Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

quy chế thị trường và điều tra chống bán phá giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.34 KB, 49 trang )




Đề tài:
 
!"###
$% &'()*+, /+,01203
*4.5*6+,7$+8-9+&:;:<7=+8+,:=+
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI NÓI ĐẦU 2
>?
Thương mại quốc tế không phải là một cuộc chơi công bằng như những gì chúng
ta nhìn thấy, ở đó, quyền lợi của những quốc gia giàu có, quyền lực, luôn được đề cao và
bảo vệ, và những quốc gia thuộc thế giới thứ ba, đang phát triển chính là những đối
tượng phải chấp nhận những quy luật có sẵn, dù không phải bao giờ họ cũng được
hưởng lợi ích từ quy tắc cuộc chơi mang lại. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi mặt
hàng cá tra, cá ba sa của Việt Nam bị chính phủ Mỹ áp thuế chống bán phá giá gần 10
năm trời, và hiện nay vẫn chưa có động thái khả quan nào cho việc gỡ bỏ, dù cho Việt
Nam đã là thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này cho thấy rằng,
chúng ta vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ khi gia nhập thương mại quốc tế. Có thể thấy để
thoát khỏi tình trạng khó khăn cho Việt Nam trước nền kinh tế hội nhập chỉ có một con
đường là minh bạch hóa hoạt động kinh doanh và áp dụng nền kinh tế thị trường. Trong
đó, mối liên hệ giữa cớ chế phi thị trường và điều tra chống bán phá giá là vấn đề cần
được xem xét để tránh những hậu quả như vụ kiện cá da trơn, giày da, gạo, tôm…
Vậy thế nào là cơ chế thị trường, thế nào là là phi thị trường, tại sao phải áp dụng
cơ chế thị trường và tiến tới xóa bỏ cơ chế phi thị trường, điều tra bán phá giá có liên
quan gì đến quốc gia không được công nhận có nền kinh tế thị trường…Thực tiễn cho
thấy trong tất cả các vụ kiện bán phá giá mà ta đối mặt, điểm yếu lớn nhất dẫn đến sự
thua thiệt chính là cơ quan điều tra không tin tưởng những số liệu mà các doanh nghiệp
ta cung cấp, vì nước ta không được công nhận có nền kinh tế thị trường. Ta có thống kê


sơ bộ sau: tính đến tháng 3/2006 chúng ta đã phải đối phó với 21 vụ kiện chống bán phá
2
giá, trong đó có 13 vụ Việt Nam phải chịu thuế chống bán phá giá. EU là nước khởi kiện
Việt Nam nhiều nhất (8 vụ) với mức thuế cao nhất lên đến 93% đối với mặt hàng Oxyde
kẽm. Trong phạm vi bài tiểu luận, chúng ta sẽ đi phân tích kỹ các ưu điểm của việc vận
dụng quy chế thị trường vào xuất khẩu, các biện pháp chống lại những cáo buộc phi lí
mà tòa án nước nhập khẩu gán cho các DN xuất khẩu, đặc biệt là việc suy ngẫm về các
bản án về bán phá giá mà Việt Nam là bị đơn. Bài học rút ra được từ những kinh nghiệm
quí báu này chính là hành trang không thể thiếu cho việc tiếp tục hội nhập trong tương
lai.
3; @)AB+C)D,4*E'4)5FE'GH,I+F+D*+,)I%,*),J)K7L+85MN*F')K/H,B+8
O4+%,48*4
3;3; 'GH,I+F+D*+,)I%,*),J)K7L+8
3;3;3; J+,+8,P/+F+D*+,)I%,*),J)K7L+8
Bắt nguồn từ Hiệp định thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô
Viết năm 1935, khái niệm về Nền kinh tế phi thị trường đã bắt đầu xuất hiện. Sau thế
chiến thứ hai, xuất hiện thêm thuật ngữ “các quốc gia thương mại nhà nước”, đây là tên
gọi chung chon các quốc gia mà ở đó Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong hoạt động
ngoại thương, chủ yếu là ở các nước Đông Âu. Hiện tượng nhà nước độc quyền tuyệt
đối trong hoạt động giao dịch ngoại thương đã làm cho các nhà kinh tế học cũng như
chính trị gia chuyển sang nghiên cứu một đặc tính mới của hệ thống kinh tế phi thị
trường, có tên là hệ thống kế hoạch hóa tập trung. Theo đó, đã xuất hiện thuật ngữ “nền
kinh tế kế hoạch tập trung”, thuật ngữ này đã thay thế “nền kinh tế nhà nước kinh
doanh”. Trong Luật Hải quan Hoa Kỳ năm 1973, thuật ngữ “quốc gia nền kinh tế tập
trung” lần đầu tiên đã xuất hiện. Cùng thời kỳ đó, thuật ngữ “Nhà nước Xã hội chủ
nghĩa” đã được đề cập trên thế giới. Với sự bắt đầu cải cách thị trường trong hầu hết các
nền kinh tế kế hoạch tập trung vào những năm 1980 và đầu 1990, hiện tượng này đã trở
thành phổ biến và được gọi là “quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường”
(Transaction to a market economy). Tuy nhiên, cùng với sự xác định khái niệm “các
quốc gia đang trong thời kỳ chuyển đổi” (transaction countries) thì thuật ngữ nền kinh tế

phi thị trường cũng được sử dụng lại.
Như vậy, Nền kinh tế phi thị trường được hình thành như một điều tất yếu trong sự
vận động và phát triển của kinh tế xã hội từ những năm đầu thế kỷ XX, nhằm xác định
ra các quốc gia có nền kinh tế chịu sự quản lý và can thiệp sâu của Nhà nước. Cơ quan
3
phát triển thương mại Liên Hiệp Quốc (UNCTAD)
1
đã đưa ra khái niệm để xác định
Nền kinh tế phi thị trường và Nền kinh tế thị trường như sau
2
:
Một quốc gia được coi là có nền kinh tế thị trường khi nền kinh tế đó phải
dựa chủ yếu vào lực lượng thị trường để xác định mức độ của sản xuất, tiêu dùng, đầu tư
và tiết kiệm mà không có sự can thiệp của Chính phủ.
Một quốc gia có nền kinh tế phi thị trường khi đó là thị trường mà Chính
phủ tìm mọi cách để quản lý các hoạt động kinh tế một cách rộng lớn thông qua cơ chế
quản lý tập trung, chẳng hạn như các nước Xã hội Chủ nghĩa trước đây, trái ngược với
nền kinh tế thị trường là phụ thuộc vào lực lượng thị trường để phân bổ nguồn lực sản
xuất. Trong nền kinh tế phi thị trường, mục tiêu sản xuất, giá cả, phân bổ đầu tư, nguyên
liệu thô, lao động, thương mại quốc tế và hầu hết các tổ hợp kinh tế khác được điều
chỉnh bởi nền kinh tế kế hoạch được lập ra bởi cơ quan kinh tế kế hoạch tập trung; do
vậy, khu vực công đưa ra các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến cung và cầu trong
nền kinh tế quốc dân.
Cơ quan phát triển thương mại Liên Hiệp Quốc cũng đã sử dụng thuật ngữ “các
quốc gia thương mại nhà nước” và “nhóm D”
3
để phân biệt một nền kinh tế phi thị
trường với nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, ngày nay ít có quốc gia nào có hệ thống kế
hoạch tập trung hoàn toàn, mà có một số đặc điểm để nó được định hướng là một nền
kinh tế chuyển đổi. Ngoài Cơ quan phát triển thương mại Liên Hiệp Quốc, cũng có

