Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Giáo trình Chăn nuôi động vật hoang dã (Nghề: Chăn nuôi - Cao đẳng): Phần 2 - Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.4 KB, 39 trang )

CHƯƠNG 5
KỸ THUẬT NUÔI TRĂN
MH43-05
Giới thiệu:
Giúp người học nắm rõ phương pháp nuôi trăn phù hợp với điều kiện thực
tế từng địa phương.
Mục tiêu:
- Ứng dụng được những kiến thức nuôi trăn vào thực tiễn sản xuất.
- Nhận biết được những vấn đề liên quan đến kỹ thuật nuôi trăn
- Rèn luyện tính kiên trì, chịu khó trong học tập.
1. Đặc điểm sinh lý
Hiện nay trên thế giới có 22 họ trăn (Pythonidae) gồm 80 lồi. Trong đó
giống (Python) gồm có 7 lồi phân bố rộng ở Châu phi, Nam và Đơng Nam Á,
Châu Úc.
Ở Việt Nam có 3 lồi: thừng gặp nhất là trăn đất (Python molurus) và trăn
gấm (Python reticulates). Ít gặp hơn là trăn đi cụt (Python curtus).
1.1. Trăn đất
Tên gọi và phân loại:
Tên khoa học:

Python molurus

Họ:

Trăn (Pythonidae)

Bộ:

Có vẩy

Lớp:



Bị sát

Trăn đất cịn được gọi là trăn đá, trăn mốc, trăn nghệ, trăn Ấn Độ hay trăn
Miến Điện.
Dựa vào đặc điểm cấu tạo, kích thước và vùng địa lý phân bố người ta chia
thành 2 loài phụ:
- Python molurus molurus Linnacus: Có màu sáng, kích thước tối đa không
quá 5m. Phân bố ở Ấn Độ, Thái Lan.
- Python molurus bivittatus Kuhl: Có màu nâu sẩm, kích thước tối đa 8m.
Phân bố ở Malaka, nam Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Cam Pu Chia,
Sumbava, Ja Va.
37


(Có tài liêu mơ tả trăn vàng là lồi phụ của trăn đất, cơ thể có màu vàng
nhạt trên nền hoa đốm vàng đậm. Thân có thể dài 4-5m, nặng 40-50kg. Trăn cái
đẻ tới hàng chục trứng, sau 2 tháng ấp nở thành trăn con. Tuổi thọ khoảng 20
năm).

Hình 5.1: Trăn đất (Python molurus)

1.1.1. Phân bố
- Trên thế giới, trăn hiện diện nhiều ở vùng rừng núi của Châu Á từ
Pakistan và Ấn Độ qua các nước Đông Nam Á xuống đến Inđơnêsia ở phía Nam
(bao gồm Ấn Độ, Bangladesh, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia, Malaysia,
Singapore, Brunei, Indonesia, Philippines).
- Ở Việt Nam Trăn xuất hiện ở các tỉnh miền núi từ phía Bắc đến miền
Trung Việt Nam và đồng bằng sông Cửu Long.
1.1.2. Sinh học

- Trăn đất ưa sống ở rừng già, thường sinh sống trên cây ở những khu rừng
nhiệt đới ẩm hoặc các trảng cỏ gần nguồn nước. Lồi trăn đất có thể sống ở
nhiều nơi có điều kiện môi trường khác nhau từ rừng ngập mặn ven biển cho đến
rừng nhiệt đới trên núi đất hoặc núi đá.
- Lồi trăn đất có thể đẻ tới 100 trứng/lần, cịn trăn gấm đẻ từ 15-80 trứng
và trăn cái có tập tính ấp trứng, trứng nở sau khoảng 3 tháng.

38


- Thức ăn chủ yếu là các loài động vật nhỏ: chuột, gà, vịt, ếch nhái, trăn lớn
thường ăn các vật nuôi như heo, bê, dê, cừu,...
1.1.3. Đặc điểm nhận dạng
Để phân biệt trăn đất và trăn gấm hoặc trăn đuôi cụt phải dựa vào một số
đặc điểm khác biệt trên đầu và màu sắc hoa văn trên thân của chúng.
- Trăn đất đầu hình tam giác tách với thân rõ rệt, có 11 -13 vẩy mơi trên,
16-22 vẩy mơi dưới, 61-77 vẩy quanh thân, 256-270 vẩy bụng và 56-70 vẩy
dưới đuôi. Ở 2 tấm vẩy môi trên đầu tiên có hõm (lỗ), khơng có sọc đen giữa
đỉnh đầu, mặt trên thân có hoa văn mạng lưới màu nâu vàng trên nền xám đen.
- Màu sắc: lưng có màu nâu hung đến nâu xám với những vân sáng hơi
vàng. Bụng màu trắng đục với những đốm nâu hay đen. Đuôi thay đổi từ màu
vàng, cam đến đen.
1.2. Trăn gấm (Python reticulates)
Tên gọi và phân loại:
Tên khoa học:

Python reticulates

Họ:


Trăn (Pythonidae)

Bộ:

Có vẩy

Lớp:

Bị sát

Trăn gấm còn được gọi là trăn hoa (miền Bắc), trăn mắt võng, trăn mắt
lưới, trăn dây.
1.2.1. Phân bố
Tuy ít gặp hơn trăn đất nhưng trăn gâm nhưng có vùng phân bố rộng hơn từ
Nam Mianma, Ấn Độ, Vùng Đông Nam Á, Trung Quốc,…
Ở Việt Nam trăn gấm xuất hiện ở phía Nam nhiều hơn phía Bắc.
1.2.2. Sinh học
- Trăn hoa sống ở rừng già, thích nơi râm mát.
- Trăn hoa hoạt động chủ yếu vào mùa hè. Mùa động, trăn ở trong hang hốc
(hốc đá, hốc cây). Một con trăn trưởng thành có trọng lượng cơ thể khoảng 4070kg, chiều dài cơ thể tới 5m.
- Sau khi giao phối khoảng 2,5-3 ngày thì đẻ từ 15-60 trứng, sau đó trứng
ấp khoảng 2 tháng thì nở. Con non, sau khi nở từ 7-10 ngày mới bắt đầu ăn thức
ăn. Tuổi thọ trung bình của Trăn hoa khoảng 10-15 năm.
39


- Thức ăn chủ yếu là các loài thú cở nhỏ (các lồi gặm nhấm), một số lồi
chim, số ít bò sát và ếch nhái...
1.2.3. Đặc điểm nhận dạng
- Đầu hình tam giác hơi thn dài, có 12-14 vẩy mơi trên, 4 vẩy mơi trên

đầu tiên có hõm (lổ), có 1 dọc đen mảnh ở giữa đỉnh đầu, mặt trên thân có hoa
văn mạng lưới màu đen trên nền vàng.
- Màu sắc: mặt lưng màu vàng hay nâu hung với những đường vân hình
mắt võng (mắt lưới). Bên hơng có những đốm trắng hình tam giác xếp thành
hàng dài. Bụng màu trắng ngà với những đốm đen.

Hình 5.2: Trăn gấm (Python reticulates)

1.3. Trăn đuôi cụt (Python curtus)
Tên khoa học:

Python rurtus

Họ:

Trăn (Pythonidae)

Bộ:

Có vẩy

Lớp:

Bị sát

Tên khác của trăn đi cuột: trăn đầm lầy, trăn vá
1.3.1. Phân bố
Chia làm 3 loài phụ:
40



- Python curtus Schlegel: sống ở Malaisia, Malaka.
- Python curtus Stull: sống ở Thái Lan
- Python curtus Steindachner: sống ở Sumatra, Calimantan (Borneo).
1.3.2. Sinh học
Việt nam có loại này nhưng xuất hiện ít và chưa rõ thuộc lồi phụ nào.
Đây là lồi trăn có màu sắc đẹp nhất nhưng khó ni trong chuồng.
1.3.3. Đặc điểm nhận dạng
Có từ 10-11 vẩy mơi trên, hai vẩy đầu tiên có lỗ. Vẩy mõm có chiều rộng
lớn hơn chiều cao. Có từ 18-19 vẩy môi dưới, 35 hàng vẩy quanh thân, 160-175
vẩy bụng, 28-32 vẩy dưới đi. Kích thước cơ thể khoảng 2m tối đa khơng q
3m.
Màu sắc: Lưng có màu vàng nâu hay nâu đỏ. Có những đốm màu vàng cam
ở trước hơng có thể nối liền nhau thành một đường ở phía sau. Bụng hơi trắng
đồng nhất hay có đốm nâu.

