Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Luận văn: Hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.87 KB, 123 trang )



Luận văn
Hoàn thiện xếp hạng doanh
nghiệp tại Trung tâm Thông
tin tín dụng, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Tổ chức tín dụng (TCTD) là các trung gian tài chính có vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Vì vậy việc đảm bảo an toàn
hoạt động của các TCTD có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế.
Tuy vậy, hoạt động của các TCTD luôn tiềm ẩn những rủi ro, trong thực tế hoạt
động tín dụng của các TCTD Việt Nam trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ nợ không
đủ tiêu chuẩn còn cao và chưa có khuynh hướng giảm vững chắc. Có nhiều nguyên
nhân gây ra rủi ro, một trong những nguyên nhân chính là TCTD thiếu thông tin cần
thiết về khách hàng vay, đặc biệt là thông tin xếp hạng doanh nghiệp. Do đó, việc
có được những thông tin cần thiết về khách hàng vay có vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo an toàn cho hoạt động của các TCTD nói riêng và ngành Ngân hang
nói chung.
Thông tin về xếp hạng doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động của
TCTD và các chủ thể kinh tế khác như: tạo thêm một kênh thông tin quan trọng cho
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong công tác hoạch định, thực thi chính sách tiền
tệ; một mặt giúp các TCTD lựa chọn những khách hàng tốt, có khả năng trả nợ, mặt
khác thông qua định hạng khách hàng hiện có của mình để có những chính sách tín
dụng hợp lý, như tăng dự phòng rủi ro hoặc tăng cường giám sát đối với những
khoản vay có vấn đề; đồng thời, kết quả xếp hạng doanh nghiệp giúp cho các doanh
nghiệp nắm rõ được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của bạn hàng; của
chính doanh nghiệp đó để có những phương án sản xuất kinh doanh và đầu tư phù
hợp. Vì thế, trên thế giới có nhiều cơ quan, tổ chức chuyên môn cung cấp thông tin


về xếp hạng doanh nghiệp để phục vụ cho TCTD và các chủ thể khác trong nền
kinh tế.
Trung tâm Thông tin tín dụng (có tên tiếng Anh là Credit Information Centre
- viết tắt là CIC) hoạt động với mục đích thu thập và cung cấp thông tin chuyên
dùng phục vụ cho hệ thống ngân hàng và một số tổ chức kinh tế khác. Tính đến cuối
năm 2007, kho dữ liệu CIC thu thập và lưu trữ thông tin của hơn 8,5 triệu khách
hàng có quan hệ tín dụng với các TCTD, bao gồm khoảng 120.000 khách hàng là
doanh nghiệp, từ đó đã tạo ra trên 30 sản phẩm thông tin tín dụng, trong đó có sản
phẩm về xếp hạng doanh nghiệp để cung cấp cho các cơ quan Nhà nước; các TCTD
và các tổ chức kinh tế khác khi có nhu cầu. Như vậy, sản phẩm xếp hạng doanh
nghiệp còn giúp cho danh mục sản phẩm cung cấp ra của CIC được phong phú và
đa dạng nhằm hoàn thiện, uy tín hoạt động của CIC trong môi trường kinh tế hiện
nay. Tuy nhiên, việc xếp hạng doanh nghiệp là một nghiệp vụ mới, có thể nói CIC
là một cơ quan đầu tiên tại Việt Nam xây dựng và thực hiện nghiệp vụ này, do đó
còn nhiều hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh doanh của
các TCTD và của các chủ thể kinh tế khác trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ thực tế trên, đề tài: “Hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tại
Trung tâm Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” được chọn,
nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống phương pháp cũng như xếp hạng doanh nghiệp
trên phương diện lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay đối với CIC.
2. Mục đích nghiên cứu
- Khái quát một số vấn đề cơ bản về xếp hạng doanh nghiệp của các tổ chức
xếp hạng doanh nghiệp trong nước và trên thế giới.
- Phân tích thực trạng về xếp hạng doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay.
- Nghiên cứu thực tiễn chất lượng hoạt động xếp hạng doanh nghiệp tại CIC.
- Trên cơ sở nghiên cứu và học tập kinh nghiệm của các nước phát triển để
đề xuất các giải pháp hoàn thiện trong hoạt động xếp hạng doanh nghiệp tại CIC ở
giai đoạn trước mắt (2008-2015).
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Xếp hạng doanh nghiệp là một lĩnh vực rất rộng, bao hàm nhiều chủ thể

nghiên cứu và phạm vi đối tượng khác nhau. Trong khuôn khổ một luận văn thạc
sỹ, đề tài này giới hạn:
- Đối tượng xếp hạng là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tại Việt
Nam, không áp dụng đối với loại thành phần kinh tế là cá nhân.
- Chủ thể xếp hạng doanh nghiệp là Trung tâm Thông tin tín dụng Ngân hàng
Nhà nước giai đoạn 2003 - 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ nhận thức về cơ sở lý luận của việc xếp hạng doanh nghiệp đối
với hoạt động thông tin tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, tham khảo
kinh nghiệm của các cơ quan thông tin tín dụng tại một số nước tiên tiến, kết hợp
đánh giá thực trạng hoạt động xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm thông tin tín
dụng để đưa ra giải pháp hoàn thiện xếp hạng tín dụng trong hoạt động TTTD của
CIC.
Luận văn kết hợp một số phương pháp trong nghiên cứu khoa học là:
- Phương pháp duy vật biện chứng;
- Phương pháp duy vật lịch sử;
- Phương pháp tiếp cận hệ thống;
- Phương pháp thống kê điều tra, phân tích, tổng hợp, so sánh và phối hợp
dùng các bảng biểu, mô hình, sơ đồ để minh hoạ.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương như sau:
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về xếp hạng doanh nghiệp.
- Chương 2: Thực trạng xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm Thông tin tín
dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tại Trung tâm
Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XẾP HẠNG