nhiều quốc gia đưa ra quy định để xác định một quốc gia có nền kinh tế phi thị trường
nhằm mục đích có biện pháp thích hợp để điều chỉnh trong quan hệ ngoại thương với
các quốc gia đối tác. Đơn cử như Hoa Kỳ, với sự phát triển và sức mạnh của mình trong
nền kinh tế hiện đại ngày nay, Hoa Kỳ là một quốc gia có thế lực và tầm ảnh hưởng lớn
đến hoạt động ngoại thương của nhiều nước trên thế giới. Trong Luật Thương mại 1974
của Hoa Kỳ có điều khoản điều chỉnh về thuế chống bán phá giá với các quốc gia có nền
kinh tế phi thị trường, và sử dụng quốc gia thay thế (quốc gia có nền kinh tế thị trường
và điều kiện phát triển thương mại tương đương với quốc gia có nền kinh tế phi thị
trường đang bị xem xét) để quyết định về việc ấn định thuế chống bán phá giá đối với
1
United Nations Conference on Trade and Development – UNCTAD.
2
Dựa trên thuật ngữ hải quan của UNCTAD về Nền kinh tế thị trường (market economy - ME),
Nền kinh tế phi thị trường ( non – market economy - NME).
3
Gồm các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tham gia UNCTAD.
4
loại hàng hóa nhất định trong hoạt động giao thương của quốc gia có nền kinh tế phi thị
trường và Hoa Kỳ. Cụ thể, Luật Thương mại Hoa Kỳ 1974 định nghĩa về quốc gia có
nền kinh tế phi thị trường là quốc gia không hoạt động theo nguyên tắc thị trường của cơ
cấu giá và chi phí, vì thế doanh số bán hàng của hàng hóa trong quốc gia đó không phản
ánh được giá trị thông thường của hàng hóa.
Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX, với sự kiện quan trọng là Đại hội VI
của Đảng đã đánh dấu mốc lịch sử trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước; theo đó,
đường lối phát triển kinh tế được hoạch định phát triển theo mô hình kinh tế thị trường
định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Theo đó, quan điểm của Việt Nam về nền kinh tế thị
trường được khái quát như sau
4
:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế dựa trên sản xuất - trao đổi hàng hóa ở

trình độ cao. Cần lưu ý rằng sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường không phải là một.
Cụ thể, có nền kinh tế hàng hóa chưa phải là nền kinh tế thị trường (ví dụ sản xuất hàng
hóa giản đơn); và cũng không phải cứ có quan hệ hàng hóa - tiền tệ là có kinh tế thị
trường (chẳng hạn như Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây, Việt Nam trước thời kỳ
đổi mới, Trung Quốc trước cải cách mở cửa tuy có quan hệ tiền - hàng, nhưng đó không
phải là nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, đã là nền kinh tế thị trường thì có quan hệ hàng
hóa - tiền tệ và quan hệ hang hóa – tiền tệ ấy bao hàm hai mặt tích cực lẫn tiêu cực. Cụ
thể, cơ chế nền kinh tế thị trường giúp tăng năng suất lao động, qua đó thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển mạnh; về mặt tiêu cực, nền kinh tế thị trường có mục đích là
“lợi nhuận” nên đôi khi nảy sinh nhiều trường hợp bất chấp thủ đoạn để đạt được mục
đích.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường
(đó là các quy luật như: Quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật giá trị thặng dư…).
Có thể khẳng định rằng, sự thay đổi về chiến lược phát triển kinh tế của các nước
xã hội chủ nghĩa như một điều tất yếu trong quá trình vận động, nhưng hình thái chuyển
đổi của các nước (bao gồm cả Việt Nam) trong quan niệm của các nước có nền kinh tế thị
trường vẫn không được chấp nhận là nền kinh tế thị trường. Cho đến nay, khi đã gia nhập
4
Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta
PGS.TS Nguyễn Gia Thơ - Viện Triết học, Viện KHXH Việt Nam
5
tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam vẫn không thoát khỏi danh sách các quốc
gia có nền kinh tế phi thị trường theo quan niệm của nhiều nước.
3;3;Q; 4H,),RHS4HNJ+,T@)+F+D*+,)I%,*),J)K7L+8
Việc xác định một quốc gia có nền kinh tế phi thị trường hay là nền kinh tế thị
trường có ý nghĩa rất quan trọng trong bối cảnh của thế giới ngày nay. Vì thế, các quốc
gia và các tổ chức kinh tế thế giới đã đưa ra những tiêu chí, nguyên tắc để xác định một
nền kinh tế là thị trường hay phi thị trường, nhằm đảm bảo lợi ích của mình và thành viên
trong hoạt động ngoại thương với các đối tác.

Thực tế, Hiệp định GATT 1994 và Tổ chức thương mại thế giới WTO không đưa
ra tiêu chí hay định nghĩa để xác định một nền kinh tế phi thị trường hay nền kinh tế thị
trường, nhưng các nguyên tắc và hiệp định của WTO được xây dựng dựa trên nguyên tắc
của thị trường. Vì thế, các nước gia nhập WTO phải cam kết cải cách kinh tế theo hướng
thị trường và tuân thủ các nguyên tắc của WTO, cụ thể
5
:
Thương mại không phân biệt đối xử: Được thể hiện thông qua quy chế tối
huệ quốc (MFN) và quy chế đãi ngộ quốc gia (NT). Mục đích của các quy chế này là
bảo đảm bình đẳng trong gia nhập thị trường. Ngoài ra, nguyên tắc này còn quy định
không có sự thiên vị trong việc hưởng ưu đãi từ Nhà nước về chính sách thuế và trợ
cấp
Thương mại ngày càng tự do hơn: WTO thúc đẩy tự do hóa và gia nhập thị
trường, thể hiện thông qua việc cắt giảm và từng bước bãi bỏ các hàng rào thuế quan và
phi thuế quan.
Đảm bảo tính minh bạch, dễ dự đoán trong chính sách thương mại: Bảo
đảm công khai, minh bạch và khả năng giải trình về sự can thiệp chính sách của Nhà
nước, các thành viên trong và ngoài nước được bình đẳng trong tiếp cận thông tin
Thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh: Bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, chống độc
quyền, giá cả không bị bóp méo, mang tính thị trường (chẳng hạn chống hành vi bán phá
giá).
Thúc đẩy sự phát triển và cải cách kinh tế: Thúc đẩy cải cách định hướng
thị trường; tạo điều kiện cho Chính phủ khắc phục các dạng “thất bại” của thị trường
thông qua ưu đãi thuế quan và thực hiện các dạng trợ cấp được phép, ví dụ, để hỗ trợ các
5
/>6
đối tượng dễ bị tổn thương, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, bảo hộ
nền sản xuất trong nước trong trường hợp bị tổn thương
Như vậy, các nước xin gia nhập WTO phải cam kết cải cách kinh tế theo hướng
đáp ứng các yêu cầu thị trường nói trên, tức là không được tạo ra những rào cản bóp

méo thị trường. Đặc biệt, vấn đề kinh tế thị trường thể hiện rất rõ trong một số hiệp định
của Tổ chức thương mại thế giới như Hiệp định chống bán phá giá, Hiệp định định giá
hải quan, Hiệp định về trợ cấp…
Hoa Kỳ cũng đề ra một số tiêu chí nhằm xác định một nền kinh tế là nền kinh tế
thị trường cho các quốc gia đối tác. Cụ thể, đó là các tiêu chí sau đây:
Mức độ chuyển đổi của đồng nội tệ;
Mức độ theo đó mức lương được xác định thông qua đàm phán tự do giữa
người lao động và đơn vị sử dụng lao động;
Mức độ theo đó việc liên doanh hoặc các dự án đầu tư nước ngoài được
phép thực hiện;
Mức độ sở hữu của Chính phủ hoặc kiểm soát của các phương tiện sản
xuất;
Mức độ kiểm soát của Chính phủ về việc phân bổ các nguồn lực, giá cả và
sản lượng của doanh nghiệp;
Các tiêu chí khác do Bộ thương mại Hoa Kỳ đưa ra.
Trong sáu tiêu chí đưa ra, chỉ năm tiêu chí đầu các quốc gia đối tác có khả năng
hoàn thiện và đáp ứng; riêng tiêu chí cuối cùng là điều rất khó khăn cho các quốc gia đối
tác khi hợp tác với Hoa Kỳ, bởi lẽ đây là một điều khoản rất mơ hồ, các quốc gia đối tác
không thể đáp ứng được nếu không có sự đồng thuận của Bộ Thương mại Hoa Kỳ.
Ngoài ra, Luật Chống bán phá giá của Hoa Kỳ còn cho phép sử dụng các phương
pháp kinh tế thị trường để xác định giá trị thông thường trong các trường hợp kinh tế phi
thị trường nếu như ngành công nghiệp liên quan ở nước bị kiện chứng minh được là
ngành công nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Theo đó, các tiêu chí để xác định
ngành công nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường bao gồm:
Hoàn toàn không có sự can thiệp của chính phủ vào việc định giá và số
lượng sản xuất;
Ngành công nghiệp không phải do nhà nước sở hữu;
7
Tất cả các chi phí đầu vào kể cả vật chất và phi vật chất (trừ một phần
không đáng kể) tạo thành tổng giá trị hàng hóa phải được thanh toán theo

