KHỔ I
Sao anh không về chơi thôn Vỹ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền ?
Bài thơ mở đầu bằng một câu chào hỏi, cũng là lời mời, lời trách thân thương:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? ”
Đó là lời cuả Kim Cúc ( KC ) Hay HMT? Một câu hỏi có sức lay động sâu xa. Căn cứ vào cách
hỏi, thì hẳn nhiên đây phải là lời cuả người ở thôn Vĩ, tức là lời KC. Nhưng trong tấm thiệp gửi
HMT, KC chỉ viết mấy lời hỏi thăm sức khoẻ. Không có lời mời. Hơn nưã đây là thơ HMT viết
sau khi nhận được tấm thiệp cuả KC, phải chăng HMT muốn hoá thân vào KC để mời, như một
ước vọng mà chưa bao giờ HMT có được? Hãy bỏ qua cái tình riêng cuả HMT với KC, vì bài
thơ có sinh mệnh riêng, có tiếng nói riêng. Đó có thể là lời cuả người xứ Huế nhắc nhở một
người thân nào đó về thăm quê chăng ? Người thân quen gắp nhau thường hỏi “ sao anh không
về chơi ” Mời cũng là bày tỏ tình cảm.
Nhưng thôn Vĩ có gì mà mời gọi người về thăm ?
Thôn Vĩ có nắng mới soi trên hàng cau, có vườn mướt lá, xanh như ngọc, có những khuôn mặt
chữ điền thấp thoáng trong lá trúc che ngang. Hình ảnh được miêu tả là cảnh sắc một vùng quê,
không có bóng dáng kỷ niệm ngõ vào nhà KC. Ngõ lối ấy có lần HMT đã đến đó. Nếu có tình ý
riêng , hẳn HMT sẽ tìm cách thổ lộ với KC. Lời mời và cảnh sắc ấy rất trong sáng , không ẩn
chưá điều gì riêng tư, mời về thăm thôn Vĩ, như về thăm quê để giữ lấy cái tình quê. Điều này
giúp người đọc nhận ra nội dung chính cuả khổ thơ là tình cảm cuả HMT với xứ Huế .
Xứ Huế đẹp trong trẻo, rực rỡ tươi xanh, và dạt dào sức sống.
Cái rực rỡ xứ Huế là rực rỡ cuả nắng mới: Nắng mới soi trên hàng cau . Đó là cái nắng cuả buổi
sớm tinh khôi trên cảnh vật. Trên thân cau có một lớp phấn trắng, nắng soi trên lớp phấn ấy, ánh
lêm màu mơí lạ. Điệp từ “ nắng”như tô đậm thêm sự ngạc nhiên cuả HMT khi khám phá ra
“nắng mới” trên hàng cau như là cái đẹp rất riêng cuả xứ Huế, mà HMT muốn giới thiệu cho
người tri kỷ về thăm quê.
Sao anh không về chơi thôn Vỹ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Tại sao là “ nắng hàng cau “ mà không phải nắng trên loại cây khác, thôn quê VN có bao nhiêu
loại cây trái trong vườn? Chắc không phải vô tình mà HMT nhắc đến hàng cau. Cây cau vưà có
dáng thẳng, đẹp, thanh cao, vưà gợi ra quan hệ duyên tình lưá đôi. Cây cau đứng một mình có
thể là sự đơn độc, nhưng cây cau đứng thành hàng, có nét đẹp riêng, cái đẹp cuả duyên tình.
Hàng thông, hàng liễu hay hàng dưà không gợi ra cái đẹp ấy. Thành ra tứ thơ tuy rất mới nhưng
lại gần gũi và đậm đà những tình tự như tự thuở nào
Xứ Huế còn có vườn ai mướt quá xanh như ngọc, hình ảnh một xứ sở trù phú tươi xanh.Câu thơ
vẫn như một khám phá ngạc nhiên, ngạc nhiên ở lá vườn xanh mướt quá, ngạc nhiên ở cái
màuxanh ngọc cuả vườn cây. Vườn cây với người VN thì không lạ, nơi nào trên đất nước này
cũng có vườn cây xum xuê hoa trái, nhưng vườn mướt xanh màu cuả ngọc quả là một điều như
vưà phát hiện. Vườn mới thay lá, sự sống mới vưà phô ra. Về thăm thôn Vĩ mà được đi trong
vườn lá tinh khôi lá non ấy, sẽ là một niềm vui bất tuyệt, như đi trong một thế giới thanh khiết
cuả cái đẹp, không vướng bận bùn đất, lam lũ đời thường.