DOANH NGHIỆP

1.1. Tổng quan về xếp hạng doanh nghiệp đối với các tổ chức kinh tế trong nền
kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm xếp hạng doanh nghiệp
1.1.1.1. Xếp hạng doanh nghiệp
Xếp hạng hoạt động kinh doanh doanh nghiệp là việc so sánh, đối chiếu các
thông tin, dữ liệu liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã được
phân tích theo một số tiêu chuẩn chung nào đó, để đưa ra vị trí, thứ hạng của doanh
nghiệp đó trong tổng thể thứ hạng đã được quy định sẵn.
Phân tích hoạt động kinh doanh doanh nghiệp là quá trình nghiên cứu các
thông tin, dữ liệu có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Quá trình đó được tiến hành từ bước khảo sát thực tế đến
tư duy trừu tượng, tức là thong qua việc quan sát thực tế, thu thập thông tin dữ liệu,
xử lý phân tích các thông tin dữ liệu đó để tìm nguyên nhân và đề ra các định hướng
hoạt động, các giải pháp, biện pháp thực hiện các định hướng đó.
Việc xếp hạng hoạt động kinh doanh doanh nghiệp bao gồm hai công đoạn
độc lập là phân tích và xếp hạng, nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết hữu cơ.
Phân tích doanh nghiệp là tiền đề, cơ sở cho việc xếp hạng.
Quá trình xếp hạng hoạt động kinh doanh doanh nghiệp diễn ra phổ biến và
thường xuyên tại các chủ thể kinh tế, chúng mang nhiều tính chất khác nhau và phụ
thuộc vào đối tượng cũng như giải pháp quản lý mà chủ thể áp dụng. Do đó, không
có một phương pháp xếp hạng cụ thể nào đối với mỗi đối tượng nghiên cứu được
quy định chung cho các chủ thể kinh tế [6,7,12].
“CREDIT RATING” là một thuật ngữ bằng tiếng Anh, được dịch sang tiếng
Việt bằng nhiều cách khác nhau như: xếp hạng doanh nghiệp, xếp hạng tín nhiệm,
xếp hạng tín dụng, định hạng tín dụng, xếp loại tín dụng, xếp hạng rủi ro tín dụng,
chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng, [28,29,30], thực ra bản chất thì đều
giống nhau, là một quá trình gồm 2 công đoạn: phân tích và xếp hạng. Để tiện trong
việc nghiên cứu, sau đây Luận văn thống nhất tên gọi chung quá trình này là xếp

hạng doanh nghiệp.
Xếp hạng doanh nghiệp là sử dụng một số các tiêu thức, chỉ tiêu theo mục
đích nghiên cứu để phân loại hay xác định doanh nghiệp theo một trật tự nào đó.
Xếp hạng thực chất là phân loại, song phân loại một cách liên tục thành trật
tự thứ hạng theo một hay nhiều tiêu thức khác nhau.
Việc xếp hạng doanh nghiệp là một quá trình từ khi xác định mục đích
nghiên cứu đến việc thu thập, xử lý thông tin, đánh giá chất lượng thông tin và đưa
ra kết quả về thứ hạng của doanh nghiệp theo một số tiêu chuẩn chung.
Bản chất của việc xếp hạng doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng ngân
hàng là việc áp dụng các phương pháp, công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán
và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình hoạt động của doanh
nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
đó cũng như đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp
đối với khoản vay nhất định như trả lãi và gốc nợ vay khi đến hạn, nhằm xác định
rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng
doanh nghiệp và được xác định thông qua qui trình xếp hạng bằng thang điểm, tuân
thủ theo các nguyên tắc nhất định và phù hợp với thông lệ quốc tế trên cơ sở dựa
vào các thông tin tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp đó tại thời điểm xếp
hạng.
1.1.1.2. Mục tiêu của việc xếp hạng doanh nghiệp
Trong quá trình thực hiện, tùy theo giác độ nghiên cứu của chủ thể, có thể có
mục tiêu khác nhau về xếp hạng doanh nghiệp. Đứng trên giác độ hoạt động ngân
hàng thì việc xếp hạng doanh nghiệp có một số mục tiêu chính sau:
Thứ nhất, là đánh giá khả năng tin cậy về tài chính của doanh nghiệp khi
đứng trên giác độ ngân hàng. Dựa trên cơ sở số liệu, các báo cáo tài chính và báo
cáo khác của doanh nghiệp để nhận xét đánh giá tình hình hoạt động, khả năng sinh
lời, khả năng thanh toán trong hiện tại và tương lai của doanh nghiệp nhằm xác định
khả năng thu hồi vốn và lãi vay. Nói cách khác, mục đích của việc xếp hạng doanh
nghiệp là đo lường trước các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng để đưa ra
các quyết định hợp lý về lãi suất, hạn mức tín dụng, các quyết định cho vay, không

cho vay, hay thu hồi nợ
Thứ hai, là phục vụ công tác điều hành quản lý của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN), giúp NHNN có thêm thông tin hỗ trợ cho việc hoạch định chính sách tiền
tệ tín dụng hợp lý và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, xếp hạng doanh nghiệp còn giúp cho chính các doanh nghiệp biết
được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và của bạn hàng để có
những quyết định chính xác trong tương lai.
1.1.1.3. Yêu cầu của việc xếp hạng doanh nghiệp
Việc xếp hạng doanh nghiệp phải đáp ứng những yêu cầu sau:
Tính đầy đủ: thông tin đầu vào phải đảm bảo kịp thời, trung thực, tin cậy,
đây là yêu cầu hàng đầu đối với mọi nguồn thông tin nói chung. Tính đầy đủ xác
của thông tin được hiểu theo nghĩa là thông tin đó phải xác thực, có nguồn cung cấp
rõ ràng, đáng tin cậy và phải thường xuyên được cập nhật. Tính đầy đủ còn thể hiện
qua việc tính toán tất cả các chỉ tiêu cần thiết để đánh giá đúng đối tượng cần
nghiên cứu.
Tính chính xác: xếp hạng doanh nghiệp và các chỉ tiêu phân tích phải khoa
học, được áp dụng rộng rãi, được thừa nhận trong khu vực, quốc tế và phù hợp với
hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, phù hợp với khả năng trình độ nhưng phải có
tính khả thi cao.
Tính khách quan: kết quả xếp hạng doanh nghiệp được công bố rộng rãi và
phải do các tổ chức xếp hạng trung gian đứng ra thực hiện để đảm bảo tính khách
quan, không có liên quan về lợi trong việc đưa ra kết quả xếp hạng.
Tính trung thực: trong quá trình phân tích và xếp hạng, các thông tin, dữ liệu
sử dụng để phân tích, cũng như kết quả xếp hạng đối doanh nghiệp phải được đảm
bảo trung thực, giữ nguyên bản chất, không được làm sai lệch thông tin theo ý
muốn chủ quan của bất kỳ đối tượng nào.
1.1.1.4. Chủ thể trong xếp hạng doanh nghiệp
Thực tế hiện nay trên thế giới và các nước trong khu vực thường có 2 loại
chủ thể trong xếp hạng doanh nghiệp gồm: các công ty chuyên xếp hạng doanh
nghiệp (hoặc công ty thông tin tín dụng) và các Ngân hang thương mại (NHTM).

