Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

TIỂU LUẬN: Thực trạng và giải pháp của việc thực hiện luật thuế GTGT tại Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.79 KB, 45 trang )











TIỂU LUẬN
Thực trạng và giải pháp của việc thực
hiện luật thuế GTGT tại Việt Nam
















[Type text] Page 1


L

I NÓI Đ

U
Việt Nam đang trên con đường đổi mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Quá
trình mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực đến kinh tế thế giới đang chứng tỏ dần những tiến bộ
của văn minh nhân loại. Đối với Việt Nam trong thời gian sắp tới đây, cùng với thực hiện
Hiệp định về thuế quan AFTA và việc đã chính thức gia nhập WTO từ năm 2007, thì những
biến đổi về cơ cấu thuế và nguồn thu ngân sách là điều không thể tránh khỏi. Nhận thức
được điều đó nước ta đã và đang tiến hành công cuộc hoàn thiện những thiếu sót trong hệ
thống thuế để bắt kịp với những tiến bộ trong thời kì đổi mới.
Trên thế giới, thuế nói chung và thuế giá trị gia tăng nói riêng được coi là một trong
các nguồn thu ngân sách quan trọng của mỗi quốc gia, là nguồn chi chủ yếu cho các hoạt
động hành chính sự nghiệp như: văn hoá, y tế, giáo dục, an ninh quốc phòng… Thuế giá trị
gia tăng là một loại thuế gián thu, người tiêu dùng là người chịu thuế và người bán hàng là
người nộp thuế. Thuế là được coi là công cụ điều tiết công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách
giàu nghèo, điều tiết từ khu vực có thu nhập cao để giải quyết các vấn đề của người nghèo,
hạn chế sự chênh lệch quá mức trong các tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế.
Trong Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11 luật thuế Giá trị gia tăng đã được thông qua
ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1999. Sau hơn 12 năm thực hiện luật
thuế này, nước ta cũng gặp không ít những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện:
điều chỉnh về phạm vi áp dụng về thuế suất, về khấu trừ thuế, hoàn thuế…Luật thuế được áp
dụng đã góp phần thúc đấy sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hóa dịch vụ, khuyến khích
phát triển nền kinh tế quốc dân, động viên thu nhập của người tiêu dùng vào ngân sách nhà
nước. Bên cạnh những điểm tích cực thì ta cũng kể đến những tiêu cực như tạo hai “sân
chơi” không bình đẳng, lợi dụng chủ trương hoàn thuế nhằm khuyến khích xuất khẩu của
nhà nước để làm hồ sơ giả rút ruột, moi tiền của nhà nước, lợi dụng những kẻ hở để trốn lậu
thuế… Vấn đề đặt ra là phải nhận biết được những tồn tại thiếu xót đó, tìm ra những giải
pháp tích cực nhất để nhanh chóng hoàn thiện và dần đi đến ổn định để thuế GTGT phát huy

tác dụng của nó cũng như tính ưu việt một cách có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế nước ta.
Vậy làm thế nào để thuế GTGT trở thành một sắc thuế tiến bộ, góp phần thúc đẩy
thúc đẩy sản xuất tạo nguồn thu nhập ổn định, dồi dào cho ngân sách, phù hợp với sự phát
[Type text] Page 2

triển của nền kinh tế Việt Nam? Đang là một câu hỏi lớn đối với các nhà quản lí cũng như
nhà lập pháp. Trong khuôn khổ một bài tiểu luận, là sinh viên ngành quản trị kinh doanh có
điều kiện nghiên cứu về môn thuế, chúng em xin trình bày một đề tài về thuế GTGT với nội
dung: “Thực trạng và giải pháp của việc thực hiện luật thuế GTGT tại Việt Nam”.
Mặc dù nhóm chúng em đã cố gắng, song trong quá trình làm bài tiểu luận không thể
tránh được những thiếu sót, khiếm khuyết nhất định, rất mong nhận được ý kiến đóng góp
của quý thầy cô, các bạn đọc để nhóm hoàn thiện hơn bài tiểu luận này.
Xin chân thành cảm ơn !

DANH SÁCH NHÓM

STT
HỌ
TÊN
MSSV
ĐÁNH GIÁ
(%)
1
NGUYỄN HOÀNG
ÂN
10248531

2
NGUYỄN THỊ
HƢỜNG

10077201

3
PHẠM ANH
MINH
10225021

4
PHẠM HOÀNG
MINH
10270511

5
VŨ THỊ HOÀNG
MAI
10271581

6
NGUYỄN THỊ ÁNH
NGUYỆT
10265971

7
ĐÀO THANH
NHÀN
10293661

8
ĐOÀN THỊ THANH
TÂM

10237561

9
NGUYỄN HỮU
VŨ (NT)
10229671


[Type text] Page 3

M

C L

C
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 4
1.1 KHÁI NIỆM: 4
1.2 CHẶNG ĐƢỜNG PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT THUẾ GTGT TẠI VIỆT NAM: 4
1.3 ĐÔI NÉT VỀ THUẾ GTGT TẠI VIỆT NAM. 5
1.3.1 Đối tượng chịu thuế GTGT 5
1.3.2 Người nộp thuế GTGT 5
1.3.3 Đối tượng không chịu thuế GTGT 6
1.3.4 Căn cứ tính thuế GTGT 8
a/ Giá tính thuế 8
b/ Thuế suất 10
1.3.5 Phương pháp tính thuế 11
a/ Phƣơng pháp khấu trừ thuế 11
b/ Phƣơng pháp tính trực tiếp trên GTGT 11
1.3.6 Hóa đơn chứng từ mua bán hàng hóa dịch vụ 12
1.3.7 Đăng kí, kê khai, nộp thuế 12

a/ Đăng kí thuế 12
b/ Kê khai thuế và nộp thuế GTGT 14
PHẦN 2: THỰC TRẠNG CỦA THUẾ GTGT Ở VIỆT NAM. 16
2.1 VỀ DIỆN HÀNG HOÁ, DỊCH VỤ KHÔNG CHỊU THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG : 16
2.2 VỀ THUẾ SUẤT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG: 21
2.3 VỀ ĐIỀU KIỆN ĐƢỢC KHẤU TRỪ, ĐƢỢC HOÀN THUẾ 23
2.4 VỀ HÌNH THỨC VĂN BẢN 25
PHẦN 3: NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GTGT TẠI VIỆT NAM 27
3.1 VỀ CHÍNH SÁCH 27
3.1.1 về đối tượng chịu thuế 27
3.1.2 Về thuế suất 29
3.1.3 về phương pháp tính thuế 30
3.1.4 Về chế độ hóa đơn chứng từ 31
3.1.5 khấu trừ kê khai thuế, hoàn thuế 32
3.2 CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ THỰC HIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ CỦA CÁC CƠ QUAN THUẾ 33
3.3 NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG TRÊN 34
PHẦN 4: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THỰC HIỆN THUẾ GTGT TẠI VIỆT NAM. 35
4.1. VỀ CHÍNH SÁCH 35
4.1.1. Đối tượng chịu thuế 35
4.1.2. Thuế suất 36
4.1.3. Phương pháp tính thuế 37
4.1.4. Hóa đơn, chứng từ 37
4.1.5. Khấu trừ, kê khai, hoàn thuế GTGT 38
4.1.6. Vấn đề ưu đãi thuế 39
4.1.7. Chuẩn hóa các quy định pháp luật về thuế GTGT 40
4.2. VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ 40
4.2.1. Cơ chế tự khai – tự nộp 40
4.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy, hoàn thiện công tác quản lý thuế 41
4.2.3. Kiến nghị đối với các cơ quan cấp trên 42
PHẦN 5: KẾT LUẬN 44