Về thăm thôn Vĩ sẽ gặp những khuôn mặt chữ điền thấp thoáng trong lá trúc. Hình ảnh vưà thực,
vưà như ẩn chưá một điều gì bí mật, bởi vì khuôn mặt chữ điền ấy nhìn rõ lắm. Lá trúc nhỏ, chỉ
che ngang. Trên đường quê, ngõ trúc, nếu có cành trúc loà xoà trên lối đi, thì lá trúc cũng chỉ che
đi vài nét cuả khuôn mặt. Khách đi đường vẫn nhận rõ chân dung những người thân quen. Thế
nhưng trong câu thơ này, HMT không vẽ đầy đủ chân dung người có khuôn mặt chữ điền ấy,
phải chăng HMT chỉ muốn khắc tạc lấy cái đặc điểm con người ở một vùng đất quê có những
nét tính cách rất riêng ? Những con người rắn rỏi, điềm đạm, chân chất, mạnh mẽ và đằm thắm
đôn hậu? Điền là ruộng đất cày cấy. Trên ruộng có những thưả đất ô vuông như chữ Điền. Khuôn
mặt chữ Điền là khuôn mặt cuả ruộng đồng, khác với khuôn mặt thành phố. Về thăm thôn Vĩ là
về với những con người cuả vườn ruộng, bao đời bình dị, chân chất, rắn rỏi , về với cái đẹp dân
dã nghiã tình không là một hạnh phúc sao ?
Quả thật, thôn Vĩ có nhiều cái đẹp mời gọi người về thăm, trở về với cảnh sắc thắm thiết duyên
tình, với những vườn mướt lá non xanh ngọc dào dạt sức sống, đẹp thanh khiết, và với con người
xứ Huế bình dị, rắn rỏi, đằm thắm, trân trọng. Vậy sao Sao anh không về chơi thôn Vỹ? HMT đã
không về thăm thôn Vĩ được nữa, nhưng xứ Huế vẫn sống động trong tâm hồn HMT, nói cách
khác, cảnh sắc thôn Vĩ cũng chính là tâm hồn HMT. Người đọc gặp được một con người dạt dào
sức sống với lòng yêu đời tươi non. HMT nhìn cảnh, nhìn người, đâu cũng thấy tin yêu. Vườn
cây mướt xanh như ngọc, nắng mới rực rỡ hàng cau là ánh sáng bừng lên cuả một tâm hồn
trong trẻo, ngời trong hy vọng . Khuôn mặt chữ điền thấp thoáng trong lá trúc cũng là tâm hồn
rắn rỏi, mạnh mẽ cuả HMT với bao tình thân, gắn bó với cuộc đời.
Khổ thơ có những hình ảnh vưà quen thuộc dân dã, vưà mới lạ hiện đại. Hình ảnh hàng cau , lá
trúc, vườn cây là hình ảnh cuả thôn quê Việt Nam . Hình ảnh ấy đã trở thành tình tự dân tộc trong
ca dao, và tâm hồn VN trong thơ cổ điển. “ Gió đưa cành trúc la đà “( Ca dao ),“ Ngõ trúc quanh
co khách vắng teo “ ( Thơ Nguyễn Khuyến). HMT đã truyền vào những chất liệu ấy một màu sắc
thẩm mỹ mới. Không chỉ hàng cau, mà nắng mới trên hàng cau; Không chỉ khám phá ra những lá
non xanh mướt cuả vườn cây mà còn nhận ra cái màu xanh ngọc sang trọng ; Không nhắc lạingõ
trúc, cành trúc hiu quạnh tĩnh mịch cuả ngày xưa mà là “ lá trúc che ngang mặt chữ điền “ .Câu
thơ bao hàm được cả khung cảnh làng quê, ngõ trúc và cuộc sống đang diễn ra, gần gũi thân
thương…
KHỔ II
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Khổ thứ 2 là cảnh mây gió, sông nước, đêm trăng xứ Huế êm đềm thơ mộng. Xứ Huế có dòng
sông Hương nuớc lững lờ trôi. Thuyền cuả du khách xuôi êm như ru qua các cù lao, hai bên bờ
đậm nhạt hoa cỏ. Ở cù lao Hến người xứ Huế trồng bắp, hoa bắp lay theo gió. Khách tham quan
có thể ghé vào thưởng thức những trái bắp ngọt … Đêm trăng sông Hương là một không gian
tuyệt vời, bầu trời rất trong và thoáng đãng, không gian tràn ngập ánh trăng. Trăng tuôn chảy
thành dòng , HMT gọi đó là sông trăng. Con thuyền đậu bến sông trăng, như trong một thế giới
trong veo cuả sự thanh khiết bình an và lãng mạn. Những nét vẽ cảnh vật cuả HMT sắc xảo, tinh
tế và có thần. Ai đã từng thả thuyền trên sông Hương ban ngày hoặc xuôi theo dòng trong đêm
trăng đều nhận ra cái tài hoa rất mực cuả HMT trong tứ thơ
Thuyền aiđậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Tứ thơ có cái cao rộng trí tuệ cuả dòng trường giang chảy bên trời trong thơ cổ điển ( vì sông
trăng cũng chảy ngang bầu trời, như sông Ngân hà ), vưà có cái ấn tượng thân phận mơ hồ sâu xa
cuả
“ thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa “trong thơ Nguyễn Du, lại có cái cảm thức đời thực
cuả những con đò chở khách hay con thuyền đánh cá trở về vào buổi tối. Nhưng dòng sông trăng
cuả HMT là dòng sông riêng cuả HMT, dòng sông ấn tượng cuả nghệ thuật Siêu thực.
