Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.94 KB, 42 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới đang đứng trước ngưỡng cửa của sự toàn cầu hoá, hứa hẹn nhiều biến
chuyển. Những ảnh hưởng ngày càng lan rộng của các công ty đa quốc gia cùng với
phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã thúc đẩy cả xã hội cùng chạy đua
trên con đường phát triển .Quá trình chuyên môn hóa, hợp tác hóa ngày càng được
chuyên sâu góp phần tăng tổng sản phẩm toàn xã hội . Chúng ta đang sống trong
giai đoạn chứng kiến những sự thay đổi nhanh chóng trong tổng thể nền kinh tế, kĩ
thuật , công nghệ, và những biến đổi khác trong chính trị, xã hội . Tất cả đem lại
cho thời đại một sắc màu riêng.
Để hội nhập với nền kinh tế thế giới , chúng ta cũng phải có những sự chuyển
mình để không bị gạt ra khỏi vòng quay của sự phát triển .Trong bối cảnh đó, xu
hướng mở cửa, hợp tác kinh tế với các nước là một quan điểm nổi bật của chính phủ
ta. Thể hiện điều này ngày 19/12/1987 Quốc Hội ta đã thông qua luật đàu tư trực tiếp
nước ngoài, cho phép các tổ chức, cá nhân là người nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam. Qua đó đã thu hút được một lượng vốn lớn thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tuy
nhiên quá trình đó còn găp nhiều thách thức, cần có sự nỗ lực từ hai phía.
Cũng từ những suy nghĩ trên em đã chọn đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam” để tìm hiểu thực trạng của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và
các tác động của nó đối với nền kinh tế nước ta. Bài làm gồm có ba phần:
- Phần I: Lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Phần II: Thực trạng về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
- Phần III: Những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam,
nguyên nhân và giải pháp
Mặc dù em đã nhận được rất nhiều sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của các
thầy cô trong bộ môn kinh tế chính trị để em có thể hoàn thành bài tiểu luận này,
nhưng do sự nhận thức còn chưa đầy đủ và thời gian nghiên cứu ít nên còn nhiều
thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý và giúp đỡ của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn.
NỘI DUNG
1
I. Lí luận về đầu tư nước ngoài


1. Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1 Khái niệm
- Đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào
đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.
- Đầu tư nước ngoài:
Cho đến nay vấn đề đầu tư nước ngoài không còn là vấn đề mới mẻ đối với các
nước trên thế giới. Tuy nhiên các quốc gia vẫn không thống nhất được khái niệm về
đầu tư nước ngoài. Vì thế có thể nói đây là vấn đề khá phức tạp, không dễ dàng gì có
được sự thống nhất về mặt quan điểm khi mà mỗi quốc gia về cơ bản đều theo đuổi
những mục đích riêng của mình hoặc do ảnh hưởng của hoàn cảnh kinh tế-xã hội của
chính nó .
Tại Hội thảo của Đại hội Hiệp hội Pháp luật quốc tế Henxky 1966, người ta đã
đưa ra một khái niệm chung nhất về đầu tư trực tiếp nhằm phân biệt với các khoản
kinh tế khác nhận được từ bên ngoài: “Đầu tư nước ngoài là sự vận động tư bản từ
nước người đầu tư sang nước người sử dụng đầu tư với mục đích thành lập ở đây
một xí nghiệp sản xuất hay dịch vụ nào đó”.
Như vậy thì việc đầu tư vào một nước nhất thiết phải gắn liền với việc thành
lập một xí nghiệp hay một cơ sở sản xuất, dịch vụ tại nước đó .Điều này đã loại trừ
một số hình thức đầu tư khác mà không thành lập ra xí nghiệp hay cơ sở sản xuất
(như cho vay tiền của ngân hàng, tài trợ cho chương trình hay cho dự án…). Đây là
điểm hạn chế của khái niệm này so với yêu cầu hợp tác kinh tế trong thời đại hiện
nay.
Tại các nước tư bản phát triển, đầu tư nước ngoài là việc giao vật có giá trị kinh
tế sang nước khác nhằm thu đuợc lợi nhuận, bao gồm cả quyền cầm cố và quyền thu
hoa lợi, quyền tham gia các hội cổ phần, quyền đối với nhãn hiệu thương phẩm và
tên xí nghiệp. Như vậy, quan niệm về đầu tư nước ngoài ở đây rất rộng rãi, chỉ là quá
2
trình chuyển tiền vốn từ nước này sang nước khác với mục đích thu lợi nhuận, theo
nguyên tắc lợi nhuận thu được phải cao hơn lợi nhuận thu được trong nước và cao

