Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi nsnn trên địa bàn thành phố đà nẵng thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.18 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
NGUYỄN VIẾT NHÃN
PHÂN CẤP NGUỒN THU, NHIỆM VỤ CHI NSNN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số : 60.34.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Trọng Thản
ĐÀ NẴNG – 2013
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

NGUYỄN VIẾT NHÃN

ii
MỤC LỤC
MỤC NỘI DUNG Trang
Chương 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC VÀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
4
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 4
1.1.1. Khái niệm về ngân sách nhà nước 4
1.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước 5
1.1.3. Chức năng của ngân sách nhà nước 6


1.1.4. Những nguyên tắc cơ bản trong quản lý ngân sách nhà nước. 7
1.1.5. Vai trò của ngân sách nhà nước 8
1.1.6. Hệ thống ngân sách nhà nước 9
1.2. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 10
1.2.1. Khái niệm về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 10
1.2.2. Mục tiêu của phân cấp quản lý NSNN 10
1.2.3. Vai trò của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 11
1.2.4. Nguyên tắc cơ bản trong phân cấp quản lý NSNN 12
1.2.5. Nội dung phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 15
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN
20
1.3.1. Nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế phân cấp quản lý NSNN 20
1.3.2. Sự cần thiết phải phân cấp quản lý NSNN 22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÂN CẤP NGUỒN THU, NHIỆM
VỤ CHI NSNN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
TRONG THỜI GIAN QUA
24
2.1. MỘT VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ
HỘI CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
24
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 24
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 24
2.2. THỰC TRẠNG PHÂN CẤP NGUỒN THU, NHIỆM VỤ CHI
NSNN TRÊN ĐỊA BÀN TP. ĐÀ NẴNG THỜI GIAN QUA
32
2.2.1. Thời kỳ ổn định ngân sách 2004-2006 32
2.2.2. Thời kỳ ổn định ngân sách 2007-2011 48
Chương 3 : GIẢI PHÁP CƠ BẢN HOÀN THIỆN CƠ CHẾ
PHÂN CẤP NGUỒN THU, NHIỆM VỤ CHI NSNN TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
55
3.1. QUAN ĐIỂM, CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ĐẾN NĂM 2020
55
3.1.1. Quan điểm phát triển 55
iii
3.1.2 . Mục tiêu tổng quát 55
3.1.3. Mục tiêu cụ thể đến năm 2020 55
3.2. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÂN CẤP
NGUỒN THU, NHIỆM VỤ CHI NSNN Ở TP. ĐÀ NẴNG
56
3.2.1. Mục tiêu 56
3.2.2. Quan điểm 57
3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÂN CẤP NGUỒN THU
NHIỆM VỤ CHI NSNN TRÊN ĐỊA BÀN TP ĐÀ NẴNG
57
3.3.1. Đề xuất và kiến nghị sửa đổi bổ sung Luật NSNN 57
3.3.2. Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi thành phố Đà Nẵng giai đoạn
2011-2015
58
3.3.3. Một số giải pháp có tính bổ trợ 90
3.3.4. Các điều kiện thực hiện nhằm hoàn thiện cơ chế phân cấp nguồn
thu, nhiệm vụ chi NSNN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai
đoạn 2011-2015
91
KẾT LUẬN 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
iv
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ATGT : An toàn giao thông
BHXH : Bảo hiểm xã hội
BHYT : Bảo hiểm y tế
BTC : Bộ Tài chính
BVHTT : Bộ Văn hóa – Thông tin
FDI : Vốn đầu trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products)
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTX : Hợp tác xã
KPCĐ : Kinh phí công đoàn
NSNN : Ngân sách Nhà nước
NSĐP : Ngân sách địa phương
NSTW : Ngân sách trung ương
QLNN : Quản lý nhà nước
THPT : Trung học phổ thông
TNCS HCM : Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
TP. : Thành phố
TW : Trung ương
UBND : Ủy ban nhân dân
UBTWMTTQ : Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
TT Danh mục hình Trang
1 Bảng 2.1. Tổng hợp số thu ngân sách nhà nước theo từng cấp 27
2 Bảng 2.2. Tổng hợp số thu ngân sách nhà nước theo từng lĩnh vực 29
3 Bảng 2.3. Tỷ lệ huy động GDP vào NSNN trên địa bàn thành phố 31
4 Bảng 2.4. Cơ cấu nguồn thu NSNN ở thành phố Đà Nẵng 31
5 Bảng 2.5. Tổng hợp thu NSNN trên địa bàn TP Đà Nẵng 2004-2006 40