Các công ty xếp hạng tín dụng có thể là các công ty lớn có tính toàn cầu như:
Moody’s, Standard and Poor, First Rating, hoặc có thể là những công ty nhỏ hơn ở
tại từng nước như Credit Bureau Singapore, Joint Credit Information Center Taipei.
Ở Việt Nam, CIC có mô hình hoạt động như các công ty của Singapore hay Taipei.
Chủ thể chính được đề cập trong Luận văn là CIC, với mục tiêu phục vụ
công tác quản lý, điều hành của Thống đốc NHNN, giúp các TCTD trong công tác
quản trị rủi ro tín dụng và giúp các tổ chức khác trong việc đánh giá năng lực hoạt
động của doanh nghiệp. Ngoài ra, việc xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện tại
CIC nhằm đa dạng hoá sản phẩm của CIC, phục vụ các đối tượng sử dụng thông tin.
1.1.1.5. Đối tượng xếp hạng doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế độc lập, một tập hợp gồm những bộ phận
gắn bó với nhau, có vốn và các phương tiện vật chất, kỹ thuật, hoạt động theo
những nguyên tắc và mục tiêu thống nhất, thực hiện hạch toán kinh doanh hoàn
chỉnh, có nghĩa vụ và được hệ thống pháp luật thừa nhận cũng như bảo vệ.
Vì vậy, đối tượng xếp hạng doanh nghiệp là các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế, đang hoạt động tại Việt Nam.
1.1.2. Vai trò của xếp hạng doanh nghiệp
1.1.2.1. Đối với tổ chức tín dụng
Hoạt động của TCTD trong nền kinh tế thị trường là một trong những hoạt
động kinh tế có nhiều rủi ro. Có thể nói rủi ro được xem như một yếu tố không thể
tách rời với quá trình hoạt động của TCTD trên thị trường. Rủi ro trong cho vay còn
được nhân lên gấp đôi, bởi vì TCTD không những phải hứng chịu những rủi ro do
những nguyên nhân chủ quan của mình, mà còn gánh chịu những rủi ro do khách
hàng gây ra. Hơn nữa, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có thể gây ra những tổn thất
to lớn cho nền kinh tế hơn bất cứ rủi ro của các loại hình doanh nghiệp khác, vì tính
chất lây lan của nó có thể làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế của một quốc
gia và theo phản ứng dây chuyền nó có thể tác động đến hầu hết tất cả các quốc gia
trên toàn thế giới.
Việc xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện nhằm hỗ trợ TCTD trong việc:
Ra quyết định cấp tín dụng: xác định hạn mức tín dụng, thời hạn, mức lãi

suất, biện pháp bảo đảm tiền vay, phê duyệt hay không phê duyệt.
Giám sát và đánh giá khách hàng tín dụng khi khoản tín dụng đang còn dư
nợ; xếp hạng doanh nghiệp cho phép TCTD lường trước những dấu hiệu cho thấy
khoản vay đang có chất lượng xấu đi hay xem khía cạnh tốt lên và có những biện
pháp áp dụng kịp thời.
Giảm chi phí và tiết kiệm thời gian quyết định một món vay.
Xét trên góc độ quản lý toàn bộ danh mục tín dụng, xếp hạng doanh nghiệp
còn nhằm mục đích: phát triển chiến lược marketing nhằm hướng tới các khách
hàng có ít rủi ro hơn. Ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trích
lập dự phòng rủi ro tín dụng. Các ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian
khác với tư cách là một nhà đầu tư sử dụng xếp hạng doanh nghiệp làm một tiêu
chuẩn quan trọng khi quyết định cho vay, tài trợ dự án, thoả thuận swap…
1.1.2.2. Đối với các doanh nghiệp
Nhằm giúp các doanh nghiệp xây dựng hình ảnh và độ tín nhiệm của mình
trong sản xuất, kinh doanh nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế của Việt Nam, thì
việc xếp hạng tín dụng là rất cấp thiết và cần thiết. Khi các doanh nghiệp tham gia
đánh giá tín dụng doanh nghiệp sẽ nhận được những thông tin đánh giá hết sức độc
lập, khách quan về tình hình sản xuất kinh doanh của mình, tự mình hiểu được mình
về năng lực tài chính, khả năng thanh toán, công nợ Mặt khác, doanh nghiệp còn
nhận được những dịch vụ tư vấn tài chính, quản lý, thị trường Kết quả xếp hạng
doanh nghiệp hàng năm do cơ quan xếp hạng doanh nghiệp đưa ra sẽ tôn vinh các
doanh nghiệp có vị trí xếp hạng cao, đồng thời doanh nghiệp cũng phải có giải pháp
khi bị tụt hạng. Điều này sẽ góp phần rất lớn trong việc quảng bá và phát triển thực
lực của doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như ở nước ngoài.
Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh tín dụng ngân hàng (tín dụng giữa các
ngân hàng với doanh nghiệp), còn xuất hiện và phát triển hình thức tín dụng thương
mại. Đây chính là quan hệ mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với nhau trong quá
trình mua bán hàng hóa. Chính vì thế, thông tin về xếp hạng doanh nghiệp sẽ giúp
các doanh nghiệp tìm hiểu rõ hơn đối tác của mình, từ đó quyết định các giao dịch
mua bán chịu hàng hoá, hợp tác liên doanh….

