Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Luận văn "Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU trong những năm qua " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.95 KB, 110 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương



Khóa luận tốt nghiệp


Thực trạng xuất khẩu thủy sản của
Việt Nam sang EU trong những
năm qua
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU 1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 2
LỜI NÓI ĐẦU 3
CHƯƠNG I 5
Tổng quan về ngành thủy sản và các thị trường xuất khẩu lớn của thủy sản
Việt nam
I. Đặc điểm và vai trò của ngành thủy sản Việt Nam 5
1. Lợi thế của ngành thủy sản Việt Nam 5
2. Vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân 7
II. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam trong thời gian gần đây. 14
1. Về giá trị và tốc độ phát triển 14
2. Về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu 15
3. Giá cả và hiệu quả xuất khẩu của thủy sản Việt Nam 17


4. Các quy định hiện hành liên quan đến xuất khẩu thuỷ sản 18
III. Một số thị trường xuất khẩu thủy sản lớn của Việt Nam 26
1. Thị trường Nhật Bản 27
2. Thị trường Mỹ 29
3. Thị trường Đông Á 31
4. Thị trường Châu Âu 33
CHƯƠNG II 35
Thực trạng xuất khẩu của thuỷ sản Việt nam sang EU trong những năm qua
I. Giới thiệu chung về thị trường EU 35
1. Đặc điểm chung về kinh tế, chính trị và mức sống dân cư 35
2. Các đặc điểm chung liên quan đến việc tiêu dùng mặt hàng thủy sản 37
3. Những yêu cầu của EU về chất lượng sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu 43
4. Giới thiệu về các thị trường nhập khẩu thuỷ sản của EU 50
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

II - Thực trạng XKTS của Việt nam sang EU giai đoạn 1997 - 2002 54
1. Về giá trị và tốc độ phát triển 54
2. Về cơ cấu thị trường EU nhập khẩu thuỷ sản của Việt nam 55
3. Về cơ cấu mặt hàng thủy sản Việt nam xuất khẩu vào EU 57
4. Về tình hình thực hiện các quy định của EU về an toàn thực phẩm. 59
III. Đánh giá kết quả hoạt động XKTS sang EU giai đoạn 1997-2000 62
1. Những kết quả đạt được 62
2. Những khó khăn, tồn tại cần khắc phục 64
3. Các vấn đề đặt ra với hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang EU 67
CHƯƠNG III 70
Định hướng và những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của
Việt Nam sang EU trong những năm tới.
I. Định hướng và mục tiêu phát triển XKTS 72

1. Định hướng phát triển xuất khẩu thuỷ sản 72
2. Mục tiêu phát triển xuất khẩu thủy sản 75
II. Những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang EU trong những
năm tới. 79
1. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang EU 79
2. Một số giải pháp tài chính tín dụng khuyến khích XKTS sang EU 84
3. Các giải pháp khác nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang EU 87
KẾT LUẬN 91
PHỤ LỤC 01 92
Danh mục tài liệu tham khảo 96

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Tên Bảng
Số trang
Bảng 1: Cơ cấu đóng góp của các ngành trong GDP qua các năm 8
Bảng 2: Kim ngạch XKTS của Việt Nam qua một số năm 10
Bảng 3: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu năm 2002 11
Bảng 4: Lao động nghề cá 12
Bảng 5: Số lượng lao động trong ngành thủy sản giai đoạn 1996-2010 12
Bảng 6: Tốc độ tăng trưởng XKTS của Việt Nam từ 1997 đến 2002 14
Bảng 7: Các sản phẩm XKTS chính năm 2001 – 2002 16
Bảng 8: So sánh một số chỉ tiêu của ngành tôm XK của Việt Nam với
Thái Lan năm 2000
18
Bảng 9: Thị trường XKTS chính của Việt Nam (2001-2002) 26

Bảng 10: Các chỉ số kinh tế quan trọng của EU 36
Bảng 11: Giá trị NKTS của một số nước Châu Âu (1998-2000) 54
Bảng 12: Cơ cầu thị trường EU NKTS của Việt Nam từ 1998-2002 55
Bảng 13: Cơ cấu sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất sang EU năm 2002 58
Bảng 14: Các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu năm 2003 72
Bảng 15: Các chỉ tiêu quy hoạch cơ bản đến 2010 75
Bảng 16: Chỉ tiêu quy hoạch các lĩnh vực khai thác hải sản đến năm
2010
76
Bảng 17: Các chỉ tiêu quy hoạch chế biến thủy sản giai đoạn 1996-
2010
77
Biểu 1: Cơ cấu thị trường NKTS của Việt Nam 10 tháng đầu năm 2003

27
Biểu 2: Cơ cấu các nhóm sản phẩm chính XK sang Mỹ năm 2002 30
Biểu 3: Cơ cấu nhập khẩu thủy sản của Tây Ban Nha thời kì 1996-
2000
51
Biểu 4: Cơ cấu nhóm hàng thủy sản NK của Pháp thời kì 1996-2000 52
Biểu 5: Cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu của Italia thời kì 1996-2000 53
Sơ đồ 1: Kênh phân phối thủy sản cho nhu cầu công nghiệp 41
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

Sơ đồ 2: Kênh phân phối thủy sản cho người tiêu dùng và bán lẻ 42

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


1 EU European Uninon- Liên minh Châu Âu
2 EC European Communication – Cộng đồng Châu Âu
3 ASEAN
Association of South Eest Asia Nations- Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam á
4 WTO World Trade Organisation- Tổ chức thương mại thế giới
5 DANIDA
Danish International Development Agency- Cơ quan tài trợ
phát triển chính phủ Đan Mạch
6 APEC
Asia- Pacific Economic Cooperation – Tổ chức kinh tế
Châu á - Thái Bình Dương
7 AFTA Asean Free Trade Area – Khu vực mậu dịch tự do Asean
8 GDP Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm quốc nội
9 ODA
Official Development Assistance – Quỹ hỗ trợ phát triển
chính thức
10

FDI Foreign Direct Invesment - Đầu tư trực tiếp nước ngoài
11

NAFIQACEN
The national Fisheries Inspection and Quanlity Assurance
Center – Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản.