hơn lãi suất gửi ngân hàng.
Để đưa ra một khái niệm hoàn hảo là một điều khó khăn nhưng ta hãy tạm hiểu
đầu tư nước ngoài một cách đơn giản .
Đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu
kinh tế –xã hội nhất định .
Về bản chất, đầu tư nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư bản , một hình
thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá . Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ sung
và hỗ trợ cho nhau, trong chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các
công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay , đặc biệt là các công ty đa quốc gia . Đối với
họ , việc buôn bán hàng hoá ở nước khác là một bước đi thăm dò thị trường , luật lệ ,
và cơ hội để đưa tới một quyết định đầu tư . Nó như một chiếc chìa khoá vàng mở
cửa cho lợi nhuận chảy vào túi của các nhà tư bản , khi họ được khai thác một
nguồn tài nguyên thường là cực kì phong phú , và xuất khẩu một khối lượng lớn máy
móc và trang thiết bị cho các nước đó. Còn đối với các nước sở tại, việc chấp nhận
đầu tư nước ngoài cũng là tạo một cơ hội mới cho mình trong việc phát triển nền
kinh tế . Đó là một điều kiện tốt để các nước này tận dụng tối đa nguồn vốn nước
ngoài , tiếp cận với công nghệ hiện đại , nâng cao trình độ lao động , phát triển được
một số ngành cơ sở . Bên cạnh đó cũng thu được một lợi nhuận đáng kể từ các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .
Cùng với hoạt động thương mại quốc tế , hoạt động đầu tư nước ngoài đang
ngày càng phát triển mạnh mẽ , hợp thành những dòng chính trong trào lưu có tính
quy luật trong liên kết , hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay .
Căn cứ vào tính chất sử dụng của tư bản thì đầu tư nước ngoài thường được
chia làm hai hình thức là : đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp .
Đầu tư trực tiếp nước ngoài :là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước
ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ cho phép họ
trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư .
3
Đầu tư gián tiếp :bao gồm hình thức đầu tư nước ngoài mà trong đó phần vốn

góp của chủ đầu tư nước ngoài không đủ để trực tiếp tham gia điều hành đối tượng
mà họ bỏ vốn đầu tư , hình thức tín dụng , hay mua trái phiếu quốc tế …..
Các nước đang phát triển lại sử dụng khái niệm đầu tư nước ngoài chỉ với nội
dung là đầu tư trực tiếp ,như việc đưa bất động sản, vốn, thiết bị vào xây dựng, mở
rộng sản xuất, kinh doanh. Điều này đã loại trừ hình thức đầu tư gián tiếp. Đối với
các nước này, đầu tư trực tiếp đem lại cho họ nguồn vốn, kỹ thuật hiện đại thay thế
cho kỹ thuật lạc hậu hiện có, nâng cao mức sống và tăng thu nhập quốc dân. Với
đầu tư gián tiếp , họ cũng tiếp nhận được vốn .Nhưng một phần vì không có những
kế hoạch sử dụng vốn có hiệu quả , bên cạnh đó là khả năng quản lí kém và trình độ
sản xuất kinh doanh lạc hậu. Nên khả năng thành công , và thu được lợi nhuận từ
nguồn vốn này không cao. Do đó ,việc tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài là phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của các nước đang phát triển.
Chính sách này đã và đang là hình thức phổ biến trong chính sách “mở cửa nền kinh
tế” của nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Trong pháp luật Việt Nam
Theo Điều lệ đầu tư năm 1977, ban hành kèm theo Nghị định 115/CP ngày
18/04/1977 thì khái niệm đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được hiểu là “việc đưa cở
sở mới hoặc đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, mở rộng các cơ sở hiện có:
* Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ.
* Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh phương
pháp cộng nghệ, bí quyết kỹ thuật
* Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ.
* Vốn bằng ngoại tệ để chi trả lương cho nhân viên và công nhân
làm việc tại các cơ sở hoặc tiến hành những dịch vụ theo quy định ở những điều của
Điều lệ này (Điều 2 Điều lệ đầu tư 1977).
Như vậy, theo Điều lệ này thì sự vận động của vốn và tài sản chỉ được coi
là đầu tư nước ngoài ở Việt Nam nếu có đủ hai điều kiện sau:
4
+ Đưa vào sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn được quy định tại điều
2 của Điều lệ.

