi cháo cám trong bữa cơm đón nàng dâu của bà cụ Tứ

PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học sinh cần đọc thật kĩ phần Tiểu dẫn và từng tác phẩm trong Sách giáo khoa.
2. Tự tóm tắt các tác phẩm và đoạn trích được học.
3. Đọc hướng dẫn tự học và nội dung kiến thức trong tài liệu.

1


I. TÌM HIỂU CHUNG
Tơ Hồi (1920 – 2007)
- Tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài
- Quê quán: Bắc Ninh
- Là cây bút chuyên viết truyện ngắn
- Thế giới nghệ thuật của ông chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thơn và hình tượng người
nơng dân. Ơng am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của những người nơng dân nghèo, rất gần gũi
với sinh hoạt của ông – những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng


2. TÁC PHẨM
a. Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn “Vợ nhặt” có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Cuốn tiểu thuyết được viết
ngay sau khi CMT8 thành cơng nhưng cịn dang dở và sau đó bị lạc mất bản thảo trong kháng
chiến chống Pháp. Sau khi hoà bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để
viết truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác phẩm được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962)
b. Cảm hứng chủ đạo
Qua câu chuyện anh Tràng nhặt được vợ giữa ngày đói, Kim Lân miêu tả cuộc sống khốn cùng
của người lao động nghèo khổ trước Cách Mạng, từ đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của họ : Dù
trong hồn cảnh cùng quẫn, những người nơng dân vẫn khao khát được yêu thương và hạnh
phúc; họ yêu thương, sẵn sàng cưu mang, đùm bọc lẫn nhau dù ngay bên bờ vực thẳm của cái
chết; đặc biệt là niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống và ước mơ về một ngày mai tươi sáng
c. Tóm tắt
Truyện xảy ra trong bối cảnh nạn đói đang hồnh hành khắp nơi. Anh cu Tràng, gia đình nghèo
khó, là dân ngụ cư, người lại thơ kệch, xấu xí nên khơng lấy được vợ. Trong một lần đi kéo xe
2


thóc thuê, chỉ với vài câu nói đùa vu vơ và 4 bát bánh đúc, anh đã được một người phụ nữ theo
về làm vợ. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy
không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Mọi
người đều nghĩ đến trách nhiệm đối với gia đình, bà mẹ già sửa soạn lại nhà cửa, người con dâu
mới qt tước sân vườn, cịn anh cu Tràng thì cảm thấy mình “nên người”, thấy mình phải có
trách nhiệm với gia đình. Bữa cơm đón dâu đạm bạc, chỉ là niêu cháo lõng bõng và bát cháo
cám đắng chát nhưng tràn đầy tình cảm. Họ đùm bọc lẫn nhau để cùng nhau nghĩ đến tương lai
tươi sáng hơn ở phía trước. Trong óc Tràng, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới
d. Tình huống truyện
- Tình huống là yếu tố làm nảy sinh ra truyện; là thành phần cốt lõi để từ đó các sự việc, chi tiết
trong truyện được phát triển; bản chất của tình huống là nhằm nảy sinh những mẫu thuẫn và
cách nhà văn hướng tới giải quyết tình huống chính là giải quyết những mâu thuẫn

- Tình huống trong truyện: Anh cu Tràng xấu xí, thơ kệch, nghèo xơ xác, lại là dân ngụ cư
khơng ai thèm lấy, trong thảm cảnh đói khát đang hoành hành dữ dội, bỗng nhiên “nhặt” được
vợ một cách thật dễ dàng, nhanh chóng, ở giữa chợ chỉ nhờ “bốn bát bánh đúc” đã gây nên sự
ngạc nhiên, thương cảm đến xót xa trong lịng người đọc
- Tình huống nhìn bề ngồi tưởng như đơn giản nhưng lại chứa đầy những mâu thuẫn,xung đột
gay gắt hiến có bên trong. Tình huống bi thảm cười ra nước mắt; vừa lạ, vừa hết sức éo le, độc
đáo; vừa thấm đãm tình người vừa hấp dẫn người đọc lơi cuốn
- Đó là sự kết hợp nghịch lí đến mức vơ lí : giữa một đám cưới//với một nạn đói khủng khiếp;
một sự kiện trọng đại của đời người// với một hành động “nhặt” rất giản đơn; một niềm vui
hạnh phúc lứa đôi// với một tai hoạ khủng khiếp của dân tộc. Khiến người đọc tự đặt ra câu hỏi :
Liệu có hạnh phúc nào được đặt trên nền của đói khát, tai hoạ?
Ý nghĩa:
• Phản ánh số phận rẻ rúng, bọt bèo của con người trong nạn đói năm 1945
3


• Gián tiếp lên án tội ác của thực dân, của phát xít và tầng lớp phong kiến đã gây ra nạn đói
khủng khiếp năm 1945 khiến số phận con người bọt bèo như cỏ rác
• Ca ngợi sự đùm bọc, chở che, đạo lí, tình cảm u thương của con người với con người trong
nạn đói “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Tình cảm ấy được thể hiện rõ qua thái độ của
Tràng và bà cụ Tứ với cơ vợ nhặt
• Thể hiện thái độ của nhà văn Kim Lân: trân trọng trước niềm khát khao sống và khát khao
hạnh phúc của con người trong nạn đói. Dù trong hồn cảnh bi thảm đến đâu, con người vẫn
hướng về sự sống, hướng về ánh sáng, vẫn tin tưởng, lạc quan, hi vọng vào tương lai
e. Nhan đề
- “Vợ nhặt” là một nhan đề độc đáo, phù hợp với tình huống truyện. Kim Lân đã kết hợp hai
khái niệm trái ngược nhau: Chuyện lấy chồng gả vợ - chuyện lớn lao hệ trọng của đời người với
việc “nhặt nhạnh, lượm lặt” được một cách tình cờ, vu vơ...
- Qua sự nghịch lí ấy, người đọc sẽ cảm thấy tò mò bởi nhan đề và đặc biệt còn cảm thấy xót xa
cho thân phận con người, nhưng cũng từ đó xúc động vì tình người mà những người nơng dân

dành cho nhau trong hồn cảnh khốn cùng; xúc động vì vẻ đẹp tâm hồn, vì khát khao yêu
thương và trân trọng hạnh phúc của họ
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. NHÂN VẬT TRÀNG
HOÀN CẢNH XUẤT HIỆN
- Tràng xuất hiện dưới ánh trời chiều chạng vạng, trên con đường khẳng khiu dẫn về xóm ngụ
cư. Cái sắc màu ảm đạm, xám nhạt của buổi chiều, nơi xóm ngụ cư giữa nạn đói trở thành nền
làm nổi bật dáng vẻ thơ kệch của người nông dân này
- Tràng thuộc tầng lớp người dân xóm ngụ cư, hồn cảnh Tràng xuất hiện cũng thật đặc biệt:
hình ảnh những con người “đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những
bóng ma”, “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “người chết như ngả rạ”. “Khơng khí vẩn lên mùi
4


ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”
- Tràng hiện lên trong cảnh hoang sơ, tiêu điều, ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn
- Tên một thứ đồ vật xấu xí – cái tràng
- Ngoại hình của Tràng chỉ được Kim Lân miêu tả một cách xơ xài qua vài nét, song Tràng
hiện lên với vẻ xấu xí thơ kệch: Đơi mắt gà gà nhỏ tí, quai hàm bạnh ra, mặt thơ kệch, thân
hình thì vậm vạp, to rộng, cái đầu trọc nhẵn, cái lưng to rộng lừng lững như con gấu. Ngoại
hình của Tràng phản chiếu cả một sự tăm tối, hằn in dấu ấn của cuộc đời nghèo khổ, lam lũ
- Và quả thực, cuộc sống người nông dân ấy vô cùng nghèo khổ. Tràng sống hiu quạnh cùng
mẹ già trong căn nhà “tồi tàn, rúm ró, xiêu vẹo”, tấm phên rách và lổn nhổn cỏ dại xung
quanh. Sống với thân phận của một kẻ ngụ cư bị coi thường, khinh rẻ
- Chính hồn cảnh ấy cũng phần nào tạo nên tính cách vụng về, thơ kệch của anh chàng. Kim
Lân thật tài tình khi đi vào khắc hoạ bản chất nhân vật qua một loạt hệ thống ngôn ngữ khi
suồng sã, lúc cộc lốc “đấy, muốn ăn gì thì ăn”, “làm đếch gì có vợ”, khi lại lẩm bẩm một mình
“qi, sao nó buồn thế nhỉ?” hay “Chán quá. Chẳng đâu vào đâu, tự nhiên cũng khóc” …
Trong con người này khơng bao giờ biết nói một câu âu yếm, nhẹ nhàng hay tình tứ dù đơi lúc
anh cũng rất muốn thế

- Chỉ cần qua một vài nét phác hoạ về ngoại hình, cử chỉ, ngôn ngữ của nhân vật, Kim Lân đã
tái hiện sống động hình ảnh tiêu biểu của người nơng dân trước cách mạng tháng Tám: những
con người bị hoàn cảnh sống đầy đoạ triền miên trong nạn đói, trong cái khổ nên trở thành
vụng về, tăm tối. Sự thô kệch của Tràng chẳng những không đem lại thái độ chế giễu, mỉa mai
trong tâm hồn người đọc mà ngược lại dấy lên trong lòng người nỗi niềm cảm thương sâu sắc
cho cuộc sống cơ cực, lam lũ của con người này
PHẨM CHẤT TỐT ĐẸP
HIỀN LÀNH

- Đằng sau ngoại hình xấu xí, những cử chỉ vụng về Tràng cịn là một con
người biết yêu thương, một trái tim chân thành nhân hậu với những tình cảm
5


ĐƠN HẬU

thơ mộc, giản dị mà vơ cùng cảm động
- Tình cảm yêu thương của Tràng biểu hiện trước hết trong mối quan hệ giữa
anh với lũ trẻ trong xóm. Hẳn Tràng với chúng phải có một thái độ gần gũi,
u thương, chan hồ đến như thế nào thì lũ trẻ mới dành cho anh tình cảm
hồn nhiên, vơ tư và đáng yêu đến thế. Chúng cứ chờ mỗi buổi chiều anh đi
làm về là “ùa ra ôm lấy anh”, đứa bá cổ, đứa ơm tay mà rối rít: “Anh Tràng
ơi, bế em mấy anh Tràng ơi”. Thì ra anh Tràng nơng dân xấu xí, vụng về này
lại được lũ trẻ dành cho một tình cảm quyến luyến, yêu mến vơ tư biết
nhường nào.
- Thế nhưng, tình người chân thành giản dị cịn được Kim Lân đặt trong
hồn cảnh đói, nghèo thê thảm, càng đói khát, càng thiếu thốn, nó lại càng
ngời lên nét đẹp hơn bao giờ hết. Tình cảm ấy hiển hiện rõ nhất trong tình
nghĩa yêu thương của Tràng với người đàn bà không tên anh gặp trên chợ
huyện

 Trong tâm trí của Tràng, cuộc gặp gỡ lần thứ nhất với người đàn bà xa
lạ sau một lần hát hò vu vơ cho đỡ nhọc chắc hẳn chẳng để lại ấn
tượng gì trong tâm trí anh. Vậy mà ngay lần gặp thứ hai, ngay sau khi
thị xấn xổ chạy đến trước mặt Tràng, anh lại nhận ra ngay sự đổi thay
ghê gớm của thị qua ngoại hình gầy yếu hơn hẳn – đấy là ánh mắt của
sự thương cảm, của nỗi xót xa giữa một người dưng với một người
dưng
 Và dù có vụng về, chậm chạp đến thế nào, Tràng cũng hiểu ra rằng vì
sao người đàn bà ấy lại tình nguyện theo khơng mình như vậy. Thế
mà anh vẫn quyết định đưa cô về. Đằng sau niềm khát khao hạnh
phúc của Tràng, ta cũng phải công nhận rằng hành động ấy của anh
được xuất phát từ tình yêu thương với con người trong cảnh đời khốn
6


khó.
 Dù người vợ ấy chỉ là “vợ nhặt” thế mà cách ứng xử của Tràng với cô
lại nhân hậu, quan tâm săn sóc biết bao nhiêu: Đưa thị vào chợ, sắm
cho thị cái thúng con và dăm ba thứ lặt vặt. Tràng còn lo lắng, băn
khoăn trước những biểu hiện tâm trạng nhỏ nhặt của người phụ nữ
ấy : “Quái, sao nó buồn thế kia, sao nó buồn thế nhỉ?”
- Tất cả những suy nghĩ, những việc làm của người đàn ông nghèo khổ tuy
vụng về nhưng ẩn chứa tình u thương chân thành mộc mạc. Tấm lịng của
Tràng biểu hiện rõ nhất cho đạo lí đùm bọc, sẻ chia trong lúc hoạn nạn, nguy
nan của người Việt. Dẫu cuộc sống có đắng cay nhưng ta vẫn cảm nhận cái
ấm áp của tình người. Điều đó chắp cánh cho tư tưởng nhân đạo trong tác
phẩm của Kim Lân
Cái lí tưởng sâu sắc nhất mà Kim Lân gửi gắm ở hình tượng nhân vật này là
niềm khao khát hướng tới hạnh phúc mạnh hơn cả cái chết. Qua tâm trạng
của Tràng, nhà văn muốn khẳng định cho phát hiện mang tính nhân văn của

mình về cuộc sống người lao động “Dù trong tình huống bi thảm đến đâu,
dù kề bên cái chết, con người vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về
ánh sáng, vẫn tin tưởng vào sự sống, vẫn hi vọng vào tương lai,vẫn muốn
KHÁT KHAO
HẠNH PHÚC

sống cho ra sống”
Tâm
trạng

- Xưa, cha ơng ta có câu “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà/Trong ba
việc ấy thật là khó thay” Thế mà, anh Tràng xấu xí ngờ nghệch
chỉ cần qua dăm ba câu hị vu vơ, vậy mà ngẫu nhiên có vợ. Thật

khi

là sự kiện trọng đại, một biến cố lớn trong cuộc đời anh. Quả

“nhặt”

thật, Tràng như con người tốt số đào hoa. Với sự xuất hiện của

vợ

người “vợ nhặt”, ta hiểu ra rằng đằng sau dáng vẻ thô kệch, xấu
xí kia lại là một tâm hồn khát khao hạnh phúc, khát khao một tổ
ấm gia đình mạnh mẽ.
7