[Type text] Page 4

PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1 Khái niệm:
Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ
phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Để góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hóa và dịch vụ, khuyến
khích phát triển nền kinh tế quốc dân, động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng vào
ngân sách Nhà nước;
1.2 Chặng đường phát triển của luật thuế GTGT tại Việt Nam:
Luật
02/1997/QH9
10/05/1997
Quốc hội
Về thuế giá trị gia tăng

Luật
07/2003/QH11
17/06/2003
Quốc hội
Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng

Luật
57/2005/QH11
2/11/2005
Quốc hội
Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế
GTGT


Nghị định
123/2008/NĐ-CP
08/12/2008
Chính phủ
Về việc quy định chi tiết và hướng ẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá
trị gia tăng

Thông tƣ
129/2008/TT-BTC
26/12/2008
Bộ Tài chính
Về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và
hướng dẫn thi hành Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị
gia tăng

Thông tƣ
134/2008/TT-BTC
31/12/2008
Bộ Tài chính
Về việc hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân
nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam

[Type text] Page 5

Thông tƣ
45/2009/TT-BTC
11/03/2009
Bộ Tài chính
Về việc hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng, thuế tài nguyên, thuế thu nhập

doanh nghiệp đối với các cơ sở sản xuất thủy điện

Thông tƣ
112/2009/TT-BTC
02/06/2009
Bộ Tài chính
Về việc hướng dẫn điều kiện áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 0% đối với
vận tải quốc tế và dịch vụ của ngành hàng không, hàng hải

Thông tƣ
55/2010/TT-BTC
16/04/2010
Bộ Tài chính
Về việc hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối
với Đài Truyền hình Việt Nam và các Đài Truyền hình, Đài Phát thanh -
Truyền hình tỉnh, thành phố

Thông tƣ
15/2010/TT-BTC
27/09/2010
Bộ Tài chính
Về việc hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối
với các c quan báo chí

Thông tƣ
09/2011/TT-BTC
2101/2011
Bộ Tài chính
Về việc hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với
lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm


1.3 Đôi nét về thuế GTGT tại Việt Nam.
1.3.1 Đối tƣợng chịu thuế GTGT
Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối
tượng chịu thuế GTGT (bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ mua của tổ chức, cá nhân ở nước
ngoài) trừ các đối tượng không chịu thuế bên dưới đây.
1.3.2 Ngƣời nộp thuế GTGT
Người nộp thuế GTGT là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
chịu thuế GTGT (sau đây gọi là cơ sở kinh doanh (CSKD)) và tổ chức, cá nhân nhập khẩu
hàng hóa chịu thuế GTGT (sau đây gọi là người nhập khẩu).
[Type text] Page 6

1.3.3 Đối tƣợng không chịu thuế GTGT
1. Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản
phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán
ra và ở khâu nhập khẩu.
2. Sản phẩm là giống vật nuôi, giống cây trồng, bao gồm trứng giống, con giống, cây giống,
hạt giống, tinh dịch, phôi, vật liệu di truyền.
3. Tưới, tiêu nước; cày, bừa đất; nạo vét kênh, mương nội đồng phục vụ sản xuất nông
nghiệp; dịch vụ thu hoạch sản phẩm nông nghiệp.
4. Sản phẩm muối được sản xuất từ nước biển, muối mỏ tự nhiên, muối tinh, muối i-ốt.
5. Nhà ở thuộc sở hữu nhà nước do Nhà nước bán cho người đang thuê.
6. Chuyển quyền sử dụng đất.
7.1. Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm tai nạn con người trong gói bảo hiểm
nhân thọ; bảo hiểm người học; bảo hiểm tai nạn thủy thủ, thuyền viên; bảo hiểm tai nạn con
người (bao gồm cả bảo hiểm tai nạn, sinh mạng, kết hợp nằm viện); bảo hiểm tai nạn hành
khách; bảo hiểm khách du lịch; bảo hiểm tai nạn lái – phụ xe và người ngồi trên xe; bảo
hiểm người đình sản; bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật; bảo hiểm sinh mạng cá nhân;
bảo hiểm người sử dụng điện; bảo hiểm bồi thường người lao động, bảo hiểm sức khỏe và
các bảo hiểm khác liên quan đến con người, chăm sóc sức khỏe con người;

7.2. Bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng và các dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp khác;
7.3. Tái bảo hiểm;
7.4. Đào tạo đại lý bảo hiểm;
7.5. Bảo hiểm các công trình, thiết bị dầu khí, tàu chứa dầu mang quốc tịch nước ngoài do
nhà thầu dầu khí hoặc nhà thầu phụ nước ngoài thuê để hoạt động tại vùng biển đặc quyền
kinh tế của Việt Nam, vùng biển chồng lấn mà Việt Nam và các quốc gia có bờ biển tiếp liền
hay đối diện đã thỏa thuận đặt dưới chế độ khai thác chung.
8. Dịch vụ cấp tín dụng; kinh doanh chứng khoán; chuyển nhượng vốn; dịch vụ tài chính
phái sinh, bao gồm hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua,
bán ngoại tệ và các dịch vụ tài chính phái sinh khác theo quy định của pháp luật.
9. Dịch vụ y tế, dịch vụ thú y, bao gồm dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, phòng bệnh cho
người và vật nuôi.
[Type text] Page 7

10. Dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích và In-ter-net phổ cập theo chương trình của
Chính phủ.
11. Dịch vụ phục vụ công cộng về vệ sinh, thoát nước đường phố và khu dân cư; duy trì
vườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phố, chiếu sáng công cộng; dịch vụ tang lễ.
12. Duy tu, sửa chữa, xây dựng bằng nguồn vốn đóng góp của nhân dân, vốn viện trợ nhân
đạo đối với các công trình văn hóa, nghệ thuật, công trình phục vụ công cộng, cơ sở hạ tầng
và nhà ở cho đối tượng chính sách xã hội.
13. Dạy học, dạy nghề theo quy định của pháp luật.
14. Phát sóng truyền thanh, truyền hình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
15. Xuất bản, nhập khẩu, phát hành báo, tạp chí, bản tin chuyên ngành, sách chính trị, sách
giáo khoa, giáo trình, sách văn bản pháp luật, sách khoa học - kỹ thuật, sách in bằng chữ dân
tộc thiểu số và tranh, ảnh, áp phích tuyên truyền cổ động, kể cả dưới dạng băng hoặc đĩa ghi
tiếng, ghi hình, dữ liệu điện tử; in tiền.
16. Vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt, xe điện.
17. Máy móc, thiết bị, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để sử
dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; máy móc, thiết bị,

phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên dùng và vật tư thuộc loại trong nước chưa sản
xuất được cần nhập khẩu để tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ dầu, khí
đốt; tàu bay, dàn khoan, tàu thuỷ thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu
tạo tài sản cố định của doanh nghiệp, thuê của nước ngoài sử dụng cho sản xuất, kinh doanh
và để cho thuê.
18. Vũ khí, khí tài chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh.
19. Hàng hóa nhập khẩu trong trường hợp viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại; quà
tặng cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân;
quà biếu, quà tặng cho cá nhân tại Việt Nam theo mức quy định của Chính phủ; đồ dùng của
tổ chức, cá nhân nước ngoài theo tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao; hàng mang theo người
trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế.
Hàng hoá, dịch vụ bán cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế để viện trợ nhân
đạo, viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam.
[Type text] Page 8