Hình 5.3: Trăn đi cụt (Python curtus)

Đặc điểm chung của trăn ngồi tự nhiên và ni nhốt:
- Trăn thuộc lớp bị sát. Kích thước của trăn thay đổi từ 50cm-10m nhưng
đa số có cỡ trung bình và lớn. Ở phần cuối của thân, ngay phía trước hậu mơn
41


cịn có di tích của đai hơng và xương đùi mà một phần lộ rõ ra ngoài thành 2 cựa
giống như cựa gà.
- Trăn có 2 phổi phát triển đầy đủ mặc dù phổi bên phải dài hơn bên trái.
- Các xương hàm khớp lỏng lẽo với nhau và có khả năng cử động linh hoạt,
nhờ đó trăn có thể há miệng nuốt được những con mồi rất lớn. Cả hai hàm đều
có răng mọc hơi xiên, có răng phía trước dài hơn các răng nằm phía trong và

khơng có nọc độc.
- Hệ cơ thân rất khoẻ, được sử dụng để quấn và giết mổi. Số lượng đốt sống
rất lớn, thay đổi từ 300 - 450 đốt.
- Màu sắc cơ thể thay đổi tuỳ lồi nhưng thường có những hoa văn hình
mạng lưới ở mặt lưng tạo nên màu sắc ngụy trang giúp con vật có thể phục kích
để rình mồi rất tài tình.
- Trăn là động vật ưa ấm và ẩm, chịu được một cách dễ dàng với nhiệt độ
cao về mùa hè nhưng chúng rất nhạy cảm với lạnh. Ở các tỉnh phía Bắc về mùa
đơng trăn phải tìm những nơi kín đáo để trú ẩn qua mùa đơng giá rét cịn ở đồng
bằng Nam bộ, trong mùa khơ trăn phải chui rúc mình dưới các lớp cỏ để tránh
nóng. Trong suốt thời gian trú đơng và trú khô, trăn nằm yên một chỗ, động tác
hô hấp không thấy rõ ràng, quá trình trao đổi chất giảm xuống ở mức thấp nhất,
và năng lượng cung cấp cho sự sống lúc này chủ yếu là do khối lượng mỡ được
tích trữ vào cuối mùa thu hay cuối mùa mưa. Chu kỳ hoạt động ngày của trăn
khá rõ nét. Trăn hoạt động chủ yếu và ban đêm còn ban ngày thường tìm những
nơi kín đáo để ẩn nấp.
- Trong chuồng nuôi, chúng ta sẽ quan sát thấy trăn suốt ngày nằm quấn
trịn thành một cục, ngủ li bì. Thời gian hoạt động tuỳ thuộc vào lứa tuổi. Nói
chung trăn nhỏ ra kiếm ăn sớm hơn trăn trưởng thành.
- Trăn lột xác không theo quy luật nhất định mà phụ thuộc nhiều vào tuổi,
mùa vụ, nhiệt độ và chế độ dinh dưỡng. Những trăn non lột xác nhiều hơn trăn
già và mùa hè lột xác nhiều hơn mùa đông. Biểu hiện của lột xác là trăn hung
dữ, da có màu sảm mốc, mắt trở nên đục mờ, trăn ngừng ăn và thích trằm mình
dưới nước. Q trình lột xác diễn ra trong vịng 1-2 tuần.
- Trăn ni lúc đói, lột xác, đang ấp trứng… thường rất hung dữ, chúng
rất nhạy cảm với các loại mùi thuốc lá, hành, tỏi, dầu sả… nên cần tránh những
mùi này. Nhưng nếu trong trường hợp bị trăn cắn, bạn chỉ việc nhét một nhúm
thuốc rê vào miệng, lập tức trăn sẽ nhả ra.

42



- Trăn ni khi ăn no rất hiền, thích vuốt ve, cõng bế, về mùa hè rất thích
dầm nước. Vì vậy, trong chuồng, khu chăn ni ngồi máng, chậu uống, cần có
chậu to hoặc xây bể để khi nóng bức trăn bị vào đầm tắm.
Giá trị kinh tế của trăn
Ngồi việc khai thác trăn làm thực phẩm, con người cũng đã khai thác
trăn như một nguồn dược liệu quý:
- Lấy da trăn đem đốt thành than, tán bột rồi trộn lẫn với mỡ, bôi trị ghẻ rất
hiệu nghiệm.
- Mật trăn ngâm trong rượu dùng để xoa bóp các vết thương tụ máu, nơi có
các khớp bị sưng đau, tác dụng tương đương mật gấu, cùng dùng để chữa mắt
sưng, vùng bụng tim đau như có trùng cắn, bộ phận dưới âm hộ trùng ăn lở loét
(Danh y biệt lục).
- Thịt trăn làm chà bông cho sản phụ ăn hằng ngày giúp mau chóng lấy lại
sức, giảm đau nhứt và tê mỏi (Đỗ Huy Bích, 1979)
- Mỡ trăn chứa nhiều hợp chất béo như palmitin, olein… dùng để trị bệnh
ngoài da. (Theo lương y Đinh Bà Luyện và dược sĩ Diệu Phương).
- Xương trăn đem nấu cao uống có tác dụng chữa đau lưng, nhứt xương,
nhất là đau cột sống.
- Máu trăn pha với rượu uống có tác dụng bổ máu, chữa bệnh chống mặt,
hoa mắt.
Chọn giống và phân biệt trăn đực, trăn cái
Cũng giống như các loài rắn khác, việc phận biệt một con trăn đực với một
con trăn cái thật khơng đơn giản vì chúng có hình dạng và màu sắc gần giống
nhau, mặt khác chúng lại có cơ quan sinh sản nằm bên trong cơ thể nên rất khó
phân biệt.
Thường rắn đực có đi dài hơn và phần đầu của đi (nơi tiếp giáp với
hậu mơn) hơi phình ra, trong khi ở con cái thì hơi thắt lại. Kích thước và trọng
lượng của trăn đực cũng thường nhỏ hơn trăn cái, số vây bụng ít hơn nhưng có

đi dài và số lượng vây đuôi nhiều hơn. Trăn đực có 2 mấu ngựa nằm hai bên
khe huyệt trơng tực như chiếc cựa chân gà, có lẽ là cơ quan dùng để kích thích
trăn cái khi giao phối.
Trăn đực

43


Thân thon dài, có 2 cựa dài ở hai bên hậu mơn lộ ra ngồi, vẩy hậu mơn to,
chóp vẩy tù. Vẩy quanh hậu mơn nhỏ xếp xít nhau, ấn mạnh tay vào hai bên
huyệt thấy cơ quan giao cấu lộ ra
Trăn cái
Thân to mập, cựa hai bên hậu môn ngắn, nằm ẩn sâu bên trong. Vẩy quanh
hậu môn to, xếp khơng sít nhau, khơng thấy có cơ quan giao cấu
2. Thức ăn
Thức ăn cho trăn chủ yếu là những động vật cị máu nóng (gà, vịt, chim cút
non…), thú có guốc nhỏ (thịt heo, bị, dê, cheo mễn…), các lồi gặm nhấm (thỏ,
chuột…).
3. Chuồng trại
Chuồng ni là yếu tố quan trọng khi nuôi trăn bởi trăn rất khoẻ, nếu nó
chui được đầu thì sắt 8-12 li đểu bị trăn bẻ gãy.
Chuồng có thể làm bằng gỗ thanh, nan tre, sắt, lưới mắt cáo… có khe, lỗ
rộng từ 1-2,5cm (tuỳ loại trăn nuôi) để tiện vệ sinh và không cho trăn chui ra
ngồi.
Kích thước ơ chuồng cao 0,6-0,7m, rộng 0,5-0,6m, dài 24m. Với diện tích
này có thể nhốt các loại trăn theo số lượng:
Trăn sơ sinh 0,5kg/con

Nhốt 8-12 con


Từ 0,7-2kg/con

Nhốt 5-7 con

Từ 2,5-5kg/con

Nhốt 3-4 con

Từ 5kg trở lênNhốt 2-3 con
Đây là mật độ tối đa, nơi có điều kiện và đất rộng làm chuồng càng rộng
càng tốt, chuồng kết hợp với khu vườn rừng chăn thả, có rào lưới sắt tráng kẽm
chắc chắn.