- Lúc đầu, khi thấy người đàn bà theo mình về thật, Tràng cảm
thấy “chợn chợn” và lo lắng. Anh hoảng sợ trước hành động táo
bạo, liều lĩnh đến không ngờ của người phụ nữ, anh lo lắng bởi
hiểu rằng “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chẳng biết có
ni nổi khơng, lại cịn đèo bịng”. Nhưng rồi sự lo lắng ấy
thoáng qua rất nhanh khi anh tặc lưỡi “Chậc, kệ”.
- Cái tặc lưỡi của Tràng phải chăng là sự thách thức trước hoàn
cảnh, là sự lựa chọn đi theo tiếng gọi của hạnh phúc, là niềm
khao khát một mái ấm gia đình mạnh mẽ hơn cả sự rình rập, đe
doạ của cái chết xung quanh. Một quyết định, một sự lựa chọn
liều lĩnh giữa mùa đói kém nhưng giúp ta hiểu hơn ý nghĩa của
hạnh phúc, của mái ấm gia đình với con người lớn lao biết
nhường nào. Tất cả hiện lên chân thực, xúc động dưới ngòi bút
đầy trân trọng của Kim Lân
- Niềm hạnh phúc vô bờ của Tràng được miêu tả tinh tế nhất qua
tâm trạng của anh khi đưa vợ về. Sóng đơi đi bên người bạn đời
vừa “nhặt” được, tâm hồn anh lâng lâng một niềm sung sướng.
Có ngỡ ngàng, có lúng túng nhưng bao trùm tất cả là niềm hạnh
phúc đang trào dâng trong lòng anh. Niềm vui, khiến cho Tràng
Tâm

như quên hết cảnh đời ê chề, tăm tối, quên cả cái đói, khát ghê

trạng

gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt. Đi bên

khi đưa vợ “khuôn mặt của Tràng có vẻ phớn phở khác thường”, “ hai
vợ về
mắt sáng lên lấp lánh” và “hắn luôn tủm tỉm cười một mình”. Tất

cả khn mặt, ánh mắt, nụ cười đều ấp ủ niềm vui sướng cố kìm
nén mà chẳng thể nào che dấu được. Hạnh phúc ngập tràn trong
lòng người đàn ơng nghèo khổ. Niềm hạnh phúc cịn hiển hiện
qua lời giới thiệu đầy kiêu hãnh của Tràng với mẹ “Kìa, nhà tơi
nó chào u đấy”. Hai tiếng “nhà tơi” với Tràng thật cảm động,
8


kiêu hãnh, mang ý nghĩa lớn lao biết bao nhiêu. Có lẽ, cả qng
đời vừa qua của mình, con người ấy cũng chẳng bao giờ dám
nghĩ một lúc mình được sống trong giây phút trọng đại đến thế :
giới thiệu vợ với mẹ
- Kim Lân cũng vô cùng tinh tế khi phát hiện được, hạnh phúc
đem đến cho con người dáng vẻ rất đáng yêu. Anh Tràng thô
vụng ấy đã trải qua những giây phút ngượng ngịu, lúng túng đến
khổ sở của một chàng trai trong thâm tâm muốn nói một lời tình
tứ với người vợ mà chẳng biết nói như thế nào. Vì vậy, dáng vẻ
của anh trơng thật luống cuống, khổ sở “hắn cứ lúng ta lúng
túng, tay nọ xoa vào vai bên kia đi bên người đàn bà”. Sự
ngượng ngùng của anh còn được Kim Lân khắc hoạ khéo léo qua
ngôn ngữ xưng hô của Tràng: ngượng ngùng, không biết xưng hô
với người đàn bà như thế nào, thành ra lời nói cộc lốc “lối này cơ
mà”, “sắp”. Tất cả những điều ấy là gì nếu khơng phải là tâm
trạng của một con người lâng lâng trong hạnh phúc, bình dị và
chân thật vơ cùng
- Tâm trạng của Tràng còn là sự lo lắng, bồn chồn, thấp thỏm.
Đưa vợ về đến nhà, căn nhà nhắc hắn nhớ tới người mẹ già.
Trước việc hắn nhặt vợ về, liệu mẹ hắn sẽ như thế nào? Trong
giờ phút ấy “Chính hắn cũng khơng hiểu vì sao hắn sợ, hắn lấm
lét bước vội mấy bước ra sân gắt lên “Sao hôm nay bà lão về

muộn thế không biết?”” Lo lắng bà mẹ sắp về, dù vụng về đến
mấy con người này cũng biết mình vừa có hành động phạm vào
đạo hiếu. Vì thế, Tràng mới có tâm trạng lo lắng, bồn chồn, day
dứt khơng n
- Với tình u thương chân thành và những am hiểu, sự gần gũi
9


với người dân quê, Kim Lân đã phát hiện được bao vẻ đẹp khuất
lấp nằm sau cuộc sống nghèo khổ, đằng sau sự thô vụng của
nông dân. Tất cả đều được cất lên từ tấm lòng yêu thương, trân
trọng của nhà văn, làm nên chất thơ trong trẻo trong tác phẩm
- Niềm khát khao hạnh phúc trong tâm hồn Tràng còn được nhà
văn khám phá trong những cảm nhận và niềm tin mãnh liệt của
anh vào sáng ngày hôm sau
- Đối với Tràng mọi thứ diễn ra nhanh chóng như một giấc mơ
“Tràng cảm thấy trong người êm ái, lửng lơ như vừa từ trong
giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến bây giờ vẫn ngỡ như là khơng
phải” Hạnh phúc khiến Tràng cảm nhận tình cảm yêu thương,
gắn bó của gia đình. Tâm hồn Tràng bừng lên niềm vui thấm thía
Tâm
trạng
của
Tràng
vào sáng

và cảm động. Có lẽ, chưa bao giờ cuộc sống lại vọng vào trái tim
của anh một cách ấm áp và yêu thương đến thế: anh lắng nghe và
nâng niu cả tiếng sàn sạt của từng nhát chổi mà người vợ đang
quét ở trên sân. Cũng lần đầu tiên, Tràng thấy bình n, gắn bó

với căn nhà của minh một cách lạ lùng

hôm sau - Một niềm vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng khiến
Tràng nhận ra sự thay đổi lớn lao của mình “Bây giờ hắn mới
thấy hắn nên người”. Bởi lẽ từ nay về sau, Tràng đã có một tổ ấm
gia đình để mà tin tưởng, mà hi vọng, mà xây đắp cho tương lai
của chính mình “Hắn đã có một gia đình, hắn sẽ cùng vợ sinh
con đẻ cái” “Hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Ý
thức là một người chồng, là một người đàn ông trụ cột trong gia
đình giúp cho anh chín chắn hơn. Sự đổi thay ấy là gì nếu khơng
phải là niềm mơ ước, khát khao vươn đến hạnh phúc của con
người. Hạnh phúc hiện hình trong cái chết, sự sống nảy sinh từ
10