20. Hàng hoá chuyển khẩu, quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam; hàng tạm nhập khẩu, tái xuất
khẩu; hàng tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu; nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng
hoá xuất khẩu theo hợp đồng sản xuất, gia công xuất khẩu ký kết với bên nước ngoài; hàng
hoá, dịch vụ được mua bán giữa nước ngoài với các khu phi thuế quan và giữa các khu phi
thuế quan với nhau.
21. Chuyển giao công nghệ theo quy định của Luật chuyển giao công nghệ; chuyển nhượng
quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ; phần mềm máy tính.
22. Vàng nhập khẩu dạng thỏi, miếng chưa được chế tác thành sản phẩm mỹ nghệ, đồ trang
sức hay sản phẩm khác.
23. Sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến theo quy định của
Chính phủ.
24. Sản phẩm nhân tạo dùng để thay thế cho bộ phận cơ thể của người bệnh; nạng, xe lăn và
dụng cụ chuyên dùng khác cho người tàn tật.
25. Hàng hóa, dịch vụ của cá nhân kinh doanh có mức thu nhập bình quân tháng thấp hơn

mức lương tối thiểu chung áp dụng đối với tổ chức, doanh nghiệp trong nước.
Cơ sở kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng quy định tại Điều này
không được khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào, trừ trường hợp áp dụng mức thuế
suất 0% quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật này.
1.3.4 Căn cứ tính thuế GTGT
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất
a/ Giá tính thuế
- Giá tính thuế được quy định như sau:
+ Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra là giá bán chưa có thuế
GTGT. Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán đã có thuế tiêu thụ
đặc biệt nhưng chưa có thuế GTGT;
+ Đối với hàng hóa nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu (nếu có),
cộng với thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có). Giá nhập tại cửa khẩu được xác định theo quy định
về giá tính thuế hàng nhập khẩu;
[Type text] Page 9

+ Đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng cho là giá tính
thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các
hoạt động này;
+ Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền cho thuê chưa có thuế GTGT;
Trường hợp cho thuê theo hình thức trả tiền thuê từng kỳ hoặc trả trước tiền thuê cho một
thời hạn thuê thì giá tính thuế là tiền cho thuê trả từng kỳ hoặc trả trước cho thời hạn thuê
chưa có thuế GTGT;
Trường hợp thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải của nước ngoài loại trong nước chưa
sản xuất được để cho thuê lại, giá tính thuế được trừ giá thuê phải trả cho nước ngoài;
+ Đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp, trả chậm là giá tính theo giá bán trả một
lần chưa có thuế GTGT của hàng hoá đó, không bao gồm khoản lãi trả góp, lãi trả chậm;
+ Đối với gia công hàng hoá là giá gia công chưa có thuế GTGT;
+ Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt là giá trị công trình, hạng mục công trình hay phần
công việc thực hiện bàn giao chưa có thuế GTGT. Trường hợp xây dựng, lắp đặt không bao

thầu nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị thì giá tính thuế là giá trị xây dựng, lắp đặt không
bao gồm giá trị nguyên vật liệu và máy móc, thiết bị;
+ Đối với hoạt động kinh doanh bất động sản là giá bán bất động sản chưa có thuế GTGT,
trừ giá chuyển quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất phải nộp ngân sách nhà nước;
+ Đối với hoạt động đại lý, môi giới mua bán hàng hoá và dịch vụ hưởng hoa hồng là tiền
hoa hồng thu được từ các hoạt động này chưa có thuế GTGT;
+ Đối với hàng hoá, dịch vụ được sử dụng chứng từ thanh toán ghi giá thanh toán là giá đã
có thuế GTGT thì giá tính thuế được xác định theo công thức sau:
Giá chưa có thuế
GTGT


=

Giá thanh toán

1 + thuế suất của hàng hoá, dịch vụ (%)
- Giá tính thuế đối với hàng hoá, dịch vụ quy định bao gồm cả khoản phụ thu và phí
thu thêm mà CSKD được hưởng.
- Giá tính thuế được xác định bằng đồng Việt Nam. Trường hợp người nộp thuế có
doanh thu bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân
[Type text] Page 10

trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời
điểm phát sinh doanh thu để xác định giá tính thuế.
b/ Thuế suất
- Mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế và hàng
hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT khi xuất khẩu, trừ các trường hợp chuyển giao công
nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài; dịch vụ tái bảo hiểm ra nước
ngoài; dịch vụ cấp tín dụng, chuyển nhượng vốn, dịch vụ tài chính phái sinh; dịch vụ bưu

chính, viễn thông; sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa qua chế
biến
- Mức thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ sau đây:
+ Nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt;
+ Phân bón; quặng để sản xuất phân bón; thuốc phòng trừ sâu bệnh và chất kích thích
tăng trưởng vật nuôi, cây trồng;
+ Thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác;
+ Dịch vụ đào đắp, nạo vét kênh, mương, ao hồ phục vụ sản xuất nông nghiệp; nuôi
trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng; sơ chế, bảo quản sản phẩm nông nghiệp;
+ Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản chưa qua chế biến, trừ sản phẩm quy định
được miễn thuế GTGT
+ Mủ cao su sơ chế; nhựa thông sơ chế; lưới, dây giềng và sợi để đan lưới đánh cá;
+ Thực phẩm tươi sống; lâm sản chưa qua chế biến, trừ gỗ, măng và sản phẩm theo
quy định;
+ Đường; phụ phẩm trong sản xuất đường, bao gồm gỉ đường, bã mía, bã bùn;
+ Sản phẩm bằng đay, cói, tre, nứa, lá, rơm, vỏ dừa, sọ dừa, bèo tây và các sản phẩm
thủ công khác sản xuất bằng nguyên liệu tận dụng từ nông nghiệp; bông sơ chế; giấy in báo;
+ Máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm máy
cày, máy bừa, máy cấy, máy gieo hạt, máy tuốt lúa, máy gặt, máy gặt đập liên hợp, máy thu
hoạch sản phẩm nông nghiệp, máy hoặc bình bơm thuốc trừ sâu;
+ Thiết bị, dụng cụ y tế; bông, băng vệ sinh y tế; thuốc phòng bệnh, chữa bệnh; sản
phẩm hóa dược, dược liệu là nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh;
[Type text] Page 11