12

GMP Good Hygiene Pratices
13


HACCP Hazard Analysis Critical Control Point
14

IQF
Individually Quick Freeze- Phương pháp làm đông lạnh
riêng rẽ
15

ACP
Afican, Caribbean and Pacific Group – các nước Châu Phi,
vùng biển Caribe và Thái Bình Dương
16

GSP
Generalised Scheme of Tariff Preference- Chế độ ưu đãi
thuế quan có hiệu lực chung
17

EFA Cơ quan quản lý thực phẩm EU
18

XKTS Xuất khẩu thủy sản
19

NTTS Nuôi trồng thủy sản
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương


20

XDCB Xây dựng cơ bản
21

NKTS Nhập khẩu thủy sản
22

TGHD Tỷ giá hối đoái

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, với mọi quốc gia, dù trình độ phát triển kinh tế và khoa học kỹ
thuật đạt đến mức độ nào đi chăng nữa, dù tài nguyên thiên nhiên phong phú và
giàu có đến đâu thì hoạt động xuất khẩu vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng. Có thể
nói, xuất khẩu đã trở thành yếu tố sống còn và không thể thiếu của mỗi quốc gia.
Đối với Việt Nam, xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển kinh tế. Xuất khẩu là tiền đề vững chắc để công nghiệp hoá đất
nước và là mũi nhọn ưu tiên trong nền kinh tế quốc dân. Đảng ta đã nhiều lần
khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động xuất khẩu và coi đó là một
trong ba chương trình kinh tế lớn. Có đẩy mạnh xuất khẩu, mở cửa ra thị trường
thế giới mới có điều kiện thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
và ổn định đời sống nhân dân.
Trong nhiều năm trở lại đây, thủy sản luôn là một trong những mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam. Giá trị xuất khẩu của ngành này đóng góp không
nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước nói riêng và sự tăng trưởng kinh
tế của cả đất nước nói chung. Văn kiện đại hội đảng IX đã khẳng định rõ: “Phát

huy lợi thế về thủy sản, tạo thành một ngành kinh tế mũi nhọn của cả nước trong
thế kỉ 21, vươn lên hàng đầu trong khu vực ”.
Với phương trâm đa dạng hoá mặt hàng, đa phương hoá thị trường trong
xuất khẩu, thì việc đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU là một vấn đề
tất yếu. Bởi Liên minh châu Âu đã và đang chứng minh cho thế giới thấy sự liên
kết ngày càng sâu sắc của toàn khối cùng những thành tựu kinh tế, chính trị, xã
hội rõ nét. 01/05/2004, EU sẽ kết nạp thêm 10 thành viên mới và khi đó EU sẽ trở
thành khu vực kinh tế lớn nhất thế giới với 25 thành viên và 450 triệu dân cư.
Chính vì thế, EU được coi là thị trường chiến lược trong hoạt động xuất khẩu của
Việt Nam nói chung và mặt hàng thủy sản nói riêng. Hơn thế nữa, trong tình hình
hiện nay khi mà nhập khẩu thủy sản của thị trường Nhật Bản có dấu hiệu chững
lại và Mỹ đặt ra những quy định pháp lý không thống nhất gây khó khăn cho hàng
xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường này thì việc đẩy mạnh xuất khẩu
thủy sản sang thị trường rộng lớn EU sẽ là một giải pháp mang tính chiến lược.
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

Xuất khẩu thủy sản sang EU là một nhân tố cần thiết để chúng ta tận dụng các
nguồn lực trong nước một cách triệt để và có hiệu quả hơn, phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất phát từ nhận thức trên đây, cũng như vai trò to lớn của xuất khẩu thủy
sản trong cơ cấu xuất khẩu của nước ta, tôi đã chọn đề tài “EU, thị trường tiềm
năng cho xuất khẩu thủy sản Việt nam trong những năm tới” để viết khoá luận tốt
nghiệp.
Khoá luận này nghiên cứu một cách tổng thể về tình hình xuất khẩu thủy sản
của Việt Nam trong thời gian vừa qua, đánh giá những tiềm năng to lớn của thị
trường này và trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao
hiệu quả xuất khẩu của hàng thủy sản Việt Nam sang EU.
Khoá luận được thực hiện dựa trên phương pháp so sánh, tổng hợp và phân

tích, kết hợp những kết quả thống kê với vận dụng lý luận làm sáng tỏ các vấn đề
nghiên cứu. Đồng thời, khoá luận vận dụng các quan điểm, đường lối, chính sách
phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước nhằm khái quát hoá, hệ thống hoá các
kết quả nghiên cứu.
Khoá luận kết cấu gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về ngành thủy sản và các thị trường xuất khẩu lớn của
Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU trong
những năm qua.
Chương 3: Định hướng và những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy
sản của Việt Nam sang EU trong những năm tới.
Do trình độ cũng như thời gian nghiên cứu có hạn, nên khoá luận khó tránh
khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong có được sự đóng góp của các thầy cô giáo
cùng bạn đọc để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới tập thể cán bộ Ban nghiên cứu thị
trường thuộc Viện nghiên cứu Thương mại đã tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành
khoá luận này, đặc biệt là sự hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình, qúy báu của
Thạc sĩ – Phạm Thị Hồng Yến để khoá luận được hoàn chỉnh hơn.
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương


Ngày 15 tháng 12 năm 2003
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ NGÀNH THỦY SẢN VÀ CÁC THỊ
TRƯỜNG XUẤT KHẨU LỚN CỦA THỦY SẢN VIỆT NAM

I. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM
1. Lợi thế của ngành thủy sản Việt Nam
Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, 112 cửa sông lạch, vùng đặc quyền kinh