giá thị trường.
Trên thực tế, những tiêu chí này rất khó thỏa mãn và rất hiếm có trường hợp một
ngành công nghiệp ở nước có nền kinh tế phi thị trường được coi là hoạt động theo cơ
chế thị trường để được áp dụng các phương pháp kinh tế thị trường trong điều tra bán phá
giá vào Hoa Kỳ.
Theo pháp luật Hoa Kỳ về chống bán phá giá, một nước có nền kinh tế phi thị
trường là nước mà DOC đánh giá là có nền kinh tế vận hành không theo các nguyên tắc
về chi phí và cấu trúc giá thông thường.
DOC suy đoán là tất cả các nước có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, trong đó
mọi quyết định của doanh nghiệp về giá đều chịu sự chi phối, can thiệp của chính phủ. Vì
vậy hầu hết tất cả các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa đều bị xếp vào nền kinh tế phi thị
trường. Cho đến cuối năm 2005, có 12 nước đã bị DOC kết luận là nền kinh tế phi thị
trường (NME) trong các vụ kiện chống bán phá giá, trong đó có Việt Nam.
Hiện tại, Ủy ban liên minh Châu Âu chia các nước có nền kinh tế phi thị trường ra
làm 3 nhóm:
Trung Quốc, Kazakhstan, Ukraine, và Việt
Nam:
những nước được nhận
diện là tiến trình cải cách
về
cơ bản đã thay đổi nền kinh tế của họ và đã dẫn
tới
sự
nổi lên của một số công ty có thể ưu tiên
hưởng
các điều kiện của nền kinh tế thị
trường.
Những nước có nền kinh tế phi thị trường khác

thành viên của WTO

tại thời điểm khởi xướng
vụ
kiện chống bán phá giá, như Albania,
Armenia,
Geogia, Kyrgyzstan, Cộng Hoà Moldova

Mongolia. Những nước này được đối
xử như
những
nước trong nhóm đầu
tiên.
Azerbaijan, Belarus, Cộng Hoà Dân Chủ Nhân
Dân
Triều Tiên,
Tajikistan, Turkmenistan,

Uzbekistan (từ ngày 1/8/2004): các nhà sản xuất
từ
những
nước này không được hưởng quy chế đối
xử
nền kinh tế thị trường nhưng có thể
được hưởng
quy
chế đối xử
riêng.
Tuy nhiên, có thể coi những nước khác là
những
nước có nền kinh tế phi
thị trường vì mục đích của

các
vụ kiện chống bán phá giá. Quy chế đối xử mà Uỷ
ban
có thể dành cho các nước có nền kinh tế phi thị
trường
luôn thay đổi tuỳ thuộc
8
vào tình trạng thực tế ở một
số
quốc gia có tên trong danh sách. Ví dụ như Liên
Bang
Nga đã được gạch tên khỏi danh sách các nước có
nền
kinh tế phi thị trường và trở
thành nước có nền kinh
tế
thị trường vào năm
2002. footnote O
J (2002) L305/1; hầu
hết các nước Tây và Trung Âu đã được gạch tên
khỏi
danh sách này sớm hơn Liên
Bang
Nga.
Cách tiếp cận linh hoạt hơn của Uỷ Ban còn thể hiện

một số phương diện
khác. Vì thế, Quy định chống
bán
phá giá tạo cho nhà xuất khẩu trong hai nhóm

danh
sách đầu tiên đã đề cập ở trên có cơ hội được hưởng
quy
chế đối xử nền kinh tế
thị trường, nghĩa là chứng
minh
họ hoạt động theo những điều kiện của nền kinh tế
thị
trường và không chịu sự can thiệp đáng kể của
Chính
phủ. Nếu như yêu cầu
hưởng quy chế đối xử nền kinh
tế
thị trường được chấp nhận, thì cuộc điều tra sẽ tiếp
tục
như là nhà sản xuất xuất khẩu kinh doanh trong
các
điều kiện thị trường thông
thường.
Trong trường hợp yêu cầu hưởng quy chế đối xử
nền
kinh tế thị trường bị
Uỷ ban từ chối thì nhà xuất
khẩu
từ các nước có nền kinh tế phi thị trường vẫn có thể
yêu
cầu được công nhận là họ không chịu sự can thiệp
của
Nhà nước xét về mặt
tính giá xuất khẩu và yêu cầu

được
tính biên độ phá giá riêng. Đây được gọi là quy
chế
đối
xử riêng và nên được trình cùng lúc với yêu cầu
hưởng
quy chế đối xử nền
kinh tế thị
trường.
Nếu yêu cầu hưởng quy chế đối xử nền kinh tế
thị
trường bị từ chối thì
việc xác định giá trị thông
thường
sẽ dựa trên chi phí và giá cả của nhà sản xuất tại
‘nước
tương tự’. Đây là một quốc gia có nền kinh tế thị
trường
và được coi là có tiêu
chuẩn thích hợp để so sánh.
Nước
tương tự không cần phải có mức độ phát triển giống
hay
có thể so sánh được với các nước có nền kinh tế phi
thị trường.
Đơn đề nghị được hưởng quy chế đối xử nền kinh tế
thị
trường phải đến tay
Uỷ ban Châu Âu trong vòng
21

ngày kể từ ngày khởi xướng. Ngoài ra, có 10
ngày
để
đưa ra ý kiến về việc lựa chọn trước nước tương
tự.
Khi yêu cầu được hưởng quy chế đối xử nền kinh tế
thị
trường đến tay Uỷ
ban, một cuộc xác minh sơ bộ sẽ
được
thực hiện. Nếu thấy rằng nhà xuất khẩu xứng
đáng
được
hưởng quy chế đối xử nền kinh tế thị trường thì Uỷ
ban
có thể quyết định
thực hiện một chuyến điều tra
thực
địa để chứng thực yêu cầu này. Trước khi đi
đến
quyết
định cuối cùng, Uỷ ban sẽ thông báo cho nhà xuất
khẩu
có liên quan về
9
quyết định sắp tới của họ và nhà
xuất
khẩu sẽ có 10 ngày để đưa ra ý kiến của
mình.
Quyết

định cuối cùng về yêu cầu được hưởng quy chế đối
xử
nền kinh tế thị
trường không được muộn hơn 3 tháng
kể
từ ngày khởi
xướng.
Cho đến khi Uỷ Ban có quyết định về quy chế đối xử
nền
kinh tế thị trường
thì nhà xuất khẩu vẫn phải
hoàn
thành bảng câu hỏi điều tra thông thường, trừ
những
phần có liên quan đến danh thu bán hàng và chi
phí
nội địa. Bản trả lời
bảng câu hỏi điều tra phải đến
tay
Uỷ ban trong vòng 40 ngày kể từ ngày có
thông
báo
khởi xướng. Nếu yêu cầu hưởng quy chế đối xử nền
kinh
tế thị trường được
chấp nhận thì nhà xuất khẩu sẽ
phải
trả lời nốt những phần còn lại của bảng câu hỏi
điều
tra