1.1.2.3. Đối với các nhà đầu tư và thị trường chứng khoán
Xếp hạng doanh nghiệp có thể cung cấp cho thị trường chứng khoán một hệ
thống xếp hạng các công cụ tài chính, đặc biệt là các chứng khoán nợ, từ đó giúp
cho các nhà đầu tư có cơ sở để tham khảo, so sánh, đối chiếu trước khi ra quyết định
đầu tư cuối cùng, đầu tư vào những công cụ nào? Vì thế, hệ thống xếp hạng mà các
cơ quan xếp hạng đưa ra đóng vai trò bảo vệ các nhà đầu tư, giảm bớt rủi ro khi đầu
tư vào chứng khoán.
Mặc dù thị trường chứng khoán ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành
và phát triển, nhưng tương lai đó là một thị trường tài chính cao cấp trong nền kinh
tế thị trường, nó cũng là công cụ cao cấp nhất của thị trường tài chính.
Hệ thống xếp hạng doanh nghiệp không những có lợi cho các nhà đầu tư mà
còn mang lại lợi ích cho các công ty chứng khoán. Xếp hạng doanh nghiệp sẽ tạo
điều kiện cho việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán thực hiện được dễ
dàng, thuận lợi hơn. Mà còn góp phần quan trọng vào việc giảm bớt chi phí sử dụng
vốn cho người phát hành. Xếp hạng doanh nghiệp thúc đẩy nhà phát hành nâng cao
hơn trách nhiệm đối với các nhà đầu tư. Việc xếp hạng doanh nghiệp liên quan chặt
chẽ đến uy tín với nhà phát hành, điều đó thúc đẩy người phát hành thực hiện tốt
hơn các cam kết đối với các nhà đầu tư trong việc đảm bảo thanh toán tiền lãi và
tiền vốn vay.
Xếp hạng doanh nghiệp là nhân tố quan trọng khi đánh giá mối quan hệ giữa
rủi ro và lợi nhuận. Nhà đầu tư so sánh đánh giá lợi nhuận – rủi ro giữa các công cụ
đầu tư để tìm ra công cụ có lợi nhất vừa có hiệu quả vừa an toàn.
1.1.2.4. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
Thông tin xếp hạng doanh nghiệp giúp cho các cơ quan quản lý Nhà nước
đánh giá được đối tượng quản lý của mình, có cơ sở thông tin để so sánh theo ngành
kinh tế, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp. Là nguồn thông tin tốt giúp cho
việc định giá doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá. Bên cạnh vai trò như là một
công cụ quản lý, các tổ chức xếp hạng doanh nghiệp còn đóng vai trò như là một
tiêu chuẩn quản lý chính thức. Là cơ sở giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đưa ra
những giải pháp thích hợp nhất để thúc đẩy sự phát triển và hoạt động của các

doanh nghiệp trong từng ngành kinh tế nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung,
nhằm bảo đảm một môi trường kinh tế hoạt động lành mạnh.
Đối với NHNN việc xếp hạng doanh nghiệp có thể biết được mức độ rủi ro
theo từng ngành kinh tế, từ đó có chính sách tiền tệ, tín dụng thích hợp, và tổ chức
thanh tra giám sát các TCTD.
1.1.2.5. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các đối tác nước ngoài trước khi
vào Việt Nam đầu tư, liên doanh liên kết, họ hầu hết đều phải thông qua một tổ
chức nào đó để xác định độ tin cậy của đối tác trong nước. Ở Việt Nam hiện chưa
có một tổ chức nào làm được các “cầu nối” quan trọng này. Do vậy, có thể một
trong những nguyên nhân mà các nhà đầu tư nước ngoài chưa mạnh dạn đầu tư vào
Việt Nam là họ thiếu những thông tin cơ bản ban đầu về thị trường Việt Nam cũng
như thông tin về các doanh nghiệp Việt Nam.
Dựa trên kết quả xếp hạng doanh nghiệp, các nhà đầu tư mới có căn cứ để
thẩm định, lựa chọn danh mục đầu tư, dự báo tình hình phát triển doanh nghiệp và
đưa ra quyết định đầu tư. Thông qua kết quả xếp hạng doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ
hiểu rõ hơn về sức mạnh tài chính của các công ty, đánh giá năng lực tổ chức, các
mối quan hệ kinh doanh hoặc quan tâm tới việc mua cổ phiếu trên thị trường chứng
khoản của các công ty này.
1.2. Một số nội dung cơ bản của xếp hạng doanh nghiệp
1.2.1. Các phương pháp dùng trong xếp hạng doanh nghiệp
1.2.1.1.Phương pháp phân tích thống kê
Phương pháp phân tích thống kê thường được sử dụng bao gồm:
Phương pháp so sánh chủ yếu dựa trên sự đối chiếu, so sánh các giá trị của
doanh nghiệp này với các doanh nghiệp khác, so sánh các giá trị của cùng một chỉ
tiêu tại các thời kỳ khác nhau, hoặc so với các giá trị trung bình của ngành hay thị
trường.
Phương pháp loại trừ (hay còn gọi là phương pháp thay thế) là phương pháp
xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến đối tượng nghiên cứu bằng cách
loại trừ dần ảnh hưởng của các nhân tố khác. Có thể dùng cách thay thế liên hoàn,

có thể xác định ảnh hưởng của các nhân tố qua thay thế lần lượt và liên tiếp các
nhân tố để xác định trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi.
Phương pháp liên hệ cân đối, là phương pháp xác định chỉ tiêu kinh tế thông
qua xác định mối quan hệ của chúng với các nhân tố khác.
Phương pháp phân tích thống kê là phương pháp phân tích các hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp căn cứ vào các chỉ tiêu kinh tế được xây dựng dựa
vào các số liệu thống kê thu thập trong các kỳ kinh doanh đã qua của doanh nghiệp.
1.2.1.2. Phương pháp chuyên gia
Phương pháp này được thực hiện bằng cách thu thập ý kiến của các chuyên
gia để đánh giá về một nội dung cần đánh giá nào đó. Phương pháp này gồm 3 bước
cơ bản sau:
Bước 1 - Chuẩn bị đánh giá bao gồm lập danh sách những chuyên gia được
hỏi ý kiến và xây dựng bảng câu hỏi.
Bước 2 - tập hợp các ý kiến trả lời, phân tích và hình thành bảng tổng hợp
kết quả đánh giá.
Bước 3 - Tổng hợp các ý kiến đánh giá lần thứ hai.