Khổ 2 là bức tranh Siêu thực về cảnh sắc xứ Huế qua tâm trạng cuả HMT. HMT nhìn đâu cũng
thấy sự chia ly. Nỗi buồn thương bao trùm lên tất cả.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Xưa nay mây đi theo gió, gió thổi mây bay. Giờ thì gió theo lối gió, mây đường mây, một hình
ảnh Siêu thực, hình ảnh cuả chia ly. Mây, gió trở thành ẩn dụ cho sự chia xa không sao hàn gắn
được trong tâm thức HMT. Dòng sông Hương giờ chỉ còn là “ dòng nước buồn thiu “, vắng
lặng, thê thiết. Hoa bắp lay và dòng nước buồn thiu hình như chẳng có liên quan gì với nhau. Đó
là hai thực tại vô duyên, nhạt nhẽo. Gọi là vô duyên bởi vì so với các loài hoa, thì hoa bắp là loại
hoa không hương không sắc, chẳng ai để ý. Người nông dân nhìn hoa bắp để biết trái bắp non
hay già. Khi hoa bắp khô, ấy là lúc trái bắp đã cứng hạt, có thể thu hoạch. Hoa bắp trên thân cây
khô chẳng gợi ra được bất cứ cảm xúc thẩm mỹ nào. Khác với “ hoa trôi man mác biết là về
đâu “ ( Truyện Kiều ) gợi ra số phận buồn thương. Trong mắt nhìn cuả HMT, thực tại bây giờ là
thực tạivô duyên, lạnh nhạt, thê thiết. HMT đã xa lạ với thực tại ấy, đang mất dần những mối
quan hệ với thực tại ấy, chẳng thể giữ được điều gì.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Câu hỏi có ý nghiã gì ?
HMT hỏi trong tâm tưởng “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”, rồi lại tự hỏi có chở trăng về kịp
tối nay ? Câu hỏi như vượt ra ngoài hiện thực. Thuyền đã đậu bến sao còn về, và về đâu ?
Thuyền không chở khách , không chở hàng mà chở trăng. Trăng chiếu soi không gian, và không
gian tràn ngập ánh sáng, phải chăng HMT mong chờ con thuyền chở ánh sáng về chỗ khuất tối
đang vây bọc lấy mình ? Ta biết, lúc này HMT đang trong trại Quy Hoà, cách ly cõi người, nơi
ấy HMT đang chìm dần trong bóng tối. Nhưng sao lại mong chờ con thuyền chở trăng mà không
chở mặt trời ?
Đặt vấn đề như thế để thấy rằng con thuyền chở trăng phải là một điều mật thiết lắm đối với linh
hồn cuả HMT. Ta cũng biết, một thời yêu say mê Mộng Cầm, HMT đã đau đớn điên cuồng khi
nàng lấy chồng. Nỗi đau ấy chảy suốt tập Đau Thương. Nhà thơ Bích Khê kể rằng : ” chiều thứ
bảy nào Tử cũng ra Phan Thiết với Mộng Cầm đi chơi với nhau cho đến chiều Chủ Nhật hôm sau
mới vào Sàigon. Hai bên giao thiệp thân mật với nhau ngót hai năm trời…”. HMT từng có kỷ
niệm xuôi đò với Mộng Cầm trong đêm trăng. Vì thế con thuyền chở trăng đã trở thành một phần
sự sống cuả HMT. Giờ đây, nơi bóng tối nhìn ra ánh sáng đêm trăng kỷ niệm, HMT muốn giữ
lấy sự sống ấy. Cánh tay chàng chới với, con thuyền chở trăng đã không còn về “ kịp” nữa!
Nhắc đến Kim Cúc hay Mộng Cầm là nhắc đến con người và kỷ niệm cụ thể, nhưng trong tâm
thức cuả HMT, giờ đây những cái cụ thể ấy đã “gió theo lối gió, mây đường mây”, chỉ còn lại
cái tình cuả HMT với cuộc sống, với cảnh sắc, con người quê hương. Cái tình ấy sâu đậm vô
cùng.
HMT đã đem đến cho thơ ca VN những mới mẻ cuả nghệ thuật Siêu thực. Cảnh sắc mây gió,
sông nước, đêm trăng xứ Huế đã thăng hoa thành cái đẹp, cái đẹp vượt trên thực tại, để cùng với
cái đẹp hiện thực cuả xứ Huế làm nên tứ thơ lạ lùng, như chưa từng có. Quả thật khó có nhà thơ
nào viết được những tứ thơ hay hơn, độc đáo hơn về trăng như dòng sông trăng cuả HMT. Bức
tranh thiên nhiêu Siêu thực đã làm thay đổi phẩm chất thơ trữ tình: Thơ trữ tình HMT trở thành
thơ trữ tình hướng nội Thử so sánh với các nhà thơ khác. Xuân Diệu chiêm ngắm muà thu ở
ngoài tâm hồn mình , từ đó cảm nhận cái đẹp khách thể cuả thiên nhiên trong Đây Muà Thu Tới,
Huy Cận trải lòng mình trên “ sông dài, trời rộng bến cô liêu “ mà nghe “ lòng quê dờn dợn vời
con nước ‘
( Tràng Giang ).Còn HMT lại tự hỏi, con thuyền đậu bến sông trăng kia “có chở trăng về kịp tối
nay“.