6
Bảng 2.6. Tỷ trọng thu ngân sách các cấp giai đoạn 2004-2006 40
7 Bảng 2.7. Tỷ trọng thu ngân sách các cấp giai đoạn 2004-2006 41
8
Bảng 2.8. Tỷ trọng chi ngân sách các cấp thời kỳ 2004-2006 42
9 Bảng 2.9. Tổng hợp thu NSNN trên địa bàn TP Đà Nẵng 2004-2006 46
10 Bảng 2.10. Tỷ trọng thu ngân sách các cấp giai đoạn 2009-2011 47
11 Bảng 2.11. Tỷ trọng chi ngân sách các cấp giai đoạn 2009-2011
48
12 Bảng 3.1. Định mức phân bổ Ngân sách cấp phường/xã 71
13
Bảng 3.2. Định mức phân bổ chi sự nghiệp đào tạo và dạy nghề
72
14 Bảng 3.3. Định mức phân bổ ngân sách cấp quận, huyện 75
15 Bảng 3.4. Định mức phân bổ ngân sách cấp phường, xã 75
16 Bảng 3.5. Định mức phân bổ ngân sách cấp quận, huyện 76
17 Bảng 3.6. Định mức phân bổ ngân sách cấp phường, xã 76
18 Bảng 3.7. Định mức phân bổ ngân sách cấp quận, huyện 77
19 Bảng 3.8. Định mức phân bổ ngân sách cấp phường, xã 77
20 Bảng 3.9. Định mức phân bổ ngân sách cấp quận, huyện 78
21 Bảng 3.10. Định mức phân bổ ngân sách cấp phường, xã 78
22
Bảng 3.11. Định mức phân bổ chi quản lý hành chính
79
23
Bảng 3.12. Định mức phân bổ ngân sách theo tiêu chí dân số cấp quận/huyện
83
24 Bảng 3.13. Định mức phân bổ ngân sách theo tiêu chí dân số cấp xã/phường
83
25 Bảng 3.14. Định mức phân bổ ngân sách theo tiêu chí dân số cấp quận/huyện

84
26 Bảng 3.15. Định mức phân bổ ngân sách theo tiêu chí dân số cấp xã/phường
85
27
Bảng 3.16. Định mức phân bổ chi sự nghiệp kinh tế cấp quận, huyện
86
28
Bảng 3.17. Định mức phân bổ chi sự nghiệp môi trường cấp quận, huyện
86
DANH MỤC CÁC HÌNH
TT Danh mục hình Trang
1 Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống Ngân sách Nhà nước 9
vi
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi là một nội dung quan trọng trong cơ chế
phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, nhằm quản lý thống nhất hệ thống NSNN
bằng việc phân công trách nhiệm gắn với quyền hạn, phân cấp quản lý giữa các
ngành, các cấp trong việc thực hiện thu, chi NSNN phục vụ mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương.
Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi là yêu cầu khách quan, bởi mỗi quốc gia
đều có những vùng lãnh thổ khác nhau, mỗi địa phương đều có từng vùng miền
khác khau. Việc phân chia dân cư theo đơn vị hành chính, lãnh thổ, vùng miền, hình
thành các cấp hành chính là đặc trưng của Nhà nước. Do đó, để góp phần thúc đẩy
kinh tế - xã hội địa phương phát triển, cần thiết phải phân cấp quản lý NSNN, phân
cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách ở địa phương, là giải pháp quan
trọng vừa động viên được các nguồn thu tiềm tàng, vừa tạo cơ chế để các nguồn tài
chính được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng nhiệm
vụ của Nhà nước, vừa tạo quyền tự chủ cho các cấp chính quyền địa phương.
Nguồn thu ngân sách là có hạn, trong khi nhu cầu chi tiêu thì lớn, do vậy phân cấp