1.2.1.3. Phương pháp chi tiết
Việc phân chia các hiện tượng và kết quả kinh tế theo những tiêu thức khác
nhau như theo yếu tố cấu thành, theo địa điểm phát sinh và theo thời gian nhằm
giúp cho việc đánh giá chúng được chính xác và cụ thể, qua đó xác định được
nguyên nhân cũng như chỉ ra được trọng điểm của công tác quản lý.
Hơn nữa, phân chia các hiện tượng và kết quả kinh tế theo địa điểm phát sinh
nhằm phát hiện nguồn gốc hình thành của chúng, do vậy xác định được trọng điểm
của công tác quản lý.
1.2.1.4. Phương pháp logic biện chứng
Dựa vào thực trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp qua các thời kỳ
kinh doanh mà rút ra quy luật hoạt động của doanh nghiệp, cộng với nghiên cứu các
nhân tố tác động, các dự báo kinh tế mà đưa ra những đánh giá, kết luận về tình
hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

1.2.1.5. Phương pháp khảo sát thực tế
Là phương pháp khảo sát thực tế hoạt động của doanh nghiệp trong quá trình
sản xuất kinh doanh để tạo cơ sở thực tiễn sát thực nhằm giúp củng cố các đánh giá
nhận định về tình hình hoạt động kinh doanh của cdoanh nghiệp.
1.2.2. Trình tự xếp hạng doanh nghiệp
Qua nghiên cứu những điểm chung nhất, có tính phổ cập, quá trình xếp hạng
doanh nghiệp được thực hiện và tiến hành theo trình tự sau:
Sơ đồ 1.01- Các bước tiến hành xếp hạng doanh nghiệp





1.2.2.1. Thu thập thông tin
Thu thập thông tin bao gồm: Nguồn thông tin thu thập, phương pháp, quy
trình thu thập thông tin.
Thu
thập
thông
tin
Xác định
ngành kinh
tế và quy
mô doanh
nghiệp
Phân tích
các thông
tin thu thập
được và
cho đi

ểm

Đưa ra kết quả
phân tích và xếp
hạng doanh nghiệp
theo tiêu chuẩn
nhất định
Phê chuẩn
và công
bố kết quả
xếp hạng
Nguồn thu nhập: CIC thường xuyên cập nhập thông tin về khách hàng có
quan hệ với các tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm các NH
thương mại, NH liên doanh, chi nhánh NH nước ngoài, các công ty tài chính, công
ty cho thuê tài chính và các tổ chức khác có hoạt động NH…. Nguồn dữ liệu đầu
vào còn được bổ sung và cập nhật thông qua việc kết nối và trao đổi thông tin với
các kho thông tin dữ liệu của của các bộ ngành như: Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ
Thương mại, Bộ Nội vụ, Bộ Công an, Tổng cục thuế, Tổng cục thống kê, Tổng cục
hải quan, Uỷ ban chứng khoán, Cục đang ký giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư
pháp… và khai thác trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra để đáp ứng
nhu cầu về thông tin các doanh nghiệp nước ngoài CIC thương xuyên mở rộng quan
hệ hợp tác quốc tế, trao đổi với các hãng thông tin quốc tế, mua lại thông tin từ các
tổ chức lưu trữ, kinh doanh thông tin quốc tế.
Phương pháp thu thập thông tin: để thu thập TTTD được chính xác, kịp thời
CIC đã sử dụng một số phương pháp sau: nối mạng máy tính với các TCTD lớn,
xây dựng các phần mềm client-sever thực hiện gửii nhận TTTD qua mạng internet
theo chuẩn của CIC. Đối với những TCTD khác thu thập qua các thiết bị nhớ như
CD, đĩa mềm, file… hoặc bằng các văn bản; bằng văn bản, FAX, điện thoại hoặc
điều tra trực tiếp đối với các nguồn thông tin khác; mua thông tin từ các tổ chức như
Cục thuế, Sở đầu tư….và các tổ chức kinh doanh thông tin trong và ngoài nước.

Quy trình thu thập: một số TCTD có điều kiện (TCTD quốc doanh, TCTD
cổ phần) tổng hợp thông tin từ chi nhánh sau đó truyền file trược tiếp vế trung tâm;
các TCTD còn lại truyền file qua chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố sau đó chi nhánh
NHNN truyền file về Trung tâm thông tin tín dụng.
1.2.2.2. Xác định ngành kinh tế và quy mô của doanh nghiệp
Xếp hạng doanh nghiệp dựa trên tiêu chí xác định doanh nghiệp theo ngành
kinh tế, do mỗi ngành có những đặc điểm khác nhau như cơ cấu chi phí, mức độ
trưởng thành, tính chu kỳ, khả năng sinh lời,
Qui mô doanh nghiệp được phân thành 3 loại: lớn, vừa và nhỏ. Tình hình tài
chính doanh nghiệp tại kho dữ liệu CIC cho thấy, doanh nghiệp có qui mô khác
nhau có tình hình về vốn, tài sản, lao động cũng khác nhau và có sự cách biệt
tương đối rõ nét. Chính vì vậy, phân loại doanh nghiệp theo qui mô là việc làm
không thể thiếu được trước khi tính toán các chỉ tiêu tài chính để có thể đi đến xếp
hạng doanh nghiệp. Hay nói cách khác, việc xếp hạng doanh nghiệp là việc so sánh
doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác để đưa ra sự phân định thứ hạng chúng về
tín dụng, việc so sánh đó phải được đặt trong điều kiện quy mô cùng loại.
1.2.2.3. Phân tích các chỉ tiêu và cho điểm
Áp dụng các phương pháp phân tích nêu ở phần trên để phân tích các chỉ tiêu
tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp thu thập được. Trên cơ sở đó, dựa vào
các tiêu chuẩn được định sẵn nhất định nào đó để cho điểm đối với từng chỉ tiêu đã
được phân tích.
1.2.2.4. Đưa ra kết quả xếp hạng
Trên cơ sở bảng điểm của các chỉ tiêu, tổ chức xếp hạng đưa ra kết quả xếp
hạng đối với doanh nghiệp theo các tiêu chuẩn được định sẵn nhất định nào đó, tùy
theo mục đích của chủ thể đánh giá.
1.2.2.5. Phê chuẩn và công bố kết quả xếp hạng
Căn cứ vào kế quả xếp hạng, tổ chức xếp hạng căn cứ vào các tiêu chuẩn
xem xét lần cuối và phê chuẩn kết quả xếp hạng và tổ chức công bố theo quy định
hoặc theo yêu cầu của chủ thể sử dụng kết quả xếp hạng.
1.2.3. Nguồn thông tin sử dụng trong quá trình xếp hạng doanh nghiệp