KHỔ III
Câu hỏi ở khổ thơ thứ 2 buông lửng. Có một khoảng lặng như chờ đợi như hy vọng. Nhưng con
thuyền chở trăng đã không còn về kịp nữa, chỉ còn ước mơ thôi
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đâysương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?
HMT đã xa cõi người, không sao trở lại cuộc sống cũ, chẳng thể nào giữ lại được chút kỷ niệm
cũ. chỉ còn “ mơ khách đường xa “ đến với mình, có thể đó là khách từ Huế ra. Chẳng hạn, người
ấy là Kim Cúc, người cuả mối tình đầu với bao ước mơ cuả HMT. Phải chăng giờ đây, sau khi
nhận được tấm thiệp có lời thăm hỏi cuả KC, tâm hồn HMT lại hồi sinh những ước mơ xưa?
Điệp khúcMơ khách đường xa , khách đường xa vang lên như một khát vọng thiết tha, khát vọng
giao cảm với người. Những người khách, những người bạn giờ đã vắng cả,có chăng chỉ còn
trong mơ, mà mơ cũng không được nưã. Điệp âm /xa/ vang rộng mãi đễ lại nỗi cô đơn mênh
mông ở HMT
Khổ thơ có sự tương phản không gian, ở xa và ở đây. Ở đây là Quy Hoà, Quy Nhơn, nơi HMT
đang sống cách ly, và nơi xa , nơi mà HMT hướng về, chắc chắn là xứ Huế. Xứ Huế có thiếu nữ
áo trắng, xứ Huế có sương trắng. Hình ảnh thiếu nữ áo trắng thấp thoáng, trắng loá trong sương,
“ nhìn không ra‘ là hình ảnh đặc trưng về con người và thiên nhiên xứ Huế. Ở đây, Quy Hoà ,
Quy nhơn cũng có sương khói mờ như xứ Huế. Có lẽ nhìn sương khói ấy HMT mới “ mơ khách
đường xa”, mới hình dung ra thiếu nữ Huế áo trắng , từ đó vang lên khát vọng thiết tha mong
gặp, mong đuợc sống lại cái cõi người, với cảnh sắc và con người, biết bao tinh khôi, đẹp đẽ.
Nhưng mà“ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Nơi Quy Hoà, Quy Nhơn sương khói đã làm mờ
hình ảnh con người ( nhân ảnh ), hay nói cách khác, sương khói đã che khuất cõi người. Dường
như HMT đang ở nơi xa mờ nhìn về cõi nhân gian .Và người trong cõi đời này chỉ nhìn
thấy nhân ảnh HMT nhạt nhoà trong khói sương ( giống như di ảnh người quá cố trên bàn thơ,
lâu năm khói nhang làm mờ đi, không còn rõ chân dung ). HMT đang mất hút trong cõi hư
không ấy. Câu thơ vang lên tha thiết hơn bao giờ, cái khát vọng sống, khát vọng giao cảm cháy
bỏng cuả HMT . Khát vọng, mơ ước bao nhiêu, HMT cũng tuyệt vọng bấy nhiêu. HMT tự hỏi
trong nỗi thương thân “ ai biết tình ai có đậm đà ?“. Có ai biết cho tình cuả HMT với cõi đời, cõi
người, với cảnh sắc và con người xứ Huế vẫn đậm đà, dù giờ đây, ở nơi đây, HMT đã mờ nhân
ảnh, không còn được tồn tại trong cõi nhân sinh, như một con người với trái tim thiết tha ? ai
biết tình ai có đậm đà ?“, câu hỏi như ném vào hư không. Vì thế nó vang lên nỗi bi thiết, đớn
đau và tuyệt vọng đến vô cùng. HMT hỏi KC chăng ? KC đã không có tình với Tử. HMT hỏi
người “ khách đường xa” chăng? Trong cõi nhân sinh mờ sương khói nhìn không ra, nào có
bóng ai!