44


Hình 5.4: Chuồng ni trăn của một sơ hộ ni

4. Chăm sóc ni dưỡng
4.1. Trăn con
Sau khi ấp 53-55 ngày nở ra trăn giống, trăn mới nở dài 50-60cm, nặng 80140g. Trăn con sau khi nở có thể tự sống 3-5 ngày bằng khối nỗn hồng tích ở
trong bụng. Sau thời gian này, bụng trăn con xẹp lại, da nhăn nheo và lột xác
đầu tiên. Trăn khỏe mạnh bình thường cho ăn 3-5 lần/tháng, trăn yếu cho ăn 10
lần/tháng. Thức thích hợp thịt lợn nạc, thịt bị, trâu, dê… tươi ngon thái nhỏ.
Cách cho trăn con ăn: Dùng một que nhỏ vót tà đầu ghim vào miếng mồi,
tai trái cầm đầu trăn, tay phải cầm que đưa thức ăn vào miệng trăn. Không được
thọc que vào sâu trong họng dễ gây thương tích. Sau khi đã cho mồi vào miệng
trăn, không được rút ngược que mà gạt ngang que về phía mép trăn, để miếng
mồi lại. Trong q trình thao tác cần phải hết sức nhẹ tay để tránh làm gẫy răng
hoặc đánh rơi trăn từ trên cao xuống đất. Không cho thức ăn vào chuồng, trăn

tranh nhau ăn sẽ cắn nhau, làm trăn bị thương, sinh bệnh.
Sô lượng thức ăn và số lần ăn
Tuổi trăn

Số lượng thức ăn Số lần ăn

1 tháng – 0,5kg

0.5 kg 3 - 5 ngày/lần
45


2 tháng – 1kg 0.5

-1kg 7 – 10 ngày/lần

1- 5 kg 1 - 1,5kg

7 -15 ngày/lần

Phải có máng chứa nước cho trăn uống hoặc tắm mình vào nước cho dễ lột
da (những ngày nóng bức và đặc biệt khi sắp thay da trăn trầm mình trong
nước).
Thường ngày phải dọn sạch phân trong chuồng, số phân hàng ngày thải ra
không nhiều, phân khơ, ít gây mùi thối, khoảng 5-7 ngày xả ít nước hoặc đưa
trăn ra tắm trong chậu nước, cho trăn dạn người và sạch sẽ.
4.2. Chăm sóc trăn ni thịt
Trăn giống ni sau 4-5 tháng thì dài khoảng 0,8m nên chọn nuôi riêng
thành trăn thịt.
Tuôi trăn


Số lượng thức ăn Thời gian ăn

6 - 10kg

1.5 – 1.7 kg 15

10 kg 3 – 5 kg

ngày/lần

8 – 20 ngày/lần

Ngồi ra, cịn cần chú ý bổ sung thêm các loại vitamin B1, B6, B12, C, A,
D, E, PP… hoà vào nước cho uống sau mỗi lần trăn ăn hoặc uống trực tiếp.
4.3. Chăm sóc trăn sinh sản
Thơng thường trăn sống đơn độc. Chỉ đến mùa sinh sản những con trăn đực
và trăn cái mới tìm đến nhau. Mùa phối giống của trăn từ tháng 10 đến tháng 1
năm sau.
Thời gian phối tốt nhất là tháng 11-12. Trước mùa phối giống 1 tháng cho
con cái ăn thật no để có đủ dinh dưỡng tích mỡ và tạo trứng.
Tuổi trăn phối giống là 28-30 tháng tuổi. Khi trăn cái muốn giao phối
thường tiết ra mùi đặc hiệu để dụ con đực. Lúc này thả trăn đực khoẻ mạnh có
trọng lượng bằng hoặc to hơn vào, chúng xoắn xuýt, giao phối với nhau 1-3 giờ.
Nên cho phối kép để đảm bảo trứng thụ thai và có tỉ lệ nở cao.
Trăn cái mang thai từ 120-140 ngày. Trong thời gian trăn cái có chửa khơng
cho ăn hoặc cho ăn mỗi lần một ít để tránh chèn ép trứng.
Khi chuẩn bị đẻ, con cái bò đi bò lại trong chuồng, đào đất, tìm chỗ trũng,
có rơm, cỏ khơ để đẻ. Có thể làm ổ đẻ cho trăn bằng bao xác rắn đựng trấu cài
đặt vào một góc chuồng, nơi yên tĩnh, tránh gió lùa…


46


Mỗi lần trăn cái đẻ từ 10-100 quả trứng. Sau khi đẻ hết trứng vào ổ, trăn
cái tự cuộn tròn lại trên trứng để ấp. Khi trăn ấp nên kiểm tra vài lần, nếu thấy
các quả trứng to đều, trắng, khơ ráo, vỏ láng bóng là trứng tốt những quả quá to
hay quá nhỏ, vỏ xỉn vàng… là trứng hỏng phải loại bỏ.
Thời gian ấp trứng 53-55 ngày thì nở. Trăn con tự mổ vỏ trứng chui ra.
Sau 1-2 ngày có những con trăn yếu khơng tự mổ vỏ chui ra, phải đem thả
những quả trứng này vào nước ấm kích thích để trăn con tự mổ vỏ chui ra. Còn
quả nào chưa nở, ta hỗ trợ bằng cách xé vỏ dài 1cm, lần tìm đầu trăn con nhẹ
nhàng kéo ra.
5. Thú y
5.1. Một số bệnh thường gặp ở trăn
5.1. 1. Bệnh ký sinh trùng
- Ký sinh trùng đường ruột:
Trăn cịi cọc, chậm lớn, trong phân có ấu trùng giun, sán.
Đây là bệnh phổ biến gây tác hại nhiều, nguyên nhân do cho ăn uống không
hợp vệ sinh. Dùng thuốc xổ giun sán thú y cho trăn uống.
- Ký sinh trùng ngoài da:
Ve (bét) bám trên da hút máu và truyền bệnh cho trăn. Dùng thuốc sát trùng
chuồng trại sạch sẽ.
5.1.2. Bệnh viêm lợi (Viêm tấy hàm răng)
Triệu chứng
Mới đầu thấy răng đen, có rỉ, viêm tấy nhỏ màu đỏ, sau chuyển thành màu
trắng, có mủ, rụng răng, hàm sưng khơng ăn được rồi chết.
Điều trị
Dùng thuốc tím rửa chỗ sưng tấy và chích kháng sinh tổng hợp như
Ampicyline, Tetracyline hoặc (Peniciline + Streptomycin)…

5.1.3. Bệnh đường hô hấp
Trăn là động vật hoang dã mới được thuần hóa, sức đề kháng cao, ít dịch
bệnh. Tuy nhiên, trăn cũng thường mắc bệnh ở đường hơ hấp, đó là bệnh viêm
mũi hầu với triệu chứng như mơ tả. Bệnh có thể gây chết trăn nếu việc phát hiện
và điều trị bệnh không kịp thời.
Điều trị
47