+ Nhằm mục đích xây dựng cơ sở mới hoặc đổi mới trang bị kỹ thuật, các
cơ sở hiện có.
- Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài là
“việc các tổ chức, các cá nhân nước trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước
ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh
doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100%
vốn nước ngoài theo quy định của luật này”.
-Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài là
“việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ
tài sản nào để tiến hành các hoạt ddộng đầu tư theo quy định của luật này”.
Như vậy, theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khái niệm đầu tư nước
ngoài được hiểu như sau:
+ Là hình thức đầu tư trực tiếp.
+ Là việc bên ngoài (nước đầu tư) trực tiếp đưa vốn và tài sản khác vào
đầu tư tại Việt Nam.
- Khái niệm về đầu tư nước ngoài theo luật đầu tư nước ngoài năm 1987 sau
đó là luật năm 1996 đã phát triển hơn nhiều so với phạm vi nội dung khái niệm đầu
tư nước ngoài được quy định ở điều lệ đầu tư 1977 khi cho phép các nhà đầu tư nước
ngoài “được đầu tư trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân” (Điều 3 luật đầu tư
nước ngoài 1987, 1996).
=>Tóm lại, từ quy định đầu tư nước ngoài là việc đưa vốn và tài sản nhất
định vào Việt Nam đến quy định về đối tượng được đầu tư và quy định về hình thức
đầu tư, thể hiện chủ trương của Nhà nước Việt Nam là mở rộng và thu hút vốn đầu
tư của nhiều nước trên thế giới, làm đòn bẩy mạnh mẽ để đưa nước ta phát triển
ngang tầm với sự phát triển chung của toàn thế giơí.
5
Để hiểu thêm điều này chúng ta sẽ tìm hiểu sau với vấn đề thực tiễn ở Việt
Nam trong 17 năm thực hiện chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài.Còn bây giờ
chúng ta hãy xem tại sao các nước tư bản phát triển lại cũng rất ưa chuộng hình thức
này . Động cơ của họ phải chăng chỉ vì lợi nhuận ???

1.2 Động cơ để đầu tư trực tiếp nước ngoài
Động cơ chung nhất của các chủ đầu tư nước ngoài là tìm kiếm thị trường đầu
tư hấp dẫn, thuận lợi và an toàn nhằm thu được một lợi nhuận cao và lâu dài .
Tuy nhiên động cơ cụ thể của từng nhà đầu tư trong từng dự án lại rất khác
nhau , tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp và mục tiêu của nó trên
thị trường nước ngoài . Nhưng tựu chung lại có thể đưa ra 3 động cơ sau đây ;
Đầu tư định hướng thị trường : là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm của công ty mẹ sang công ty con ở các nước sở tại . Đây cũng là
chiến lược bành trướng thị trường của các công ty đa quốc gia để vượt qua hàng rào
bảo hộ của các nước sở tại và kéo dài tuổi thọ các sản phẩm của các doanh nghiệp.
Đầu tư định hướng chi phí : là hình thức đầu tư ở nước ngoài nhằm giảm chi phí
sản xuất thông qua việc tận dụng nguồn tài nguyên và nhân công rẻ ở đây nhằm tăng
sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường , nâng cao tỉ suất lợi nhuận .
Đầu tư định hướng nguồn nguyên liệu : là hình thức đầu tư theo chiều dọc . Các
cơ sở đầu tư ở nước ngoài là một bộ phận cấu thành trong dây chuyền sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp , có trách nhiệm khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ của
nước sở tại để cung cấp cho công ty mẹ tiếp tục hoàn chỉnh sản phẩm .
1.3 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ( theo luật đầu tư nước ngoài
của Việt Nam )
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài : là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước
ngoài bỏ 100% vốn tại nước sở tại , và có quyền điều hành toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp theo quy định , pháp luật của nước sở tại .
Doanh nghiệp liên doanh : là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư
nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên
doanh . Các bên tham gia điều hành doanh nghiệp , chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo
6
tỉ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn điều lệ. Phần góp vốn của bên nước ngoài không
được ít hơn 30% vốn pháp định .
Hình thức hợp đồng , hợp tác kinh doanh : đây là một văn bản được kí kết giữa
một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước để tiến hành một hay nhiều

hoạt động kinh doanh ở nước chủ nhà trên cở sở quy định về trách nhiệm để thực
hiện hợp đồng và xác định quyền lợi của mỗi bên , nhưng không hình thành một
pháp nhân mới .
Các hình thức khác : ngoài các hình thức kể trên ở các nước và ở Việt Nam còn
có các hình thức khác như : hợp đồng xây dựng –kinh doanh –chuyển giao (BOT) ,
hợp đồng xây dựng –chuyển giao –kinh doanh ( BTO), hợp đồng xây dựng –chuyển
giao (BT) nhằm khuyến khích thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài .
1.4. Vị trí và ý nghĩa của đầu tư trực tiếp nước ngoài
a, Vị trí
- Đầu tư nước ngoài có một vị trí vô cùng quan trọng . Nó thúc đẩynền
kinh tế phát triển nhanh và toàn diện hơn .
- Đầu tư nước ngoài làm tăng khả năng về vốn, kinh nghiệm quản lý cho
nước nhận đầu tư.
- Là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để đưa nước nhận đầu rút
ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư nước ngoài là một yếu tố cần thiết và
quan trọng để có thể đưa nền kinh tế bắt kịp với thế giới .
b, ý nghĩa
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có rất nhiều ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế
của một nước.
- Tạo thu nhập cho nước nhận đầu tư.
- Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp và tạo ra công
ăn việc làm cho người lao động .
7
1.5. Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài là tổng hoà các yếu tố đối nội, đối
ngoại, chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hoá và xã hội... có liên quan đến hoạt
động của các nhà đầu tư. Một môi trường được coi là hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài phải đảm bảo các yếu tố cơ bản sau:
1.5.1..Sự ổn định về chính trị-xã hội.