tế rộng khoảng 1triệu km
2
với 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên, nhiều eo, vịnh,
vụng, đầm, phá và nhiều ngư trường, trữ lượng hải sản gần 3 triệu tấn. Thềm lục
địa nước ta rộng hơn 1 triệu km
2
(gấp 3 lần diện tích đất liền), diện tích mặt nước
1triệu km
2
, trong đó diện tích khai thác đạt 553.000 km, nhưng hiện tại mới chỉ
khai thác được khoảng 65% nguồn lực hải sản cho phép.
Theo đánh giá của Bộ Thủy Sản, tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản
nước ta rất lớn với 1,4 triệu ha mặt nước nội địa, 300.000 ha bãi triều, 400.000 ha
hồ chứa, sông suối, 600.000 ha ao hồ nhỏ ruộng trũng, có thể đưa vào sử dụng để
nuôi trồng thủy sản. Năng suất nuôi trồng thủy sản mới chỉ bằng 10%- 25% năng
suất của các nước trong khu vực.
Đội tàu thuyền đánh bắt có khoảng 75.000 chiếc với công suất là 1,8 triệu
CV, bình quân 20- 25 CV/tàu, 187 nhà máy chế biến được xây dựng từ những
năm thập kỷ 80.
Cũng theo Bộ Thủy sản, Việt Nam có trên 2000 loài cá, trong đó có khoảng
130 loài có giá trị kinh tế cao. Bước đầu đánh giá trữ lượng cá biển trong vùng
thềm lục địa khoảng trên 4,2 triệu tấn. Khả năng khai thác hàng năm khoảng 1,7
triệu tấn/năm. Tình hình cụ thể của các loài cá:
- Cá tầng đáy: 856.000 tấn, chiếm 51,3%.
- Cá nổi nhỏ: 694.000 tấn, chiếm 41,5%.
- Cá nổi đại dương (chủ yếu là cá ngừ): 120.000 tấn, chiếm 7,2%.
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương


Ngoài cá biển, Việt Nam còn có nhiều nguồn lợi tự nhiên khác như: trên
1600 loài giáp xác, sản lượng cho phép khai thác 50-60 nghìn tấn/năm, có giá trị
cao là tôm biển, tôm hùm, tôm mũ ni, cua, ghẹ… và khoảng 2500 loài động vật
thân mềm, trong đó có ý nghĩa cao nhất là mực và bạch tuộc, cho phép khai thác
60-70 nghìn tấn/năm. Hằng năm, biển còn có thể cho phép khai thác từ 45-50
nghìn tấn rong biển có giá trị kinh tế như rong câu, rong mơ. Bên cạnh có, còn có
rất nhiều loài đặc sản quý như bào ngư, vích, đồi mồi, tổ yến, chim biển và có thể
khai thác vây cá, bóng cá, ngọc trai
Việt Nam tuy có vùng biển trải dài khắp cả nước nhưng sản lượng khai thác
không đồng đều ở các vùng. Theo ước tính, vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt
Nam có tổng trữ lượng trên 3 triệu tấn cá, 50.000- 60.000 tấn tôm, 30.000- 40.000
tấn mực.
Trong đó, phân bố trữ lượng và khả năng khai thác thủy sản giữa các vùng
như sau:
- Vịnh Bắc Bộ: trữ lượng 681.166 tấn, khả năng khai thác 271.467 tấn (16,3%)
- Biển Trung Bộ: trữ lượng 606.399 tấn, khả năng khai thác 242.560
tấn(14,3%)
- Biển Đông Nam Bộ: trữ lượng 2.075.889 tấn, khả năng khai thác 830.456 tấn
(chiếm 49,3%).
- Biển Tây Nam Bộ: trữ lượng: 506.679 tấn, khả năng khai thác 202.272 tấn
(chiếm 12,1%).
Từ tính chất đặc thù của vùng biển Việt Nam, là vùng biển nhiệt đới, nguồn
lợi thủy sản rất đa dạng, phong phú về chủng loại với nhiều loài thủy sản quý
hiếm có giá trị kinh tế cao. Hơn nữa, với vị trí địa lý nằm gần những thị trường
tiêu thụ thủy sản lớn như Trung Quốc, Nhật Bản lại có khả năng giao lưu bằng
đường bộ, đường thủy, đường không đều rất thuận lợi nên ngành kinh tế thủy sản
Việt Nam có điều điều kiện để phát triển nhanh và bền vững.
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương


Theo ước tính ở Việt Nam, phần diện tích vùng biển có khả năng tiềm tàng
lớn để gia tăng khai thác trong giai đoạn 1999- 2000 là 414.436 km
2
, chiếm
42,6% diện tích vùng đặc quyền kinh tế nước ta. Trong đó:
- Vùng Bắc Bộ có diện tích: 47.119 km
2
.
- Miền Trung: 133.380 km
2
.
- Biển Nam Bộ: 233.937 km
2
.
Nhìn chung, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng như
đã nêu trên, trong thời gian hơn một thập kỷ qua, ngành thủy sản Việt Nam, đứng
trước nhu cầu mạnh mẽ của thị trường thế giới cũng như nhu cầu về thực phẩm
của đất nước đã có những bước phát triển ngoạn mục và trở thành một trong
những ngành kinh tế then chốt của đất nước.

2. Vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân
Thủy sản là một ngành kinh tế- kỹ thuật đặc trưng gồm có các lĩnh vực: khai
thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ thương mại, là một trong
những ngành kinh tế biển quan trọng của đất nước. Sản xuất kinh doanh thủy sản
dựa trên khai thác có hiệu quả, lâu bền nguồn lợi thủy sinh, tiềm năng các vùng
nước, do vậy có mối liên ngành rất chặt chẽ với sản xuất nông nghiệp, vận tải,
dầu khí, hải quan
Xuất phát từ tiềm năng thiên nhiên to lớn, vai trò quan trọng của ngành thủy
sản trong sự phát triển kinh tế- xã hội, nhất là trong 20 năm qua, với tốc độ phát

triển kinh tế nhanh chóng về sản lượng và giá trị xuất khẩu. Ngành kinh tế thủy
sản ngày càng được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn và là một trong những
hướng ưu tiên của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Ngành thủy sản được xác định là giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước, bởi vì nó khai thác và phát triển một trong những
nguồn tài nguyên có thể tái sinh của đất nước.
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

2.1. Đóng góp của ngành thủy sản trong tổng sản phẩm quốc dân và sự
tăng trưởng kinh tế.
Hiện nay, thủy sản được coi là một ngành hàng thiết yếu và được ưa chuộng
ở khắp nơi trên thế giới. Với tiềm năng thiên nhiên rộng lớn, ngành thủy sản Việt
nam đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
Theo thống kê của Bộ Thương Mại, thì sự đóng góp của ngành Nông Lâm
Nghiệp và Thủy sản trong GDP qua các năm như sau:
Bảng 1. Cơ cấu đóng góp của các ngành trong GDP qua các năm
Năm Cơ cấu (tính theo giá thực tế)
Tổng số
Nông lâm
nghiệp-
thủy sản
Công
nghiệp –
Xây dựng Dịch vụ
1990 100,00 38,74 22,67 38,59
1991 100,00 40,49 23,79 35,27
1992 100,00 33,94 27,29 38,80
1993 100,00 29,87 28,90 41,23