Theo kinh nghiệm của người nuôi trăn: khi nghe trăn khạc một tiếng thì tiến
hành điều trị ngay. Trường hợp bệnh nặng, trăn có đờm thì can thiệp như sau:
- Bỏ trăn vào bao, rồi nhúng cả cơ thể trăn vào thau nước trong vài phút.
Sau đó, đem trăn phơi dưới nắng buổi sáng (7 – 8 giờ) trong vòng 10 – 15 phút.
- Sử dụng một trong các loại kháng sinh: tylosin, tiamulin, gentamycin,
tiêm bắp vào kẻ vảy ở đuôi của trăn, liên tục 3 - 5 ngày.
- Thuốc long đờm: eucalyptyl, bromhexine. Tiêm bắp
Trường hợp sử dụng thuốc viên trong điều trị, có thể nhét viên thuốc vào
đầu gà cho trăn ăn.
Lưu ý: khi tiêm thuốc phải ghị đuôi trăn theo chiều cuốn tự nhiên của trăn
để tránh gãy kim.
Phịng bệnh
- Chuồng trại ln sạch sẽ, tránh ẩm ướt, khơng q nóng hoặc q lạnh,
khơng có mùi lạ, hạn chế ruồi và các lồi cơn trùng khác gây hại cho trăn.
- Phải đảm bảo chăm sóc ni dưỡng tốt, thức ăn đảm bảo thành phần và
giá trị dinh dưỡng.
- Định kỳ 15 ngày phải bổ sung thêm vitamin A, D, E, Bcomplex vào thức
ăn nuôi trăn (gà, vịt) để tăng cường sức đề kháng, hạn chế stress.
Trăn thường mắc bệnh khi thời tiết thay đổi, nếu nhiệt độ q cao thì phải
tạo sự thơng thống chuồng ni; trường hợp trời mưa, lạnh, gió mạnh thì phải
che phủ hoặc trùm kín để đảm bảo sức khỏe cho đàn trăn

5.1.4. Bệnh táo bón
Điều trị
Dùng thuốc tẩy dạng dầu bơm vào lỗ huyệt, có khi phải dùng ngón tay móc
phân cục ra. Cho ăn thức ăn nhuận tràng,…
5.1.5. Chấn thương cơ học
Trong nuôi nhốt trăn thường hay gặp các trường chấn thương có học do
trăn tranh dành thức ăn, đánh nhau, tìm lối thốt khỏi chồng,...
Chấn thương nhỏ thì bơi thuốc sát trùng, chấn thương lớn phải khâu, da trăn
có khả năng tái sinh nhanh sẽ chóng lành.
Phịng bệnh tổng hợp là biện pháp phòng bệnh tốt nhất cho trăn: Chăm sóc
ni dưỡng tốt, ăn uống sạch sẽ, thức ăn đảm bảo thành phần và giá trị dinh
dưỡng, chuồng trại luôn sạch sẽ, khơng lầy lội, khơng nóng q, lạnh q, không
48


có mùi lạ, tránh ruồi nhặng và các lồi cơn trùng khác gây hại cho trăn. Đặc biệt,
khi môi trường sống thay đổi phải chăm sóc ni dưỡng thật chu đáo để phòng
và chống stress gây hại cho trăn.
6. Thực hành
Kiến tập tại cơ sở chăn nuôi trăn trong tỉnh thời gian 4 giờ
6.1. chuẩn bị vật liệu dụng cụ và vật mẫu
- Chia nhóm sinh viên (25 sinh viên/01 nhóm)
- Phương tiện đi kiến tập: xe trường
- Máy ảnh, sổ tay, bút để chụp hình và ghi chép
- Giáo trình mơn học Chăn ni động vật hoang dã
6.2. Phương pháp tiến hành
- Sinh viên đến cơ sở nuôi trăn để tham quan, học hỏi về kỹ thuật nuôi.
6.3. Nội dung thực hành
- Giảng viên liên hệ trước với cơ sở nuôi trăn.
- Sinh viên chuẩn bị nội dung thực hành, tập trung đến cơ sở nuôi trăn.

- Ghi chép về kỹ thuật nuôi, chụp ảnh làm tư liệu viết bài thu hoạch.
6.4. Tổng kết nhận xét đánh giá
- Đánh giá kết quả thực hành dựa vào kiểm tra kiến thức sinh viên.
- Ghi chép đầy đủ những thông tin.
- Sinh viên tham gia đầy đủ các thao tác.
- Tinh thần thái độ học tập nghiêm túc.
- Viết bài thu hoạch

49


CHƯƠNG 6
KỸ THUẬT NUÔI CHIM TRĨ
MH43-06
Giới thiệu:
Giúp người học nắm rõ phương pháp nuôi chim trĩ phù hợp với điều kiện
thực tế từng địa phương.
Mục tiêu:
- Ứng dụng được những kiến thức nuôi chim Trĩ vào thực tiễn sản xuất.
- Nhận biết được những vấn đề liên quan đến kỹ thuật ni chim Trĩ.
- Rèn luyện tính kiên trì, chịu khó trong học tập.
1. Đặc điểm sinh lý
Nghề ni chim trĩ đỏ ra đời trong những năm gần đây là một mơ hình chăn
ni mới góp phần bảo vệ nguồn gen quý hiếm (chim trĩ đỏ vốn có tên trong
sách đỏ Việt Nam), cung cấp con giống cho các khu bảo tồn, các khu du lịch
sinh thái, nhằm bảo vệ các lồi động vật hoang dã.
Thêm vào đó, thịt chim trĩ đã được đánh giá là giàu protein, vitamin, calci,
sắt... và trứng chim trĩ (tuy chỉ lớn gấp 2, 3 lần so với trứng chim cút) nhưng rất
thơm ngon, bổ dưỡng. Do đó việc ni chim trĩ lấy thịt hay lấy trứng là đều
hồn tồn có thể, nhằm thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo và tăng thu

nhập cải thiện đời sống của nhân dân từng bước góp phần thúc đẩy sự phát triển
của đất nước.
Tuy nhiên nghề nuôi chim trĩ chỉ mới bắt đầu trong vài năm gần đây và có
tính tự phát, chưa có nhiều cơ sở uy tín, chất lượng. Cơ sở của chúng tơi đảm
bảo khách hàng về uy tín và chất lượng nhằm tạo ra một hướng đi mới cho bà
con chăn nuôi.

50


Hình 6.1: Chim trĩ đỏ

Chim Trĩ đỏ khoang cổ là loài chim thuộc Họ Trĩ (Phasianidae) nằm trong
Sách đỏ Việt Nam. Chủ yếu sống tại các khu vực miền bắc Việt Nam (Lạng
Sơn, Quảng Ninh …), rừng quốc gia Cát Tiên (Lâm Đồng), khu bảo tồn U Minh
Thượng (Kiên Giang), khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền (Thừa thiên Huế) và
phía Đơng Nam Trung Quốc. Chim Trĩ đỏ khoang cổ tên khoa học là Phasianus
colchicus Linnaeus.
Khi trưởng thành con đực có màu lơng sáng, đầu và cổ con đực có màu
xanh nhạt với 1 khoang trắng rõ rệt xung quanh vùng cổ, giữa ngực màu đỏ tía
đậm, các vùng bên cạnh có màu sáng hơn, hai bên sườn có màu vàng nhạt (vàng
tái) với các vết đen trên diện rộng, lơng đi có màu vàng oliu (nâu vàng nhạt)
với các sọc ngang rộng màu đen.
Trong khi đó con cái có nhiều vết đốm rõ rệt, các lông cổ màu nâu và đen
kẻ sọc quanh chỏm đầu, với các đường viền có màu hạt dẻ, phần lơng phía sau
lưng và ngực có màu lốm đốm, phần giữa có màu nâu đen, vùng bụng có màu
nâu nhạt. Các lơng đi rất rõ rệt với các đường gợn sóng dày khít có màu vàng
sẫm và đen. Chim trĩ non rất khó phân biệt trống mái, đến hơn 3 tháng mới phân
biệt được dựa vào màu lơng.
Chim Trĩ có sức sống, sức đề kháng mạnh mẽ đối với bệnh tật, sống được ở

nhiệt độ từ - 320C đến 460C. Trĩ đỏ lớn rất nhanh và có khả năng đề kháng rất
51


cao nên ít mắc bệnh. Ngồi 7 tháng là trĩ mái bắt đầu đẻ trứng, mỗi con mái
trưởng thành trong một năm có khả năng đẻ 90 – 120 quả trứng tùy theo điều
kiện chăm sóc.
Ni nhốt trong điều kiện thiếu các phương tiện ấp trứng nhân tạo thì khó
thành cơng vì chim trĩ đỏ khơng có bản năng ấp trứng. Những hộ ni ít thì
thường cho gà ấp hộ, tỉ lệ ấp nở thành công tới hơn 75%.
Nếu được cung cấp thức ăn đầy đủ, thêm côn trùng và điều kiện chiếu sáng
nhân tạo mỗi con trĩ đỏ mái có thể đẻ đến hai trứng mỗi ngày. Nếu dùng máy ấp
nhân tạo với các thông số độ ẩm, nhiệt độ phù hợp thì có thể cho tỉ lệ nở 90- 95
%. Tại miền Trung, chim Trĩ sinh sản kéo dài từ tháng 01 đến tháng 09 trong
năm