quản lý ngân sách đòi hỏi phải thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật về
NSNN.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân
sách của thành phố Đà Nẵng hiện nay vẫn bộc lộ những mặt hạn chế cần được khắc
phục. Một số khoản thu phần lớn điều tiết cho cấp xã hưởng nhưng cấp xã chưa
phát huy hết việc khai thác triệt để nguồn thu trên địa bàn, dẫn đến thất thu. Một số
nhiệm vụ chi chưa được phân cấp đồng bộ….Mặt khác do chế độ chính sách thu
ngân sách thay đổi, một số nguồn thu của cấp huyện, cấp xã giảm đã ảnh hưởng đến
cân đối các khoản chi của cấp huyện, cấp xã. Để góp phần giải quyết những hạn
chế, tồn tại nêu trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài "Phân cấp nguồn thu, nhiệm
vụ chi NSNN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, thực trạng và giải pháp" cho
Luận văn Thạc sỹ của mình, với mong muốn tìm những định hướng, giải pháp thích
hợp trong phân cấp quản lý NSNN, góp phần vào sự phát triển của nền tài chính
1
quốc gia và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hoá vấn đề lý luận về NSNN. Thông qua việc phân tích đánh giá
thực trạng phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để rút
ra những thành công, tồn tại và làm rõ nguyên nhân. Mục đích nghiên cứu của đề tài
là đề xuất quan điểm, các giải pháp nhằm xây dựng khung lý luận cơ bản, cần thiết
về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa
phương, đáp ứng yêu cầu của quản lý NSNN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, thúc đẩy cải cách hành chính công, tạo điều kiện thu hút đầu tư, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn NSNN, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội theo Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XVII,
nhiệm kỳ 2010- 2015 đã đề ra.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và cơ chế, chính
sách, luật pháp cũng như thực tiễn có liên quan đến phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ

chi NSNN của thành phố Đà Nẵng.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung xem xét về phương thức, cơ chế, nội
dung phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách của thành phố Đà
Nẵng từ khi tái lập thành phố năm 1997, đặc biệt là từ khi Luật NSNN sửa đổi (năm
2002) có hiệu lực thi hành từ 2007 đến nay. Các kiến nghị và giải pháp đề xuất hoàn
thiện cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi thời kỳ ổn định ngân sách từ 2011
đến năm 2015 và những năm tiếp theo.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Về ý nghĩa khoa học: Luận văn đã hệ thống hoá, phân tích và bổ sung nhận
thức, ý nghĩa, vai trò, nội dung của ngân sách nhà nước, bản chất của phân cấp quản
lý NSNN và những nhân tố ảnh hưởng. Từ đó đề xuất các giải pháp, nguyên tắc cần
quán triệt trong quá trình hoạch định chính sách, phân cấp quản lý NSNN, đặc biệt
là các vấn đề liên quan đến phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân
sách ở địa phương.
2
Về ý nghĩa thực tiễn: Phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế, chính sách hiện
hành trong phân cấp quản lý NSNN mà trọng tâm là cơ chế phân cấp nguồn thu,
nhiệm vụ chi ở thành phố Đà Nẵng để làm sáng tỏ những ưu điểm, hạn chế, tồn tại,
vướng mắc; nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm, từ đó đề xuất những giải
pháp cụ thể với những bước đi thích hợp để hướng tới thực hiện cơ chế phân cấp
nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách ở địa phương trong thời kỳ đổi
mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận
văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về ngân sách nhà nước và phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước.
Chương 2: Thực trạng phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi

NSNN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
VÀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái niệm về ngân sách nhà nước
Tài chính nhà nước là một phạm trù kinh tế- lịch sử, gắn liền với sự ra đời
của nhà nước và nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Nhà nước sử dụng quyền lực của
mình tham gia vào quá trình phân phối sản phẩm xã hội dưới hình thức tiền tệ như
thuế bằng tiền, vay nợ để phục vụ cho hoạt động của mình hình thành nên ngân
sách nhà nước (NSNN), bộ phận quan trọng nhất của khu vực tài chính nhà nước.
Tuy nhiên thuật ngữ "ngân sách nhà nước" chỉ thực sự xuất hiện khi nền sản xuất xã
hội phát triển đến một giai đoạn nhất định. Lúc này các khoản thu, chi của nhà nước
được thể chế hoá bằng luật pháp, tách việc thực hiện quyền lập pháp về NSNN
thuộc về Quốc hội và quyền hành pháp về NSNN giao cho Chính phủ điều hành.
Khi nghiên cứu về NSNN cần được xem xét cả biểu hiện bên ngoài và thực
chất bên trong của nó:
Căn cứ vào biểu hiện bên ngoài thì NSNN là một bảng dự toán thu, chi bằng
tiền của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm hoặc
một số năm. Hàng năm Chính phủ dự toán các khoản thu vào quỹ NSNN, đồng thời
dự toán các khoản chi cho sự nghiệp kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, quản lý
hành chính từ quỹ NSNN và bảng dự toán này phải được Quốc hội phê chuẩn.
Trong thực tiễn, hoạt động NSNN là hoạt động tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ
của Nhà nước. Trong quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội, nguồn tài chính
luôn vận động giữa một bên là Nhà nước một bên là các chủ thể kinh tế xã hội.
Đằng sau các hoạt động đó chứa đựng các mối quan hệ giữa Nhà nước với các chủ
thể khác, thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước chuyển
dịch của một bộ phận thu nhập bằng tiền của các chủ thể đó thành thu nhập của nhà
nước và Nhà nước chuyển dịch thu nhập đó đến các chủ thể được thụ hưởng để thực

hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Hoạt động NSNN là sự thể hiện các mặt hoạt động kinh tế - xã hội của Nhà
nước ở tầm vĩ mô. Vai trò của NSNN trong hệ thống tài chính nói chung, cũng như
4
trong khu vực tài chính nhà nước nói riêng, NSNN luôn giữ vị trí trọng yếu trong
việc đảm bảo cho sự tồn tại cũng như đối với các hoạt động của nhà nước.
Tóm lại: Có thể hiểu một cách khái quát, NSNN xét ở thể tĩnh và hình thức
biểu hiện bên ngoài là toàn bộ các khoản thu, chi bằng tiền của nhà nước đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một khoảng
thời gian nhất định nào đó, phổ biến cho một năm hoặc một số năm để đảm bảo
thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước; Xét ở thể động và trong suốt một
quá trình, NSNN là khâu cơ bản, chủ đạo của tài chính nhà nước, được nhà nước sử
dụng để động viên phân phối một bộ phận nguồn lực xã hội dưới dạng tiền tệ về cho
nhà nước để đảm bảo điều kiện vật chất nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của
bộ máy nhà nước và phục vụ thực hiện chức năng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà nhà
nước phải gánh vác.
Tại điều 1 Luật NSNN được Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ hai, năm 2002 cũng khẳng định: “Ngân
sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Với khái niệm trên, khi nói đến ngân sách nhà nước, người ta thường đề cập
tới 3 đặc tính cơ bản:
+ Tính pháp lý: Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thực hiện.
+ Tính kinh tế: Phản ảnh các khoản thu và các khoản chi
+ Tính niên độ: Thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định
Xét về bên trong thì ngân sách nhà nước được đặc trưng bằng các mối quan
hệ kinh tế trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn tài chính quốc
gia để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước

Chúng ta có thể hiểu rõ hơn về NSNN thông qua các đặc điểm của nó, đó là:
- Các hoạt động tạo lập và sử dụng quỹ NSNN gắn chặt với quyền lực kinh
tế, chính trị của nhà nước và việc thực hiện các chức năng của nhà nước. Nói một
cách cụ thể hơn, quyền lực của nhà nước và các chức năng của nó là những nhân tố
quyết định mức thu, mức chi, nội dung và cơ cấu thu chi của NSNN.
5
- Các hoạt động thu, chi NSNN đều được tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất
định. Đó là các Luật thuế, các chế độ thu, chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu do Nhà
nước ban hành. Việc dựa trên cơ sở pháp luật để tổ chức các hoạt động thu, chi của
NSNN là một yếu tố có tính khách quan, bắt nguồn từ phạm vi hoạt động của NSNN
được tiến hành trên mọi lĩnh vực và có tác động tới mọi chủ thể kinh tế, xã hội.
Nguồn tài chính chủ yếu hình thành nên NSNN, quỹ tiền tệ tập trung lớn
nhất của nhà nước là từ giá trị sản phẩm thặng dư của xã hội và được hình thành
chủ yếu qua quá trình phân phối lại mà trong đó thuế là hình thức thu phổ biến.
Sau các hoạt động thu, chi NSNN là việc xử lý các mối quan hệ kinh tế, quan hệ
lợi ích trong xã hội khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia.
Xuất phát từ đặc điểm trên, ngân sách nhà nước nổi lên 2 đặc trưng cơ bản
đó là:
+ Một là, tính cưỡng chế, tức là các khoản thu có tính bắt buộc được quy
định bởi pháp luật (trừ các khoản thu ngoài thuế và phí), các khoản chi chịu sự giám
sát của pháp luật.
+ Hai là, tính không hoàn lại, tức là Nhà nước không mắc nợ khi thu và
không được hoàn trả khi chi (trừ các khoản ngân sách cho vay).
1.1.3. Chức năng của ngân sách nhà nước
Trong sự vận động và phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, với những
diễn biến kinh tế, vai trò của nhà nước được thay đổi, thì chức năng của ngân sách
nhà nước cũng cần được nhìn nhận lại cho phù hợp với tình hình mới.
Một là, cùng với các công cụ khác của Nhà nước, ngân sách nhà nước là một
công cụ ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chống lạm phát và
giảm thất nghiệp.