1994 100,00 27,43 28,87 43,70
1995 100,00 27,18 28,76 44,06
1996 100,00 27,76 29,73 42,51
1997 100,00 25,77 32,08 42,15
1998 100,00 25,78 32,49 41,73
1999 100,00 25,43 34,49 40,08
2000 100,00 24,53 36,73 38,74
2001 100,00 23,25 38,12 38,63
2002 100,00 22,99 38,55 38,46

Nguồn: Thống kê của Bộ Thương Mại năm 2002
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

Qua bảng số liệu 1 ta thấy, mặc dù tỉ trọng đóng góp của của ngành Nông
Lâm Nghiệp và Thủy Sản trong GDP có giảm đi qua các năm, từ 40,49% năm
1991 xuỗng còn 22,99% năm 2002 nhưng nhìn chung vẫn chiếm một tỉ trọng
tương đối lớn tạo nên sự tăng trưởng đều đặn của GDP trong thập niên vừa qua.
Sự đóng góp của ngành thủy sản đối với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước được
thể hiện cụ thể như sau:
- Nghề nuôi trồng thủy sản từ tự cung tự cấp đã đáp ứng được nhu cầu cho
tiêu dùng trong và ngoài nước, đáng kể là sản lượng tôm sú nuôi phục vụ xuất
khẩu của nước ta đứng vào khoảng thứ 3 trên thế giới (sản lượng năm 2001 đạt
105 nghìn tấn) xếp sau Thái Lan (năm 2001 đạt 250 nghìn tấn) và Indonexia (năm
2001 đạt 110 nghìn tấn); thủy sản xuất khẩu cũng đã được xác định là đối tượng
chủ yếu để phát triển nuôi trồng.
- Công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu mà chủ yếu là công nghiệp đông
lạnh thủy sản đã đóng vai trò to lớn hàng đầu về công nghiệp chế biến thực phẩm
trong cả nước và thu hút nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu.

- Sự đóng góp đáng kể của khoa học công nghệ, trước hết phải kể đến kỹ
thuật sinh sản nhân tạo để tạo nguồn tôm giống vào cuối những năm 80, cung cấp
hơn 1 tỷ tôm giống các cỡ. Trong công nghiệp đánh cá, dần dần tạo ra các công
nghệ để chuyển dịch cơ cấu nghề khai thác theo hướng hiệu quả cao, du nhập
nghề mới từ nước ngoài để có thể vươn ra khai thác xa bờ.
- Hoạt động hợp tác quốc tế trên cả ba mặt: thị trường xuất khẩu, nguồn vốn
nước ngoài và chuyển giao công nghệ đều đạt những kết quả khích lệ. Từ cơ chế
“lấy phát triển xuất khẩu để tự cân đối, tự trang trải, tạo vốn đầu tư cho khai thác
và nuôi trồng”, qua các thời kỳ Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa đến nay,
sản phẩm thủy sản nước ta đã có mặt tại hơn 60 nước và vùng lãnh thổ với một số
sản phẩm bắt đầu có uy tín trên các thị trường quan trọng.
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

Theo Bộ Thủy sản, dự tính toàn bộ sự đóng góp của ngành thủy sản đối với
nền kinh tế quốc dân sẽ tăng từ mức hiện nay năm 2003 là 30.628 tỷ đồng lên
40.000 tỷ đồng vào năm 2010 với tốc độ phát triển trên dưới 20%/năm. Tỷ trọng
tương ứng của ngành thủy sản trong GDP sẻ giảm do có sự tăng trưởng mạnh
trong các ngành khác của nền kinh tế. Song sự đóng góp của ngành thủy sản đối
với ổn định xã hội và an toàn quốc gia là quan trọng vì tiềm năng phân phối thu
nhập của ngành thủy sản ở các vùng nông thôn. Một bộ phận dân cư ở nông thôn,
thường là các vùng nghèo vẫn tiếp tục sống dựa vào nghề cá và nuôi trồng thủy
sản, bao gồm cả thiểu số ở vùng cao.
Việc đẩy mạnh hiện đại hóa và công nghiệp hóa nghề cá và nuôi trồng thủy
sản sẽ tăng cường năng lực của ngành này. Bằng cách đó sẽ tăng cường sự đóng
góp của ngành đối với xã hội. Hiện đại hóa và phát triển sẽ giúp thiết lập các
ngành công nghiệp mới và những ngành công nghiệp đã hoàn thiện tại các vùng
ven biển mà sẽ nâng cao vai trò của ngành thủy sản đối với việc phát triển kinh tế
- xã hội.

2.2. Vai trò của ngành thủy sản đối với hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu thủy sản đã trở thành động lực thúc đẩy kinh tế thủy sản phát
triển, tăng cường cơ sở vật chất và năng lực sản xuất của khu vực sản xuất
nguyên liệu, bước đầu làm chuyển dịch cơ cấu nông thôn ven biển, góp phần
bảo đảm việc làm, nâng cao đời sống cho hàng triệu người dân sống bằng nghề
cá và quan trọng hơn cả, kinh tế ngành đã góp phần ổn định và phát triển kinh tế
đất nước. Xuất khẩu thủy sản đã có sự đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất
khẩu cả nước. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta qua các năm đã không
ngừng tăng lên, điều đó thể hiện rõ nét qua bảng số liệu 2:
Bảng 2. Kim ngạch XKTS của Việt Nam qua một số năm
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