có liên quan đến bán hàng nội địa và chi phí
trong
khoảng thời gian do Ủy ban
quy định. Khoảng thời
gian
quy định thường là 30 ngày kể từ ngày Uỷ ban có
quyết
định công nhận quy chế đối xử nền kinh tế thị
trường.
3;Q; *F')K/H,B+8O4+%,48*4
3;Q;3; ,4*+*UT5FO4+%,48*4
Theo lịch sử phát triển của kinh tế thế giới, từ thế kỷ XVII, ở Châu Âu đã xuất
hiện những quan niệm về hành vi bán
phá giá đối với các sản phẩm nhập khẩu
từ các quốc gia khác vào quốc gia bản
địa. Trước sức ảnh hưởng đáng lo ngại
của việc bán phá giá, các quốc gia nhập
khẩu đã sử dụng các biện pháp khống
chế, chủ yếu là đánh thuế cao với các
mặt hàng nhập khẩu hoặc cấm nhập
khẩu mặt hàng đó vào thị trường nội địa.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, pháp luật về chống bán phá giá bắt đầu hình thành từ
Canada và phát triển rộng ra các nước khác như Mỹ (1916), Austraylia (1921), Vương
quốc Anh (1921)…và có nhiều sự biến đổi, cải tiến cho phù hợp với chính sách và điều
kiện phát triển của từng quốc gia. Theo đà phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu, vấn đề
bán phá giá dần được các quốc gia chú trọng hơn, đặc biệt là vấn đề thiết lập hành lang
pháp lý để đảm bảo và hòa nhập vào nền kinh tế chung trên toàn thế giới.
10
Dưới góc độ kinh tế, bán phá giá là việc bán hàng hoá với những mức giá khác
nhau ở các thị trường quốc gia khác nhau hay nói cách khác là sự phân biệt về giá giữa

các thị trường quốc gia. Dưới góc độ pháp lý, bán phá giá là khái niệm để chỉ những
hành vi bán phá giá bị pháp luật các nước hoặc pháp luật thương mại quốc tế cấm
6
. Cụ
thể:
Theo quy định tại Khoản 1, Điều VI Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại 1994 (GATT 1994): Bán phá giá là cách hàng hóa của một nước được đưa
vào thị trường của nước khác với mức giá thấp hơn giá trị thông thường của hàng hóa.
Theo Điều 2 Hiệp định về Chống bán phá giá (Hiệp định AD
7
) – Hiệp định
này chi tiết hoá Điều VI GATT 1994 về các quy tắc, điều kiện, trình tự thủ tục kiện, điều
tra và áp dụng biện pháp chống bán phá giá cụ thể
8
: Một sản phẩm bị coi là bán phá giá
(tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn trị giá thông
thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một
nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm
tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường.
Tuy nhiên, trong trường hợp không có các sản phẩm tương tự được bán trong nước theo
các điều kiện thương mại thông thường tại thị trường nước xuất khẩu hoặc trong trường
hợp việc bán trong nước đó không cho phép có được sự so sánh chính xác do điều kiện
đặc biệt của thị trường đó hoặc do số lượng hàng bán tại thị trường trong nước của nước
xuất khẩu hàng hóa quá nhỏ, biên độ bán phá giá sẽ được xác định thông qua so sánh với
mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ
ba thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện, hoặc
được xác định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hóa cộng
thêm một khoản hợp lý chi phí quản lý, chi phí bán hàng, các chi phí chung và lợi
nhuận.
3;Q;Q; "*U+%,4%H,B+8O4+%,48*45MN*F'D*U+4%-V+8

Xuất phát từ quan điểm cho rằng hành vi bán phá giá, ở một mức độ nghiêm trọng
nhất định là hành vi thương mại không công bằng, luật lệ của GATT trước đây và WTO
hiện nay đều cho phép các quốc gia áp dụng biện pháp có tính trả đũa, tự vệ thương mại.
6
Theo: “Lịch sử chống bán phá giá” – Ths Vũ Thị Phương Lan
7
Agreement on Antidumping Practices
8
Hiệp định này còn được gọi là Hiệp định về việc Thực thi Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan
và Thương mại 1994 (GATT 1994)
11
Trong các biện pháp hạn chế thương mại để chống lại hành vi bán phá giá, các quốc gia
chỉ có quyền áp dụng biện pháp tăng thuế nhập khẩu. Nói cách khác, quốc gia bị thiệt
hại chỉ có thể áp dụng thuế bổ sung (thuế chống bán phá giá) đối với hàng hóa nhập
khẩu bị xác định là bán phá giá. Các biện pháp hạn chế số lượng hay các biện pháp hạn
chế phi thuế quan khác không được coi là hợp pháp.
Theo quy định của Hiệp định về Chống bán phá giá, để áp dụng biện pháp chống
bán phá giá, nước nhập khẩu là thành viên WTO phải chứng minh được ba điều kiện sau
đây:
Có hành động bán phá giá: Được tính bằng độ chênh lệch giữa giá của mặt
hàng nhập khẩu với giá của mặt hàng tương tự bán tại thị trường của nước xuất
khẩu (gọi là biên độ phá giá).
Có thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất của nước nhập khẩu đang cạnh
tranh trực tiếp với hàng nhập khẩu. Cụ thể, ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa tương
tự trong nước nhập khẩu bị thiệt hại một cách đáng kể hoặc bị đe dọa gây thiệt hại một
cách đáng kể hoặc việc bán phá giá gây khó khăn cho việc hình thành một ngành sản
xuất trong nước.
Hành động bán phá giá là nguyên nhân gây ra thiệt hại vật chất, hoặc đe
dọa gây ra thiệt hại vật chất nêu trên.
Để đưa ra quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá, nước nhập khẩu và cơ

quan chức năng cần phải tiến hành các bước điều tra hành vi phá giá của doanh nghiệp
nước xuất khẩu. tùy theo quy định của từng quốc gia hoặc tổ chức mà quy trình được xây
dựng thích hợp với hoàn cảnh, điều kiện khách quan của quốc gia đó hoặc của đa số các
nước thành viên.
3;Q;W; 4HO7$HN*F')K/H,B+8O4+%,48*4
Quy định về điều tra chống bán phá giá được cụ thể hóa tại Hiệp định AD. Cụ thể,
đó là các quy định sau: Bắt đầu quá trình điều tra và quá trình điều tra tiếp theo (Điều 5);
bằng chứng (Điều 6); các biện pháp tạm thời (Điều 7); cam kết về giá (Điều 8); đánh thuế
và thu thuế chống bán phá giá (Điều 9). Hiệp định cũng quy định rõ về việc hồi tố (ĐIều
10); thời hạn áp dụng và việc xem xét lại thuế chống bán phá giá và các cam kết về giá
(Điều 11); thông báo công khai và giải quyết các quyết định (Điều 12); rà soát tư pháp
(Điều 13); Hành động chống bán phá giá nhân danh một nước thứ ba (Điều 14). Ngoài ra,
để đảm bảo chức năng, Hiệp định cũng xác lập nên Ủy ban thực hành chống bán phá giá
12
nhằm đảm bảo việc thực thi Hiệp định được thực tế và chặt chẽ. Thông thường, việc điều
tra dựa trên hồ sơ yêu cầu của tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng; thiệt hại của ngành sản xuất
nội địa. Theo đó, các hồ sơ này phải có những bằng chứng cụ thể về ba điều kiện áp dụng
biện pháp chống bán phá giá đã nêu trên, bên nộp đơn phải đủ tư cách đại diện cho ngành
sản xuất nội địa bị thiệt hại, cụ thể là phải được sự ủng hộ của các nhà sản xuất nội địa
chiếm trên 50% tổng sản lượng tương tự và các nhà sản xuất nội địa tán thành điều tra
chiếm trên 25% tổng sản lượng - điều này nhằm đảm bảo tư cách đại diện cho số đông
của bên khiếu nại. Ngoài ra, việc điều tra cũng có thể do các cơ quan chức năng của quốc
gia nhập khẩu tự tiến hành không cần có hồ sơ yêu cầu khi thấy có đủ bằng chứng về việc
gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa. Về thời gian điều tra, theo qui định của Hiệp
định AD, không quá một năm (không quá 12 tháng) cơ quan điều tra phải có kết luận
cuối cùng là có bán phá giá không, trong một số trường hợp đặc biệt thời gian này được
mở rộng nhưng không vượt quá 18 tháng - các quy định này nhằm hạn chế việc gây khó
khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu loại hàng hóa đang bị điều tra hay
cản trở việc nhập khẩu hàng hóa đó. Để xác định rằng có hành vi bán phá giá hay không,
các cơ quan điều tra phải xác định hai vấn đề sau đây:

Thứ nhất, hàng hóa nhập vào có bán với mức giá thấp hơn giá thành sản
xuất hợp lý hay không, tức là có sự chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá nội địa của của
hàng hóa nhập đó hay không. Tuy nhiên, nếu chênh lệch này nhỏ hơn 2% giá nhập khẩu
hay lượng nhập khẩu của sản phẩm hàng hóa này ít hơn 3% so với tổng lượng nhập khẩu
của hàng hóa tương tự thì phải kết thúc điều tra vì không đủ gây ảnh hưởng cho ngành
sản xuất nội địa. Có thể thấy, việc tính giá thành sản xuất hợp lý là rất phức tạp và quốc
gia nhập khẩu có thể sử dụng nhiều phương thức để thực hiện điều này. Nhiều chuyên
gia nhận định rằng việc tính toán này thường thiếu tính khách quan, không chính xác và
mang tính áp đặt. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp thì cơ quan điều tra của nước
nhập khẩu kết luận là có bán phá giá (chẳng hạn, trên 95% các cuộc điều tra bán phá giá,
Bô thương mại Mỹ (DOC) có kết luận là bán dưới giá thành hợp lý).
Thứ hai, hàng nhập khẩu bán phá giá có gây thiệt hại vật chất hay đe dọa
gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất nội địa hay không (chứ không phải là cho một
vài nhà sản xuất nội địa). Để xác định điều này phải có các bằng chứng khách quan về
lượng sản phẩm nhập vào được bán phá giá, ảnh hưởng đến giá của thị trường nội địa
của sản phẩm tương tự và thiệt hại đối với nhà sản xuất sản phẩm trong nước. Cơ quan
13
điều tra xem xét trên các số liệu sau: Sự gia tăng lượng hàng nhập khẩu được bán phá
giá, sự giảm giá của sản phẩm tương tự sản xuất nội địa… Ngoài ra, cơ quan điều tra
còn có thể xác định thiệt hại gộp trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu được bán phá giá
nhập từ nhiều ngưồn khác nhau (các quốc gia) nhưng phải đảm bảo điều kiện thứ nhất
(vượt các mức tối thiểu về biên độ phá giá và lượng nhập khẩu đối với mỗi quốc gia).
Việc kết luận điều thứ hai này do Ủy ban thương mại quốc tế của Mỹ (ITC) thực hiện.
Đối với các quốc gia phương Tây, khi điều tra bán phá giá đối với hàng hóa xuất
khẩu từ nền kinh tế phi thị trường (các quốc gia theo chế độ Xã hội chủ nghĩa, có hệ
thống quản lý kinh tế tập trung), cơ quan điều tra của họ thường chọn theo cách tính ở
một quốc gia thứ ba (là quốc gia được xem có nền kinh tế thị trường, có trình độ phát
triển tương đương) để xác định giá thành sản xuất hợp lý của sản phẩm. Điều này làm
mất đi tính công bằng và hợp lý trong cách tính giá thành sản xuất hợp lý của hàng hóa
đang bị điều tra bán phá giá (thường là bất lợi cho cho nhà xuất khẩu). Để tránh trường

hợp này, nước xuất khẩu phải là thành viên của WTO để không bị phân loại và phân biệt
đối xử bởi các lý do kinh tế - chính trị (tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào cam kết
của quốc gia đó khi gia nhập WTO, ví dụ: Trung Quốc vẫn chấp nhận bị xem là nền kinh
tế phi thị trường trong vòng 15 năm sau khi gia nhập WTO). Theo quy định của Hiệp
định AD, khi đã có các bằng chứng xác thực về việc bán phá giá, thiệt hại và mối quan hệ
nhân quả giữa chúng, cơ quan có thẩm quyền quyết định có hay không bắt đầu cuộc điều
tra. Quá trình điều tra phải kết thúc trong thời hạn 1 năm và trong mọi trường hợp không
được vượt quá 18 tháng. Trong quá trình điều tra việc thông quan hàng hoá vẫn được tiến
hành bình thường. Ngoài ra, trong quá trình điều tra nước nhập khẩu có thể áp dụng các
biện pháp tạm thời nếu các cơ quan có thẩm quyền cho rằng, cần áp dụng các biện pháp
này để ngăn chặn thiệt hại đang xảy ra trong quá trình điều tra. Các biện pháp tạm thời
chỉ được phép áp dụng nếu như: (i) Việc điều tra đã được khởi đầu theo đúng quy định tại
Điều 5 Hiệp định AD; (ii) kết luận ban đầu đã xác nhận rằng có việc bán phá giá và có
dẫn đến gây tổn hại cho ngành sản xuất trong nước; và (iii) các cơ quan có thẩm quyền
hữu quan kết luận rằng, cần áp dụng các biện pháp này để ngăn chặn tổn hại đang xảy ra
trong quá trình điều tra. Các biện pháp tạm thời có thể được áp dụng dười hình thức thuế
tạm thời hoặc tốt nhất là áp dụng hình thức bảo đảm - bằng tiền đặt cọc tương đương với
mức thuế chống bán phá giá được dự tính tạm thời và không được cao hơn biên độ bán
14
phá giá được tính tạm thời. Các biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng đối với các sản
phẩm được đưa vào tiêu dùng sau thời điểm mà quyết định đưa ra theo đoạn 1 Điều 7
Hiệp định AD có hiệu lực, trừ một số ngoại lệ. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng việc áp
dụng các biện pháp tạm thời không được sớm hơn 60 ngày kể từ ngày bắt đầu điều tra và
không được vượt quá 4 tháng, trong một số trường hợp đặc biệt có thể kéo dài nhưng
không quá 6 tháng. Trong quá trình điều tra, nếu cơ quan có thẩm quyền xem xét liệu một
mức thuế thấp hơn biên độ phá giá có thể loại bỏ tổn hại phát sinh hay không, thì khoảng
thời gian nói trên được kéo dài thành 6 và 9 tháng tương ứng. Đặc biệt, Hiệp định AD
còn có quy định cam kết về giá. Theo đó, cam kết về giá là cam kết của nhà xuất khẩu đối
với cơ quan điều tra về sự thay đổi chính sách giá hoặc ngưng các hoạt động bán phá giá
vào khu vực đang điều tra, cam kết này phải đảm bảo việc bán phá giá gây ra được loại

bỏ để cơ quan điều tra có thể chấp nhận và đình chỉ hay chấm dứt các biện pháp tạm thời
hay biện pháp áp thuế chống bán phá giá đối với loại hàng hóa đang bị điều tra. Cơ quan
có thẩm quyền của quốc gia nhập khẩu có thể gợi ý cho nhà xuất khẩu đưa ra các cam kết
về giá nhưng không bắt buộc. Khi cam kết về giá được chấp thuận, việc điều tra bán phá
giá vẫn có thể được tiến hành, nếu kết luận của cơ quan điều tra là không có bán phá giá
thì các cam kết về giá sẽ tự động kết thúc, nếu kết luận là có bán phá giá thì các cam kết
về giá sẽ được duy trì cho đến khi cơ quan chức năng của nước nhập khẩu xem xét, điều
chỉnh theo kết luận của cơ quan điều tra. Bên cạnh đó, khi kết luận của cơ quan điều tra
là có bán phá giá, nước nhập khẩu sẽ áp đặt các biện pháp cần thiết để chống lại sự ảnh
hưởng của việc bán phá giá. Cụ thể, các quốc gia được phép áp dụng thuế chống bán phá
giá như biện pháp thương mại đặc biệt; thời hạn áp đặt thuế chống bán phá giá không
được kéo dài quá năm năm kể từ ngày áp dụng (xem điều khoản “hoàng hôn” của Hiệp
định AD), ngoại trừ các trường hợp đặc biệt nếu ngưng áp dụng thuế chống bán phá giá
sẽ làm tiếp tục hay tái phát sinh việc bán phá giá và gây thiệt hại cho ngành sản xuất
nước nhập khẩu. Với thời gian năm năm đủ để cho quốc gia nhập khẩu thực hiện việc rà
soát ảnh hưởng của biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu và ngưng
áp thuế chống bán phá giá khi cần thiết. Thực tế, việc bảo hộ bằng biện pháp chống bán
phá giá gây nhiều thiệt hại cho cả đôi bên: Nhà nhập khẩu lẫn nhà xuất khẩu và nhất là
đối với người tiêu dùng khi phải gánh chịu thêm khoản thuế này, lợi ích nếu có chỉ tập
trung vào một nhóm thiểu số mà thông thường có ảnh hưởng tới chính trị. Từ những quy
15
định chung của WTO, các tổ chức, cộng đồng kinh tế trên thế giới cũng xây dựng các
quy định riêng cho các thành viên tổ chức mình. Bên cạnh đó, các quốc gia thành viên
WTO cũng tiến hành nội luật hóa Hiệp định AD nhằm xây dựng cơ sở pháp lý vững
chắc, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội quốc gia.
Sau đây, nhóm chúng tôi xin trình bày cụ thể quy định của Tổ chức kinh tế Liên
minh châu Âu EU, Luật của Hoa Kỳ và Pháp lệnh của Việt Nam về quy trình điều tra
chống bán phá giá để bài tiểu luận có cách nhìn trực diện hơn đối với việc điều tra chống
bán phá giá trên thế giới hiện nay.
Quy trình điều tra chống bán phá giá của EU:

 "7$H3&"X)NY'5VD*U+
Đơn kiện của ngành sản xuất nội địa phải đưa ra tương đối đủ các bằng chứng về
việc bán phá giá và thiệt hại gây ra, cách xác định chính xác loại hàng hóa và danh tính
các nhà sản xuất, xuất khẩu liên quan.
Sau khi kiểm tra sơ bộ đơn kiện, cơ quan có thẩm quyền chỉ ra Quyết định khởi
xướng điều tra khi:
• Đối tượng nộp đơn đáp ứng yêu cầu về tính đại diện (cho ngành sản xuất
nội địa liên quan).
• Có tương đối đủ bằng chứng về việc bán phá giá gây thiệt hại.
• Lượng hàng hóa nhập khẩu từ nước bị kiện không quá nhỏ.
 "7$HQ&*F')K/A=O@
Việc điều tra được tiến hành theo hai nhóm vấn đề:
• Điều tra để xác định có bán phá giá hay không và biên độ bán phá giá như
thế nào.
• Điều tra để xác định có thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa hay không
và thiệt hại có phải là hệ quả của việc bán phá giá không.
Để xác định được hai vấn đề này, Cơ quan điều tra sẽ sử dụng bảng câu hỏi cho bị
đơn và các bên liên quan, thu thập và xác minh thông tin, bằng chứng liên quan. Các bên
bảo vệ quyền lợi của mình chủ yếu qua việc trả lời bảng câu hỏi, cung cấp thông tin bổ
sung cho cơ quan điều tra.
 "7$HW&I)Z'(+5V5*UH
Trên cơ sở kết quả điều tra sơ bộ, cơ quan điều tra ra Kết luận sơ bộ về các vấn đề
được điều tra (bán phá giá và thiệt hại).
 "7$H[&#%-V+8O*U+%,4%)\T),L*
16
Trường hợp Kết luận sơ bộ khẳng định có tồn tại việc bán phá giá gây thiệt hại
đáng kể, cơ quan có thẩm quyền có thể quyết định áp dụng biện pháp tạm thời (đặt cọc,
ký quỹ hoặc thuế tạm thời) đối với hàng hóa nhập khẩu liên quan.
 "7$H2&/TDI)5F8*4
Vào bất kỳ giai đoạn nào sau khi có kết luận sơ bộ khẳng định có việc bán phá giá

gây thiệt hại đáng kể, nhà xuất khẩu và cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu có thể
cùng thỏa thuận để đạt được Cam kết về giá (Nhà xuất khẩu cam kết tăng giá nhập khẩu
lên hoặc ngừng xuất khẩu phá giá hoặc chấp nhận các quota …).
Nếu cam kết về giá được chấp nhận với nhà xuất khẩu nào thì việc điều tra sẽ xem
như chấm dứt với nhà xuất khẩu đó trừ khi họ yêu cầu tiếp tục việc điều tra.
 "7$H]&*I%)VHN*F')K/
Cơ quan điều tra tiếp tục tiến hành điều tra, xác minh lại các vấn đề trong Kết luận
sơ bộ và xem xét các bình luận, phản hồi từ các bên đối với Kết luận sơ bộ.
Các phiên điều trần có thể được tổ chức để cơ quan điều tra trực tiếp nghe các bên
trình bày lập luận của mình và trả lời lập luận của đối phương.
 "7$H^&I)Z'(+H'B*H_+8
Cơ quan điều tra ra kết luận cuối cùng về các vấn đề được điều tra (bán phá giá và
thiệt hại).
 "7$H`&#%-V+8O*U+%,4%H,B+8O4+%,48*4H,a+,),RH
Cơ quan điều tra ra kết luận cuối cùng có 2 trường hợp:
• Kết luận khẳng định có bán phá giá gây thiệt hịa đáng kể: cơ quan điều tra
có thể ra quyết định áp thuế chống bán phá giá (mức thuế đối với từng nhà xuất khẩu
không cao hơn biên độ phá giá của họ). Việc áp thuế hay không còn phụ thuộc vào biên
độ phá giá (dưới 2% thì không được áp thuế) và lợi ích cộng đồng (trường hợp EU, nếu
việc áp thuế không phù hợp với lợi ích Cộng đồng thì sẽ không áp thuế).
• Kết luận phủ định (không bán phá giá và/hoặc không gây ra thiệt hại đáng
kể):không áp thuế chống bán phá giá và hoàn trả các khoản đặt cọc.
 "7$H1&MA.4),M+8+bTcKMA.4)Z\*d
Rà soát hàng năm được thực hiện theo yêu cầu để tính biên độ phá giá thực của
các nhà sản xuất khẩu trong năm trước đó hoặc để điều chỉnh mức thuế áp dụng trong
những năm tiếp theo hoặc chấm dứt thuế. Trong quá trình rà soát hàng năm, các bên nhà
xuất khẩu cũng phải cung cấp chứng cứ chứng minh phục vụ điều tra.
 "7$H30&MA.4)H'B*De
Cơ quan điều tra thực hiện rà soát cuối kỳ thời hạn 5 năm kể từ khi áp dụng thuế
chống bán phá giá hoặc kể từ khi rà soát lại. Việc điều tra được thực hiện tổng thể (cả về

bán phá giá và thiệt hại) để xác định có chấm dứt áp thuế hay tiếp tục thêm 5 năm nữa.
Quy trình điều tra chống bán phá giá của Hoa Kỳ:
17
 */*N.\+3&=+D*U+(của ngành sản xuất nội địa của Hoa Kỳ gửi
đến DOC và ITC).
 */*N.\+Q&,f+8O4.D,g*S7$+8N*F')K/Hh/<i(khi DOC
thấy rằng đơn kiện đã thoả mãn các điều kiện qui định).
 */*N.\+W&*F')K/A=O@
• ITC tiến hành điều tra sơ bộ về thiệt hại:
+ Nếu kết luận sơ bộ khẳng định có thiệt hại (kết luận khẳng định):
quá trình điều tra tiếp tục;
+ Nếu kết luận sơ bộ là không có thiệt hại hoặc lượng hàng hóa nhập
khẩu liên quan là không đáng kể (kết luận phủ định): chấm dứt cuộc điều tra (Kết luận
sơ bộ của ITC phải được đưa ra trước khi DOC có kết luận sơ bộ).
• DOC tiến hành điều tra sơ bộ về bán phá giá:
+ Nếu kết luận sơ bộ khẳng định có việc bán phá giá (kết luận khẳng
định): DOC sẽ ban hành quyết định áp dụng biện pháp tạm thời;
+ Nếu kết luận sơ bộ là không có việc bán phá giá (kết luận phủ
định): quá trình điều tra vẫn tiếp tục nhưng DOC không được áp dụng các biện pháp tạm
thời.
 */*N.\+[&*F')K/H'B*H_+8
DOC điều tra lần cuối cùng về việc bán phá giá (kết luận của DOC phải được đưa
ra trước khi ITC đưa ra kết luận cuối cùng).
Nếu DOC hoặc ITC có kết luận phủ định (không có bán phá giá hoặc không có
thiệt hại): chấm dứt cuộc điều tra. Nếu cả DOC và ITC có kết luận khẳng định: DOC ra
quyết định chính thức áp dụng biện pháp chống bán phá giá (ấn định mức thuế chống
bán phá giá tạm thời).
 */*N.\+2&4H),h)VHKMA.4)Z\*
• Rà soát hành chính: Do DOC tiến hành theo yêu cầu của một
hoặc các bên liên quan. Kết quả: ấn định mức thuế chính thức tính theo năm (cho chủ