+ Yếu tố này giữ vai trò quyết định đối với hoạt động của các nhà
đầu tư. Vì chính trị có ổn định, xã hội có trật tự, kỷ cương thì các chính sách, chủ
trương của Nhà nước mới có giá trị thực thi bền vững, đặc biệt là các chủ trương
chính sách nhất quán về đầu tư nước ngoài .
+ Các quốc gia luôn xảy ra những biến động về chính trị thì rất khó thu
hút các dự án đầu tư hoặc các nhà đầu tư sẽ thu hẹp lại phạm vi hoạt động, chuyển
vốn về nước hoặc sang nước khác có chính trị ổn định hơn .
+ ở Việt Nam, giai đoạn đầu những năm 80 các nhà đầu tư còn chưa
mặn mà. Chỉ đến khi Đảng và Nhà nước ta có những thay đổi căn bản trong chính
sách ,có một Bộ luật đầu tư nước ngoài hoàn chỉnh hơn và đặc biệt là tình hình
chính trị-xã hội ở đất nước ta đã ổn định nên đã thu hút một lượng vốn đầu tư nước
ngoài đáng kể (khoảng 37 tỷ USD) như ngày nay.
1.5.2. Sự phát triển về kinh tế.
+ Phát triển kinh tế được hiểu là sự phát triển đồng bộ trên các mặt:
tăng trưởng kinh tế, thu nhập GDP tính trên đầu người, kim ngạch xuất nhập khẩu,
hệ thống giao thông, bưu chính viễn thông, dịch vụ các loại.
+ ở nước ta,do sự phát triển kinh tế chưa đồng bộ nên chưa tạo ra một
môi trường đầu tư hấp dẫn :
* Hệ thống giao thông tuy có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn lộn xộn,
chồng chéo .
8
* Hệ thống bưu chính viễn thông trong những năm qua đã có nhiều
tiến bộ vượt bặc nhưng giá cước phí vẫn đắt đỏ.
* Hệ thống ngân hàng và các hoạt động dịch vụ khác còn nhiều bất
cập, chưa thuận lợi đối với các nhà đầu tư.
* Phân bố của các dự án đầu tư không đồng đều . Nhìn vào phân bố địa
bàn đầu tư ở nước ta, ta nhận ra rằng chỉ ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp.HCM,
Hải Phòng. Bà Rịa Vũng Tàu mới có nhiều dự án. Còn ở các tỉnh miền núi, vùng
sâu, vùng xa như Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Ban Mê Thuật, Đắc Lắc, Kiên Giang,
An Giang... có rất ít thậm chí không có dự án đầu tư vì cơ sở hạ tầng yếu kém. Các

nhà đầu tư không dám đầu tư vì khả năng rủi ro quá cao .
1.5.3. Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài phải rõ ràng, ổn định
+ Đây là một yếu tố mà các nhà đầu tư rất quan tâm , vì nó đảm bảo
quyền lợi trực tiếp của họ .
+ Hệ thống pháp luật về đầu tư ở đây được hiểu là Luật quốc gia của
nước sở tại điều chỉnh hoạt động đầu tư như : Luật đầu tư, các Luật khác có liên
quan đến hoạt động đầu tư, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành
Luật.
+ Nội dung các quy định của hệ thống pháp luật kể trên phải đảm bảo
hai vấn đề quan trọng là :
* Các quy định về ưu đãi, khuyến khích đầu tư như : ưu đãi về miễn
thuế, giảm thuế, quyền hoạt động kinh doanh .
* Các quy định về đảm bảo đầu tư (bảo đảm tài sản, lợi ích hợp pháp
của các nhà đầu tư, bảo đảm những thiệt hại do có sự thay đổi về luật...).
Ngoài ra, hệ thống pháp luật (quốc gia và quốc tế) về đầu tư nước ngoài phải
đảm bảo tính đồng bộ, tính minh bạch.
+ Nước ta mặc dù hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài khá đầy
đủ nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành luật lại vô cùng rắc rối, thậm chí còn
mâu thuẫn với nhau , gây khó khăn cho các đối tác nước ngoài . Ngoài ra, các thủ
9
tục hành chính rườm rà, sách nhiễu đã gây phản cảm cho các nhà đầu tư nước
ngoài. Dẫn đến tác hại không nhỏ đối với môi trường đầu tư, làm nản lòng các
nhà đầu tư. Đó là một yếu tố cần loại bỏ đầu tiên trong quá trình xây dựng một
môi trường đầu tư hấp dẫn hơn trong giai đoạn mở cửa của nền kinh tế nước ta.
Ngoài các yếu tố kể trên của môi tường đầu tư còn phải kể đến một số
yếu tố khác như văn hoá, du lịch... có tính chất bổ trợ cho môi trường đầu tư hấp dẫn
với các nhà đầu tư.trực tiếp
Để có được môi trường hấp dẫn, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải
tiếp tục cải thiện các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư đồng thời phải đặc biệt
chú ý cải thiện môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh, tiến tới áp dụng một

mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho tất cả các nhà đầu tư nước ngoài.
2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế
Đầu tư quốc tế (FDI) là yêu cầu tất yếu của quá trình toàn cầu hóa đang
diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Với những đặc điểm của mình, FDI đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế đối với cả nước nhập khẩu đầu tư và nước xuất khẩu đầu tư,
thúc đẩy các nước này gia tăng liên kết, nhằm duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế của
nước mình.
FDI có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của bất cứ một quốc
gia nào trên thế giới .FDI đã đem lại một hơi thở mới cho nền kinh tế thế giới . Mở
cửa cho sự toàn cầu hóa lan rộng khắp thế giới . Ta có thể thống kê lại được những
vai trò chính của FDI như sau :
a, Đối với các nước xuất khẩu đầu tư
Đối với các nhà đầu tư nó không chỉ đem lại cho họ một thị trường rộng
lớn , một tỉ suất lợi nhuận cao, một khoản lợi nhuận khổng lồ .Mặt khác , bằng cách
đầu tư về kinh tế một phần họ đã có ảnh hưởng lớn tới mọi mặt của nước được đầu
tư, tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng trên thế giới . Phần lớn
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các nước, thực chất là một chi nhánh
của các công ty mẹ ở chính quốc . Việc lập các doanh nghiệp ở nước sở tại sẽ mở
10
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm , đồng thời cũng là biện pháp thâm nhập thị trường
hữu hiệu , tránh được các hàng rào thuế quan của các nước này .
Mặt khác, FDI còn giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất , bởi tận
dụng được những lợi thế so sánh của nước sở tại như : nguồn tài nguyên thường
phong phú, nguồn nhân công rẻ, bên cạnh đó còn tiết kiệm được chi phí vận chuyển ,
quảng cáo, tiếp thị… . Do đó rút ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư và thu được lợi
nhuận cao .
FDI còn giúp chủ đầu tư tìm được nguồn cung nguyên vật liệu ổn định .
Ngoài ra, FDI còn giúp các chủ đầu tư đổi mới cơ cấu sản xuất , áp dụng công
nghệ mới , nâng cao năng lực cạnh tranh .
b,Đối với các nước tiếp nhận đầu tư

Còn đối với các nước được đầu tư , uỷ ban thương mại và phát triển của liên
hợp quốc ( UNCTAD ) đã chỉ ra rằng FDI có vai trò quan trọng đối với quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước này ,giúp huy động mọi nguồn lực
như vốn , lao động , tài nguyên thiên nhiên và công nghệ vào trong quá trình sản
xuất . Hoạt động FDI đã góp phần nâng cao năng lực sản xuất, năng suất lao động
, làm tăng tổng sản phẩm quốc dân , nâng cao phúc lợi xã hội , tăng thu nhập của
người lao động ; ảnh hưởng đến văn hoá , đạo đức , lối sống… của nước tiếp nhận
đầu tư .
Việt Nam chúng ta là một nước tiếp nhận đầu tư . Và chúng ta rất kì
vọng vào nguồn vốn này . Do đó chúng ta sẽ nghiên cứu kĩ về những vai trò của
FDI trong sự phát triển của nền kinh tế nước ta .
2.1. FDI bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế và cải thiện cán cân thanh
toán .
Chúng ta thường nói “đôi tay ta sẽ làm nên tất cả”. Nhưng thực sự thì .... Trong
xã hội ngày nay để làm kinh tế trước tiên chúng ta phải có vốn . Nếu có thể ví nền
kinh tế là một cỗ máy , thì có thể nói vật tư kĩ thuật tạo nên cỗ máy đó là tài nguyên
mà có thể chúng ta có , con người với tri thức công nghệ sẽ làm cho nền kinh tế ấy
11
tạo ra sản phẩm. Nhưng vốn mới chính là dầu bôi trơn cho toàn bộ quá trình sản xuất
. Không có vốn chúng ta sẽ chỉ sản xuất được ở một giới hạn nào đó mà thôi .
Vốn là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng của mọi quá trình sản
xuất. Chúng ta biết rằng,vốn đầu tư cho quá trình phát triển kinh tế thường được
huy động từ hai nguồn là vốn trong và ngoài nước.Vốn trong nước thường được
huy động từ trong dân, từ quá trình phát triển kinh tế nội tại .Vốn nước ngoài đến
từ các khoản đầu tư trực tiếp ( FDI ) hay viện trợ (ODA),và các khỏan chuyển
giao khác ..... Đối với các nước nghèo và các nước đang phát triển , những nước
có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế còn lạc hậu và gặp nhiều khó khăn , thì vốn là
một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế . Thế nhưng các nước
này lại luôn lâm vào tình trạng thiếu vốn , họ luôn phải đối mặt với những khó
khăn do thiếu hụt vốn gây ra.