Giá trị XK cả nước
(triệu USD)
7255,9

8900

9356

10930

14483

15027

16530


Giá trị XK thủy sản (tr
USD)
670

776,46

858,68

971,12

1480

1479

2021

Tỷ trọng XK thủy sản
so với cả nước (%)
9,23

8,72

9,18

8,9

10,3

10,24


12,22


Nguồn: Báo cáo tổng kết Bộ Thuỷ Sản năm 2002
Qua bảng số liệu 2 ta thấy rằng: kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta đã
tăng rất đáng kể qua các năm, trung bình mỗi năm tăng gần 100 triệu USD. Từ
năm 1996 đến 2002, năm nào kim ngạch xuất khẩu thủy sản cũng chiếm tỷ trọng
trên dưới 10% so với tổng giá trị xuất khẩu, đặc biệt là trong năm 2002, giá trị
xuất khẩu thủy sản đã tăng lên một con số đáng kể 12,22% , đóng vai trò là một
trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong một số năm qua và
trong nhiều năm tiếp theo.
Bảng 3. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu năm 2002
I. Tổng sản lượng Thủy Sản 2410900 tấn
- Khai thác thủy sản 1434800 tấn
- NTTS và khai thác nội địa 976100 tấn
II. Kim ngạch XKTS 2.021 triệu USD
III. Diện tích mặt nước NTTS 955.000 ha
IV. Vốn đầu từ XDCB 5.870 tỷ đồng
V. Nộp ngân sách nhà nước 1.400 tỷ đồng
Nguồn: Trung tâm thông tin Bộ Thủy Sản
Chỉ tính riêng năm 2002, tổng sản lượng thủy sản khai thác đạt 2.410.900 tấn
bằng 104,82% kế hoạch, tăng 5,4% so với năm 2001. Xuất khẩu thủy sản tiếp túc
tăng trưởng và lần đầu tiên, kim ngạch xuất khẩu thủy sản vượt mức 2 tỷ đô la,
đạt 2.021 triệu đô la, bằng 101,05% kế hoạch và tăng 13,7% so với thực hiện năm
2001.
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương


Tóm lại, qua các năm, ngành thủy sản đã góp phần không nhỏ vào tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng thu ngoại tệ cho nước ta. Việc thực hiện
nghiêm chỉnh các chính sách bảo vệ môi trường và khai thác hợp lý các nguồn lợi
tự nhiên của đất nước cùng với việc sử dụng hợp lý về mặt sinh thái môi trường
sinh sống, sẽ đảm bảo việc đóng góp bền vững của nghề cá. Điều đó có tác dụng
rất lớn trong việc tăng sản lượng đánh bắt và sản lượng nuôi trồng thủy sản, nhờ
đó mà tăng được kim ngạch xuất khẩu thủy sản trong những năm tới.
2.3. Vai trò của ngành thủy sản trong việc tạo công ăn việc làm
Theo thống kê của Bộ Thủy Sản, công nghiệp đánh bắt và nuôi trồng thủy
sản đảm bảo việc làm thường xuyên cho khoảng hơn 3 triệu lao động chiếm 10%
tổng lao động xã hội, lao động nghề cá nhiều nhất là nuôi trồng thủy sản có
khoảng 2.219 nghìn người, đánh bắt 435 nghìn người, chế biến khoảng hơn 250
nghìn người. Đặc biệt là năm 1996, số lao động thủy sản tăng lên là 3,03 triệu
người. Khoảng 3,8 triệu người sống trong các hộ gia đình làm nghề đánh bắt và
nuôi trồng thủy sản. Như vậy, khoảng 6,8 triệu người chiếm 8,7% dân số sống
phụ thuộc vào ngành thủy sản như một nguồn sinh sống. Số lao động làm việc
trong ngành này không ngừng tăng lên qua các năm được thể hiện rõ qua Bảng 5
dưới đây:
Bảng 4. Lao động nghề cá
Đơn vị: 1000 người
Năm 1987 1991 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Số LD 1.270 1.860 3.030 3.120 3.210 3.320 3.390 3.450 3.550


Nguồn: Tạp chí Thông tin khoa học và công nghiệp thủy sản - số 3/2002
Tổng số lao động có thu nhập từ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng như từ
các ngành và các hoạt động hỗ trợ thủy sản ước tính lên tới hơn 8 triệu người.
Ngoài ra, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản còn đảm bảo việc làm không thường
xuyên và thu nhập phụ cho hơn 20 triệu người.
Khoá luận tốt nghiệp


Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

Bảng 5. Số lượng lao động trong ngành thủy sản giai đoạn 1996 – 2010

Các lĩnh vực sản
xuất thủy sản
1995 2000 2005 2010
Khai thác hải sản
(người)
420.000

484.000

449.600

414.500

Nuôi trồng thủy
sản (người)
559.364

668.000

816.000

1.001.500

Chế biến thủy
sản (người)

58.768

77.000

93.000

128.000

Lao động dịch vụ
nghề cá (người)
1991.868

2.171.000

2.541.400

2.855.700

Tổng
3.030.000

3.400.000

3.900.000

4.400.000


Nguồn: Trung tâm khoa học kỹ thuật và kinh tế thủy sản – Bộ Thủy sản
Theo dự tính của Bộ Thủy Sản, số lao động trong ngành thủy sản năm 2003

sẽ là 3,6 triệu người. Do vậy, số dân số dựa vào nghề cá sẽ tăng lên khoảng 8,1
triệu người vào năm 2000 và 10 triệu người vào năm 2010. Hơn nữa, thu nhập
trực tiếp của những người lao động thường xuyên trong nghề cá và nuôi trồng
thủy sản dự tính sẽ tăng trung bình 16%/năm trong thời gian nêu trên. Trên 1,2
triệu người trong các hộ gia đình phụ thuộc vào nghề cá và nuôi trồng thủy sản sẽ
có thêm thu nhập vào năm 2000. Điều đó có nghĩa là số dân được ngành thủy sản
hỗ trợ sẽ tăng 3 triệu người.
2.4. Vai trò của ngành thủy sản trong việc cung cấp thực phẩm
Sự đóng góp của ngành Thủy Sản với mục tiêu dinh dưỡng quốc gia cũng
không ngừng tăng lên. Hiện nay, gần 95% khối lượng thủy sản và các sản phẩm
thủy sản được tiêu thụ trong nước. Trong số các sản phẩm này thì 50% được chế
biến thành nước mắm, bột cá và các loại thực phẩm; 25% được tiêu thụ ở dạng
tươi sống. Việc cung cấp cá và các sản phẩm thủy sản cả nước tăng từ mức 11,5
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

kg năm 1999 lên 13,5 kg/người năm 2001. So sánh với mức cung cấp và tiêu thụ
thủy sản tại các nước Đông Nam Á khác Ma-lai-xi-a: 55,7 kg/ người, Thái Lan:
32,4 kg/ người, In-đô-nê-xi-a: 18 kg/ người, Xingapo; 32,5 kg/người, Philipin 31
kg/người thì mức cung cấp và tiêu thụ này là tương đối thấp. Tuy nhiên, nó đã
chiếm khoảng hơn 30% toàn bộ nguồn cung cấp đạm động vật cho người dân
Việt Nam. Hiện nay, khi mà đời sống nhân dân đang được cải thiện đáng kể thì
nhu cầu của người dân Việt Nam đối với các loại thủy hải sản có giá trị dinh
dưỡng cao, ít chất béo ngày càng tăng.
Việc cung cấp và tiêu thụ thủy sản chênh lệch nhiều giữa các vùng, cao nhất
ở vùng ven biển và thấp nhất ở các vùng núi cao của đất nước. Số liệu sau đây
cho thấy các hình thức cung cấp và tiêu thụ thủy sản nước ta: Miền Bắc 6 - 8 kg/
người/ năm, các huyện thị ven biển Miền Nam 50 - 60 kg/ người/ năm, khu vực
miền núi 2 - 3 kg/ người/ năm.