1.2.3.1. Thông tin tài chính của doanh nghiệp
Thông tin tài chính của doanh nghiệp bao gồm: Bảng Cân đối kế toán, Báo cáo kết
quả kinh doanh, Báo cáo Lưu chuyển tiền tệ.
1.2.3.2. Thông tin phi tài chính
Thông tin phi tài chính bao gồm: tình hình quan hệ tín dụng của khách hàng; thông
tin pháp lý (địa chỉ, số điện thoại, fax, email, web, số đăng ký kinh doanh, quyết
định thành lập doanh nghiệp, ngày cấp, nơi cấp, loại hình doanh nghiệp, ngành nghề
kinh doanh, thông tin tranh chấp tại tòa án ); thông tin về trụ sở làm việc (đi thuê
hay sở hữu, diện tích, địa thế ), thông tin về ban lãnh đạo (họ tên, tuổi, năm kinh
nghiệm, trình độ ), thông tin trình độ công nghệ; thông tin sản phẩm; thông tin chi
nhánh và công ty con (nếu có); thông tin sở hữu doanh nghiệp; thông tin lao động
(số lượng, trình độ ).
1.2.4. Hệ thống chỉ tiêu dùng để xếp hạng doanh nghiệp
1.2.4.1. Chỉ tiêu tài chính
Các tỷ số về khả năng thanh toán
* Khả năng thanh toán hiện hành

Tài sản ngắn hạn thông thường bao gồm tiền các chứng khoán ngắn hạn dễ
chuyển nhượng (tương đương tiền) các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho) còn nợ
ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn NHTM, các TCTD khác, các
khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác… Cả tài sản ngắn
hạn và nợ ngắn hạn đều có thời gian nhất định tới một năm. Tỷ số khả năng thanh
toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp nó cho
biết mức độ các khoản nợ của các chủ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có
thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản
nợ đó.
* Tỷ số khả năng thanh toán nhanh
Là tỷ số giữa tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng
nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền bao gồm: tiền,
chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản

khó chuyển thành tiền hơn trong tài sản ngắn hạn và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do
vậy tỷ số khả năng thanh toán cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn
không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho) và được xác định bằng cách
lấy tài sản ngắn hạn trừ phần dự trữ (tồn kho) chia cho nợ ngắn hạn.

Các tỷ số về khả năng cân đối vốn
* Tỷ số nợ phải trả trên nguồn vốn chủ sở hữu

Tỷ số này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh
nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan
trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn của chủ sở hữu
công ty để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho các món nợ. Nếu
chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn thì rủi ro xảy ra
trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác bằng cách
tăng vốn thông qua vay nợ các chủ doanh nghiệp vẫn nằm quyền kiểm soát và điều
hành doanh nghiệp. Ngoài ra nếu doanh nghiệp thu được lợi nhận từ tiền vay thì lợi
nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng đáng kể.
* Tỷ số nợ phải trả trên tổng tài sản

Tỷ số nợ phải trả trên tổng tài sản (hệ số nợ) được sử dụng để xác định nghĩa
vụ của doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ
nợ thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng
được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó các chủ sở
hữu doanh nghiệp ưa thích tỷ số cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn
toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song nếu tỷ số nợ quá cao doanh nghiệp dễ bị
rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
* Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi
Thể hiện ở tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên lãi vay. Nó cho biết
mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả
được các khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.

Các tỷ số về khả năng hoạt động
Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của
doanh nghiệp vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác
nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ liên
quan tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả
sử dụng của từng bộ phận cầu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh
thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các tỷ số này để xem xét khả năng hoạt
động của doanh nghiệp.
* Vòng quay dự trữ (tồn kho)
Là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong
năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩn dở dang, thành phẩm)
bình quân.

* Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu trong một năm .

Tài sản cố định ở đây được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo
cáo.
* Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản nó được đo bằng tỷ số
giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng
doanh thu.

Các tỷ số về khả năng sinh lãi
Nếu như các nhóm tỷ số trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng
biệt của doanh nghiệp thì tỉ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả
sản xuất – kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp.
* Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm


Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu.
Nó được phản ánh số lợi nhuận sau thuế trong một trăm triệu đồng doanh thu.
* Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (Doanh lợi vốn chủ sở hữu –
ROE)

Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu được xác định bằng cách chia thu nhập
sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và
được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh
nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong
hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp.
Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng
* Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận: là một chỉ tiêu phản ánh hoạt động kinh
doanh tốt hay kém một cách rõ nét nhất. Bất kỳ người sử dụng thông tin nào đều
xem xét yếu tố lợi nhuận của một doanh nghiệp và so sánh chúng qua các kỳ hạch
toán.
* Tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu: vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp là
chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ nguồn vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp, các
quỹ của doanh nghiệp và các phần kinh phí. Việc tăng hay giảm nguồn vốn chủ sở
hữu qua các năm là một yếu tố rất quan trọng khi xem xét đánh giá xếp hạng doanh
nghiệp.
* Tốc độ tăng trưởng doanh thu: doanh thu bán hàng phản ánh toàn bộ doanh
thu thực tế của doanh nghiệp trong một kỳ hạch toán. Thực hiện so sánh doanh thu
giữa các năm sẽ biết được giá trị sản phẩm mà doanh nghiệp đã bán, đã cung cấp
cho khách hàng tăng hay giảm.
1.2.4.2. Chỉ tiêu phi tài chính
Những chỉ tiêu phi tài chính về doanh nghiệp chủ yếu là những chỉ tiêu định
tính, vì vậy việc phân tích chủ yếu là dùng phương pháp chuyên gia để phân tích đối
với từng doanh nghiệp, so sánh giữa các kỳ để thấy được quy luật phát triển.
Tuỳ theo từng mục đích của các nhà xếp hạng doanh nghiệp mà việc lựa