Khi nghiên cứu nền kinh tế của các nước đang và kém phát
triển,Paul.A.samuelson đã ví hoạt động sản xuất và đầu tư của những nước này là
một vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói .
Ông chỉ ra rằng , ở các nước này thu nhập của người dân thấp làm cho tiết kiệm
và đầu tư thấp , do đầu tư thấp nên trình độ khoa học công nghệ thấp , dẫn đến năng
suất lao động thấp , kết quả là sản lượng và thu nhập thấp … Cái “ Vòng luẩn quẩn “
ấy cứ lặp đi lặp lại theo chu kì như trên . Như vậy các nước này muốn phát triển cần
phải có một cú huých từ bên ngoài để phá vỡ đi cái vòng luẩn quẩn . Hoạt động FDI
đã cung cấp cho các nước kém và đang phát triển một nguồn vốn lớn. Nhờ đó họ có
thể huy động mọi nguồn lực vào đầu tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh. làm
tăng tổng thu nhập quốc dân , thu nhập người dân được cải thiện , mức sống ngày
càng được nâng cao .Vậy ta có thể xem FDI là một cú huých lớn phá vỡ cái vòng
nghèo đói trên .
Không những làm cho nền kinh tế rơi vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói, các
nước đang và kém phát triển còn gặp không ít khó khăn trong việc mở rộng quy mô
sản xuất hay đổi mới công nghệ , nâng cao năng suất lao động do trong nước không
có đủ lượng vốn cần thiết. Lượng hàng hoá trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu
dẫn đến tình trạng nhập siêu, gây ra tình trạng mất cân đối trong xuất nhập khẩu ,
cán cân thanh toán thường xuyên bị thâm hụt , thiếu dự trữ ngoại tệ … Vì vậy FDI
12
sẽ thúc đẩy xuất , nhập khẩu và làm tăng thu ngoại tệ , cải thiện tình trạng thâm hụt
cán cân thanh toán
Trong khoảng ba thập kỉ gần đây, các nước công nghiệp mới ( NIC ) Châu á đã
nhận được trên 50 tỷ USD vốn FDI , đây là một nhân tố quan trọng tạo nên bước
phát triển vượt bậc của các nước này, để từng bước khẳng định vị thế của mình trên
trường thế giới .
Tại những nước đang phát triển, một phần vốn lớn đang nằm trong dân. Đây là
một hạn chế lớn khi để một lượng lớn vốn “chết”trong khi rất nhiều doanh nghiệp
đang trong tình trạng thiếu vốn. Hoạt động FDI tạo động lực huy động được nguồn
vốn này đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua hoạt động này các nước cũng