đau khổ trong thực tại
Với những khám phá của mình, Kim Lân cịn khẳng định: trong tâm hồn
những người nơng dân nghèo khổ còn tiềm tàng một ý thức, khả năng đấu
tranh tự giải phóng cuộc đời mình. Cho nên nhà văn đã không gượng ép khi
TIỀM TÀNG
KHẢ NĂNG
ĐẤU TRANH

để cho nhân vật Tràng bên mâm cơm ngày đói, nghĩ đến hình ảnh của đồn
người đi phá kho thóc Nhật và phía trước là lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp
phới. Bởi lẽ, với tâm hồn tràn ngập khát khao hạnh phúc, tràn ngập niềm tin
vào sự sống, người nông dân nghèo khổ này chắc chắn sẽ không chấp nhận
cảnh đời cam chịu, chỉ cần có cơ hội là những con người ấy sẽ đứng lên đấu
tranh tự giải thoát và bảo vệ cho cuộc sống, hạnh phúc của mình


2. NHÂN VẬT BÀ CỤ TỨ
HỒN CẢNH XUẤT HIỆN
- Trong tác phẩm, cụ Tứ được nhà văn xây dựng là một người mẹ nghèo khổ. Cả cuộc đời
bươn trải, kiếm sống, vậy mà đến cuối đời căn nhà của cụ Tứ vẫn chỉ là một căn nhà “rúm ró,
siêu vẹo, trống không”. Cuộc sống vất vả, lam lũ hằn in trên dáng vẻ của người mẹ già nua,
chậm chạp. Niềm hi vọng, chỗ dựa tinh thần duy nhất của bà cụ Tứ là anh cu Tràng, vậy mà,
đứa con trai độc nhất của bà lại chậm chạp đến nỗi “chẳng ma nào thèm lấy”. Tình cảnh của
người mẹ thật đáng thương. Thế mà, người con trai ấy lại dẫn bà vào tình cảnh dở khóc dở
cười: dẫn nguwịi đàn bà về nhà giữa mùa đói kém, lấy vợ giữa lúc khơng ai dám nghĩ đến
chuyện đèo bịng
- Đứng trước tình cảnh ấy, người mẹ có những tâm trạng gì? Hà Minh Đức viết “Tuy có nhiều
tâm trạng khác nhau nhưng tình thương vẫn là tình cảm chủ yếu của người mẹ
Ngỡ ngàng,
ngạc nhiên

- Trước hết, cảm xúc đầu tiên xuất hiện trong tâm hồn người mẹ là sự ngỡ
ngàng, sửng sốt. Nó được bắt đầu từ sự ngỡ ngàng của bà cụ trước độ vồn
vã, ân cần bất thường của người con trai. Nghe tiếng reo “U đã về đấy”,
nhìn dáng vẻ “lật đật chạy ra đón” , trước câu hỏi ân cần đầy quan tâm “Sao
11


hơm nay u về muộn thế, làm tơi đợi nóng cả ruột” của cậu con trai khiến bà
lão ngơ ngác, ngạc nhiên. Sự ngỡ ngàng của bà cụ ẩn trong ánh mắt “nhấp
nháy” khi nhìn đứa con trai, trong câu hỏi “u có việc gì vậy?”, trong dáng
điệu phấp phỏng theo con vào trong nhà – mỗi bước là sự hồ nghi, hồi hộp.
Cảm giác ấy cứ lớn dần trở thành sự sửng sốt, bàng hồng khi bà nhìn thấy
người phụ nữ trong nhà mình, khi nghe thấy tiếng cơ chào mình bằng u.
Tâm trạng sửng sốt của nhân vật được Kim Lân khắc hoạ qua việc miêu tả
cử chỉ, điệu boọ cùng hệ thống ngôn ngữ độc thoại nội tâm

- Trong sự bàng hoàng, bà lão “đứng sững lại”, bà “khơng tin vào mắt mình
nữa”, “bà cảm thấy mắt mình như nh ra thì phải”. THậm chí, bà cịn cố
hấp háy đôi mắt để trấn tĩnh, định thần lại. Một loạt câu hỏi dồn dập trỗi
dậy trong cái đầu vốn chậm chạp, già nua của bà lão “Quái, sao lại có người
đàn bà ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại ngồi ở đầu giường con mình
thế kia. Sao lại chào mình bằng u? Sao lại thế? Ơ hay, thế là thế nào nhỉ?”
Tất cả những điều ấy làm cho người mẹ vô cùng bối rối. Sự bối rối hiển
hiện trong dáng vẻ ngơ ngẩn của bà “bà lão hết nhìn con trai lại nhìn người
đàn bà lịng đầy khó hiểu”. Thái độ ngỡ ngàng, sửng sốt của bà mẹ là thái
độ tất yếu của một người khi đặt trước một tình cảnh mà khơng bao giờ bà
nghĩ rằng nó sẽ xảy ra. Đấy là tâm trạng đời thời được Kim Lân khắc hoạ
thành công qua dáng điệu, cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật
- Những cảm xúc khác nhau trong tâm hồn người mẹ còn là nỗi niềm ai
ốn, tủi hờn, xót xa. Giây phút ngỡ ngàng, băn khoăn ban đầu trong tâm
hồn bà cụ Tứ rồi cũng qua đi khi bà nghe người con trai rành rọt giải thích
Ai ốn, xót xa

lần thứ hai với vẻ tự hào không một chút dấu giếm “Nhà tôi mới về làm bạn
với tôi đấy u ạ. Chúng tôi phải duyên, phải kiếp với nhau” thì lịng người
mẹ hiểu ra bao cơ sự “bà cúi đầu nín lặng”. Phải chăng đây là giâu phút bà
đang định thần lại, đang trấn tĩnh lại, đang cố làm quen với môt hiện thực
mà bà không bao giờ ngờ tới, không bao giờ nghĩ là nó có thể xảy ra. Cũng
12


trong giây phút nín lặng này, lịng người mẹ dấy lên bao cảm xúc ngổn
ngang. Dẫu bất ngờ song người mẹ giàu nua khơng một thống giận dữ,
khơng một lời trách móc mà nỗi lịng bà lại là niềm ai oán, xót xa. Bà xót xa
cho số kiếp đứa con trai bởi bà hiểu ra rằng đứa con trai mình vẫn âm thầm
khao khát một hạnh phúc bình dị vậy mà phải khi có nạn đói khốn cùng này