chọn các chỉ tiêu phi tài chính có thể nhiều hay ít, sau đây là một số chỉ tiêu hay
được lựa chọn để phân tích.
Chỉ tiêu người điều hành: giới tính, độ tuổi, trình độ văn hoá, trình độ
chuyên môn, năng lực tổ chức điều hành, tư cách đạo đức, kinh nghiệm điều hành,
các cương vị đã trải qua của người điều hành doanh nghiệp, Các chỉ tiêu này có
ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là với
doanh nghiệp tư nhân và cổ phần.
Chỉ tiêu lĩnh vực hoạt động: doanh nghiệp hoạt động trong ngành gì, vị trí
của ngành đó trong nền kinh tế như thế nào, sự phát triển của các doanh nghiệp
trong ngành có đồng đều không, sự tăng trưởng của ngành đó ra sao, ngành đó đang
trong thời kỳ đi lên, đi xuống hay đã phát triển đến đỉnh điểm, tiềm năng hoạt động
của ngành này trong tương lai như thế nào, có nhiều dự án mới cạnh tranh không,
Đó đều là những nhân tố tác động đến sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu uy tín và thị phần: thị trường tiêu thụ sản phẩm, quy mô thị trường
tiềm năng và xu thế phát triển của thị trường là mở rộng hay thu hẹp của doanh
nghiệp. Điều này rất quan trọng và có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có tên tuổi (thương hiệu) hay không, thuộc loại công ty lớn,
trung bình hay nhỏ, là doanh nghiệp hàng đầu hay đứng vị trí nào trên thị trường,
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp khi có sự biến động của thị trường nguyên
liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm như thế nào.
Chỉ tiêu sản phẩm: sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng ra sao, đứng vị
trí nào trên thị trường sản phẩm đó, số lượng sản phẩm chiếm bao nhiêu phần trăm
trên thị trường hiện tại và tương lai, khả năng tiêu thụ, sản phẩm hướng tới thị
trường nào, tiêu thụ trong nước hay xuất khẩu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm
đó ở trong nước và ngoài nước, sản phẩm có được hợp đồng bao tiêu không.
Chỉ tiêu công nghệ sản xuất: đối với các doanh nghiệp sản xuất các sản
phẩm hữu hình, công nghệ giữ vai trò đặc biệt quan trọng vì công nghệ sẽ quyết
định việc sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tốt và giảm giá thành, nó có
ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh, đến khả năng hoàn trả vốn cho các nhà đầu

tư trong đó có ngân hàng.
Chỉ tiêu tổ chức quản lý: đánh giá về tổ chức quản lý của một doanh nghiệp
dựa trên tính hữu hiệu của mô hình tổ chức và bộ máy quản trị mà người ta có thể
áp dụng cho một doanh nghiệp bởi mỗi doanh nghiệp có những đặc trưng đặc thù về
ngành nghề sản phẩm, chiến lược kinh doanh, trình độ nhân viên.
Chỉ tiêu mối quan hệ: doanh nghiệp có là thành viên của Hiệp hội hay tập
đoàn nào không, có được bảo lãnh tài chính, phi tài chính từ công ty mẹ hoặc là thư
giới thiệu của công ty có tên tuổi khác không. Quan hệ với các công ty cung cấp
hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm thế nào, tình hình của các công ty đó có vững chắc
không. Các nhân tố này cũng có ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động của doanh
nghiệp.
Chỉ tiêu thời gian hoạt động: số năm hoạt động của doanh nghiệp là một chỉ
tiêu để đánh giá doanh nghiệp, một doanh nghiệp hoạt động lâu năm trong một
ngành sẽ có nhiều kinh nghiệm và cơ hội thành công trong kinh doanh hơn là doanh
nghiệp mới thành lập.
Chỉ tiêu lịch sử hoạt động: lịch sử hoạt động của doanh nghiệp phản ánh quá
trình hoạt động của doanh nghiệp qua các năm. Đứng trên giác độ của các nhà quản
lý ngân hàng, một doanh nghiệp có lịch sử hoạt động tốt là doanh nghiệp có lịch sử
hoạt động rõ ràng, không có rắc rối gì về pháp luật, vay trả nợ sòng phẳng.
1.3. Các tiêu chí đánh giá xếp hạng doanh nghiệp
1.3.1. Quan niệm về xếp hạng doanh nghiệp
Việc xếp hạng doanh nghiệp là rất cần thiết đối với nhiều chủ thể kinh tế
trong nền kinh tế thị trường như giúp ngân hàng với tư cách các nhà đầu tư vốn
phân loại khách hàng vay để ngăn ngừa hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng.
Đồng thời việc xếp hạng doanh nghiệp cũng cần thiết đối với chính bản thân các
doanh nghiệp và đối với nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực. Chính vì sự cần thiết đó, việc xếp hạng doanh nghiệp phải hết sức coi trọng.
Nếu xếp hạng doanh nghiệp không tốt thì kết quả đưa ra sẽ không đảm bảo đúng
đắn, khách quan, thậm chí còn sai lệch, khi đó việc ứng dụng nó sẽ gây ra những
hậu quả rất nghiêm trọng cho hoạt động của các nhà đầu tư, cho doanh nghiệp và

cho toàn bộ nền kinh tế.
Vì vậy việc nghiên cứu về xếp hạng doanh nghiệp cùng với các phương
pháp, tiêu thức để xếp hạng đối với hoạt động này là rất cần thiết làm cơ sở cho luận
văn đưa ra các giải pháp hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp.
Quá trình xếp hạng doanh nghiệp có tốt thì tất cả các khâu trong quá trình
này phải được tổ chức với nội dung phù hợp và khoa học, đó là nguồn thông tin đầu
vào chính xác, đầy đủ; hệ thống chỉ tiêu phân tích phải phong phú, có tính khả thi;
phương pháp phân tích phải khoa học, phù hợp với thông lệ quốc tế; kết quả phân
tích phải đáp ứng được nhu cầu của đối tượng sử dụng thông tin.
Xếp hạng doanh nghiệp được các chủ thể đánh giá coi trọng và quan tâm thì
uy tín và năng lực của chủ thể đánh giá sẽ cao. Xếp hạng doanh nghiệp tác động đến
tất cả mọi đối tượng từ chủ thể đánh giá, đối tượng phân tích và người sử dụng kết
quả. Vì vậy, có thể coi xếp hạng doanh nghiệp là nội hàm của hoạt động thông tin
tín dụng. Hoàn thiện xếp hạng doanh nghiệp tức là nâng cao năng lực, uy tín của
chủ thể phân tích, là tìm các giải pháp để hoàn thiện qui trình phân tích, xếp hạng
doanh nghiệp sao cho phù hợp với mục đích nghiên cứu và yêu cầu đặt ra của chủ
thể đánh giá.
Xếp hạng doanh nghiệp còn được thể hiện ở việc phải đặt nghiệp vụ này
trong mối quan hệ biện chứng với môi trường kinh doanh, môi trường kinh tế, chính
trị, xã hội và khả năng đáp ứng của ngân hàng. Cơ sở của việc xếp hạng doanh
nghiệp là các thông tin thu thập được. Với những phương pháp phân tích và các chỉ
tiêu phân tích phù hợp với mục đích nghiên cứu, các cơ quan xếp hạng doanh
nghiệp có thể làm rõ thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh cả về nguồn lực, tiềm
năng, lợi thế kinh doanh cũng như những rủi ro tiềm ẩn về khả năng trả nợ của
doanh nghiệp để các nhà đầu tư vốn kịp thời đưa ra những quyết sách phù hợp
nhằm ngăn ngừa, hạn chế rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Từ
đó, đưa ra thông tin bổ sung cho các cơ quan Nhà nước trong công tác quản lý,
hoạch định, thực thi chính sách kinh tế [30,31].
1.3.2. Các tiêu chí đánh giá xếp hạng doanh nghiệp
1.3.2.1. Nguồn thông tin