Khổ thơ vẽ nên cảnh sắc vưà thực vưà hư ảo, vưà là Quy Nhơn ( ở đây ), vưà hà ấn tượng xứ
Huế trong linh hồn đau thương cuả HMT, cảnh vưà trong thực tại hôm nay trong cõi đời này, lại
vưà như ở nơi xa mờ ngoài cõi nhân gian. Trong không gian cuả thế giới đa chiều ấy, linh hồn
HMT vưà hy vọng vưà tuyệt vọng, vưà hướng ra xa tìm kiếm mong đợi, vưà nhìn vào trong
thương cho số phận mình. Điều lay động sâu xa nơi người đọc vẫn là tấm lòng thiết tha cuả
HMT với cuộc đời, với đất nước, con người quê hương. Điều kỳ diệu là, trong nỗi bi thương và
tuyệt vọng không cùng ấy, hình ảnh quê hương, con người xứ Huế hiện lên thật trong trẻo khôi
nguyên.Nắng mới trên hàng cau, vườn cây xanh ngọc, con thuyền đậu bến sông trăng, áo em
trắng quá…Đó cũng là linh hồn tinh khôi cuả HMT, người đã vượt lên trên cái bi thương tuyệt
vọng , vượt lên trên sự nhạt nhoà cõi chết, để sống mãi với đời trong niềm khát khao vô hạn cõi
nhân sinh tuyệt diệu này
Bài thơ có cấu trúc rất lạ. Sự việc, con người được kể lại không theo bút pháp kể chuyện, sự vận
động cuả hình tượng thơ cũng không phải là nhịp điệu chuyển hoá tâm trạng cuả nhân vật trữ
tình. Tuy vậy, ba khổ thơ vẫn liền một mạch. Trước hết có sự liền mạch là do các câu hỏi được
lặp lại trong mỗi khổ thơ. Phép lặp cấu trúc tạo nên sự kết nối. Nhưng cái mạch chính cuả bài thơ
là ấn tượng cuả HMT về cảnh sắc, con người xứ Huế đẹp, thơ mộng, êm đềm. Mỗi khổ thơ là
một bức tranh xứ Huế trong những thời gian khoảnh khắc khác nhau. Vườn cây, hàng cau, con
thuyền đậu bến sống trăng, thiếu nữ xứ Huế trắng loá trong sương. Ba bức tranh tuy là riêng biệt
nhưng vẫn là những nét đẹp đặc thù trong tổng thể đất nước con người xứ Huế . Mạch phát triển
tình cảm xuyên suốt bài thơ cũng là mạch thống nhất, đó là tình cảm đằm thắm sâu nặng cuả
HMT với quê hương xứ Huế, dù cung bậc và sắc thái tình cảm có khác nhau, song tình cảm ấy
cuả HMT là vẫn là một khối tinh ròng và lấp lánh những sắc màu cuả tình quê hương, tình tự
dân tộc, vì thế bài thơ có sức lay động mạnh mẽ tâm hồn người đọc.
Mạch phát triển thống nhất nhưng có một bước “ nhảy vọt nghệ thuật “ giưã các khổ thơ. Nghiã
là mội khổ thơ tồn tại độc lập, không quan hệ với nhau. Dường như còn có vẻ xa lạ với nhau.
Chẳng hạn khổ I có nhân vật “ anh “, khổi II có nhân vật “ ai ” và khổ III có nhân vật “ em “.
Không thể có một nhân vật trữ tình vưà là em đối thoại với anh, vưà là mình đối thoại với ai, lại
vưà là anh đối thoại với em trong cùng một bài thơ. Cũng xa lạ như vậy về bút pháp, khổ I được
viết bằng bút pháp hiện thực. Cảnh và người là cảnh thực, thực đến từng chi tiết, chẳng hạn chi
tiết lá trúc che ngang mặt chữ điền. Khổ thơ II cảnh không còn là cảnh hiện thực nưã. Hiện thực
thăng hoa thành Siêu thực. Người đọc chỉ còn thấy một vài dấu tích cuả hiện thực: dòng nước
buồn thiu, hoa bắp lay, con thuyền, dòng sông. Và ngay cả những dấu tích ấy, cũng nhoà đi trong
tâm tưởng HMT. HMT đang đâu đó khuất trong bóng tối, nhìn ra ngoài kia, thấy rất rõ đường
nét, linh hồn cuả mây, gió, sông nước, và dòng sông trăng soi sáng con thuyền chở trăng đang
đậu bến. Đến khổ thơ III, HMT đã ở nơi xa lắm, ngoài cõi nhân gian, nhìn thấy mình đã “ mờ
nhân ảnh “ trong cõi người. Đó không còn là cái nhìn Siêu thức, mà là cái nhìn bằng tâm linh.
Chỉ khi linh hồn thoát ra khỏi thân xác, bước vào cõi ánh sáng chói loá nhìn không ra, thì khi ấy
mới nhìn thấy con người trần gian mờ mờ nhân ảnh.