tiếp thu được cách quản lý mới và sử dụng hiệu quả nguồn vốn của mình .
2.2 . FDI góp phần vào quá trình phát triển công nghệ
Công nghệ có một vai trò rất quan trọng đối với quá trình sản xuất. Công nghệ
tiên tiến tạo nên bước nhảy cho sản phẩm, nâng cao chất lượng, giảm giá thành, điều
này kích thích tiêu dùng dẫn đến kích thích sản xuất và tăng tổng thu (GDP) của nền
kinh tế quốc dân .Tuy vậy các nước đang phát triển và kém phát triển lại thường sở
hữu một nền công nghệ lạc hậu, trang thiết bị tồi tàn, năng suất thấp , bên cạnh đó
khả năng quản lý kém nên khả năng sản xuất cũng có nhiều hạn chế. Việc đổi mới
cải tiến công nghệ là một yêu cầu cấp bách. Dựa trên lợi thế của những nước đi sau,
ứng dụng những công nghệ hiện đại , nó sẽ giúp những nước này theo kịp tốc độ
tăng trưởng kinh tế ở những nước công nghệ phát triển. Tuy nhiên việc nhập khẩu
công nghệ hiện đại của nước ngoài đòi hỏi một khoản ngoại tệ rất lớn , gần như hầu
hết các nước không đủ khả năng chi trả . Thông qua FDI bằng con đường chuyển
giao công nghệ , các nước đang phát triển đã được tiếp cận với những kĩ thuật hiện
đại và từng bước đổi mới nền sản xuất của mình.
-Đối với chuyển giao công nghệ : Việc chuyển giao công nghệ ngày nay đã có
nhiều thay đổi , nó không chỉ đơn thuần là chuyển giao các may móc thiết bị từ nước
phát triển sang các nước đang và kếm phát triển , mà nó còn là chuyển giao liên
quan đến việc sử dụng dây chuyền công nghệ , kỹ năng sử dụng công nghệ , phần
mềm công nghệ . Chuyển giao công nghệ được tiến hành theo hai phương thức . Đó
là chuyển giao trực tiếp và chuyển giao gián tiếp .
13
+ Chuyển giao trực tiếp là hoạt động đặt mua công nghệ hoặc yêu cầu
nước có công nghệ chuyển giao . Đây là hình thức chuyển giao mà bên nhận phải bỏ
chi phí lớn và thời gian tiếp nhận cao .
+Chuyển giao gián tiếp là hiện tượng chuyển giao chủ yếu được thực hiện
thông qua hình thức FDI . Công nghệ được các công ty đa quốc gia chuyển giao trực
tiếp phần cứng và phần mềm từ nước gốc đến nước tiếp nhận đầu tư . Sau khi
chuyển giao công nghệ trực tiếp được các chuyên gia kỹ thuật lành nghề của nước đi
đầu tư đưa vào hoạt động mà không gặp bất kì trở ngại nào .Công nghệ được chuyển

giao theo hình thức này được mang danh nghĩa là chuyển giao giữa công ty mẹ sang
công ty con nên sẽ không phải trả chi phí cho quyền sở hữu công nghệ và nó sẽ rẻ
hơn rất nhiều so với chuyển giao trực tiếp . Đây là ưu điểm lớn nhât của chuyển giao
công nghệ trong hoạt động FDI so với các hình thức chuyển giao công nghệ khác
.Nhìn chung FDI đã trở thành một kênh chuyển giao công nghệ có hiệu quả nhất,
nhanh nhất và tiết kiệm chi phí nhất . Chuyển giao công nghệ qua FDI đã làm cho
“khoảng cách công nghệ “ giữa nước đi đầu tư và nước tiếp nhân đầu tư được thu
hẹp .
-Đối với hoạt động phổ biến công nghệ : Hoạt động FDI đã tạo ra hiệu ứng tích
cực đối với các doanh nghiệp của nước tiếp nhận đầu tư .
Khi có FDI, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải cạnh tranh trên thị trường với
một đối thủ mạnh sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước cải thiện và nâng cao
công nghệ để việc sản xuất có hiệu quả cao . Khi nhà đầu tư nước ngoài hợp tác với
các chi nhánh hoăc doanh nghiệp nước tiếp nhận đầu tư hoặc có sự di chuyển lao
động có trình độ chuyên môn cao từ chi nhánh công ty nước đầu tư sang doanh
nghiệp nước nhận đầu tư thì cũng có quá trình chuyển giao công nghệ .
2.3. FDI góp phần nâng cao chất lượng lao đông phat triển nguồn nhân lực , tạo
thêm việc làm , giảm thất nghiệp .
Chúng ta biết rằng năng suất lao động quyết định tốc độ tăng trưởng của một
quốc gia. Mà năng suất lao động lại phụ thuộc vào chất lượng lao động , trình độ tay
nghề. Do vậy, để nâng cao tốc độ tăng trưởng, để phát triển được nền kinh tế , trước
hết ta cần nâng cao năng suất lao động , nâng cao chất lượng lao động .Hoạt động
14
này không phải có thể thực hiện trong một sớm một chiều mà là cả một quá trình
đào tạo . Khi có hoạt động FDI , người lao động của chúng ta được tiếp xúc với một
tri thức mới, một cung cách làm việc mới đã dần dần nâng cao được trình độ của
mình .
Các chi nhánh nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn FDI thường tuyển dụng
lao động địa phương để tiết kiệm chi phí sản xuất do đó đã tạo thêm nhiều việc làm
tạo điều kiện cho lao động tìm được những việc làm phù hợp với trình độ và năng