.
Hình 6.2: Chim trĩ giống ( con trống và con mái)

1.1. Một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật nghiên cứu tổng kết tại trang trại
- Sản lượng trứng/mái/mùa sinh sản : 90 – 120 quả
- Tỷ lệ trứng có phơi (%) : 93 – 97%
- Tỷ lệ nở/tổng trứng ấp bàng máy ấp trứng (%) : 90 – 95%
- Tỷ lệ nuôi sống (%) : 90%
- Thức ăn bình quân giai đoạn đẻ : 60g – 70g/con/ngày
Chim Trĩ đỏ khoang cổ thương phẩm (nuôi 16 tuần tuổi)
52


- Tỷ lệ nuôi sống (%) : 95 - 100%

- Khối lượng cơ thể (kg) cả trống và mái: 1.0 – 1.4 g/con
- Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng cơ thể (g): 4.8 – 5.0 kg
1.2. Dựa vào đặc điểm cơ thể để phân biệt chim trống , mái
Ở cùng lứa tuổi Chim trĩ trống thường có ngoại hình lớn hơn chim trĩ mái .
Lúc cịn nhỏ rất khó phân biệt chủ yếu dựa vào cảm quan nghề nghiệp và một số
biểu hiện nhỏ về sự khác biệt trong tập tính sinh hoạt và ngoại hình chim. Có thể
phân biệt bằng mặt thường qua việc so sánh kích thước cở thể, chiều cao chân,
hoặc lỗ huyệt.
Khi bước vào thời kỳ 2 - 3 tháng tuổi chim trống có biểu hiện chuyển dần
màu lông từ nâu nhạt sang màu đỏ pha, lúc này trọng lượng và chiều dài cơ thể
lớn hơn chim mái rõ rệt. Trên cổ chim trống hình thành tuyến lơng màu đồng
phía dưới là màu xanh lá cây hoặc màu tím sáng. Kế tiếp xuất hiện 1 vịng lơng
cổ màu trắng ( thường gọi là Trĩ Đỏ Khoang Cổ Trắng ) Lơng đi có màu đỏ và
màu hạt dẻ pha trộn với các vệt đen hoặc trắng nhạt .Trên má hình thành hai
mào đỏ và hai chỏm lơng sừng màu xanh thẫm. Chim Trống trưởng thành có thể
nặng tới 1,5 – 2 kg , lơng đi có thể đạt 0,4 – 0,6m, tùy theo chế độ chăm sóc
và mật độ ni thả.
Chim mái có kích thước nhỏ hơn chim trống. Sau khi thay lông ở thời kỳ 3
- 5 tháng tuổi chim mái sẽ ổn định ở bộ lơng màu tối có những đốm đen, pha lẫn
màu hạt dẻ, Chim mái có đi ngắn hơn chim trống, trọng lượng bình quân của
một chim mái trưởng thành khoảng 0,7 – 1,3kg / con.
Trong môi trường tự nhiên một chim trĩ đực thường quản lý và giao phối
với rất nhiều chim mái. Với bản năng sinh dục mạnh 1 chim trĩ trống có thể đạp
liên hồi nhiều chim trĩ mái trong một thời gian ngắn. Với tốc độ và sự uy hiếp
rất mạnh của chim trống nên việc nuôi ghép 1 trĩ trống và 1 chim mái để sinh
sản là điều tối kỵ, chim mái sẽ thường xuyên rơi vào trạng thái hoảng loạn, bị
dập trứng , hoặc lồi Zoom (tuột hậu mơn) đơi khi có vấn đề về tâm, sinh lý ảnh
hưởng nghiêm trong đến thế hệ chim mới sinh ra. Tuy nhiên nuôi với tỷ lệ mái
quá nhiều cũng không tốt cho chim trống và chất lượng phôi trứng. Qua nghiên
cứu thực nghiệm đã ổn định đàn chim bố mẹ sinh sản theo tỷ lệ 1 trống + 3 mái.

Việc nuôi chim trĩ đỏ ở thời kỳ cịn nhỏ thường gặp một số khó khăn nhất
định liên quan đến chế độ dinh dưỡng, điều kiện môi trường đặc biệt là khâu vận
chuyển. Vì vậy những người mới ni hoặc chưa có kinh nghiệm ni trĩ đỏ nên
hạn chế việc đầu tư mua con giống size nhỏ. Người mua nên chọn mua những cá
thể chim ở thời kỳ 3 – 5 tháng tuổi hoặc chim hậu bị.
53


Chọn chim trống có ngoại hình to, cao, đi dài, lông mượt, trường chim
dáng khỏe, mạnh, lanh lợi. Nếu ở thời kỳ trưởng thành chim trống luôn trong tư
thế nghiêng mình sung trận
Chim mái: bầu chim, nở hậu, khơng dị hình, dị tật. Nên mua chim ở những
cơ sở gây ni uy tín và có nhiều năm kinh nghiệm để lựa được những cá thể
chim khỏe mạnh, không bị đồng huyết, cũng như được tư vẫn về kỹ thuật gây
nuôi.
Một điểm đáng lưu ý : hiện nay chim trĩ đỏ vẫn nằm trong danh mục động
vật hoang dã nên việc gây ni vẫn phải có khai báo với chi cục kiểm lâm sở tại.
Phần lớn các cở sở nhân giống tự phát trên cả nước hiện vẫn chưa được đăng ký
gây ni. Đây cũng là một vấn đề khó khăn trong công tác quản lý đối với các
cơ quan hữu quan cũng như việc vận chuyển, buôn bán cho các hộ dân. Bà con
nên tìm đến các cơ sở gây nuôi được cấp phép để mua con giống với nguồn gốc
hợp lệ. Tránh mua trôi lổi trên thị trường sẽ gặp phải khơng ít khó khăn trong
khâu vận chuyển cũng như công tác nhân giống và tiêu thụ sản phẩm về sau.
2. Thức ăn
2.1. Thức ăn viên kết hợp với thóc và rau xanh
Sử dụng loại cám viên dùng cho gà con, thức ăn dành cho gia cầm trưởng
thành, gia cầm sinh sản ( cám gà đẻ ) kết hợp với thóc. Ngồi ra kết hợp cho ăn
thêm các loại rau xanh : rau muống, rau lang, thân cây chuối thái nhỏ .
Cũng như chăn ni các lồi gia cầm, chăn nuôi chim cũng như vậy. Thức
ăn của trĩ là cám tổng hợp (loại khơng có tăng trọng), ngơ xay, thóc, đậu tương,