Hai là, chức năng phân bổ nguồn lực trong xã hội: Để tạo lập và sử dụng các
nguồn lực có hiệu quả, thông qua các biện pháp thu, chi và quản lý ngân sách nhà
nước, nhà nước thực hiện phân bổ nguồn lực vào những lĩnh vực địa bàn then chốt, có
nhiều rủi ro, cần khuyến khích hoặc hạn chế phát triển; đồng thời có thể thu hút, lôi kéo
sự tham gia phân bổ nguồn lực của các thành phần kinh tế và khu vực tư nhân.
Ba là, chức năng phân phối lại thu nhập trong xã hội: Nhà nước thực hiện
quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập dưới hình thức tham gia trực tiếp
6
hoặc gián tiếp nhằm hạn chế bớt sự phân hoá xã hội, sự bất bình đẳng về thu nhập
đảm bảo sự công bằng hợp lý, làm cho nguồn thu nhập của xã hội được sử dụng
một cách kịp thời hiệu quả. Thông qua công cụ thuế và công cụ chi tiêu. Nhà nước
sẽ thực hiện được các mục tiêu trên.
Bốn là, chức năng điều chỉnh kinh tế: Chính sách ngân sách nhà nước là một
bộ phận không thể tách rời của chính sách kinh tế - xã hội. Khi nền kinh tế suy thoái
người ta thường khuyến cáo dùng chính sách tài khoá kích cầu bằng cách giảm thuế
hoặc tăng chi tiêu công, từ đó làm tăng khối lượng sản xuất xã hội. Khi nền kinh tế
phát triển bình thường, trong điều kiện mở cửa thì chính sách tài khoá kích thích sẽ
tạo nên phản ứng dây chuyền: chính sách tài khoá kích thích nới lỏng với mục đích
tăng tổng cầu, mức lãi suất trong nước tăng, giá đồng nội tệ tăng, thuần xuất khẩu
giảm, tổng cầu giảm. Như vậy, trước mắt chính sách tài khoá có thể kích thích tổng
cầu có tác động đến tăng trưởng kinh tế, nhưng về lâu dài lại kìm hãm chính quá
trình tăng trưởng. Đòi hỏi các nhà hoạch địch chính sách tài chính nói chung và
chính sách tài khoá nói riêng phải tính đến việc sử dụng công cụ ngân sách nhà
nước một cách thích hợp trong quá trình điều chỉnh nền kinh tế.
Bốn chức năng nói trên có mối quan hệ rất gắn bó, phản ảnh được bản chất hoạt
động của ngân sách nhà nước trong quá trình tạo lập, khai thác động viên, phân bổ, tổ
chức huy động các nguồn vốn cũng như tham gia kiểm soát, điều chỉnh kinh tế vĩ mô.
1.1.4. Những nguyên tắc cơ bản trong quản lý ngân sách nhà nước
Để phát huy vai trò, chức năng của ngân sách nhà nước trong đời sống kinh
tế - xã hội, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và các kinh nghiệm sử dụng công cụ ngân

sách nhà nước ở nước ta, khái quát hoá kết quả nghiên cứu, khảo sát và đánh giá
thực tiễn đã đưa ra một số nguyên tắc như sau:
Một là, Nguyên tắc thống nhất, tập trung dân chủ: Điều 6 Hiến pháp nước cộng
hoà XHCN Việt nam năm 1992 quy định: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ
quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Hai là, Nguyên tắc công khai minh bạch: Công khai là để mọi người đều được
biết, Minh bạch là làm cho mọi việc trở nên rõ ràng, dễ hiểu. Quản lý ngân sách phải
công khai minh bạch xuất phát từ đòi hỏi chính đáng của người dân với tư cách là người
nộp thuế cho nhà nước. Quy tắc chung về tính minh bạch gồm các nội dung chủ yếu là:
7
- Ngân sách phải đảm bảo tính toàn diện. Điều này có nghĩa là các hoạt động
trong và ngoài ngân sách đều được phản ánh vào tài liệu trình cấp có thẩm quyền
xem xét quyết định.
- Đảm bảo tính khách quan độc lập. Các cấp, các đơn vị dự toán, các tổ chức
cá nhân được NSNN hỗ trợ phải công khai dự toán và quyết toán ngân sách, Nội
dung công khai theo các biểu mẫu quy định, thời gian công khai được quy định rõ
đối với từng cấp ngân sách.
Ba là, Nguyên tắc đảm bảo trách nhiệm: Nhà nước phải đảm bảo trách nhiệm
trước nhân dân về toàn bộ quá trình quản lý ngân sách. Chịu trách nhiệm hữu hiệu
bao gồm khả năng điều trần và gánh chịu hậu quả.
Bốn là, Nguyên tắc đảm bảo cân đối NSNN: Cân đối NSNN ngoài sự cân bằng
về thu, chi còn là sự hài hoà hợp lý trong cơ cấu thu, chi giữa các khoản thu, chi; các
lĩnh vực, các ngành; các cấp chính quyền thậm chí ngay cả giữa các thế hệ (ví dụ: vay
nợ). Đảm bảo cân đối ngân sách là một đòi hỏi khách quan xuất phát từ vai trò nhà
nước trong can thiệp vào nền kinh tế thị trường với mục tiêu ổn định, hiệu quả và công
bằng. Vì vậy tính toán nhu cầu chi sát với khả năng thu trong khi lập ngân sách là rất
quan trọng. Các khoản chi chỉ được phép thực hiện khi đã có đủ các nguồn bù đắp.
1.1.5. Vai trò của ngân sách nhà nước
Thứ nhất, NSNN là kế hoạch tài chính vĩ mô trong các kế hoạch tài chính
của Nhà nước để quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội, nó có vị trí quan trọng góp