thể có yêu cầu hoặc cho tất cả các nhà xuất khẩu liên quan, tuỳ từng trường hợp).
• Rà soát do thay đổi về hoàn cảnh: Do DOC và ITC tiến hành;
Kết quả: DOC có thể ra quyết định giữ nguyên, rút lại một phần hoặc toàn bộ quyết định
áp dụng biện pháp chống bán phá giá chính thức.
• Rà soát cuối cùng: 5 năm sau khi quyết định áp dụng biện
pháp chống bán phá giá được ban hành, DOC và ITC sẽ phải tiến hành rà soát lại để xem
xét huỷ bỏ biện pháp chống bán phá giá.
+ Nếu một trong hai cơ quan có kết luận phủ định: biện pháp chống
bán phá giá được huỷ bỏ.
18
+ Nếu cả hai cơ quan có kết luận khẳng định: Biện pháp chống bán
phá giá tiếp tục được duy trì. Như vậy, khi điều tra cơ quan có thẩm quyền xem xét của
Mỹ sẽ đưa ra những yêu cầu cung cấp thông tin tới các doanh nghiệp có liên quan để xác
định cơ chế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có tuân thủ cơ chế thị trường hay
không. Đối với nhiều nước có nền kinh tế phát triển, việc cung cấp số liệu liên quan đến
các vụ chống bán phá giá thường do doanh nghiệp bị ảnh hưởng trực tiếp thực hiện,
trường hợp cần thiết thì đề nghị Chính phủ can thiệp.
Quy trình điều tra chống bán phá giá của Việt Nam: Theo quy định của
Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11 về việc chống bán phá giá hang hóa nhập khẩu
vào Việt Nam, một vụ việc điều tra và xử lý chống bán phá giá có thể được tiến hành
qua bốn giai đoạn sau đây:
 Giai đoạn 1: Thẩm định hồ sơ và ra quyết định điều tra.
 Giai đoạn 2: Điều tra sơ bộ và ra kết luận điều tra sơ bộ.
 Giai đoạn 3: Điều tra cuối cùng và ra kết luận cuối cùng.
 Giai đoạn 4: Áp dụng biện pháp chống bán phá giá và tiến hành rà
soát.
19
20
Q; ,jH)*k+N*F')K/H,B+8O4+%,48*4NB*5$*,M+8,l/+,(%D,m'Hl+8'n+
8BH)o *U)/T

Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) từ năm 2007 và chấp nhận thời hạn 12 năm cho quy chế nền kinh tế phi thị
trường kể từ ngày gia nhập và không muộn hơn 31-12-2018. Đối với Việt Nam, việc gia
nhập WTO vừa là cơ hội, vừa là thách thức. Theo đó, Việt Nam có nhiều cơ hội trong
việc tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế
nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị
định thư gia nhập của các nước này mà không bị phân biệt đối xử. Tuy nhiên, đi cùng
với cơ hội này là những thách thức đối với hàng hóa Việt Nam tại thị trường nước ngoài.
Một trong những thách thức mà chúng ta phải đối mặt dó là nguy cơ bị kiện bán phá giá.
Thực tiễn cho thấy không ít doanh nghiệp Việt Nam bị mắc vào những vụ kiện bán phá
mà lợi thế thường nghiêng về doanh nghiệp nước ngoài.
Ngày nay, đứng trước những thách thức về cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị
trường nội địa, các quốc gia đã tăng cường sử dụng các công cụ bảo hộ ngày càng tinh vi
thông qua các biện pháp bảo đảm thương mại công bằng của WTO, trong đó có thuế
chống bán phá giá.Vì vậy, các vụ kiện bán giá xảy ra trên thế giới ngày càng tăng về số
lượng chủ thể tham gia và ngày càng mở rộng phạm vi hàng hoá áp dụng. Theo số liệu
của Ban Thư ký WTO, từ năm 1995 đến hết năm 2004 trên thế giới đả tiến hành 2647
cuộc điều tra về chống bán phá giá, đứng đầu danh sách là Ấn độ (399 vụ), Hoa Kỳ (354
vụ) và EU (303 vụ). Trong số 97 nước bị kiện, các nước đứng đầu là Trung Quốc (386
vụ), Hàn Quốc (94 vụ), Hoa Kỳ (146 vụ) Đối với Việt Nam, tính đến tháng 3-2006 đã
phải đối mặt với 21 vụ kiện chống bán phá giá, trong đó có 13 vụ Việt Nam phải chịu
thuế chống bán phá giá. Trong đó, EU khởi kiện Việt Nam nhiều nhất (8 vụ) với mức
thuế cao nhất lên đến 93% đối với mặt hàng Oxit kẽm. Điều đáng chú ý là số lượng các
cuộc điều tra chống bán phá giá tăng mạnh trong thời gian gần đây. Nếu trong giai đoạn
1994-2001, Việt Nam chỉ chịu 1-2 vụ kiện/năm thì đến năm 2004 phải đối phó với 7 vụ
kiện liên tiếp liên quan đến nhiều mặt hàng công nghiệp xuất khẩu. Ở thời kỳ trước, các
mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam bị áp dụng thuế chống bán phá giá chưa phải là những
mặt hàng chiến lược, vì vậy ảnh hưởng chưa lớn đến kim ngạch xuất khẩu của nước ta.
Nhưng từ vụ kiện cá tra, cá ba sa năm 2002, đến nay có thể thấy rằng không chỉ một số
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như thuỷ sản, giày dép mà cả những mặt

21
hàng xuất khẩu có số lượng chưa lớn nhưng mới thâm nhập thị trường đều có thể trở
thành đối tượng của kiện bán phá giá do phương thức tính gộp tổng lượng hàng hoá liên
quan từ nhiều nguồn nhập khẩu (không được quá 7%) của nước khởi kiện như khoá Inôx
(EU), săm lốp xe đap, xe máy (Thổ Nhĩ Kỳ), đèn huỳnh quang (Ai Cập)
9
Dưới đây là bảng thống kê các vụ kiện chống bán phá giá mà Việt Nam có liên
quan:
bT p+8  AB
5VD*U+
q),M+8 7$HD*U+
Q001 34 Máy điều hòa Thổ Nhĩ Kỳ
33 Đĩa ghi DVD Ấn Độ
32 Túi nhựa PE Mỹ
31 Giày và đế giày cao su Canada
30 Giày Braxin
Q00` 29 Sợi vải Ấn Độ
28 Lò xo không bọc Mỹ
27 Vải nhựa Thổ Nhĩ Kỳ
Q00^ 26 Đĩa ghi Ấn Độ
25 Đèn huỳnh quang Ân Độ
24 Bật lửa ga Thổ Nhĩ Kỳ
Q00] 23 Giàu mũ vải Peru
22 Dây curoa Thổ Nhĩ Kỳ
Q002 21 Nan hoa xe đạp, xe máy Argentina
20 Đèn huỳnh quang Ai Cập
19 Giày mũ da EU
Q00[ 18 Ván lướt sóng Peru
17 Đèn huỳnh quang EU
16 Chốt cài inox EU