mơ ước giản dị của nó mới trở thành hiện thực. Xót xa thay cho số kiếp đứa
con trai bà
- Thương con rồi lại trách mình, lịng người mẹ ai ốn cho cảnh nghèo của
gia đình mình, day dứt cho bổn phận làm mẹ “người ta dựng vợ gả chồng
cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, cịn mình thì…” Sự so sánh ngầm
trong tâm hồn bà cụ càng dấy lên nỗi niềm tủi hờn trong lòng người mẹ. Tất
cả hiện lên đáng trân trọng vơ cùng dưới ngịi bút Kim Lân. Những cảm xúc
ngổn ngang ấy là gì nếu khơng phải là tình u thương con sâu sắc của
người mẹ
- Từ tâm sự xót xa, cay đắng, lịng người mẹ còn là nỗi lo lắng cho cuộc
sống của những đứa con. Ngồi kia nạn đói đang hồnh hành. Bao bọc
quanh căn nhà nhỏ bé vẫn là khơng khí “vẩn lên mùi của chết chóc, mùi gây
của xác người”. Đâu đó vẫn vẳng lại âm thanh của “tiếng ai khóc tỉ tê”
trong những gia đình có người chết vọng lại. Giữa thực cảnh ấy, liệu các
Lo lắng

con bà “có ni nổi nhau sống qua được cái thì này khơng?”. Cuộc đời bà
sắp đi đến điểm cuối của con đường, hai đứa con bà giờ đây mới bắt đầu
trên vạch xuất phát. Trên chặng đường đời tăm tối mù mịt, tương lai của các
con bà sẽ ra sao? Chỉ trong vài nét phác hoạ ban đầu, Kim Lân đã diễn tả
những xúc cảm trong lòng người mẹ nghèo khổ ấy: tủi cực, ai oán, lo lắng
và tất cả đều bắt nguồn từ tình thương con tha thiết của bà.

Sự thấu hiểu,
cảm thơng

- Tình u thương và lịng nhân ái bao dung, vị tha của người mẹ nghèo khổ
này đã làm nên chất thơ đằm thắm, xúc động cho thiên truyện. Từ tình
thương cho số phận đứa con trai, lịng người mẹ dấy lên niềm cảm thông,
13



thương xót cho số phận của nàng dâu mới khi đăm đăm nhìn bộ dạng rách
dưới, đói khát của người đàn bà xa lạ, bà cụ hiểu hết căn nguyên nào khiến
người phụ nữ ấy vứt bỏ danh dự, nhân phẩm của mình để theo con bà về
làm vợ. Vậy nên, ánh mắt “Đăm đăm” của người mẹ nhìn nàng dâu chất
chứa nỗi xót thương.
- Sự cảm thơng cịn được bộc lộ qua những suy nghĩ thấu hiểu lẽ đời của
người mẹ từng trải “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta
mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được”. Từ sự cảm thơng, bà
mở lịng đón nhận nàng dâu mới “Ừ thơi, các con phải duyên phải kiếp với
nhau, u cũng mừng lịng”. Điều đáng q là bà cụ nói “mừng lịng” chứ
khơng phải “bằng lịng” có nghĩa là bà khơng chỉ chấp thuận mà còn thấy
vui mừng, hạnh phúc khi được đón cơ dâu mới về làm dâu. Chỉ một từ thôi,
khiến cho cảm giác ê chề, xấu hổ trong cô vợ nhặt giảm bớt phần nào. Tấm
lòng người mẹ thật độ lượng và nhân từ bao nhiêu
Sự động viên,

- Tình yêu thương trong tấm lòng của người mẹ nghèo còn ẩn chứa qua

quan tâm

những lời nói bộc lộ thái độ an ủi, quan tâm, động viên của bà với con trai
và con dâu. Bà động viên con với những lời nói thấm đẫm ân tình “nhà ta
thì nghèo con ạ, vợ chồng chúng mày liệu bảo nhau mà làm ăn, may ra ông
trời cho khá. Biết thế nào hả con. Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Biết đâu đấy
rồi thì đời con cái chúng mày về sau” Trong câu nói của bà cụ cho thấy rõ
người mẹ ý thức được cuộc đời cay đắng của hai đứa con mình trước mặt.
Điều đáng quý là bà nén đi nỗi niềm âu lo để thắp lên trong tâm hồn hai đứa
con niềm hi vọng ở tương lai. Lời nói của người mẹ với con dâu là cả sự

quan tâm, ân cần “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”
- Chính vì thương con dâu mà bà cảm thấy như bà có có lỗi với cơ “kể ra
làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo con ạ. Cốt sao
chúng mày hoà thuận là u mừng rồi”. Lời nói chanc hứa ân tình này đã làm
14


vơi đi cái bẽ bàng, tủi nhục của phận đàn bà theo khơng. Chỉ cần một câu
nói ấy thơi đã giúp cho cơ vợ nhặt của Tràng có thể ngẩng cao đầu trong tư
cách là dâu, là vợ. Trái tim nhân hậu của người mẹ đã đem lại tình cảm ấm
áp, đem lại khơng khí thuận hồ trong gia đình, đem lại cảm giác được bao
bọc, chở che trong lòng người vợ nhặt giữa cảnh đời chết chóc và lạnh lẽo
này.
- Tình yêu thương của bà cụ Tứ xuất phát từ trái tim của người mẹ từng trải.
Nhìn hai đứa con đang ngượng ngùng, lúng túng trước mặt bà lão nghĩ đến
ông lão, nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến chuỗi đời cực khổ dằng dặc của
mình. Quá khứ đầy buồn đau trong khi thực tại là “bóng tối trùm lấy hai
con mắt”. Vậy nên bà cụ không khỏi thêm băn khoăn, lo âu khắc khoải “Vợ
chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia
không?”.
Sự lo lắng
- Nỗi lo lắng chẳng thể nào kìm nén lại được khiến cho “bà cụ nghẹn lời,
khơng nói được nữa, nước mắt cứ chảy rịng rịng”. Nghệ thuật khắc hoạ
tâm lí nhân vật của Kim Lân đã thể hiện thật nhuần nhuyễn từng biểu hiện
tâm trạng tinh tế của người mẹ nghèo. Nhà văn hẳn phải thấy hiểu , hẳn
phải có sự tơn trọng đặc biệt và phải có vốn sống và những am hiểu về đời
sống thơn q thì mới có thể có được nhữug trang viết chân thực và cảm
động đến như thế
- Tình thương con của người mẹ cũng chính là thái độ lạc quan của bà cụ
vào sáng ngày hôm sau. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả thật thấm thía và cảm

động những đổi thay của người mẹ trước hạnh phúc của hai đứa con mình.
Niềm lạc quan,
tin tưởng