phần định hướng phát triển sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế mới, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ổn định và bền vững.
Thứ hai, xét về mặt thực thể, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà
nước. Nguồn hình thành của quỹ ngân sách là từ tổng sản phẩm quốc nội và từ các
nguồn tài chính khác. Mục đích sử dụng của quỹ ngân sách là duy trì sự tồn tại, đảm
bảo hoạt động, thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Thứ ba, NSNN là khâu chủ đạo trong hệ thống các khâu tài chính, vì NSNN
do Nhà nước nắm giữ, chi phối và là công cụ để Nhà nước kiểm soát vĩ mô và cân
đối vĩ mô. Việc sử dụng ngân sách có ý nghĩa quốc gia, với phạm vi tác động rộng
lớn và được sử dụng chủ yếu cho các nhu cầu có tính chất toàn xã hội.
+ NSNN góp phần điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát.
8
+ NSNN là công cụ để điều tiết thu nhập, góp phần giải quyết các vấn đề xã
hội và bảo vệ môi trường.
Chính vì vậy thông qua sự vận động của vốn NSNN, Nhà nước thực hiện
hướng dẫn, chi phối, kiểm soát các nguồn lực tài chính khác của quốc gia.
1.1.6. Hệ thống ngân sách nhà nước
Hệ thống ngân sách nhà nước được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan
hệ hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách.
Ở nước ta, tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước gắn bó chặt chẽ với việc tổ
chức bộ máy nhà nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Hệ thống ngân sách nhà nước gồm: ngân sách trung
ương và ngân sách địa phương.
Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền
Nhà nước ta hiện nay. Ngân sách địa phương bao gồm:
- Ngân sách cấp thành phố, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là
ngân sách cấp thành phố).
- Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc thành phố (gọi chung là
ngân sách cấp huyện).

- Ngân sách cấp xã, phường, (gọi chung là ngân sách cấp xã).
Hình 1.1: Sơ đồ hệ thống ngân sách nhà nước
NS CẤP TỈNH
NS CẤP HUYỆN
NGÂN SÁCH
CẤP HUYỆN
NGÂN SÁCH
CẤP XÃ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
9
1.2. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.2.1. Khái niệm về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Hệ thống chính quyền nhà nước được tổ chức thành nhiều cấp và mỗi cấp
đều được phân giao những nhiệm vụ nhất định. Để thực hiện những nhiệm vụ đó,
mỗi cấp lại được phân giao những quyền hạn cụ thể về nhân sự, kinh tế, hành chính
và ngân sách. Việc hình thành hệ thống ngân sách nhà nước gồm nhiều cấp thì việc
phân cấp ngân sách nhà nước là một tất yếu khách quan. Bởi vì mỗi cấp ngân sách
nhà nước đều có nhiệm vụ thu, chi mang tính độc lập. Trong việc tổ chức quản lý
tài chính nhà nước nếu cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước được thiết lập
phù hợp thì tình hình quản lý tài chính và ngân sách nhà nước sẽ được cải thiện góp
phần thúc đẩy sự phát triển ổn định của nền kinh tế - xã hội.
Sự phân giao về ngân sách cho các cấp chính quyền làm nảy sinh khái niệm về
phân cấp quản lý ngân sách. Có thể hiểu về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước như sau:
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc phân định phạm vi trách nhiệm,
quyền hạn của các cấp chính quyền nhà nước từ trung ương tới địa phương trong
quá trình tổ chức tạo lập và sử dụng ngân sách nhà nước phục vụ cho việc thực thi
chức năng nhiệm vụ của nhà nước.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước chỉ xảy ra khi ở đó có nhiều cấp ngân sách,
phân cấp ngân sách thể hiện mối quan hệ giữa các cấp chính quyền địa phương.