15 ống tuýp thép EU
14 Xe đạp EU
13 Lốp xe Thổ Nhĩ Kỳ
12 Vòng khuyên kim loại EU
Q00W 11 Tôm Mỹ
10 Oxit kẽm EU
Q00Q 9 Cá da trơn Mỹ
9
/>22
8 Bật lửa ga Hàn Quốc
7 Bật lửa ga EU
6 Giày và đế giày không
thấm nước
Canada
Q003 5 Tỏi Canada
Q000 4 Bật lửa ga Ba Lan
311` 3 Giày dép EU
2 Mì chính EU
311[ 1 Gạo Columbia
Nguồn: Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương
Trên đây là một số nét sơ lược về thực tiễn điều tra chống bán phá giá đối với
hàng hóa nhập khẩu có nguồn gốc từ Việt Nam. Để làm rõ hơn tình hình về các vụ kiện
bán phá giá đối với Việt Nam, trong phần trình bày tiếp theo, nhóm chúng tôi xin được
phân tích thực tiễn áp dụng phương pháp tiếp cận quốc gia thay thế trong quy chế áp
dụng đối với nền kinh tế phi thị trường và thực tiễn áp dụng phương pháp tiếp cận như
trường hợp của nền kinh tế thị trường (market economy treatment – MET) đối với các vụ
kiện bán phá giá hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam.
Q;3; ,jH)*k+4%-V+8%,7=+8%,4%)*I%H(+E'BH8*/),/G),I)K.+8E'G
H,I4%-V+8NB*5$*+F+D*+,)I%,*),J)K7L+8
Việc Việt Nam chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường khi gia nhập WTO

có ảnh hưởng không nhỏ đến các vụ kiện bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu có
nguồn gốc từ Việt Nam. Phải ý thức được rằng, việc một quốc gia nào đó kiện hàng Việt
Nam bán phá giá trên thị trường của họ là theo pháp luật của họ, tuy nhiên pháp luật về
chống bán phá giá của các quốc gia thành viên WTO về nguyên tắc phải phù hợp với
Điều VI GATT 1994 và Hiệp định AD
10
.
Như đã được đề cập ở phần khái quát về điều tra chống bán phá giá, trong tất cả
các cuộc điều tra chống bán phá giá, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu phải xác định
10
TS Dương Anh Sơn, Quy chế nền kinh tế phi thị trường và vấn đề minh bạch để ứng phó với
các vụ kiện bán phá giá
23
được có hành vi bán phá giá một sản phẩm nhất định hay không và phải tính toán được
biên độ bán phá giá của sản phẩm đó; việc này được thực hiện trên cơ sở so sánh giữa
“giá xuất khẩu” và “giá trị thông thường” của sản phẩm đó. Theo Hiệp định AD cũng
như pháp luật về chống bán phá giá của các nước, giá trị thông thường của sản phẩm
nhập khẩu sẽ được xác định bằng một trong ba cách sau đây theo thứ tự ưu tiên là:
Giá bán của hàng hóa tại thị trường nội địa.
Giá bán hàng hóa sang thị trường thứ ba.
“Giá trị tính toán” của hàng hóa bằng tổng chi phí sản xuất cộng với các
khoản lợi nhuận, tiền hoa hồng bán hàng và các chi phí hành chính khác như đóng
gói
11

Qua đó, có thể khẳng định rằng, dù theo cách nào thì cơ quan điều tra cũng phải
dựa vào các số liệu về chi phí sản xuất và giá cả tại nước xuất khẩu. Sẽ chẳng có gì phải
bàn nếu như nước xuất khẩu là một quốc gia có nền kinh tế thị trường, vấn đề chỉ thực
sự nảy sinh khi nước xuất khẩu bị coi là có nền kinh tế phi thị trường. Khi đó, cơ quan
điều tra của nước nhập khẩu thường lập luận rằng, những số liệu về chi phí sản xuất và

giá cả tại nước xuất khẩu thường không đáng tin cậy, không phản ánh đúng giá trị thông
thường của sản phẩm do đã có sự can thiệp từ Chính phủ. Trong trường hợp đó, cơ quan
điều tra có quyền không áp dụng các phương pháp tính toán “giá trị thông thường” nêu
trên, mà thay vào đó cơ quan điều tra sẽ tự “xây dựng” giá trị thông thường của sản
phẩm dựa trên số liệu về giá cả và chi phí sản xuất tại một nước thứ ba hay nước thay
thế nào đó. Chẳng hạn, theo pháp luật Hoa Kỳ thì trong một cuộc điều tra chống bán phá
giá, nếu nước xuất khẩu bị coi là có nền kinh tế phi thị trường thì Cục Nhập khẩu của Bộ
Thương mại (DOC) sẽ sử dụng phương pháp “các yếu tố sản xuất” để xây dựng giá trị
thông thường của sản phẩm, cụ thể là DOC sẽ nhân số lượng/khối lượng của các yếu tố
đầu vào do các nhà sản xuất thuộc diện điều tra cung cấp với giá của các yếu tố đầu vào
này ở nước thay thế. Sau đó, DOC sẽ cộng thêm một số chi phí như chi phí cố định, chi
phí khấu hao, chi phí bán hàng, chi phí hành chính… để tính ra toàn bộ chi phí sản xuất
của một đơn vị sản phẩm. Chi phí sản xuất này cộng với lãi và chi phí đóng gói theo
mức ở nước thay thế được coi là giá trị thông thường của sản phẩm.
11
Lưu Hương Ly, Cơ chế phi thị trường và kiện chống bán phá giá
24
Như vậy, quy chế thương mại của nước xuất khẩu sẽ đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong việc xác định “giá trị thông thường” của sản phẩm trong các cuộc điều tra
chống bán phá giá. Nếu nước xuất khẩu được thừa nhận là có nền kinh tế thị trường thì
giá cả và chi phí sản xuất tại thị trường nước xuất khẩu sẽ được sử dụng, còn nếu như
nước xuất khẩu bị coi là có nền kinh tế phi thị trường thì giá cả và chi phí sản xuất thực tế
tại thị trường nước xuất khẩu sẽ không được xem xét, mà việc tính toán giá trị thông
thường lại phải dựa vào giá cả và chi phí sản xuất tại một nước thứ ba hay còn gọi là
nước thay thế. Chính vì những quy định như trên mà các doanh nghiệp Việt Nam một khi
bị vướng vào những vụ kiện bán phá giá sẽ gặp phải sự bất lợi vô cùng lớn do ba nguyên
nhân chính sau:
Thứ nhất, việc sử dụng giá và chi phí sản xuất tại nước thay thế sẽ dẫn đến
biên độ bán phá giá rất cao. Mức biên độ bán phá giá cao này gần như là chắc chắn, vì
các nhà sản xuất tại nước thay thế đang cạnh tranh với các nhà xuất khẩu tại nước bị coi

là nền kinh tế phi thị trường và do đó, sẽ không có lợi cho họ trong việc giảm thiểu việc
tìm ra yếu tố bán phá giá của các nhà cạnh tranh của họ.
Thứ hai, việc sử dụng các số liệu của nước thay thế cũng dẫn đến việc
nhiều lợi thế so sánh của nước có nền kinh tế phi thị trường không được xem xét trong
quá trình điều tra và các doanh nghiệp của nước này bị áp dụng một mức thuế chống bán
phá giá mà lẽ ra, có thể tránh được nếu được coi là một nước có nền kinh tế thị trường.
Cụ thể, trong các vụ kiện bán phá giá đối với hàng hóa Việt Nam ở thị trường EU, các
doanh nghiệp của Việt Nam đã đưa ra nhiều lập luận để chứng minh các quốc gia thay
thế liên quan đến sự tương tự về điều kiện kinh tế - xã hội cũng như quy trình sản xuất
kinh doanh đối với sản phẩm. Tuy vậy, phần lớn các lập luận này đều bị Ủy ban Châu
Âu từ chối. Qua đó, có thể hiểu rằng Ủy ban Châu Âu không thực sự quan tâm đến sự
chênh lệch hay phù hợp về mức độ phát triển giữa các quốc gia khi lựa chọn. Ví dụ như
Mexico được lựa chọn là quốc gia thay thế trong vụ kiện xe đạp. Tuy nhiên, năm 2004,
tổng sản phẩm GNP của Việt Nam là 2.700 USD, trong khi đó Mexico là 9.640 USD.
Thứ ba, việc lựa chọn nước thay thế nhiều khi rất tùy tiện. Pháp luật của
các nước quy định không giống nhau về cách thức xác định nước thay thế. Ví dụ, theo
pháp luật Hoa Kỳ thì nước thay thế là nước có nền kinh tế thị trường, có trình độ phát
triển tương đương với nước bị kiện (chủ yếu dựa vào thu nhập quốc dân bình quân đầu
25

×