rau xanh, cỏ,... Ngồi 2 tháng có thể cho trĩ tập ăn thóc bằng cách trộn 10 – 20
% vào khẩu phần ăn. Ở giai đoạn 5 – 8 tháng có thể trộn đến 50 % thóc vào
khẩu phần ăn.
Việc chăm sóc, ni dưỡng thoả mãn đầy đủ các nhu cầu sinh lý đòi hỏi
phát triển cơ thể ở mỗi giai đoạn sẽ khai thác tối đa tiềm năng di truyền của
giống, đạt nhanh đến khối lượng giết mổ càng sớm càng tốt.
2.2. Thức ăn hổn hợp
Thức ăn hổn hợp được phối chế cân đối đảm bảo đủ dinh dưỡng cho nhu
cầu phát triển của chim trong từng giai đoạn.
Khẩu phần ăn có thể phối chế đa nguyên liệu, sử dụng thức ăn bổ sung
động vật, thực vật, Premix khống vi lượng và Vitamin. Khơng sử dụng các
ngun liệu bị mốc, nhiễm độc tố Afratoxin hoặc bột cá mặn (có hàm lượng
muối cao). Khẩu phần thức ăn được cân đối đủ các chất dinh dưỡng đáp ứng nhu
54


cầu phát triển trong giai đoạn nuôi, thức ăn phối chế đa nguyên liệu, sử dụng
đạm nguồn gốc động vật, thực vật, Premix Vitamin, khoáng vi lượng v.v.
3. Chuồng trại
Vị trí chuồng ni phải chọn nơi cao ráo, thống mát, cách xa các trại nuôi
gia súc, gia cầm khác nhằm hạn chế tối thiểu mức rủi ro do lây nhiễm chồng
chéo.
Chuồng trại phải đảm bảo giữ ấm về mùa đông, mát về mùa hè. Nền
chuồng phải bằng phẳng, tiện cho công tác dọn vệ sinh, rải chất độn chuồng
bằng phôi bào hoặc trấu có thể trộn với cát được phơi khô đã được phun khử
trùng. Mặt khác phải đảm bảo thực hiện được biện pháp an toàn sinh học.
Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2- 3 lần/tuần. Phun thuốc khử
trùng định kỳ. Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc, nhọn, sợi ninong
trong khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến tủng diều, chết.
Cách thiết kế chuồng trại thường theo phương thức chia nhiều ơ với kích

thước rất nhỏ, mơi ơ chỉ ni từ 1 - 4 cá thể (ghép bộ). Cách làm này tuy hạn chế
được việc chim đánh, mổ nhau nhau nhưng lại tốn kém rất nhiều trong khâu
thiết kế chuồng trại, máng ăn cũng như cơng chăm sóc.
Mơ hình ghép cặp chỉ thích nghi với điều kiện ni kiểng, hoặc diện tích
đất nhỏ.Tuỳ mục đích, quy mơ sản xuất bà con có thể lựa chọn cách thiết kế
chuồng trại sao cho phù hợp nhất với điều kiện sẵn có mà vẫn đảm bảo được yếu
tố kỹ thuật trong việc quản lý và chăm sóc chim
3.1. Chuẩn bị dụng cụ và chuồng nuôi
Trước khi đưa chim vào nuôi dù quy mô lớn hay nhỏ cần phải chuẩn bị mọi
điều kiện vật chất kỹ thuật như: lồng úm, chụp sưởi, máng ăn, máng uống, chất
độn chuồng, tiêu độc khử trùng và chọn người nuôi.
Chim 0 – 30 ngày tuổi :40 - 15 con /m2
Chim 30 – 60 ngày tuổi : 12 – 6 con / m2
Chim 60 – 90 ngày tuổi : 4 – 2 con /m2
Sau 90 ngày tuổi : đưa chim ra chuồng lớn với mật độ nuôi 1 – 2 con /m2
3.1.1. Lồng úm nuôi giai đoạn 1 – 4 tuần tuổi
Lồng úm và dụng cụ chăn nuôi phải được cọ rửa sạch sẽ, để trống chuồng
trước khi đưa chim vào nuôi 15 – 20 ngày và phải được xử lý theo đúng quy
định về vệ sinh phòng dịch, tường, nền được quét nước vôi đặc nồng độ 40%.
55


Sau đó để khơ phun tiêu độc bằng xút 2% (NaOH) với liều 1 lít/m2 hoặc
bằng các loại thuốc sát trùng khác như Foocmol 3% phun 2 – 3 lần.
Trước khi thả chim Trĩ vào nuôi 1 – 2 ngày phun tẩy uế lại bằng Formalin
3% và đóng kín cửa.
Sau khi phun 5h mở cửa cho thơng thống bay hết mùi thuốc sát trùng rồi
mới thả chim. Nếu như chuồng trại xây mới thì có thể chỉ dùng thuốc sát trùng
Virkon của hãng Bayer: pha 100g với 10 lit nước, phun 300ml/m2, phun toàn bộ
trại bao gồm nền, tường, bồn ăn uống, khơng khí, giày ủng.

Hầu hết các kiểu úm gia cầm đều phù hợp cho việc úm chim Trĩ.Trong thời gian
úm gột, để nguồn nhiệt một phía, tránh gió lùa sử dụng lồng úm với chiều cao
40 – 50 cm; chiều dài 1,0 – 1,2 m; chiều rộng 0,7 – 0,9 m.
Xung quanh được đóng bằng gỗ ép hoặc cót ép, phía trên làm bằng lưới ơ nhỏ
để tránh chim bay, cửa lồng có thể nằm ở phía trên tuỳ thuộc vào từng điều kiện
cụ thể. Lồng này dùng để úm chim non trong 28 – 30 ngày đầu, mỗi lồng như
vậy có thể úm từ 50 – 80 chim.
3.1.2. Chuồng nuôi giai đoạn 5 – 12 tuần tuổi
Giai đoạn này chim Trĩ được nuôi thả ra nền chuồng bê tông để rải trấu
hoặc phôi bào với độ dày 5 – 8 cm, có khu đổ cát để chim tắm cát. Chim Trĩ
được thả ra ngoài nhằm cho chim vận động, nhưng phải có lưới quây để cho
chim khỏi bay đi. Bên ngồi lớp lưới của sân chơi có thể phủ lên những cành
cây giúp cho môi trường sống giống với các điều kiện tự nhiên. Giai đoạn này
một chim cần 0,5 m2 tổng diện tích sàn bên trong chuồng ni, và 2 m2 diện
tích nền bên ngồi được dùng cho việc vận động. Sau quá trình ấp, chim trĩ có
thể được ni khép kín, nhưng cần thiết phải có nơi cư trú đầy đủ. Sân chơi
được rào kín bằng lưới để ngăn chim thốt ra ngồi. Để ngặn chặn việc bay mất,
kẹp lông cánh khi chúng 4 tuần tuổi hoặc cắt lông cánh ngay ban đầu.
Chim trĩ rất dễ kích thích và bay rất tốt, vì vậy chúng nên được nhốt trong
chuồng nuôi hoặc các bãi rào được bao bọc cẩn thận. Nếu chúng có thể thốt ra
ngồi sau khi sợ hãi, chúng có thể bay và mất.
3.1.3. Giai đoạn sau 12 tuần tuổi
Ở giai đoạn này có thể đưa chim ra chuồng lớn với mật độ nuôi 1 – 2
con/m2. Nên chia chuồng thành nhiều ô khác nhau để tiện cho công tác quản lý
và theo dõi bệnh tật cũng như quá trình sinh trưởng và phát triển của chim.
Nếu tốn kém trong việc chia chuồng ra nhiều ơ nhỏ thì có thể chọn phương
án ni tập trung (quần thể). Tường vây có thể xây hoặc dùng lưới B40, lưới
56