Niềm vui phần nào xua tan những ưu phiền, lo lắng trên khuôn mặt người
mẹ khiến cho bà hôm nay nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường “khuôn
mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Niềm vui khiến cho người mẹ
già nua trở nên nhanh nhẹn, hoạt bát “Bà lão xăm xắn thu dọn nhà cửa”, bà
cũng có con dâu vun vén nhà cửa như sửa soạn cho cuộc sống mới, đón
15


nhận một tương lai mới.
- Niềm hi vọng, lạc quan của bà mẹ bộc lộ rõ nhất trong thái độ của bà bên
mâm cơm ngày đói “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại”. Bữa cơm với
một nhúm muối, đĩa rau chuối thái rối, nồi cháo cám, đó là sự hiện diện của
cái đói qua vị đắng chát của miếng cháo cám. Vậy mà, người mẹ nén đi mọi
nỗi lo âu “bà lão nói tồn chuyện vui, tồn chuyện sung sướng sau này”.
Bên hiện thực khắc nghiệt, bà vẫn tính chuyện cho tương lai. Trong lời
người mẹ , từ việc mua một đơi gà thoắt đã có một đàn gà đầy sân. Ánh
sáng của hạnh phúc như tiếp thêm cho bà nguồn sức sống mới và giờ đây
người mẹ như nén đi mọi nỗi lo âu để truyền vào tâm hồn hai đứa con mình
nghị lực sống vượt lên cảnh đời đau thương trong thực tại. Tấm lòng người
mẹ bao dung, độ lượng, yêu thương con biết bao

3. NHÂN VẬT CƠ VỢ NHẶT
SỐ PHẬN THÊ THẢM CỦA NẠN ĐĨI
- Hình tượng người đàn bà không tên được Kim Lân miêu tả và xây dựng trước hết là hiện
thân cho số phận tủi cực, nhục nhã, ê chề trong nạn đói. Thân phận cô là thân phận của người
vợ nhặt – phận theo khơng, chẳng cưới xin ăn hỏi,“chẳng có đâu quan tám tiền treo, quan

năm tiền cưới lại đèo buồng cau”. Lấy chồng là cả một việc đại sự, lễ vật của nhà trai là biểu
tượng cho danh giá của người con gái. Vậy mà cô chỉ là phận theo khơng
- Cảnh sống đói, nghèo hằn in trong dáng vẻ, ngoại hình của người đàn bà. Thị tiều tuỵ đến
mức ở lần găp thứ hai, Tràng chẳng thể nhận ra “trông thị hôm nay gầy sọp hẳn đi, quần áo tả
tơi, khn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ cịn thấy mỗi hai con mắt”. Cái đói đã khiến cho người
con gái trở nên đanh đá, cong cớn, táo tợn vô cùng: vượt lên nhân phẩm, danh dự, cơ vịi
vĩnh người đàn ơng xa lạ một cách trơ tráo để có được một miếng ăn “ăn gì thì ăn chứ chả ăn
giầu” rồi “điêu, người thế mà điêu, hẹn rồi mất mặt” và rồi cũng chính cái đói đã đẩy lùi sĩ
diện , nhân cách của cô, giữa chợ “thị sà xuống, cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc,
16


chẳng chuyện trị gì”. Miếng ăn trong nạn đói đã có một sức mạnh ghê gớm khiến cho con
người khơng cịn được sống là chính mình
- Tất cả Kim Lân gợi qua những hành động của người phụ nữ này một cách chân thức đến
thảm hại. Người đọc không chê trách, phê phán, khinh miệt mà chỉ thấy xót xa cho số kiếp
con người giữa thời kì lịch sử ấy. Tất cả hiện lên chân thực vơ cùng dưới ngịi bút nhân đạo
của Kim Lân
VẺ ĐẸP KHUẤT LẤP CỦA HÌNH TƯỢNG
- Tuy nhiên, Kim Lân còn phát hiện ra trong chiều sâu tâm hồn của người
đàn bà không tên ấy ẩn chứa biết bao vẻ đẹp khuất lấp. Đó là một tâm hồn
khát khao được sống
- Người đàn bà sẵn sàng bỏ qua nhân phẩm, sĩ diện, lòng tự trọng để theo
khơng một người đàn ơng xa lạ chỉ vì một lí do: bám víu vào cơ hội được
sống. Từ câu đùa vu vơ lần đầu của anh cu Tràng “muốn ăn cơm trắng mấy
giò, lại đây mà đẩy xe bò với anh”, từ hành động tỏ ra phong lưu, phóng
khống của Tràng khi vỗ vỗ tay vào túi bảo thị “Đấy, muốn ăn gì thì ăn”.
Tâm hồn
khát khao
được sống


Tất cả những điều đó tạo nên cho thị sự ảo tưởng về một cuộc sống no đủ
trong nạn đói. Nên thị giành giật, sấn sổ bám lấy nó. Thị sẵn sàng bỏ qua tất
cả lịng tự trọng, miễn là tìm được chỗ nương thân. Kim Lân trân trọng biết
bao trước khát vọng sống của con người. Bởi ông khám phá được “Khi đói
người ta khơng nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống”.
Thái độ của người vợ nhặt đã minh chứng điều ấy
- Cũng không phải vơ tình mà Kim Lân để cho nhân vật này là người duy
nhất trong tác phẩm khơng có tên gọi. Cô chỉ được gọi bằng danh từ chung
“thị” hay nhà văn không hề đi vào miêu tả lai lịch, xuất thân của người phụ
nữ này bởi số phận của cô mang ý nghĩa khái quát cho mọi cảnh đời, cho
mọi số phận con người ở thời kì đó. Giữa nạn đói, thân phận con người bèo
bọt như cỏ rác nhưng càng khốn khổ, lòng người lại càng khát khao sống
17


mãnh liệt vô cùng. Cô vợ nhặt đã thể hiện rõ ý tưởng ấy của nhà văn
Vẻ đẹp hiền

- Tuy nhiên, dõi theo ngòi bút của nhà văn Kim Lân, ta bất ngờ khi nhận ra

thục, nữ tính đằng sau ngoại hình tiều tuỵ, đằng sau dáng vẻ tưởng như cong cớn, đánh đá
của người đàn bà không tên lại là biết bao vẻ đẹp tâm hồn
- Người đàn bà ấy khơng chỉ có một tâm hồn khát khao hướng tới sự sống
mà ở thị còn mang nét đẹp dịu dàng, nữ tính. Điều đó được Kim Lân biểu
hiện qua diễn biến tâm trạng của người đàn bà khi theo Tràng về nhà
 Theo không anh Tràng về nhà vào một buổi chiều chạng vạng – cái
giờ khắc u ám càng tôn lên nỗi ám ảnh về sự não nề trong giờ phút
“vu quy” của thị. Hình ảnh người con gái đi sau Tràng “Cái đầu hơi
cúi xuống, cái nón rách tàn nghiêng” che khuất nửa khuôn mặt. Dáng