Kết luận
Nếu biết rằng bài thơ được viết năm 1939, lúc HMT đã bị bịnh nặng, phải vào ở trong trại
phong Quy Hoà, Quy Nhơn, li cách với cuộc đời, ta mới thấy hết được sức sống, lòng yêu đời và
sự gắn bó cuả HMT với cuộc sống này mãnh liệt thế nào. Những nhà thơ Lãng Mạn khác chẳng
đau , chẳng bịnh, nhưng lại rên rỉ cô đơn, đau khổ, tuyệt vọng. Họ chỉ mong được thoát ly. Tình
yêu cuộc sống cuả HMT làm nên giá trị đặc sắc cuả Đây Thôn Vĩ dạ. Cái tình riêng cuả HMT đã
trở thành cái tình chung cuả mọi người với xứ Huế. Xứ Huế đẹp hiền hoà và thơ mộng. Cái
tôiriêng tư cuả một con người đã bị đẩy ra khỏi vòng trần ai lại ánh lên màu nắng mới, màu xanh
ngọc và đằm thắm những tình tự cuả đất và người quê hương. Vì thế,thật đáng ngạc nhiên vì bài
thơ được in trong tập thơ ĐIÊN . HMT đã đem đến một bút pháp mới lạ cho thơ VN. Từ bút
pháp hiện thực, tượng trưng quen thuộc, thơ cađã đã bước hẳn sang thế giới siêu thực . Hơn thế,
HMT còn dẫn thơ ca vào cõi tâm linh nhưng lại rất dân dã và hiện thực .
Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn cho mình một lẽ sống: sống để yêu và
tôn thờ Tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc sống say mê và bằng việc “hăm hở” làm thơ tình!
Nhắc đến Xuân Diệu, sẽ thật là thiếu sót nếu không kể tên “Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”, và “Thơ duyên” trong tuyển
tập “Thơ thơ” – đứa con đầu lòng mà “ông hoàng thơ tình” đã ban tặng cho nhân gian. Như một cái chạm tay khẽ
nhẹ vào tâm hồn những người yêu thơ, thơ Xuân Diệu nhẹ nhàng và tinh tế như chính tác giả của nó, để lại trong
tâm hồn người đọc một ấn tượng đậm nết và thật khó phôi pha về sự phóng túng, giàu có mà hết sức tinh tế trong
đời sống nội tâm, tâm của hồn của cái “TÔI” trữ tình Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu như một khúc tình si say đắm ngọt
ngào…thật đến từng hơi thở!
Những vẻ đẹp của mùa xuân đâu chỉ của riêng Xuân Diệu. Từ nghìn năm tước, các bậc tiền bối đã có những vần
thơ tràn trề về tình yêu đói với mùa xuân và cuộc sống. Nhưng yêu đến mức có những ham muốn táo bạo và khác
thường như Xuân Diệu, đó là điều thật mới mẻ, thật mãnh liệt. Đặc biệt là cái cách nói của nhà thơ. Trong thơ ca
trung đại, nét nổi bật là tính phi ngã, cái tôi trữ tình thường ẩn náu sau những hình tượng thiên nhiên. Trong khi đó,
Xuân Diệu bộc lộ ý thức về cái tôi trữ tình thật táo bạo:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Nói Xuân Diệu là một nhà thơ mới, quả không sai! Nếu như trong thơ ca của những thi sĩ lãng mạn ngày xưa, thiên
đường là chốn bồng lai tiên cảnh, là nơi mây gió trăng hoa, thì trong quan niệm thơ của Xuân Diệu, cuộc sống trần
gian mới thực là nơi hạnh phúc nhất, là nơi xinh đẹp và căng mọng nhựa sống nhất! Thơ lãng mạn của ông luôn có
một niềm say mê ngoại giới, khác giới, một niềm khát khao giao cảm với đời, một lòng ham sống mãnh liệt đến tràn
đầy. Dường như lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông đã biến cái ham muốn “tắt nắng”, “buộc gió” trở nên quá táo
bạo, đến độ lo âu trước sự thay đổi của đất trời, cảnh vật…muốn ôm tất cả, muốn giữ lại tất cả thiên nhiên với vẻ
đẹp vốn có của nó. Ước muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quay của vũ trụ,đảo ngược quy luật tự nhiên, phải chăng
là ông đang muốn đoạt quyền tạo hóa. Nhưng trong cái phi lí đó, vẫn có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn yêu
cuộc sống. Với ông, sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kỳ diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến. Thế giới này được
Xuân Diệu cảm nhận như một thiên đường trên mặt đất, một bữa tiệc lớn của trần gian. Nhà thơ đã cảm nhận bằng
cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái
thiên đường sắc hương đó hiện ra trong “Vột vàng” vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương,
vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khêu gợi.
Có ai đó đã nói rằng: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung
động với bướm chim, chất đầy trong tim mây trời thanh sắc”:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.”