1.2.2. Mục tiêu của phân cấp quản lý NSNN
Một là, Phát huy tính năng động sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của chính quyền các cấp, nhằm phục vụ tốt nhất nhiệm vụ phát triển kinh tế, đảm
bảo an ninh quốc phòng, xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa phát triển, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
đẩy mạnh tiến trình cải cách hành chính.
Hai là, Tạo ra sự đồng bộ thống nhất trong hệ thống thể chế, văn bản quy
phạm pháp luật gắn với đổi mới cơ chế và đảm bảo quyền tự chủ tự chịu trách
nhiệm của các đơn vị cơ sở. Đảm bảo sự quản lý tập trung, thống nhất về nguồn lực
để đảm bảo khả năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế ở từng địa phương.
10
Ba là, Làm rõ quyền hạn và trách nhiệm, nguồn lực và nhiệm vụ của các cấp
chính quyền trong quản lý sử dụng NSNN, giải quyết tốt mối quan hệ tài chính giữa
các ngành và địa bàn lãnh thổ. Khắc phục những chồng chéo hoặc thiếu sót trong
từng nội dung quản lý
Bốn là, Tạo ra mối liên kết đồng thuận giữa các cơ quan Tài chính, cơ quan
Kế hoạch đầu tư và các ngành chức năng liên quan với chính quyền các cấp trong
quản lý NSNN.
1.2.3. Vai trò của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Một là, Đối với quản lý hành chính nhà nước: Việc phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước là công cụ cần thiết khách quan để phục vụ cho việc phân cấp quản
lý hành chính và có tác động quan trọng đến hiệu quả của quản lý hành chính từ
trung ương đến địa phương.
Ngân sách nhà nước cung cấp phương tiện tài chính cho các cấp chính quyền
nhà nước từ trung ương đến địa phương hoạt động. Tuy nhiên phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước không phụ thuộc hoàn toàn vào phân cấp hành chính mà nó có
tính độc lập tương đối trong việc thực hiện mục tiêu phân phối hợp lý nguồn lực
quốc gia. Một cơ chế phân cấp quản lý ngân sách hợp lý sẽ tạo điều kiện giúp chính
quyền nhà nước thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình. Ngược lại phân

cấp không hợp lý sẽ gây cản trở, khó khăn đối với quá trình quản lý của các cấp
hành chính nhà nước.
Hai là, Đối với điều hành vĩ mô nền kinh tế: Phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước hợp lý không chỉ đảm bảo phương tiện tài chính cho việc duy trì phát triển
hoạt động của các cấp chính quyền nhà nước từ trung ương đến các địa phương mà
còn tạo điều kiện phát huy được các lợi thế nhiều mặt của từng vùng địa phương
trong cả nước. Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá ngân sách nhà nước tốt hơn,
điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như mối quan hệ giữa các
cấp ngân sách để phát huy vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô ngân sách nhà nước.
Cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước có tác động quan trọng đến
hoạt động điều hành vĩ mô nền kinh tế của nhà nước thông qua chính sách tài khoá,
vì mức độ phân cấp giữa trung ương và địa phương có tác động lớn đối với mục tiêu
điều chỉnh kinh tế bằng chính sách tài khoá của nhà nước. Chính sách tài khoá là
11
công cụ quan trọng nhất trong tay nhà nước để điều hành kinh tế vĩ mô. Chủ trương
và định hướng thu, chi ngân sách nhà nước theo hướng “nới lỏng” hay “thắt chặt” là
những biện pháp cốt yếu của Chính phủ để ứng phó với những diễn biến của nền
kinh tế nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng, ổn định và phát triển bền vững. Nếu
mức độ phân cấp tập trung về phía trung ương lớn thì quá trình điều chỉnh được
thực thi nhanh hơn và ngược lại nếu mức độ phân cấp tập trung về phía địa phương
nhiều hơn sẽ dẫn đến thời gian điều chỉnh chậm hơn bởi vì khi địa phương được
phân cấp mạnh thì quyền hạn trong thu, chi ngân sách địa phương được mở rộng và
linh hoạt hơn. Chính vì vậy cần xây dựng một phương án phân cấp hợp lý để vừa
đảm bảo thực hiện được mục tiêu của chính sách tài khoá vừa tránh được việc tập
trung quá cao.
1.2.4. Nguyên tắc cơ bản trong phân cấp quản lý NSNN
Để đảm bảo phân cấp quản lý ngân sách nhà nước đem lại kết quả tốt cần
quán triệt đầy đủ các nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
của nhà nước và năng lực quản lý của mỗi cấp trên địa bàn