lực, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo thu nhập cho người lao động, nâng cao
mức sống.
Tuy nhiên, hầu hết các lao động địa phương làm việc trong các doanh nghiệp
FDI đều là các lao động thời vụ, có trình độ tay nghề và chuyên môn thấp do không
được đào tạo một cách chuyên nghiệp. Do đó các doanh nghiệp FDI muốn sử dụng
lực lượng lao động này cần phải đào tạo. Qua quá trình đào tạo người lao động được
tiếp cận với những công nghệ hiện đại và tác phong làm việc công nghiệp dần dần
tạo cho họ một chất lượng tốt hơn. Mặt khác, ngoài đào tạo những lao động kỹ thuật
thông thường, các doanh nghiệp FDI còn đào tạo cho chúng ta một lực lượng các
nhà quản lý.
Ví dụ như công ty dầu lửa Shell của Anh ( UK ) với doanh thu là 600 triệu USD
/ 1 năm đã bỏ ra 1,2 triệu USD dành cho việc đào tạo nghề và 2,5 triệu USD dành
cho đào tạo cơ bản tại Nigeria .
Ngoài ra việc đầu tư trực tiếp cũng gián tiếp nâng cao chất lượng lao động của
nước tiếp nhận đầu tư . Ngày nay chất lượng và trình độ lao động của nước nhận đầu
tư là một trong những tiêu chí quan trọng để các công ty đa quốc gia tiến hành hoạt
động đầu tư ở các nước này . Bởi vì , khi ở nước đó có trình độ chuyên môn cao họ
không phải tốn chi phí cho việc đào tạo lao động . Chính điều này là động lực thúc
đẩy các nước tiếp nhận đầu tư có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực để thu hút được
nhiều vốn FDI .
2.4 FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư
15
Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là cấu trúc của nền kinh tế hay nói cách khác là
tổng thể các mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố cấu thành nền kinh tế . Một cơ cấu
kinh tế hợp lý sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển .
Hoạt động FDI qua công nghệ , kĩ năng và trình độ đã có tác động đến cơ cấu
ngành kinh tế - một trong ba yếu tố cơ bản cấu thành nên cơ cấu kinh tế dẫn đến việc
thay đổi và dịch chuyển cơ bản cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Thực tế
cho thấy , hoạt động FDI chủ yếu đầu tư vào sản xuất công nghiệp và dịch vụ, tỉ lệ
đầu tư tương đối thấp trong ngành sản xuất nông nghiệp. Chính điều này đã làm thay

đổi cơ cấu ngành của nước tiếp nhận đầu tư theo hướng công nghiệp hoá và đưa nền
kinh tế các nước này tham gia vào phân công lao động quốc tế một cách mạnh mẽ .
Hoạt động FDI tập chung vào các ngành quan trọng của nền kinh tế chẳng hạn như
các lĩnh vực : Công nghiệp chế tạo , công nghiệp lắp ráp ,… có trình độ công nghệ
tương đối cao . khi tỉ trọng ngành công nghiệp ổn định trong nền kinh tế đã phát
triển lên thì các nước này có thể tham gia vào việc phân công lao động quốc tế thông
qua việc chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng có lợi thế so sánh đối với các
nước khác .
2.5. FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu .
FDI đã tham gia vào quá trình xây dựng năng lực xuất khẩu với nguồn vốn và
công nghệ mà FDI mang lại cùng đội ngũ lao động được đào tạo bài bản , chuyên
môn cao , năng suất lao động được cải thiện rõ rệt ; nhiều sản phẩm mới , mẫu mã
đẹp , chất lượng cao ngày càng đáp ứng được nhu cầu . Điều này làm cho hàng hoá
ở các nước được đầu tư trở nên đa dạng và phong phú cả về chất lượng và số lượng ,
năng lực xuất khẩu tăng lên .
FDI mở rộng thị trường xuất khẩu đối với các nước tiếp nhận đầu tư thông qua
các chi nhánh của các công ty nước ngoài hoặc các công ty đa quốc gia . Các doanh
nghiệp FDI có lợi thế xuất khẩu hơn so với doanh nghiệp trong níc về thị trường ,
thương hiệu sản phẩm . Thông qua hệ thống công ty mẹ và công ty con của các công
ty đa quốc gia , sản phẩm được xuất khẩu thuận lợi từ công ty này sang công ty khác
ở các quốc gia khác nhau . Những công ty đa quốc gia này có mối liên hệ chặt chẽ
với thị trường nước nhập khẩu và có nhiều thị trường xuất khẩu thông qua quảng cáo
16

×