+ Giáo cụ dùng để giảng dạy và học tập, bao gồm các loại mô hình, hình vẽ, bảng,
phấn, thước kẻ, com-pa và các loại thiết bị, dụng cụ chuyên dùng cho giảng dạy, nghiên cứu,
thí nghiệm khoa học;
+ Hoạt động văn hoá, triển lãm, thể dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất
phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim;
+ Đồ chơi cho trẻ em; sách các loại, trừ sách không chịu thuế GTGT

+ Dịch vụ khoa học, công nghệ theo quy định của Luật khoa học và công nghệ.
- Mức thuế suất 10% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ thông thường và các hàng hóa, dịch
vụ không thiết yếu, không nằm trong diện chịu các mức thuế suất 0% và 5%.
1.3.5 Phƣơng pháp tính thuế
Phương pháp tính thuế GTGT gồm phương pháp khấu trừ thuế GTGT và phương
pháp tính trực tiếp trên GTGT.
a/ Phương pháp khấu trừ thuế
- Phương pháp khấu trừ thuế GTGT được quy định như sau:
+ Số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế bằng số thuế GTGT đầu ra
trừ số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ;
+ Số thuế GTGT đầu ra bằng tổng số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra ghi
trên hoá đơn GTGT;
+ Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hóa đơn
GTGT mua hàng hóa, dịch vụ, chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hóa nhập khẩu và đáp
ứng điều kiện quy định tại Điều 12 của Luật này.
- Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với CSKD thực hiện đầy đủ chế độ kế toán,
hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hoá đơn, chứng từ và đăng ký nộp
thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
b/ Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT
- Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT được quy định như sau:
+ Số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT bằng GTGT
của hàng hóa, dịch vụ bán ra nhân với thuế suất thuế GTGT;
[Type text] Page 12

+ GTGT được xác định bằng giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra trừ giá
thanh toán của hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng.
- Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT áp dụng đối với các trường hợp sau đây:
+ CSKD và tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không có cơ sở thường trú tại
Việt Nam nhưng có thu nhập phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán,
hoá đơn, chứng từ;

+ Hoạt động mua bán vàng, bạc, đá quý.
1.3.6 Hóa đơn chứng từ mua bán hàng hóa dịch vụ
- Việc mua bán hàng hóa, dịch vụ phải có hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp
luật và các quy định sau đây:
+ CSKD nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế sử dụng hóa đơn GTGT; hoá đơn
phải được ghi đầy đủ, đúng nội dung quy định, bao gồm cả khoản phụ thu, phí thu thêm (nếu
có). Trường hợp bán hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT mà trên hóa đơn GTGT không ghi
khoản thuế GTGT thì thuế GTGT đầu ra được xác định bằng giá thanh toán ghi trên hóa đơn
nhân với thuế suất thuế GTGT, trừ trường hợp được quy định.
+ CSKD nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT sử dụng hoá đơn bán
hàng.
- Đối với các loại tem, vé là chứng từ thanh toán in sẵn giá thanh toán thì giá thanh
toán tem, vé đó đã bao gồm thuế GTGT.
1.3.7 Đăng kí, kê khai, nộp thuế
a/ Đăng kí thuế
- CSKD kể cả các công ty,nhà máy, xí nghiệp, chi nhánh, cửa hàng trực thuộc CSKD
chính phải đăng ký nộp thuếvới Cục thuế hoặc Chi cục thuế nếu là cá nhân kinh doanh về
địa điểm kinhdoanh, ngành nghề kinh doanh, lao động, tiền vốn, nơi nộpthuếvà các chỉ tiêu
liên quan khác theo mẫu đăng ký nộp thuế và hướng dẫn của cơ quanthuế.
Đối với cơ sở mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế chậm nhất là10 ngày kể từ
ngày cấp Giấy phép đầu tư hoặc Giấy chứng nhận đăng kýkinh doanh và cấp con dấu;
trường hợp cơ sở chưa được cấp giấy chứngnhận đăng ký kinh doanh nhưng có hoạt động
kinh doanh, cơ sở phải đăng ký nộp thuế trước khi kinh doanh.
[Type text] Page 13

- Các cơ sở đã đăng ký nộp thuế nếu có thay đổi ngành nghề kinhdoanh, chuyển trụ
sở kinh doanh sang các địa điểm khác, sáp nhập, giải thể, phá sản, hợp nhất, chia, tách hay
thành lập các Công ty, nhà máy, xí nghiệp,chi nhánh, cửa hàng mới phải đăng ký bổ sung
với cơ quan thuế chậm nhất là 10 ngày trước khi có sự thay đổi đó
- Cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh có trụ sở chính ở một địa phương (tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương) nhưng có cơ sở hạch toán phụ thuộc, như Công ty, nhà máy, xí
nghiệp, chi nhánh, cửa hàng trực tiếp bán hàng ở một địa phương khác thì CSKD phải đăng
ký nộp thuếvới cơ quan thuế nơi đóng trụ sở, các cơ sở hạch toán phụ thuộc cũng phảiđăng
ký nộp thuế GTGT với cơ quan thuế địa phương nơi cơ sở phụ thuộcđóng trụ sở. Riêng các
tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ tư vấn, khảo sát,thiết kế hoặc các hợp đồng tư vấn, dịch
vụ đăng ký, kê khai, nộp thuế với cơ quan thuế địa phương nơi đóng trụ sở.
- Cơ sở xây dựng, lắp đặt phải đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế địa phương nơi
đóng trụ sở. Trường hợp xây dựng, lắp đặt các công trình ở địa phương khác (tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương) do các cơ sở phụ thuộckhông có tư cách pháp nhân như tổ, đội, ban
quản lý công trình thực hiện thì cơ sở xây dựng đồng thời phải đăng ký, kê khai, nộp thuế
với cơ quanthuế địa phương nơi xây dựng công trình.
- Cơ sở thực hiện cơ chế khoán cho tập thể, cá nhân kinh doanh theo phương thức tự
chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh thì tập thể, cá nhânnhận khoán phải trực tiếp đăng
ký, kê khai, nộp thuế GTGT với cơ quan thuếnơi kinh doanh.
- CSKD thuộc đối tượng áp dụng phương pháp tính thuếtrực tiếp trên giá trị gia tăng,
nếu thực hiện được đúng, đủ các điều kiện mua, bán hàng hóa, dịch vụ có đầy đủ hoá đơn,
chứng từ, ghi chép hạch toán sổ kếtoán đúng chế độ, kê khai, nộp thuế GTGT đúng chế độ
và tự nguyện đăngký thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế thì được
ápdụng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. Cơ sở phải lập và gửi bảnđăng ký nộp
thuế (theo mẫu số 09/GTGT ban hành kèm theo Thông tư này)cho cơ quan thuế nơi cơ sở
đăng ký nộp thuế. Cơ quan thuế khi nhận đượcđăng ký của cơ sở có trách nhiệm kiểm tra,
thông báo kịp thời cho cơ sở vềviệc được áp dụng hay không được áp dụng nộp thuế theo
phương pháp khấutrừ thuế GTGT (nêu rõ lý do không được áp dụng) trong thời hạn chậm
nhấtlà 30 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của cơ sở. Cơ sở chỉ được thựchiện nộp thuế
theo phương pháp khấu trừ khi được cơ quan thuế thông báocho áp dụng. Những cá nhân
[Type text] Page 14