Nguồn thông tin đầu vào là cơ sở cho quá trình xếp hạng doanh nghiệp, tuỳ
theo mục tiêu phân tích của các cơ quan xếp hạng mà lượng thông tin đầu vào cần
phải thu thập nhiều hay ít. Yêu cầu của việc thu thập thông tin đầu vào cho quá trình
xếp hạng doanh nghiệp là thông tin phải trung thực và tin cậy, vì nếu có sai sót ngay
từ thông tin đầu vào thì dù việc phân tích có chuẩn xác đến đâu cũng đưa ra kết quả
sai lệch nghiêm trọng. Nguyên liệu đầu vào của việc xếp hạng doanh nghiệp có ở
rất nhiều nơi, nằm rải rác ở các cơ quan đơn vị khác nhau. Để có thể thu thập được
nguồn số liệu này đảm bảo tính chính xác cao thì các cơ quan xếp hạng nên thu thập
lại từ các NHTM, các cơ quan của Chính phủ và cơ quan thông tin khác được phép
thu thập thông tin.
1.3.2.2. Quy trình xếp hạng
Như đã trình bày ở trên, các cơ quan xếp hạng tín dụng thường tiến hành việc
phân tích, xếp hạng doanh nghiệp qua 5 bước. Quy trình hợp lý là một trong những
tiêu thức để đánh giá kết quả của việc xếp hạng doanh nghiệp, sự hợp lý của quy
trình được thể hiện ở sự đúng đắn ở từng bước của quy trình.
Thu thập tài liệu và xử lý số liệu, đây là bước quan trọng, ảnh hưởng rất lớn
đến kết quả phân tích. Tài liệu thu thập phải đầy đủ, không mâu thuẫn giữa các số
liệu thu thập và phải được sưu tầm qua các năm hoạt động, các số liệu kế hoạch dự
kiến để làm cơ sở cho việc so sánh, đánh giá phân tích.
Xây dựng các biểu bảng, các chỉ tiêu kinh tế phản ánh tình hình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở các tài liệu và số liệu thu thập, xây dựng
các bảng biểu, đồ thị, xác định các chỉ tiêu kinh tế để nêu thực trạng hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến thực trạng hoạt động doanh nghiệp,
thực chất ở bước này là nhà phân tích nghiên cứu nguyên nhân khách quan và chủ
quan ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng xấu đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp, đến từng khâu, từng giai đoạn của quá trình kinh doanh. Đồng thời,
trong bước này nhà phân tích sử dụng phương pháp thích hợp để xác định múc độ
ảnh hưởng của từng nhan tố đến đối tượng nghiên cứu.
Tổng hợp kết quả phân tích, đưa ra các kết luận đánh giá thực trạng hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như ở các bước trên đưa ra các đánh giá
cục bộ từng hoạt động hoặc từng khía cạnh khác nhau của quá trình hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp như tình hình doanh thu; tình hình thị trường tiêu thụ sản
phẩm, tình hình lợi nhuận; tình hình sử dụng vốn thì ở bước này, các nhà phân tích
tổng hợp lại các kết quả phân tích để dưa ra nhận định chung tổng hợp đánh giá
thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty bao gồm mặt mạnh, mặt còn tồn tại,
nêu các tiềm năng trong hoạt động chưa được khai thác hết.
Xây dựng định hướng và đưa ra các giải pháp cụ thể, trên cơ sở những mặt
mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp, đề ra những giải pháp khắc phục mặt yếu và phát
huy mặt mạnh, xây dựng định hướng phát triển trong thời gian tới nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
1.3.2.3. Lựa chọn các chỉ tiêu phân tích
Kết quả của việc xếp hạng doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào việc lựa
chọn các chỉ tiêu phân tích của cơ quan xếp hạng doanh nghiệp. Tuỳ từng mục đích
xếp hạng mà các chủ thể xếp hạng lựa chọn các chỉ tiêu phân tích khác nhau. Các
chỉ tiêu phân tích thường được chia ra hai loại đó là các chỉ tiêu tài chính và các chỉ
tiêu phi tài chính.
Đối với các chỉ tiêu tài chính, phân tích tình hình tài chính là quá trình xem
xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện hành với quá khứ. Thông
qua việc phân tích tình hình tài chính có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh
doanh cũng như những rủi ro trong tương lai, và triển vọng của doanh nghiệp.
Tuỳ theo mục tiêu phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều hơn
tới nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt
quan tâm đến tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà
đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất –
kinh doanh, họ cũng cần nghiên cứu tình hình khả năng thanh toán để đánh giá khả
năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem xét lợi nhuận để
dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú
trọng đến tỷ số về cơ cấu vốn thì sự thay đổi tỷ số này ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích
của họ.

Mỗi nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số
được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô hoạt động của phân tích.
Thông tin phi tài chính doanh nghiệp là rất cần thiết trong quá trình xếp
hạng doanh nghiệp, nó khắc phục được nhược điểm của thông tin tài chính, thông
tin chưa phản ánh được xu thế phát triển của doanh nghiệp trong tương lai, điều này
rất quan trọng đối với nhà đầu tư trong việc phán đoán tình huống có thể xẩy ra rủi
ro dẫn đến không thu hồi được vốn trong tương lai. Các thông tin phi tài chính có
rất nhiều loại, vấn đề đặt ra là phải chuẩn hoá và xây dựng một số chỉ tiêu cơ bản để
phân tích và đưa ra những phán đoán về diễn biến kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuỳ từng mục đích của các chủ thể phân tích mà lựa chọn các chỉ tiêu nào, nhiều
hay ít các chỉ tiêu phi tài chính.

×