vẻ ngượng ngịu biết bao! Khuôn mặt đang cố ẩn đi sau cái nón tách
tàn kia đâu chỉ đơn thuần để tránh sự nhịm ngị của những người
xung quanh. Nó là cả sự ngượng ngịu, xấu hổ khi thị phải đối diện với
chính mình. Sự xót xa, tủi nhục khi phải đối diện với sự bần cùng
trong hồn cảnh của mình. Từng bước thị đi sau Tràng dù khơng có kẻ
đón người đưa nhưng là bước chân ngập ngừng của người con gái về
nhà chồng nên cứ rón rén, e thẹn, đầy nữ tính.
 Sự ngượng ngập của người phụ nữ cịn được Kim Lân khám phá
trong lời nói của thị, suốt dọc đường, hai con người đó đều ít tiếng,
giữa họ là cả sự lúng túng của những bối rối, ngập ngừng. Vì thế, khi
người con gái cất tiến nói với Tràng là ngôn ngữ cộc lốc bởi cô chẳng
biết xưng hộ sao cho phải “Đằng này à? Sắp đến chưa?”
 Với tất cả những biểu hiện, Kim Lân đã gạt đi ấn tượng trong tâm hồn
người đọc về một người đàn bà trơ trẽn, sống sượng, đanh đá để dấy
lên trong tâm hồn người tình u thương, sự cảm thơng, trân trọng
18


trước nhữung tâm sự, hoàn cnảh của một người đàn bà giữa mùa đói.
Tất cả đẹp biết bao, chân thật biết bao trong sự yêu thương và tấm
lòng nhân ái của nhà văn
- Nỗi niềm của người đàn bà không tên còn là tâm trạng thất vọng, bồn
chồn, lo lắng khi về đến nhà Tràng. Cơ cố bám víu vào Tràng để mong chờ
một cuộc sống no ấm vậy mà thực cảnh hồn tồn trái ngược với suy nghĩ
của cơ. Khi đối diện với “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc
lổn nhổn tồn những búi cỏ dại” thị hiểu ra rằng cái vầng sáng ảo tưởng thị
vừa liều lĩnh bước vào lại là bóng tối đen đạc của đói, nghèo, xơ xác. Tiếng
thở dài cố nén trong “Cái ngực gầy lép bẹp” chính là tiếng thở dài của sự
thất vọng, não nề. Tình cảnh người phụ nữ đáng thương giờ càng nghịch
cảnh hơn bao giờ hết.

- Tâm sự của người phụ nữ còn là cả nỗi bồn chồn, lo âu, thấp thỏm. Trong
dáng ngồi mớm ở mép giường với tư thế “tay vẫn ôm khư khư cái thúng” và
“nét mặt thì bần thần” của cơ chất chứa bên trong bao nhiêu là day dứt. Hơn
lúc nào hết, giờ đây cơ ý thức cụ thể về tình cảnh cảu mình: vì đói phải tìm
nơi nương tựa nhưng căn nhà xiêu vẹo này liệu có phải là nơi cho cô mong
đợi? Mẹ Tràng sắp về, thái độ của bà cú ẽ ra sao? Liệu bà cụ có đón nhận cô
không? Cái thế ngồi, rụt rè, chông chênh như thể chính nỗi niềm phân vân,
lo lắng ngổn ngang trong lịng cơ vậy. Dù khơng một từ ngữ bộc lộ tình cảm
của Kim Lân với số phận nhân vật nhưng qua cách biểu hiện, phân tích
những diễn biến tâm trạng phức tạp trong thế giới nội tâm của người vợ
nhặt, ta thấy đượcc ả sự cảm thương, trân trọng thương yêu sâu sắc của nhà
văn.
Niềm tin vào

- Cũng giống như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, Kim Lân gửi gắm vào hình tượng

sức mạnh

người vợ nhặt niềm tin vào sức mạnh của tình yêu thương giữa con người

tình yêu

với con người trong nạn đói
19


- Tại căn nhà siêu vẹo, ngọn lửa ấm áp của tình yêu thương đã trả lại cho
người con gái nét đẹp thuần hậu, dịu dàng, nữ tính
- Cơ thay đổi đến mức chồng cô cũng phải ngạc nhiên “Tràng nom thị hôm
nay khác lắm”. Rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, khơng cịn vẻ

gì chao chác, chỏng lỏm như mấy lần đầu Tràng gặp ngoài tỉnh. Từ những
câu nói dịu dàng ngoan ngỗn của cơ khi đáp lời bà cụ Tứ. Dưới bàn tay của
thị, mọi cái đều đổi thay khác lạ: nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét
tước, thu dọn sạch sẽ “mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vắt khươm mươi
niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô
thương giữa

cong ở dưới góc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay

con người với lối đi đã hót sạch”
con người

- Tất cả đều toát lên thị là một người đàn bà với tư cách vợ hiền, dâu thảo.
Cô vợ ấy, nàng dâu ấy không chỉ biến đổi một mình mình mà quan trọng
hơn sự có mặt của cơ như luồng gió trong lành làm thức dậy sức sống mọi
người mọi nơi, đem lại sự sống ngay trong cái chết.
- Vậy nên, chẳng phải ngẫu nhiên Kim Lân để cho người phụ nữ này thông
báo một tin vui “trên mạn Thái Ngun, Bắc Giang người ta khơng chịu
đóng thuế nữa đâu. Người ta cịn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người
đói nữa đấy”. Lời thơng báo của nạn nhân thê thảm trong cái đói ẩn chứa
niềm hi vọng của nhà văn về một tương lai đổi đời của những con người
khốn khổ

4. GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO
Tư tưởng nhân đạo biểu hiện ở tiếng nói xót thương của nhà văn với nỗi khổ đau,
bất hạnh của con người trong nạn đói năm 1945

20



- Phản ánh thành cơng hình ảnh nơng thơn Việt Nam trong nạn đói 1945. Khơng khí nạn đói
như đang bao trùm khắp mọi nơi, được thể hiện qua những hình ảnh như
 Những đồn người từ Nam Định, Thái Bình,…
 Khơng ngày nào đi làm đồng về khơng gặp 3 4 cái thây nằm còng queo bên đường
 Tiếng quạ bêu…, tiếng hờ khóc tỉ tê từ những gia đình có người chết
 Mùi gây của xác người, khét lẹt của những đống rơm từ những gia đình có người chết
thoảng vào khét lẹt
- Thương cảm cho số phận cảu con người bèo bọt như cỏ rác
- Anh Tràng đứng trước tình cảnh ế vợ vậy mà lại có thể nhặt được vơ một cách dễ dàng chỉ
với một câu đùa vu vơ và bốn bát bánh đúc
- Thái độ xót xa của nhà văn thể hiện rõ nhất qua cách nhà văn miêu tả về hình ảnh , về số
phận của người đàn bà không tên
 Cử chỉ
 Lời nói
 Hành động
- Số phận tiêu biểu cho biết bao số phận của con người trong nạn đói: khơng tên, khơng q
Tình cảm nhân đạo của nhà văn là tiếng nói trân trọng trước những giá trị,
những vẻ đẹp của con người trong nạn đói
- Cái đói, cái chết lại càng khiến con người lao động ngời lên nhữn phẩm chất tốt đẹp.
- Lịng nhân hậu, tình cảm u thương vị tha, niềm khát khai sống, khát khao hạnh phúc và
niềm tin mãnh liệt vào một tương lai. Điều đó được nhà văn gửi gắm qua vẻ đẹp cảu anh cu
Tràng, cô vợ nhặt và bà cụ Tứ.