(hộ) kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ khi được cơ quan thuế
thông báocho áp dụng. Những cá nhân (hộ) kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo
phương pháp tính trực tiếp trên GTGT đã được áp dụng nộp thuế theo phương phápkhấu trừ

thuế, nếu trong quá trình thực hiện, cơ sở không thực hiện đúng cácđiều kiện quy định thì cơ
quan thuế áp dụng biện pháp ấn định thuế phải nộpvà ra thông báo đình chỉ việc nộp thuế
theo phương pháp khấu trừ thuế.
- Về việc cấp mã số thuế cho đối tượng nộp thuế: Các cơ sở kinhdoanh đã thực hiện
đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế, cơ quan thuế có tráchnhiệm cấp mã số thuế và giấy
chứng nhận đăng ký thuế cho CSKD.
b/ Kê khai thuế và nộp thuế GTGT
* Kê khai thuế:
- CSKD tự tính và kê khai thuế GTGT hàng tháng theo mẫu tờ khai do Bộ Tài Chính
ban hành.
- CSKD phải gửi các bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra kèm theo tờ khai
thuế GTGT.
- Thời hạn nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế là ngày 20 của tháng tiếp theo. Ngày
nộp tờ khai được xác định là ngày bưu điện đóng dấu gửi đi (đối với trường hợp gửi tờ khai
qua bưu điện) hoặc là ngày CSKD nộp tờ khai trực tiếp tại cơ quan thuế.
Kê khai điều chỉnh:
- Sau khi đã nộp tờ khai cho cơ quan thuế, nếu CSKD có sự sai sót, nhầm lẫn về số
liệu đã kê khai, CSKD có trách nhiệm kê khai điều chỉnh với cơ quan thuế như sau:
+ Nếu còn trong thời hạn kê khai theo quy định thì CSKD lập và nộp tờ khai thay thế
cho tờ khai đã gửi cơ quan thuế.
+ Nếu quá thời hạn quy định thì kê khai điều chỉnh tại các dòng kê khai điều chỉnh
của kỳ phát hiện sai sót (CSKD phải gửi kèm theo bản giải trình kê khai điều chỉnh thuế
GTGT).
- CSKD thực hiện thí điểm không phải thực hiện quyết toán thuế hàng năm với cơ
quan thuế, nhưng hàng tháng, CSKD phải rà soát hoá đơn, chứng từ, sổ sách kế toán của
tháng trước để kịp thời phát hiện những khoản thuế còn để sót chưa kê khai hoặc số thuế nộp
[Type text] Page 15

chưa đúng với số thuế phải nộp để kịp thời kê khai điều chỉnh, bổ sung vào tờ khai của tháng
tiếp theo.

* Nộp thuế
- Hàng tháng, CSKD nộp tiền thuế GTGT vào ngân sách nhà nước theo số đã kê khai.
Thời hạn nộp thuế GTGT chậm nhất không quá thời hạn nộp tờ khai thuế của tháng kê khai
(ngày 25 của tháng tiếp theo). Đối với những CSKD nộp thuế bằng chuyển khoản qua ngân
hàng, tổ chức tín dụng khác thì ngày nộp thuế vào ngân sách nhà nước được xác định là
ngày ngân hàng, tổ chức tín dụng ký nhận trên giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước; đối
với CSKD nộp thuế bằng tiền mặt thì ngày nộp thuế vào ngân sách nhà nước được xác định
là ngày cơ quan kho bạc nhận tiền thuế.
* Kê khai, nộp thuế trong trƣờng hợp sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản
chuyển đổi sở hữu, giao, bán khoán cho thuê doanh nghiệp Nhà nƣớc:
- CSKD phải thực hiện kê khai số thuế phát sinh đến thời điểm CSKD thực hiện việc
sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu; giao, bán, khoán, cho
thuê doanh nghiệp nhà nước.
- CSKD phải nộp tờ khai thuế và nộp hết số thuế GTGT còn thiếu vào ngân sách nhà
nước chậm nhất sau 45 ngày kể từ ngày có quyết định sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải
thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu, giao, bán , khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Trường
hợp có số thuế nộp thừa hoặc chưa khấu trừ hết, CSKD sẽ được cơ quan thuế hoàn trả theo
các quy định hiện hành.

[Type text] Page 16

PHẦN 2: THỰC TRẠNG CỦA THUẾ GTGT Ở VIỆT NAM.

Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997, trong quá trình triển khai thực hiện đã được sửa
đổi, bổ sung vào những năm đầu nhằm tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh, phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta. Luật thuế giá trị gia tăng đã đi vào cuộc sống,
tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế, xã hội của đất nước và đạt được mục tiêu đề ra. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật thuế giá trị gia tăng còn bộc lộ một số hạn chế
cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong tình hình mới:

2.1 Về diện hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng :

Luật năm 1997 quy định 28 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia
tăng. (Hiện nay, Điều 5 luật thuế GTGT quy định có 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc diện
không chịu thuế.) Quy định này là phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta thời gian qua,
tuy nhiên trong quá trình thực hiện và cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, một số hàng hoá, dịch vụ nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế giá trị gia tăng sẽ
không còn phù hợp, gây bất lợi cho sản xuất kinh doanh, bởi vì doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh các hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng sẽ không được tính thuế giá trị
gia tăng cho người mua, như vậy, toàn bộ số thuế giá trị gia tăng đã trả khi mua các yếu tố
đầu vào phục vụ cho sản xuất kinh doanh sẽ không được khấu trừ mà phải tính vào giá thành
sản phẩm, từ đó làm tăng chi phí, giảm khả năng cạnh tranh của những hàng hoá, dịch vụ
này trên thị trường trong nước và quốc tế. Do đó, cần rà soát để chuyển sang đối tượng chịu
thuế nhằm đảm bảo tính liên hoàn của thuế giá trị gia tăng và tạo thuận lợi hơn cho cơ sở
sản xuất, kinh doanh.
Để phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật thuế giá trị gia tăng quy định một số dịch vụ
tài chính cụ thể thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng nên trong thực tiễn thi hành, cùng
với quá trình hội nhập và sự phát triển của thị trường tài chính đã xuất hiện ngày càng nhiều
các dịch vụ tài chính mới chưa được quy định trong Luật, như: dịch vụ hoán đổi lãi suất, hợp
đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua, quyền chọn bán, bán ngoại tệ, (gọi
[Type text] Page 17