Đó là niềm vui sướng của trái tim thi sĩ trẻ lần đầu tiên phát hiện ra 1 thiên dường trên mặt đất.Nếu thơ xưa, các nhà
thơ chỉ sử dung thính giác và thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các thi sĩ thời Thơ mới lại huy động tất
cả các giác quan từ nhiều góc độ để cảm nhân vẻ đẹp và sự quyến rũ đắm say hồn người của cảnh vật và đất trời
lúc xuân sang. Trong đoạn thơ, điệp ngữ “này đây” được sử dụng 5 lần kết hợp với lối kiệt kê khiến nhịp thơ trở nên
dồn dập, là một sự chỉ trỏ ngơ ngác, ngạc nhiên, lạ lẫm, như một tiếng reo vui sướng tột cùng để rồi chìm ngập đắm
say trước trùng trùng điệp: Của ong bướm tuần tháng “mật” ngọt ngào, nào là hoa của đồng nội xanh “rì”, nào là lá
của cành tơ “phơ phất”, của yến anh là khúc tình “si”; thể hiện sự phong phú bất tận của thiên nhiên. Tất cả mọi giác
quan của thi sĩ như rung lên, căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống ngồn ngột đang phơi bày, thiên
nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu như một sự gợi mở hấp dẫn đến lạ kì, một sự mời mọc mà thiên nhiên là
những “món ăn” có sẵn. Những vẻ đẹp được liệt kê bằng những tính từ đậm nhạt khác nhau để thể hiện tài năng sử
dụng từ ngữ của Xuân Diệu – cảnh vật trong thơ ông đã trở nên cuộn trào sắc màu, cuộn trào sức sống. Sự vật bình
thường ở ngoài đời cũng được đặt cho một dáng vẻ rất kiêu, rất hãnh diện, được trực tiếp nhận ánh sáng rực rỡ của
lòng yêu cuộc sống từ hồn thơ Xuân Diệu đã trở nên lung linh, đẹp đẽ, là biểu tượng của mùa xuân và tuổi trẻ ở giữa
cuộc đời! Thi pháp hiện đại đã chắp cánh cho những cảm giác mới mẻ của Xuân Diệu, giúp nhà thơ diễn tả trạng
thái hồn nhiên, bồng bột trước cái sắc xuân trong cảnh vật, trong đất trời và của muôn loài. Cách ngắt nhịp trong
đoạn thơ đầy linh hoạt, biến hoá (3/2/3 và 3/5). Đặc biệt là những hình ảnh, những khung cảnh được miêu tả thật cụ
thể, in đậm phong cách XD: tuần tháng mật, đồng nội xanh rì… tất cả tràn trề sự sống và thật đắm say!
"Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân.”
Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam hình ảnh mặt trời – vầng thái dương lại hiện ra dịu dàng, tình tứ và lãng mạn đến
thế. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một
ngày vui. Hình ảnh “thần vui hằng gõ cửa” gợi những liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại hy
lạp xưa. Niềm vui sướng trong tâm hồn nhà thơ dâng tràn khiến ngòi bút của Xuân Diệu thật sự xuất thần và thi sĩ đã
sáng tạo nên 1 câu thơ tuyệt bút:”Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác
thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và
tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trừu
tượng thuộc về thời gian “tháng giêng” so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể, mang tính nhục cảm. Nhưng sao câu
thơ Xuân Diệu vẫn tinh khôi, vẹn nguyên, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung đến thế. Cái mới trong thơ tình Xuân
Diệu là thế! Đó là sư kết hợp hài hoà giữa tâm hồn và thể xác khiến tình yêu thăng hoa. Đang ở đỉnh điểm của hạnh
phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo trước cái mong manh của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm
xúc trái ngược là điều thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu. Nó dẫn nhà thơ đến những suy tư và quan niệm nhân
sinh mang tính triết lý. Thi nhân nhận ra cái quy luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian: “tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ
lụi tàn …” Hai tâm trạng trái ngược nhưng dồn nén trong dòng thơ “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Về
hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành 2 câu chứa đựng 2 tâm trạng, 2 cảm xúc trái ngược nhau:
sung sướng-vội vàng. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả là “vội vàng một nửa”. Thường thì con người ở tuổi
trung niên mới tiếc tuổi xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc, đã vội càng “Tôi
không chờ nắng hạ mới hòai xuân.” Vì sao vậy? Bởi với Xuân Diệu:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hòan,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,”
Nhưng quan niệm của Xuân Diệu vừa phi lí, vừa hợp lí, vừa quen lại vừa lạ. Quen vì người xưa đã từng thở dài
“xuất thì bất tái lai”. Và là bởi đó là tiếng nói của một cái tôi ham sống, coi mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là tất cả sự
sống của mình. Biết rằng mùa xuân của đất trời vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, thi sĩ bâng
khuâng, tiếc nuối … Mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như cũng mang theo nỗi buồn “chia
phôi”, hoặc “tiễn biệt”, phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai tàn sắp sửa”. Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió
khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi
bật cái nghịch lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian: “Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?” Con người hiện đại sống
với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi mộy khoảnh khắc qua là mất đi vĩng viễn…
Trái tim Xuân Diệu đa cảm quá và tâm hồn nhà thơ quá đỗi tinh tế trước bước đi của thời gian. Con người ấy lúc nào
cũng “chẳng bao giờ nữa…” Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hoá làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn
vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
Trong đoạn thơ này, cái giọng điệu sôi nổi, bồng bột, đắm say của Xuân Diệu thời “thơ thơ” thể hiện đầy đủ nhất.