21


- Chứng minh vẻ đẹp phẩm chất qua từng nhân vật trong tác phẩm.

5. CHI TIẾT NỒI CHÁO CÁM
Giải thích chi tiết

- Hình ảnh mâm cơm ngày đói và nối cháo cám xuất hiện ở phần hai – phần kết của tác phẩm
- Hình ảnh mâm cơm ngày đói trong buổi sáng sum họp đầu tiên của gia đình Tràng được Kim
Lân miêu tả ấn tượng “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại” Sự thảm hại dần hiện lên qua
chi tiết miêu tả của nhà văn: giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa
muối ăn với cháo nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành
- Hình ảnh nồi cháo cám: bữa cơm ngày đói càng được tơ đậm hơn với sự xuất hiện của chi
tiết nồi cháo cám “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có hai lưng bát đã hết nhẵn. Bà lão
lật đật chạy xuống bếp lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi
xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười: cám đấy mày ạ. Hè. Ngon
đáo để, cứ ăn thử mà xem. Xóm ta cịn khối nhà chả có cám mà ăn đấy”
Ý nghĩa
- Hình ảnh mâm cơm ngày đói cùng nồi cháo cám cùng dư vị đắng chát của
nó chính là hình ảnh thu nhỏ của hiện thực đói nghèo trong cuộc sống của
người dân xóm ngụ cư giữa nạn đói năm 1945. Đói đến mức thức ăn của gia
Là chi tiết
mang đậm
giá trí hiện

súc cũng trở thành bữa ăn của con người. Sự hiện hữu nghiệt ngã của cái đói
khiến khơng khí bữa ăn của gia đình Tràng trùng xuống “Từ đó, khơng ai nói
câu gì, họ tránh nhìn mặt nhau và một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người”

thực
- Chi tiết này còn là lời tố cáo tội ác của thực dân, phát xít, đã gây ra thảm
cảnh nạn đói cho người Việt “ từ cuối năm ngoái đến đầu năm nay hơn hai
triệu đồng bào ta chết đói”
Là chi tiết

- Bữa cơm ngày đói và hình ảnh nồi cháo cám còn để lại ấn tượng xúc động


mang đậm

trong người bởi nó cho ta thấy vẻ đẹp trong tính cách của từng nhân vật và sự
22


đầm ấm của tình cảm yêu thương
 Tình yêu thương mênh mông của bà cụ Tứ: Dáng vẻ đon đả của người
mẹ khi bê ra nồi chám cám đến dáng điệu cầm mơi vừa khuấy khuấy,
cười cười nói “chè đây…chè khốn đây ngon đáo để cơ”. Tất cả ẩn
trong đó tình yêu thương của người mẹ. Bà giấu đi niềm xót xa, cay
đắng mong đem đến cho hai đứa con mình một bữa ăn no. Đằng sau nụ
cười của người mẹ là nén đi những giọt nước mắt tủi cực bởi bữa cơm
đầu tiên, bà đã phải thiết đãi con dâu bằng cháo cám: đơn sơ, đạm bạc
nhưng là tất cả tình u mênh mơng của người mẹ dành cho con mình
 Nhân vật Tràng “Tràng cầm đơi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng.
Mặt hắn chun lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Hơn ai
hết, Tràng ý thức được dư vị đắng chát của cảnh đói, nghèo trong gia
giá trị nhân
đạo

đình mình. Tuy mặt chun lại nhưng anh khơng nói gì bởi anh hiểu rằng
đó là tất cả sự cố gắng của người mẹ trong hồn cảnh đói nghèo này
 Người dâu mới – cơ vợ nhặt: “Người con dâu đón lấy cái bát đưa lên
mắt nhìn. Hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng” Đấy là
sự chấp nhận hoàn cnảh, đấy là cách cư xử đúng bổn phận của một
nàng dâu
- Bữa cơm ngày đói và nồi cháo cám chính là bữa cơm của tinh thần. Nó là
bữa cơm của hồn cảnh đói nghèo nhưng càng giúp người đọc hiểu sâu hơn
nét đẹp của tình người

- Hình ảnh bữa cơm ngày đói và nồi cháo cám cho ta thấy nghị lực sống và
niềm hi vọng của con người vào tương lai. Khi viết truyện ngắn này, Kim Lân
muốn truyền đến cho người đọc một ý tưởng “càng cận kề bên cái đói, người
ta càng khao khát sống và muốn sống cho ra con người”. Trong dư vị đắng
chát cảu miếng cháo nghẹn bứ trong cổ họng, người con dâu thông báo tin vui
23


“ở mạn Thái Ngun, Bắc Giang người ta khơng cịn đóng thuế nữa đâu,
người ta cịn phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo nữa đấy”. Đặc biệt trong
suy nghĩ của Tràng “vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau
đi trên đê Sộp.. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”. Kim Lân để cho nhân vật của
mình đối mặt với hiện thực nhưng khơng đầu hàng hiện thực mà họ vẫn le lói
niềm tin vào tương lai vẫn nghĩ đến con đường giải phóng cho cuộc đời mình.
Đây cũng chính là điểm khác biệt trong cảm hứng nhân đạo của Kim Lân so
với những nhà văn hiện thực phê phán trước đó khi viết về người nông dân.

III. TỔNG KẾT
1. NỘI DUNG
a. Giá trị hiện thực
- Tình cảnh thê thảm của người nơng dân VIệt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn
đói năm ấy đã trở thành một thời kì đen tối trong lịch sử của dân tộc ta bởi hơn 2 triệu đồng bào
đã bị cướp đi sinh mạng.
- Đó là hệ quả của những chính sách hà khắc, vơ nhân tính của bọn thực dân Pháp và phát xít
Nhật: Đằng thì bắt đóng thuế, đằng thì bắt nhổ lúa trồng đay. Dân ta lâm vào cảnh một cổ hai
tròng áp bức do sự đê hèn, đốn mạt của thực dân Pháp
b. Giá trị nhân đạo
- Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và khẳng định tội ác mà chúng đã gây ra cho mảnh
đất, con người Việt Nam
- Niềm cảm thương, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn, mất mát mà người nông dân

nghèo đang phải đối mặt.

24


- Ca ngợi sức sống mãnh liệt, khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc với gia đình
nhỏ và niềm tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang chờ đợi họ mặc cho cái chết đang đeo
đuổi và có thể đến với họ bất cứ lúc nào.
- Cách mạng chính là con đường đưa họ thốt khỏi cuộc sống khốn cùng này mà đến gần hơn
với hi vọng, cuộc sống tốt đẹp với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong suy nghĩ của Tràng ở cuối
truyện.
2. NGHỆ THUẬT
- Cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đầy éo le nhưng nhờ thế mà các nhân vật của Kim
Lân xuất hiện mà bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình.
- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, khơng kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự
hứng thú, tò mò cho người đọc.
- Bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế
- Ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ - một
trong những đặc trưng trong phong cách sáng tác của Kim Lân

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×