chung là các dịch vụ tài chính phái sinh) và các giao dịch chuyển nhượng vốn. Vì vậy, các
dịch vụ tài chính mới này cần được bổ sung vào Luật để đảm bảo cơ sở pháp lý trong quá
trình thực hiện và phù hợp với thông lệ quốc tế.
*** Tại Khoản 4 Điều 4, Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ sung
quy định: “Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ
và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản
cố định của doanh nghiệp; Thiết bị, máy móc, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất
được cần nhập khẩu để sử dụng trực tiếp vào hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển

công nghệ; máy bay, dàn khoan, tàu thuỷ thuê của nước ngoài thuộc loại trong nước chưa
sản xuất được dùng cho sản xuất, kinh doanh; thiết bị, máy móc, phụ tùng thay thế, phương
tiện vận tải chuyên dùng và vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu
để tiến hành hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển mỏ dầu khí”; Tại thời điểm khi ban
hành Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 thì quy định này là phù hợp với điều kiện của nước
ta. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đã có nhiều dự án đầu tư có công nghệ mới vào sản
xuất máy móc, thiết bị, vật tư thay thế hàng nhập khẩu. Trên thực tế việc xác định máy móc,
thiết bị, phương tiện vận tải, vật tư loại trong nước chưa sản xuất được để làm căn cứ xác
định đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng ở khâu nhập khẩu thường không kịp thời. Để
đảm bảo công bằng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước chú trọng đầu tư vào
hoạt động nghiên cứu - phát triển, sản xuất ra những máy móc, thiết bị, vật tư mới cung cấp
cho nền kinh tế và từng bước chiếm lĩnh thị trường trong, ngoài nước, về nguyên tắc cần
thiết chuyển nhóm hàng hoá này sang đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng . Mặc dù vậy, đối
với hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vẫn cần phải có cơ chế khuyến
khích, hỗ trợ thông qua không thu thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu đối với nhóm hàng
hoá nêu trên sử dụng trực tiếp cho hoạt động này. Đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò phát
triển mỏ dầu khí do sử dụng máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải
chuyên dùng có giá trị lớn, trong nước chưa có khả năng sản xuất được, trong khi sản phẩm
đầu ra là dầu thô xuất khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế, doanh nghiệp không được khấu
trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào nên cần thiết tiếp tục duy trì ở diện không chịu thuế.
Vì vậy , tại khoản 17, Điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 đã đưa ra nội dung
sửa đổi như sau:
[Type text] Page 18

“ Máy móc, thiết bị, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu
để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; máy móc,
thiết bị, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên dùng và vật tư thuộc loại trong nước
chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ
dầu, khí đốt; tàu bay, dàn khoan, tàu thuỷ thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập
khẩu tạo tài sản cố định của doanh nghiệp, thuê của nước ngoài sử dụng cho sản xuất, kinh

doanh và để cho thuê.”
*** Đối với nhóm hàng hoá, dịch vụ là hoạt động văn hoá, triển lãm và thể dục,
thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim
nhựa, phim vi-đi-ô tài liệu; điều tra, thăm dò địa chất, đo đạc, lập bản đồ thuộc loại
điều tra cơ bản của Nhà nƣớc:
Tại Khoản 10, Khoản 17, Điều 4, Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ
sung quy định: “Hoạt động văn hoá, triển lãm và thể dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật;
sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim nhựa, phim vi-đi-ô tài liệu”; “Điều tra,
thăm dò địa chất, đo đạc, lập bản đồ thuộc loại điều tra cơ bản của Nhà nước” thuộc đối
tượng không chịu thuế giá trị gia tăng . Quy định này là phù hợp với thực tiễn thời gian qua
vì các hoạt động này chủ yếu do các đơn vị sự nghiệp thực hiện bằng nguồn kinh phí ngân
sách nhà nước. Đến nay, thực hiện chủ trương xã hội hoá, Nhà nước khuyến khích các đơn
vị sự nghiệp chuyển sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, thực hiện cung cấp hàng
hoá, dịch vụ theo phương thức Nhà nước đặt hàng, đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện
để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia bỏ vốn đầu tư. Việc tiếp tục áp
dụng không chịu thuế đối với những hàng hoá, dịch vụ này sẽ không còn phù hợp, không
khuyến khích doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư, ảnh hưởng đến chủ trương xã hội hoá.
Do đó, tại Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 hai nhóm hàng hoá, dịch vụ nêu trên đã
được chuyển vào diện chịu thuế để đảm bảo tính liên hoàn của thuế giá trị gia tăng, doanh
nghiệp kinh doanh các hàng hoá, dịch vụ này được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào,
giảm chi phí, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trường hợp cung cấp hàng hoá, dịch vụ
theo phương thức Nhà nước đặt hàng thì Nhà nước bố trí đủ kinh phí để doanh nghiệp nộp
thuế.
[Type text] Page 19

*** Đối với nhóm hàng hoá, dịch vụ là vận tải quốc tế; hàng hóa, dịch vụ cung ứng
trực tiếp cho vận tải quốc tế:
Tại Khoản 22 Điều 4, Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ sung quy
định: “Vận tải quốc tế; hàng hóa, dịch vụ cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế” thuộc diện
không chịu thuế. Quy định này là phù hợp với thực tiễn thời gian qua do năng lực vận tải

quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Đến nay, đội tàu vận tải quốc tế của
Việt Nam đã phát triển, nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế thì doanh nghiệp không được
khấu trừ thuế đầu vào mà phải tính vào chi phí làm tăng giá cước vận tải, từ đó, hạn chế khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp vận tải Việt Nam với các hãng vận tải nước ngoài.
Vì vậy, tại Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 đã chuyển “Vận tải quốc tế” sang đối tượng
chịu thuế giá trị gia tăng với thuế suất 0% (quy định tại khoản 1, Điều 8 của Luật); hàng hoá,
dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế sang đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng với
thuế suất tương ứng của từng hàng hoá, dịch vụ.
*** Đối với nhóm dịch vụ là chuyển nhƣợng vốn và các dịch vụ tài chính phái sinh:
Để phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ
sung đã quy định một số dịch vụ tài chính cụ thể thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng .
Tuy nhiên, trong thực tiễn thi hành, cùng với quá trình hội nhập và sự phát triển của thị
trường tài chính đã xuất hiện nhiều các dịch vụ tài chính mới chưa được quy định trong
Luật, như: dịch vụ hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua,
bán ngoại tệ, (gọi chung là các dịch vụ tài chính phái sinh) và các giao dịch chuyển nhượng
vốn. Vì vậy, tại Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 đã có quy định bổ sung Chuyển nhượng
vốn và các dịch vụ tài chính phái sinh vào diện không chịu thuế giá trị gia tăng để đảm bảo
bao quát được các dịch vụ mới phát sinh, phù hợp với thông lệ quốc tế. Cụ thể tại khoản 8,
Điều 5 Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 có quy định:
“8. Dịch vụ cấp tín dụng; kinh doanh chứng khoán; chuyển nhượng vốn; dịch vụ tài
chính phái sinh, bao gồm hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền
chọn mua, bán ngoại tệ và các dịch vụ tài chính phái sinh khác theo quy định của pháp luật”.
Các dịch vụ chuyển nhượng vốn, dịch vụ tài chính phái sinh khi cung cấp ra nước ngoài
cũng không được áp dụng thuế suất 0% (quy định tại khoản 1, Điều 8 Luật thuế giá trị gia
tăng năm 2008).
[Type text] Page 20