Mức tiêu thụ bình quân toàn quốc hàng năm thường được sử dụng cho mục
đích lập kế hoạch là khoảng 12 - 14 kg/ người/ năm.
Dự kiến việc cung cấp cá và các sản phẩm thủy sản toàn quốc sẽ tăng từ hiện
nay là khoảng 13,5 kg lên 16 kg/ đầu người vào năm 2010. Mức tăng trưởng này
có tính đến nhu cầu dinh dưỡng của số dân sẽ tăng mà dự kiến sẽ tăng khoảng 1,2
triệu người vào năm 2010.
II. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN GẦN ĐÂY
Trong hơn mười năm qua, thủy sản luôn giữ được xu thế tăng trưởng không
ngừng về sản xuất và giá trị xuất khẩu. Mặt hàng này luôn nằm trong nhóm
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực bên cạnh gạo, cà phê, dệt may, giày dép và đã
có những đóng góp không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu chung của cả
nước với mức tăng kim ngạch xuất khẩu tương đối cao (22-23%/năm). Sự tăng
trưởng này được biểu hiện cụ thể về một số mặt như sau:
1. Về giá trị và tốc độ phát triển
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

Trong những năm qua, sản lượng cũng như giá trị xuất khẩu thủy sản của
Việt Nam tăng nhanh .
Bảng 6. Tốc độ tăng trưởng XKTS của Việt Nam từ 1997-2002


Nguồn: Số liệu thống kê -
Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta chỉ đạt 109,2 triệu USD
thì đến 1996 xuất khẩu thủy sản đạt 670 triệu USD, tăng hơn 5 lần. Đến năm
1997, giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 761 triệu USD, năm 1998 là 818 triệu USD và
năm 1999 đạt 938,87 triệu USD. Như vậy, trong vòng 10 năm 1986-1996 xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam đã tăng lên 5,13 lần, mức tăng xuất khẩu trung bình

hàng năm đạt 19,5%, còn nếu so với mức xuất khẩu năm 1991 là 285 triệu USD
thì xuất khẩu năm 1996 tăng 1,35 lần và mức tăng trung bình hàng năm thời kỳ
1991-1996 là 18,5%, đây quả là một tốc độ tăng trưởng ngoạn mục. Đặc biệt là 3
năm trở lại đây, giá trị xuất khẩu thủy sản đã tăng lên một con số đáng kể. So với
năm 1996 thì giá trị XKTS năm 2002 đã tăng lên gấp gần 3 lần.
Trong cả nước đã hình thành một ngành công nghiệp chế biến thủy sản xuất
khẩu mà chủ yếu là công nghiệp đông lạnh. Theo số liệu thống kê của Bộ Thủy
Sản thì cho đến nay, toàn ngành đã có trên 320 nhà máy chế biến công nghiệp.
Công suất chế biến theo thiết kế vào khoảng 1000 tấn thành phẩm mỗi ngày, tăng
gấp 2,5 lần về số lượng nhà máy và gấp 3 lần về công suất so với năm 2000.
Năm

Sản lượng
(tấn)
Giá trị (Triệu
USD)
Tốc độ tăng trưởng về
giá trị (%)
1997

206.398

761.457.413

-
1998

200.556

817.989.276


7,42
1999

229.944

938.871.697

14,8
2000

291.923

1.478.609.549

57,5
2001

375.491

1.777.485.754

20,2
2002

458.658

2.022.820.916

13,8

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

Lĩnh vực đánh bắt đã dần tạo ra các công nghệ để chuyển dịch cơ cấu nghề khai
thác, du nhập nghề mới từ nước ngoài để có thể vươn ra khai thác xa bờ.
Hoạt động hợp tác quốc tế bao gồm: thị trường xuất khẩu, nguồn vốn nước
ngoài và chuyển giao công nghệ đều đạt kết quả khích lệ. Từ cơ chế lấy phát triển
xuất khẩu để tự cân đối, trang trải, tạo vốn đầu tư cho khai thác và nuôi trồng qua
thời kỳ nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, đến nay, sản phẩm thủy sản của
nước ta đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới, có uy tín ở một số thị trường khó
tính.

2. Về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã có những cố gắng rất lớn trong
việc đa dạng hóa sản phẩm thủy sản xuất khẩu từ mức hầu như chỉ xuất khẩu tôm
và mực (năm 1986, trong tổng số 24,89 nghìn tấn thủy sản xuất khẩu thì riêng
tôm đã chiếm 15,9 nghìn tấn-khoảng 64%) thì đến năm 1997, xuất khẩu tôm tuy
vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng đã giảm đi tương đối (115 nghìn tấn trên tổng
số 459 nghìn tấn thủy sản xuất khẩu-khoảng 25%)). Ngoài ra, các mặt hàng mới
xuất khẩu ngày càng nhiều như: cá phi lê đông lạnh, cá hộp, cứ ngừ tươi, các thủy
sản chế biến ăn ngay Bảng số liệu sau cho thấy cơ cấu, dạng sản phẩm thủy sản
xuất khẩu của nước ta trong 2 năm 2001 và 2002.