mắt cáo. Trên nóc sử dụng các loại tấm lợp proximăng hoặc vật liệu rẻ tiền sẵn
có tại địa phương, miễn sao đảm bảo chim khơng thốt ra ngồi.
Nền chuồng được dải một phần hoặc toàn bộ cát, sử dụng loại cát vàng, để
chim tắm cát và làm ổ đẻ. Phần cịn lại có thể sự dụng bằng nền betơng, hoặc
trồng cỏ trong khoảng sân chơi.
Mái che bán phần và đảm bảo thống về mùa hè, ấm về mùa đơng. Khi có
rét đậm rét vào mùa đơng, hoặc sương muối, nên che chắn cẩn thận tồn bộ
chuồng ni bằng vải bạt và thắp điện sưởi để tránh rét cho chim.
Nên lưu ý đến các đợt mưa tạt, gió lùa vì đây là những thời điểm chim rễ
mắc các bệnh về hô hấp, tiêu chảy, cầu trùng, tụ huyết trùng, thương hàn,...
Lưu ý: Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2-3 lần/tuần. Phun thuốc
khử trùng Virkon S định kỳ 1 lần/tuần, tăng cường khi có dịch hoặc khí hậu ẩm
ướt. Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc, nhọn, sợi nilon trong khu vực
ni đề phịng chim ăn phải sẽ dẫn đến thủng diều, chết.
3.1.4. Làm chuồng cho chim lớn
Về kích thước chuồng có thể làm 1 trong 2 cách sau:
Cách 1 (áp dụng cho việc nuôi sinh sản): mỗi chuồng chỉ 1 trống và 3
mái. Diện tích sàn: 1.5x2m, cao 1.8-3m. Mỗi chuồng nên làm 1 cửa ra vào vừa
đủ rộng và chiều cao phù hợp sao cho chúng ta ra vào mỗi chuồng dể dàng mà
chim khơng bay ra ngồi. Vấn đề thức ăn và nước uống nên đặt bên ngồi mỗi
chuồng để tối ưu hố thời gian cho chim ăn, uống và ít làm ảnh hưởng đến sinh
lý của chim
Cách 2 (áp dụng cho nuôi thịt và nuôi sinh sản): nuôi thả bầy (đàn) với
số lượng không hạn chế . Lưu ý: số lượng nên giảm dần theo độ tuổi sao cho
phù hợp. Đối với nuôi sinh sản nên chọn tỷ lệ: 1 trống 3 mái. Ngược lại ni
thịt, thì khơng quan trọng tỷ lệ trống mái. Diện tích sàn tùy thuộc vào số lượng
chim, diện tích đất thực tế sao cho chim phù hợp. Chúng ta có thể kết hợp làm
chuồng kết hợp với trồng cây ăn trái, cây kiểng...ở trong chuồng: cây vừa tạo
bóng mát cho chim, vừa tiết kiệm được chi phí bón cây, cơng vệ sinh chuồng,
diện tích đất,..

Ngồi ra, với 2 cách làm chuồng trên nên gác nhiều cây cho chim đứng,
ngủ, ...đồng thời nên làm thêm vợt bắt chim, vợt lượm trứng khi cần thiết giảm
ảnh hưởng đến tâm sinh lý của chim trĩ.
Ưu nhược điểm:

57


Cách 1 dể kiểm soát được chất lượng con giống, tỷ lệ trứng có trống cao, dể
chăm sóc, dọn dẹp vệ sinh, bệnh tật, khả năng sinh sản, con giống hơn cách 2.
Ngược lại, cách 1 chi phí chuồng trại cao hơn, tốn diện tích sàn nhiều hơn cách
2. Do đó tùy theo điều kiện và định hướng phát triển chúng ta sẽ lựa chọn cách
thức chuồng trại phù hợp.
4. Chăm sóc ni dưỡng
4.1. Chăm sóc chim qua các thời kỳ sinh trưởng
4.1.1. Nuôi chim con ( giai đoạn từ 1- 3 tháng tuổi )
Chim được nuôi trong lồng nhỏ bằng lưới mắt cáo, sử dụng bóng điện hoặc
đèn sưởi đám bảo nhiệt độ 25 -27 độ C. Không nuôi chim con tại nơi có gió lùa ,
mưa tạt , che đậy cẩn thận để đảm bảo an toàn cho chim khỏi các vật ni khác
tấn cơng : Chó ,mèo , chuột . Khu vực nuôi thường xuyên được khử trùng định
kỳ tối thiểu 15- 20 ngày/ lần .
Thức ăn : sử dụng loại cám viên dùng cho gà con , sử dụng loại máng ăn ,
uống tự chế hoặc máng dùng cho gà miễn sao đảm bảo vệ sinh. Nên cho lượng
cám và nước vừa đủ, khi chim ăn hết nhấc máng ra vệ sinh và thay nước mới,
tránh để nước lưu lại sang ngày thứ 2. Với chim nhỏ sức đề kháng yếu ta sử
dụng loại nước cất hoặc nước đun sôi để nguội cho chim uống .
4.1.2. Nuôi chim trưởng thành
Chim được nuôi trong lồng lớn sử dụng thức ăn dành cho gia cầm trưởng
thành, gia cầm sinh sản ( cám gà đẻ ) kết hợp với thóc. Tỉ lệ pha tuỳ theo thời kỳ
sinh trưởng của chim : có thể dùng tới 60% thóc trong khẩu phần thức ăn. Ngoài

ra kết hợp cho ăn thêm các loại rau xanh : rau muống, rau lang, thân cây chuối
thái nhỏ ..vv. Hạn chế cho các loại thức ăn lạ : tơm, cua, cá có thể dẫn đến tình
trạng chim bị tiêu chảy.
Trong q trình ni đàn thường sảy ra hiện tượng chim cắn , mổ nhau : Vị
trí mổ thường tập chung vào mắt ,đỉnh đầu hoặc lỗ huyệt. Để hạn chế việc này ta
có thể sử dụng 1 số phương thức sau :
Tách riêng cá thể chim bị đánh, hoặc chim đánh ra khỏi chuồng nuôi từ 3-5
ngày. Sau đó thả lại bình thường.
Cho ăn bổ sung thêm 1 số khoáng chất : Ca , Zn . Có thể sử dụng loại thuốc
chống cắn, mổ bán tại các tiệm thú y để pha vào thức ăn cho chim.
Cắt hoặc mài bớt phần mỏ dưới của chim (đây là liệu pháp bắt buộc trong
quy trình ni cơng nghiệp theo quy mô lớn ). Việc cắt hoặc mài mỏ dưới của
chim khơng làm ảnh hưởng đến ngoại hình ( vì phần mỏ dưới bị che khuất ).
58


Khơng ảnh hưởng đến q trình sinh sản của chim trống . Vì thực chất chim trĩ
đạp mái thời gian diễn ra rất nhanh ( từ 15 -30 giây ) không nhất thiết cần sự hỗ
trợ của bộ mỏ , nếu có chỉ cần mỏ trên là đủ . Ngồi ra việc cắt , mài mỏ còn loại
bỏ được nguyên nhân ăn trứng của chim . Đây là lý do một số người đã nuôi
chim trĩ trong thời gian dài vẫn không thấy chim sinh sản. Tuy được xem là
phương pháp kỹ thuật tiêu biểu và sử dụng rộng dãi trên thế giới song với người
nuôi chim trĩ của Việt Nam lại quan niệm chim cắt mỏ là chim Trĩ của Trung
Quốc. Thực tế trong danh mục các loại chim khơng có khái niệm chim trĩ đỏ TQ
, chim Trĩ Thái Lan hay chim Trĩ Việt Nam. Mà đó chỉ là vùng phân bố của
chim trĩ .Vì vậy chỉ có 1 loại trĩ đỏ khoang cổ duy nhất như hình trên. Khi đưa
vào mơi trường ni nhân tạo thì ngoại hình, trọng lượng của chim do người
ni quyết định : Ví dụ : Nếu sử dụng 100 % cám tổng hợp làm khẩu phần ăn ,
chim trĩ sẽ rất nhanh lớn và có thể đạt trọng lượng >2kg/con .Tuy nhiên chất
lượng thịt thương phẩm sẽ giảm vì mất dần tính hoang dã của chim, đồng thời