*** Mặt khác
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, không phải doanh nghiệp nào cũng “thuận
buồm, xuôi gió”, luôn tiêu thụ hết hàng hóa, dịch vụ cung ứng ra thị trường. Trong nhiều

trường hợp, hàng hóa, dịch vụ ế ẩm được các doanh nghiệp, đơn vị dùng làm quà biếu, tặng
hoặc khuyến mại để quảng bá, khuếch trương hình ảnh, thương hiệu. Nếu những sản phẩm,
dịch vụ ấy góp phần quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh Việt Nam, doanh nghiệp
không thu được tiền mà vẫn phải chịu thuế là không hợp lý.
Thực tế, thời gian qua có nhiều doanh nghiệp được phép tổ chức các buổi biểu diễn
văn hóa, nghệ thuật, như các cuộc thi sắc đẹp, ca nhạc nhằm quảng bá du lịch và văn hóa
Việt Nam. Nhiều trường hợp không bán được một phần hoặc toàn bộ vé, phải chuyển thành
giấy mời phát cho các đơn vị, cá nhân theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo
đảm hình ảnh quảng bá hấp dẫn cho địa phương cũng như sự kiện tổ chức. Theo quy định,
số vé này vẫn bị tính thuế. Doanh nghiệp không thu được tiền, chịu lỗ nhưng vẫn phải nộp
thuế VAT nên họ rất bức xúc.
Không những không bán được hàng hóa, dịch vụ, mà còn bị “cụt vốn” và gánh chịu
nhiều tổn thất khác, những doanh nghiệp “đen đủi” này rõ ràng cần nhận được sự cảm thông,
chia sẻ. Việc họ phải nộp thuế cho những khoản thu không có thật là vô lý. Do vậy, việc sửa
đổi những quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng trong những trường hợp này là hợp
lý và cần thiết.
Tuy vậy, các nhà làm luật cần dự liệu để đề phòng các doanh nghiệp “lách luật”, gây
thất thoát cho ngân sách Nhà nước, đồng thời tạo ra “sân chơi” bình đẳng cho việc cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp. Hầu hết những trường hợp nêu trên đều “nhạy cảm”, khó kiểm
soát được trên thực tế. Chẳng hạn, doanh nghiệp vẫn xuất được hàng nhưng khai rằng phải
tiêu hủy, vẫn bán được vé nhưng khai rằng không bán được vé. Khi dự liệu được càng nhiều
tình huống như vậy, những quy định của pháp luật sẽ càng được xây dựng chặt chẽ hơn,
không còn tình trạng luật vừa được ban hành đã phải sửa.
Một số nhóm hàng hoá, dịch vụ cần tiếp tục áp dụng không chịu thuế GTGT cho phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, bao gồm: nhóm các mặt hàng sản phẩm
nông nghiệp của tổ chức, hộ gia đình cá nhân tự sản xuất và bán ra; các dịch vụ xã hội cần
thiết phục vụ chính sách phát triển con người, bao gồm: y tế, giáo dục, đào tạo; một số dịch
[Type text] Page 21

vụ công như dịch vụ thoát nước đường phố và khu dân cư, duy trì vườn thú, vườn hoa, công

viên, cây xanh đường phố, chiếu sáng công cộng, phát sóng truyền thanh, truyền hình công
cộng; nhóm các hàng phục vụ an ninh, quốc phòng được tài trợ từ Ngân sách Nhà nước, bao
gồm các loại vũ khí, khí tài chuyên dụng phục vụ quốc phòng, an ninh; nhóm các hàng hoá
nhập khẩu theo thông lệ quốc tế không thuộc diện chịu thuế GTGT như hàng viện trợ nhân
đạo, viện trợ không hoàn lại, hàng nhập khẩu theo tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao, tiêu chuẩn
hành lý cá nhân
2.2 Về thuế suất thuế giá trị gia tăng:

Năm 1997, khi ban hành Luật thuế giá trị gia tăng , mức thuế suất 5% là mức thuế
suất ưu đãi, được áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp
hoặc phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, trước
những khó khăn của nền kinh tế, Luật thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi, bổ sung nhiều
lần để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong từng thời kỳ, theo đó, diện áp dụng mức thuế suất
5% cũng được mở rộng và chưa theo đúng nguyên tắc nêu trên. Từ đó dẫn đến doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh một số hàng hoá, dịch vụ ở mức thuế suất này không những không phải
nộp thuế mà còn được hoàn thuế từ ngân sách Nhà nước, do đó, cần thiết rà soát lại diện áp
dụng mức thuế suất 5% để phù hợp với thực tiễn.
Trong thực tế, nhiều hàng hoá, dịch vụ mới phát sinh nhưng chưa có trong danh mục;
mặt khác, tiêu chí phân định ranh giới áp dụng mức thuế suất chưa rõ ràng: vừa theo tên
hàng hoá, dịch vụ, vừa theo công dụng hàng hoá, dịch vụ, vừa theo tính chất của hàng hoá,
dịch vụ, dẫn đến việc áp dụng mức thuế suất không thống nhất, nảy sinh vướng mắc trong
quá trình thực hiện. Ví dụ, sản phẩm cơ khí tiêu dùng áp dụng mức thuế suất 10%, sản phẩm
cơ khí là tư liệu sản xuất áp dụng mức thuế suất 5%, trên thực tế có những sản phẩm cơ khí
không thể phân định được rõ ràng là dùng cho tiêu dùng hay dùng cho sản xuất.
Luật thuế GTGT hiện hành quy định mức thuế suất 5% và 10% (trừ mức thuế suất
0% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu). Việc quy định các mức thuế suất này là
phù hợp với thực tiễn thời gian qua khi nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, có tính
đến việc kế thừa của Luật thuế doanh thu (11 mức thuế suất từ 0,5%-30%).
[Type text] Page 22