Bảng 7. Các sản phẩm XKTS chính năm 2001-2002
Số lượng: tấn; Kim ngạch: USD
Thực hiện năm 2001 Thực hiện năm 2002 Tên hàng
Số lượng Kim ngạch Số lượng Kim ngạch

Tốc độ tăng,

giảm về giá trị
(±%)
Tôm đông
lạnh
87.151,18

777.820.214

114.579,98

949.418.477

+ 18,2
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

Mực, bạch
tuộc đông lạnh
41.653,21

115.891.604

54.878,81

140.220.912

+ 20,1
Cá đông lạnh 74.093,14


221.947.692

112.034,52

361.646.074

+ 62,9
Mực khô 18.109,76

153.809.866

18.920,44

109.207.131

- 29
Cá ngừ 14.475,71

58.592.912

20.734,74

77.463.159

+ 32,2
Thủy sản khác 140.007,73

449.423.912

137.509,50


384.865.163

- 14,4
Tổng cộng 375.490,73

1.777.485.754

458.657,99

2.022.820.916

+ 13,8

Nguồn: Báo cáo tổng kết Bộ Thủy sản 2001 - 2002
Như vậy, có thể thấy rằng, xuất phát từ nhu cầu của thị trường, từ tiềm
năng kinh tế thủy sản của Việt Nam, cá tôm và các hải sản thân mềm đã trở
thành sản phẩm thủy sản xuất khẩu chính của Việt Nam được ưa chuộng trên thị
trường thế giới. Trong đó, tôm luôn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm khoảng
trên dưới 50% giá trị xuất khẩu của thủy sản Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam
đang xếp thứ 3 trong các nước xuất khẩu tôm vào 2 thị trường Mỹ và Nhật Bản.
Nhiều doanh nghiệp chỉ kinh doanh mặt hàng tôm và thực tế cũng là những đơn
vị giành vị trí hàng đầu trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
Ngoài ra, mặt hàng cá cũng chiếm một tỉ lệ tương đối ổn định và đáng kể
trong cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu . Năm 2002, cá là nhóm sản phẩm thu hút
nhiều nhất số doanh nghiệp xuất khẩu trong cả nước tham gia: 300/650 doanh
nghiệp. Đây cũng là năm chúng ta mở được nhiều thị trường tiêu thụ nhất, huy
động được nhiều nguồn nguyên liệu các loại cá để đưa vào chế biến xuất khẩu
hoặc xuất khẩu các sản phẩm tươi hoặc ướp đá.
Mặt hàng tươi sống trong thời gian gần đây có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt

là xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới phía Bắc và một số tỉnh Bắc Trung Bộ.
Ngoài ra, ta cũng xuất khẩu chính ngạch bằng đường hàng không sang các thị
trường Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, EU. Nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng tươi
sống ở các thị trường này rất lớn và phong phú về chủng loại. Từ các mặt hàng
phổ biến như: tôm, của, ghẹ, ốc đến các mặt hàng cao cấp như: cá hồng, cá tráp…
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

Hiện nay, các doanh nghiệp thủy sản của ta đã nhận thức được tiềm năng to lớn
của mặt hàng này nên nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư hệ thống trang
thiết bị bảo quản sản phẩm thủy sản tươi sống đắt tiền nhằm đẩy mạnh hơn nữa
kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này.
Trong thời gian qua, chúng ta cũng đã rất chú trọng tới việc chế biến và xuất
khẩu các sản phẩm giá trị gia tăng. Từ chỗ khởi đầu chỉ có 5 đến 6 mặt hàng thì
hiện nay Việt Nam đã xuất khẩu trên 100 sản phẩm có giá trị gia tăng từ các sản
phẩm như tôm vỏ xẻ lưng, mực nhồi thịt cho tới càng cua bao tôm, ốc xiên …Hy
vọng thời gian tới những sản phẩm loại này của Việt nam sẽ chiếm lĩnh nhiều hơn
nữa trên thị trường thủy sản thế giới.

3. Giá cả và hiệu quả xuất khẩu của thủy sản Việt Nam
Do mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nguyên liệu thô,
lại xuất khẩu qua nhiều trung gian nên giá thủy sản xuất khẩu của ta nhìn chung là
thấp hơn giá trên thị trường quốc tế và khu vực (chỉ bẳng 2/3 mức giá xuất khẩu
của Thái Lan và Trung Quốc). Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc sản xuất,
chế biến thủy sản xuất khẩu và do đó ảnh hưởng rất lớn đến kim ngạch xuất khẩu
thủy sản của nước ta. Hơn nữa, khâu tổ chức quản lý xuất khẩu không tốt, nên
sản phẩm thủy sản xuất khẩu lại bị thương nhân nước ngoài ép giá. Giá xuất khẩu
của ta thấp còn là do cơ cấu sản phẩm chưa hợp lý, tỷ trọng sản phẩm có giá trị
gia tăng cao còn rất thấp.

Tất cả những phân tích về cơ cấu thị trường, cơ cấu sản phẩm và tình hình
giá sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đều dẫn đến nhận định rằng: hiệu
quả xuất khẩu thủy sản của nước ta là rất thấp. Nếu đem so sánh với xuất khẩu
thủy sản của Thái Lan, nước xuất khẩu thủy sản đứng đầu thế giới, chúng ta có
thể thấy rõ sự chênh lệch về trình độ công nghệ và mức giá xuất khẩu như thế nào
qua bảng số liệu 8 sau:
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

Bảng 8. So sánh một số chỉ tiêu của ngành tôm xuất khẩu của Việt Nam với
Thái Lan năm 2000
Chỉ tiêu Việt Nam Thái Lan
Năng suất nuôi tôm bình quân (tấn/ha/năm) 0,36 2,744
Sản lượng tôm nuôi (tấn) 77.000 280.000
Giá bình quân sản phẩm tôm (USD/kg) 5,0 >10
Tổng kim ngạch xuất khẩu tôm (tỷ USD) 0,48 4,2

Nguồn: Bộ Thủy sản-2002
Năng suất nuôi tôm bình quân của Thái Lan cao gấp gần 8 lần năng suất tôm
nuôi của Việt Nam, bởi vì Thái Lan thực hiện 100% là nuôi tôm công nghiệp.
Còn ở Việt Nam thì ngược lại, có đến gần 90% sản lượng tôm nuôi được thu
hoạch qua nuôi quảng canh và bán thâm canh. Cũng nhờ vào phương pháp nuôi
tôm hiện đại cho thu hoạch tôm nguyên liệu hay tôm sống theo ý muốn và chủ
động được cỡ loại tôm mà giá xuất khẩu tôm của Thái Lan thường cao gấp đôi giá
xuất khẩu tôm của Việt Nam, nếu so với một số nước trung bình tiên tiến khác
như In-đô-nê-xia, năng suất nuôi thủy sản của Việt Nam cũng như thấp hơn
khoảng 60%.
Có thể thấy rằng, mặcdù ngành thủy sản nước ta có tiềm năng xuất khẩu rất
lớn nhưng nếu không biết tận dụng các nguồn lợi đó, không ngừng nâng cao hiệu

quả xuất khẩu và năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam thì chúng ta sẽ
đánh mất lợi thế của mình và khó có thể cạnh tranh trên thị trường thủy sản thế
giới.