Những câu thơ chứa đựng cả giọng nói háo hức và nhịp đập của một con tim vồ vập muốn sống hết mình. Con tim
ấy của một cái tôi trữ tình từng bộc bạch một cách chân thành. “Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ – mà vạn vật là muôn
đá nam châm.” Từng làn sóng ngôn từ lúc đan chéo nhau, lúc lại song song thành những đợt sóng ào ạt vỗ mãi vào
tâm hồn người đọc. So với đoạn thơ trên, cách tự xưng của nhân vật trữ tình thay đổi. Phần đầu bài thơ, thi sĩ xưng
“tôi” – cái tôi đơn lẻ đang đối thoại với đồng loại. Đến đây, thi sĩ xưng ta một cách đầy tự tin nhưng đã có thêm rất
nhiều đồng minh cùng đứng lên đối diện với sự sống:”Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa. –
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,”
“Ta muốn ôm.
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Hình thức trình bày đoạn thơ rất đặc biệt, thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ba chữ “Ta muốn ôm” được đặt ở
giữa dòng thơ mô phỏng hình ảnh nhân vật trữ tình đang dang rộng vòng tay để ôm tất cả sự sống lúc xuân thì – sự
sống giữa thời tươi vào lòng. Đó là chân dung của một cái tôi đầy tham lam, ham hố đang dứng giữa trần gian, cuộc
đời, dòng đời để ôm cho hết, riết cho chặt, cho say, cho chếnh choáng, thâu cho đã đầy, cho no nê, cho tới tận cùng
những hương sắc của đất trời giữa mùa xuân… Tất thảy đều vồ vập, khát khao đến cháy bỏng với các mong muốn
được giao hoà, giao cảm mãnh liệt với vạn vật, với cuộc đời. Đây quả là một khát khao vô biên, tuyệt đích, rất tiêu
biểu cho cảm xúc thơ Xuân Diệu. Điệp từ, điệp ngữ được sử dụng bới tần số dày đặc trong cả đoạn thơ tiêu biểu
cho nhịp điệu dồn dập, đầy bồng bột, đắm say. Chính những câu thơ đó lưu lại trong ta ấn tượng về một dòng sông
cảm xúc cứ dâng trào, ào ạt từ câu mở đầu cho đến câu cuối cùng bài thơ. Chỉ riêng điệp ngữ ta muốn được điệp tới
bốn lần, mỗi lần điệp đi điệp lại liền với một động từ diễn tả một trạng trái yêu thương mỗi lúc một nồng nàn, say
đắm: ôm, riết, say, thâu. Đó chính là đỉnh điểm của cảm xúc bồng bột, sôi nổi và đắm say khiến nhà thơ phá tung
những quan niệm của thi pháp trung đại để biểu lộ tâm hồn mình trong một cách nói tưởng như vô nghĩa mà hoá ra
rất sáng tạo “Và non nước, và cây, và cỏ rạng.” Một trạng thái tham lam, ham hố kô có điểm tận cùng trong tâm hồn
nhà thơ. Tròn cảm nhận của thi nhân, cuộc đời trần thế như bày ra cả một bàn tiệc với tất cả hình ảnh của cuộc sống
tươi non, đầy hương sắc. Nhà thơ diễn tả thiên nhiên bằng các mĩ từ, lại nhân hoá khiến nó hiện ra như con người
có hình hài và mang dang dấp của tuổi xuân. Câu cuối cùng kết thúc cả bài thơ:” Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào
ngươi.” Đây là lời gọi thiết tha với sự cuồng nhiệt cao độ của 1 trái tim khao khát tình yêu và cuộc sống. Trong hồn
thơ Xuân Diệu, mùa xuân – tuổi xuân ngon lành và quyến rũ như một trái chín ửng hồng, như mời mọc. Trong câu
thơ này, hình ảnh xuân hồng với từ “cắn” khiến câu thơ thật gợi cảm xen chút giật mình trước tứ thơ thật độc đáo,
diễn tả niềm khao khát giao cảm mãnh liệt, sự ham hố cuồng nhiệt của Xuân Diệu mãi mãi là khát vọng, là ham
muốn không có giới hạn.
Với bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam một trào lưu “Thơ mới”. Mới lạ nhưng táo bạo, độc
dáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là cách cảm nhận cuọc sống bằng tất cả các giác quan, với một
trái tim chan chứa tình yêu. “Vội vàng” đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu
sắc. Đó là lòng yêu con người, yêu cuộc đời. Đó là tình yêu cảnh vật, yêu mùa xuân và tuổi trẻ… Và là ham muốn
mãnh liệt muốn nĩu giữ thời gian, muốn tận hưởng vị ngọt ngào của cảnh sắc đất trời “tươi non mơn mởn”. Phải
chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những
điệu nhạc tình si?! Thơ Xuân Diệu – vội vã với nhịp đập của thời gian.