Đối tượng áp dụng thuế suất 5% là nhóm các mặt hàng sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản
chưa qua chế biến ở khâu thương mại và một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu của người dân
như nước sạch, thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế, giáo cụ phục vụ giảng dạy và học tập; một số
hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu và chất
kích thích tăng trưởng vật nuôi, cây trồng, thức ăn gia súc và dịch vụ trực tiếp phục vụ sản
xuất nông nghiệp. Trước đây, các hàng hoá, dịch vụ này có mức thuế suất thuế doanh thu
thấp (0,5% đến 1%) nên khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT cần thiết áp dụng mức thuế
suất 5%. Đây là những sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân nên tiếp tục áp
dụng mức thuế suất 5% trong một thời gian nữa.
Những năm đầu thực hiện Luật thuế GTGT, nước ta bị tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính-tiền tệ Châu Á, một số doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh những mặt hàng
đang ở mức thuế suất 10% gặp khó khăn về tiêu thụ hàng hoá sản xuất ra do sức mua xã hội
giảm sút nên Chính phủ đã trình Quốc hội điều chỉnh một số hàng hoá, dịch vụ từ mức thuế
suất 10% xuống mức thuế suất 5% (ví dụ sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất; khuôn đúc các
loại; ván ép nhân tạo; sản phẩm bê tông công nghiệp gồm dầm cầu bê tông, dầm và khung
nhà bê tông, cọc bê tông, cột điện bê tông, ống cống tròn bê tông, hộp bê tông các loại, pa-
nen và các loại cấu kiện bê tông cốt thép đúc sẵn phi tiêu chuẩn, bê tông thương phẩm; lốp
và bộ săm lốp cỡ từ 900-20 trở lên ).
Thực tiễn những năm qua cho thấy: ngoài các hàng hoá, dịch vụ được điều chỉnh thuế
suất từ 5% sang 10% có tình hình sản xuất kinh doanh phát triển, hiệu quả kinh doanh tốt,
các hàng hoá, dịch vụ hiện đang áp dụng thuế suất 5% cũng có tình hình sản xuất kinh doanh
tốt và có khả năng xem xét để chuyển từ diện áp dụng mức thuế suất 5% sang thuế suất
10%. Việc chuyển lại thuế suất 10% đối với những hàng hoá, dịch vụ này nhằm đảm bảo
tính liên hoàn của thuế giá trị gia tăng, hạn chế các trường hợp phải hoàn thuế do có mức
thuế suất đầu vào lớn hơn mức thuế suất đầu ra.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay cần thiết tiếp tục duy trì
mức thuế suất 5% đối với hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp hoặc hàng
hoá, dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân bởi các lý do sau:
Sản phẩm nông nghiệp do cơ sở trực tiếp sản xuất bán ra thuộc diện không chịu thuế GTGT
nên cơ sở sản xuất không được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào. Vì vậy, cần tiếp tục duy

[Type text] Page 23

trì ở mức thuế suất 5% đối với một số hàng hoá, dịch vụ đầu vào chỉ phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp trong một thời gian nữa để góp phần giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm nông nghiệp trên thị trường;
Trong giai đoạn đầu hội nhập lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn sẽ bị tác động mạnh,
đặc biệt trong điều kiện hiệu quả sản xuất nông nghiệp ở nước ta chưa cao, thu nhập và mức
sống của người dân, nhất là nông dân còn thấp. Mặt khác, theo cam kết với Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) thì nhiều sản phẩm nông nghiệp được tiếp tục duy trì chính sách bảo hộ
trong thời hạn 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO;
Hiện nay mặt bằng giá thế giới một số vật tư nguyên liệu là đầu vào của sản xuất tăng
mạnh, nhất là đầu vào của sản xuất nông nghiệp, từ đó ảnh hưởng lớn đến giá thành sản
phẩm sản xuất trong nước, đời sống của người dân.
Thời gian thực hiện Luật thuế GTGT vừa qua cho thấy còn có vướng mắc do tiêu chí
phân định một số hàng hoá, dịch vụ chưa rõ ràng trong việc áp dụng các mức thuế suất 5%,
10%: Việc xác định mức thuế suất vừa theo sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ vừa theo công
dụng sản phẩm, vừa theo tính chất lý hoá của sản phẩm. Ví dụ, sản phẩm cơ khí tiêu dùng thì
áp dụng thuế suất 10%, sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất là 5%, trên thực tế có những sản
phẩm cơ khí không thể phân định được rõ ràng là dùng cho tiêu dùng hay dùng cho sản xuất.
2.3 Về điều kiện được khấu trừ, được hoàn thuế

Khấu trừ, hoàn thuế là việc doanh nghiệp được trừ hoặc được hoàn lại số thuế đã trả
khi mua hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Đây là một nội dung cơ bản,
đặc thù riêng có, thể hiện tính ưu việt của thuế giá trị gia tăng, từ đó đã khắc phục việc thu
trùng của thuế doanh thu trước đây, khuyến khích xuất khẩu.
Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ sung quy định căn cứ khấu trừ,
hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào là hoá đơn giá trị gia tăng mua hàng hoá, dịch vụ. Thực
tiễn quản lý thuế thời gian qua cho thấy quy định nêu trên chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, dễ bị
lợi dụng khấu trừ khống hoặc hoàn thuế khống thông qua việc sử dụng hoá đơn ghi chép
không trung thực với thực tế giao dịch và các loại hoá đơn bất hợp pháp khác để gian lận

trong khấu trừ, làm giảm số thuế giá trị gia tăng phải nộp hoặc tăng số thuế giá trị gia tăng
[Type text] Page 24

được hoàn khống rút tiền ngân sách, gây bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng
nộp thuế, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Trong thời gian vừa qua đã xuất hiện một loại
tội phạm kinh tế mới - tội phạm mua, bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp để chiếm đoạt tiền
thuế giá trị gia tăng của Nhà nước như một số đối tượng đã lợi dụng sự thông thoáng của
Luật doanh nghiệp và quy định về điều kiện được khấu trừ thuế, được hoàn thuế nêu trên để
thành lập doanh nghiệp nhằm mục đích mua, bán hoá đơn kiếm lời bất chính (doanh nghiệp
ma)
Luật thuế GTGT quy định phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng đối với các loại
hình doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ. Căn
cứ để khấu trừ thuế là hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT nên trong quá trình thực hiện Luật thuế GTGT
một số doanh nghiệp đã lợi dụng quy định này, sử dụng hoá đơn giả, hoá đơn ghi chép
không trung thực nội dung kinh tế phát sinh và các loại hoá đơn bất hợp pháp khác để kê
khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào nhằm trốn, lậu thuế không những gây thất thu cho NSNN
mà còn ảnh hưởng tới môi trường đầu tư, tạo sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các đối
tượng nộp thuế.
Trong thời gian vừa qua đã xuất hiện một loại tội phạm kinh tế mới - tội phạm mua,
bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp để chiếm đoạt tiền thuế GTGT của Nhà nước như một số
đối tượng đã lợi dụng sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp, thành lập doanh nghiệp
nhằm mục đích mua, bán hoá đơn kiếm lời bất chính (doanh nghiệp ma), một số cơ sở kinh
doanh đã mua hoá đơn bất hợp pháp để kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào
Trước năm 2003, để được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào, cơ sở sản xuất, kinh
doanh hàng xuất khẩu không bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng nên trong quá trình
thực hiện một số cơ sở kinh doanh hàng xuất khẩu đã lợi dụng quy định này lập hồ sơ xuất
khẩu hàng hoá khống, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp (hoá đơn giả, hoá đơn ghi nội dung
mua bán khống ) qua đường biên giới đất liền (đặc biệt là biên giới với Trung Quốc) để
hoàn thuế GTGT đầu vào nhằm chiếm đoạt tiền của Nhà nước.

Để ngăn chặn tình trạng này, thời gian qua các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan
bảo vệ pháp luật, cơ quan thuế đã phối hợp để tăng cường các biện pháp quản lý, như: phối
hợp trong việc cung cấp thông tin, điều tra, xử lý các vụ vi phạm,…; Luật sửa đổi, bổ sung

×