4. Các quy định hiện hành liên quan đến xuất khẩu thủy sản
4.1. Chính sách thuế, lệ phí
Thuế là công cụ điếu tiết nền kinh tế, đồng thời là nguồn thu ngân sách cho
Nhà nước. Đối với nghề cá, tính từ khâu đầu là sản xuất tạo ra nguyên liệu đến
sản phẩm cuối cùng phục vụ cho tiêu dùng hoặc xuất khẩu, thông thường chịu các
Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

loại thuế: môn bài, tài nguyên, thuế sử dụng đất cho nuôi trồng thủy sản và nhiều
loại phí như: phí trước bạ, đăng kiểm tàu đánh bắt, giấy di chuyển ngư trường,
bến bãi. Ngoài ra, ngư dân còn phải nộp nhiều khoản khác nữa như tham gia bảo
hiểm thân tàu, bảo hiểm nhân mạng Để phù hợp với thực tiễn và khuyến khích
sản xuất phát triển, thuế và lệ phí đối với nghề cá đã được sửa đổi tích cực.
Về Luật thuế tài nguyên, khung thuế suất 2-7%, theo Nghị định của Chính
phủ, Thông tư số 30 BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thống nhất thuế suất là
4% với khai thác hải sản và 3% với khai thác cá sông.
Đối với khai thác hải sản xa bờ, năm 1993 tại Quyết định số 400 Ttg của
Chính phủ đã cho miễn thuế tài nguyên, thuế lợi tức 3 năm đầu.Và trong năm
1997, ngày 29/5/1997, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 358/ Ttg cho tàu
thuyền khai thác hải sản xa bờ được giảm 50% thuế tài nguyên và thuế doanh thu
phải nộp trong 3 năm đầu, thuế lợi tức cũng được giảm trong 3 năm đầu kể từ khi
có lợi tức chịu thuế. Về lệ phí trước bạ, chỉ phải nộp 1% trên giá trị tài sản. Ngày
3/9/1998, Chính phủ đã quy định tại Nghị định 68/NĐ-CP về thuế suất phải nộp
và chính sách miễn giảm thuế tài nguyên thủy sản. Nếu khai thác ở vùng biển xa
bờ bằng phương tiện có công suất lớn được miễn thuế tài nguyên 5 năm đầu kể từ

khi được cấp giấy phép khai thác và giảm 50% trong 5năm tiếp theo. Đối với sản
phẩm qúy khai thác là ngọc trai, bào ngư, hải sâm là 10% còn tôm, cá, mực và các
loại thủy sản khác là 2%.
Hiện nay để cạnh tranh với các nhà sản xuất xuất khẩu thủy sản của các nước
trên thế giới và đặc biệt đối với các nước khu vực ASEAN, ngày 2/6/1998, Bộ
Tài chính đã ký Quyết định số 103 QĐ/BTC về việc đánh thuế 0% đối với hàng
thủy sản xuất khẩu. Việc đánh thuế 0% này đã làm tăng sức cạnh tranh về giá cả
hàng thủy sản của Việt Nam trên thị trường thế giới, đồng thời với mức thuế này
là sự phù hợp của nó với công nghệ sản xuất và chất lượng hàng thủy sản xuất
khẩu hiện nay của nước ta so với các nước xuất khẩu thủy sản khác.

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Kim Thoa - Lớp Anh 6-K38_Khoa Kinh Tế Ngoại Thương


4.2. Chính sách đầu tư và quản lý vốn
Trong thời gian hơn 10 năm vừa qua, ngành thủy sản có mức tăng trưởng
bình quân hàng năm về tổng sản lượng khoảng 4% và giá trị kim ngạch xuất khẩu
tăng từ 10-15%. Nhưng, nếu so với tiềm năng lớn của vùng biển đặc quyền kinh
tế rộng trên 1 triệu km
2
thì con số này mới chỉ là biểu hiện bước đầu, chưa đáng
kể. Muốn thủy sản có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế đất nước, cần phải tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh của ngành,
đồng thời Nhà nước cần ban hành những chính sách mới để khuyến khích, kêu
gọi đầu tư vào lĩnh vực thủy sản, nhất là trong khu vực nuôi trồng và đánh bắt xa
bờ.
Xem xét cả giai đoạn 1986-1998, thì vốn trong nước vẫn giữ vai trò chủ đạo,
chiếm đến 83,56% trong tổng vốn đầu tư (tổng vốn đầu tư cả 3 giai đoạn là

7.795.200 triệu đồng). Tỷ trọng vốn ngân sách đầu tư cho thủy sản cả 3 giai đoạn
chỉ được 12,49%, khoảng 974.000 triệu đồng. Vốn tín dụng ưu đãi cũng chỉ đạt
trên 30%, trong đó vốn trung và dài hạn ít, còn phần lớn là vốn ngắn hạn với lãi
suất cao nên không khuyến khích người vay. Rất ít doanh nghiệp vay vốn để đầu
tư đổi mới công nghệ; sản phẩm có giá trị gia tăng mới chỉ chiếm 6-7% kim
ngạch xuất khẩu.
Bên cạnh nguồn vốn trong nước, chúng ta đã khai thác khá mạnh các nguồn
lực bên ngoài. Với những chính sách thích hợp, từ năm 1991 đến nay nguồn lực
bên ngoài đầu tư cho ngành tăng nhanh. Thời kỳ 1991-1995, nguồn vốn này đạt
bình quân 95.398 triệu đồng/năm, sang thời kỳ 1996-1998 tăng lên 188.614,3
triệu đồng/năm, tăng 97,7%/năm so với bình quân thời kỳ 1991-1995.
Với nguồn tài trợ và đầu tư trên, chủ yếu là nguồn ODA, các nước và các tổ
chức quốc tế đã tập trung giúp Việt Nam xây dựng quy hoạch phát triển ngành;
nghiên cứu nguồn lợi biển; phát triển cơ sở hạ tầng nghề cá; tăng cường năng lực

×