sức đề kháng của chim cũng kém đi. Với chim mái có thể dẫn đến hiện tượng
béo lú mà không sinh sản được.
+ Máng ăn:
Giai đoạn 1 – 4 tuần tuổi: 4 tuần đầu có thể dùng máng nhựa, mẹt tre,
máng tơn hình chữ nhật hoặc máng trịn, tuỳ theo kích thước của lồng úm.
Giai đoạn 5 – 9 tuần tuổi: từ tuần tuổi thứ 5 trở đi dùng máng ăn có kích
thước to hơn (có thể là máng dài hoặc máng trịn). Máng dài có thiết diện hình
thang, đáy nhỏ từ 5 – 8 cm, miệng rộng 7 – 13 cm, chiều dài của máng 1 – 1,5
mét; cao 4 – 8 cm có đế vững chắc tránh rơi vãi thức ăn.
Máng trịn có thể bằng nhựa hoặc bằng tôn làm theo kiểu máng P50
Hunggari nâng dần độ cao của máng theo tuổi của chim.
+ Máng uống:
Có nhiều loại song tuỳ thuộc điều kiện từng nơi, từng vùng mà áp dụng cho
phù hợp và kinh tế. Thơng thường dùng máng trịn (gallon) gồm phần đáy và
thân nắp vào nhau làm bằng nhựa, thể tích máng uống tuỳ theo tuổi: Chim non
dùng gallon 1 – 2 lít, chim dị hậu bị và sinh sản dùng gallon 4 – 8 lít. Máng
uống dài có độ dài tương đương máng ăn nhưng thiết diện nhỏ hơn.
+ Chụp sưởi:
Chim non sau khi nở ra chưa có khả năng điều tiết thân nhiệt do đó phải có
hệ thống chụp sưởi để cung cấp nhiệt độ cho chim đến khi chúng có khả năng
điều tiết được thân nhiệt phù hợp với nhiệt độ mơi trường, có thể dùng dây may
59


so, bóng điện hoặc đèn hồng ngoại tuỳ theo số lượng chim con 01 ngày tuổi mà
bố trí hệ thống sưởi cho hợp lý và hiệu quả kinh tế.
+ Chất độn chuồng:
Yêu cầu chất độn chuồng phải có khả năng hút ẩm, có thể dùng phơi bào, trấu,
rơm rạ băm nhỏ. Lưu ý chất độn phải được phơi khô không có mùi mốc, phun
sát trùng bằng Foocmol 2% hoặc Virkon®S. Cần có cát, sỏi bổ sung trong nền

chuồng để có thể tắm hoặc ăn.
4.2.Chọn chim giống
Chọn những con nhanh nhẹn, mắt sáng, lông bông, bụng gọn, chân mập,
khối lượng 20 - 23g là đạt yêu cầu. Loại ngay những con khô chân, vẹo mỏ,
khèo chân, hở rốn, bụng nặng, lông bết.
4.2.1. Nhiệt độ, ẩm độ và thơng thống
Hai tuần đầu tiên chim không tự điều chỉnh thân nhiệt một cách hồn hảo,
do đó các bệnh về đường hơ hấp, tiêu hố dễ phát sinh khi ẩm độ mơi trường lên
cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ nuôi sống và khả năng sinh trưởng của chim.
Thời điểm khi chim xuống chuồng nên để nhiệt ở 350C, sau nhiệt độ được giảm
dần xuống 300C khi chim được 3 tuần tuổi.
Từ tuần tuổi thứ 2 cần chú ý đến tốc độ mọc lơng ở chim để điều chỉnh
nhiệt độ cho thích hợp. Trong q trình ni phải quan sát phản ứng của chim
đối với nhiệt độ: Nếu thấy chim tập trung gần nguồn nhiệt, chen lấn chồng đống
lên nhau là chuồng nuôi không đủ nhiệt, chim bị lạnh. Nếu chim tản ra xa nguồn
nhiệt, nháo nhác, kêu, khát nước, há mỏ để thở là bị quá nóng cần phải điều
chỉnh giảm nhiệt độ. Nếu chim tụm lại một phía là bị gió lùa rất nguy hiểm, cần
che kín hướng gió thổi. Khi đủ nhiệt, chim vận động ăn uống bình thường, ngủ,
nghỉ tản đều lồng úm.
Chim con cần chiếu sáng 24/24 giờ trong 4 tuần đầu, sau 5 – 9 tuần giảm
thời gian chiếu sáng đến 16h, từ tuần thứ 7 – 9 lợi dụng ánh sáng tự nhiên, đảm
bảo cường độ ánh sáng 3W/m2 là đủ.
4.2.2. Nước uống
Nước là nhu cầu đầu tiên của chim khi mới xuống chuồng. Cần cung cấp
nước sạch, tốt nhất là pha thêm 5g đường Glucoz và 1g Vitamin C/lít nước cho
những ngày đầu, nước uống cho chim không được lạnh tốt nhất là hơi ấm 18 –
210Ctrong vài ngày đầu.

60



Sử dụng chụp nước tự động bằng nhựa 0,6 – 0,8 lít/50 chim non. Vị trí đặt
máng uống phải bố trí cho chim dễ tiếp cận và khơng bị máng ăn che khuất.
Tuân thủ cho chim uống nước trước, sau 2 – 3 giờ mới cho thức ăn.
4.2.3.Thời kỳ đẻ trứng và kỹ thuật ấp nở
Chim trĩ giống bình quân sau khi ni đến 8 tháng tuổi có thể đẻ trứng.
Thời gian đẻ thường từ đầu tháng 1 âm lịch đến khoảng tháng 4 âm lịch , Sau đó
chim trĩ ngừng đẻ khoảng 1 tháng rồi tiếp tục đẻ lứa thứ 2 đến khoảng tháng 8
âm lịch thì nghỉ . Bình qn mỗi năm 1 chim mái có thể đẻ từ 90 - 120 trứng .
Ngoài ra số trứng , thời gian đẻ cịn phụ thuộc vào kỹ thuật ni , chế độ cho ăn
, và quản lý vật nuôi . Nếu cho ăn tặng lượng đạm động vật , canxi và sử dụng 1
số tác nhân phụ có thể cho chim trĩ đẻ 2 quả / ngày hoặc đẻ quanh năm theo ý
thích của người ni . Tuy nhiên phương pháp này chỉ áp dụng cho trường hợp
khai thác trứng chim trĩ làm thương phẩm . Việc nhân giống chim không nên áp
dụng , sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe sinh sản của chim bố mẹ cũng như chất lượng
con giống sinh ra.
Chim trĩ trong tự nhiên không tự ấp trứng , chim thường đẻ nhờ vào tổ
chim khác . Vì vậy khi đưa vào ni trong mơi trường nhân tạo ta phải dùng tác
nhân phụ để ấp trứng cho chim .Tỉ lệ nở phụ thuộc vào 2 yếu tố : là chất lượng
phôi trứng , và kỹ thuật ấp.
Thường có 2 cách cơ bản để ấp trứng trĩ
Dùng vật ni khác có thân nhiệt và điều kiện ấp nở tương tự ( Thường
dùng , gà mái hoa mơ , gà tre ..vv ) . Cách ấp này đơn giản như ấp trứng gia cầm
thông thường tuy nhiên cho tỷ lệ thành cơng thấp và khó áp dụng cho nuôi quy
mô lớn
Dùng máy ấp : Sử dụng loại máy ấp trứng thông thường để ấp. Thời gian
ấp nở khoảng 24 -25 ngày. Hiệu chỉnh nhiệt độ, độ ẩm tùy theo giai đoạn:
Nhiệt độ ấp trong tuần đầu : 37,5 0 C , Độ ẩm 55 %
Tuần thứ 2 Nhiệt độ 37,3 0 C , Độ ẩm 60 %
Tuần thứ 3 trở đi nhiệt độ 370C , Độ ẩm 75 %

( Lưu ý sử dụng hoàn toàn nước cất để tạo độ ẩm , khơng dùng nước bẩn ,
có chứa tạp chất sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình bay hơi của nước ). Các tia máu
hình thành trong trứng trĩ thường rất mờ và khó phân biệt vì vậy đừng vội bỏ
trứng ra khỏi lò xớm. Bản thân bên trong trứng trĩ cũng có chất hóa học bảo
quản trứng rất tốt . Thường thì những quả trứng khơng có sống mà ấp tới 15

61


×