- Phân cấp quản lý ngân sách của các cấp chính quyền không tách rời phân
cấp quản lý kinh tế - xã hội. Mỗi đơn vị hành chính có chức năng và nhiệm vụ quản
lý kinh tế - xã hội theo phân cấp phù hợp với đặc điểm của mỗi cấp chính quyền.
Do đó cần phải xem xét về chức năng thực tế và quy mô nhiệm vụ từng cấp hành
chính để có quy định phân thành một cấp ngân sách hay chỉ là một đơn vị dự toán.
Phân cấp quản lý ngân sách phải gắn với mô hình tổ chức bộ máy nhà nước, phải
phù hợp và tương ứng với mô hình tổ chức các cơ quan công quyền, gắn với thực
trạng nền kinh tế và phải được đánh giá trên các khía cạnh chủ yếu như cơ cấu kinh
tế, cơ cấu ngành nghề, tốc độ tăng trưởng, năng suất, hiệu quả thu nhập và phân
phối thu nhập Thực trạng kinh tế mỗi địa phương sẽ quyết định đến nguồn lực tài
chính ở địa phương đó. Phân cấp nguồn lực tài chính ở mỗi địa phương phải quan
hệ chặt chẽ với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn. Vì vậy phân cấp quản
lý ngân sách phải phù hợp, nhằm đảm bảo điều kiện vật chất để thực thi nhiệm vụ
một cách hiệu quả.
12
Khi phân cấp nguồn thu chú trọng khả năng đáp ứng nhu cầu chi tại chỗ,
khuyến khích khai thác thu và phải phù hợp với điều kiện, đặc điểm của từng vùng.
Nguồn thu gắn liền với vai trò quản lý của cấp chính quyền nào thì phân cấp cho
ngân sách cấp Chính quyền đó.
+ Phân cấp tối đa nguồn thu trên địa bàn để bảo đảm nhiệm vụ chi được
giao; hạn chế bổ sung từ ngân sách cấp trên.
+ Hạn chế phân cấp cho nhiều cấp ngân sách đối với các nguồn thu có quy
mô nhỏ.
+ Bảo đảm tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu cho ngân sách cấp
mình và ngân sách các cấp dưới không được vượt quá tỷ lệ phần trăm (%) phân chia
quy định của cấp trên về từng khoản thu được phân chia.
Trên cơ sở nguồn thu ngân sách các cấp được hưởng (các khoản thu được
hưởng 100%; các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm %) ngân sách các cấp
lập dự toán thu NSNN trên địa bàn, và dự toán chi ngân sách địa phương. Về
nguyên tắc ngân sách địa phương không được bội chi nên khi cân đối ngân sách địa

phương, nguồn thu ngân sách địa phương được hưởng không đáp ứng được yêu cầu
chi của địa phương thì sẽ áp dụng phương pháp bổ sung cân đối.
Phân cấp nhiệm vụ chi phải gắn với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội của mỗi cấp chính quyền địa phương, đặc biệt là những vấn đề liên quan mật
thiết đến đời sống dân cư trên địa bàn.
- Nhiệm vụ chi của ngân sách cấp nào ngân sách cấp đó đảm bảo; việc ban
hành và thực hiện chính sách, chế độ làm tăng chi ngân sách phải có giải pháp đảm
bảo nguồn tài chính phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách từng cấp.
- Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản lý
nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi của mình, thì phải chuyển kinh phí từ
ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ.
- Việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp chính quyền
địa phương do Hội đồng nhân dân cấp thành phố quyết định, thời gian thực hiện
phân cấp này phải phù hợp với thời kỳ ổn định ngân sách ở địa phương; cấp xã
được tăng cường nguồn thu, phương tiện và cán bộ quản lý tài chính - ngân sách để
quản lý tốt, có hiệu quả các nguồn lực tài chính trên địa bàn được phân cấp.
13
Hai là, Đảm bảo vai trò chủ đạo của Trung ương và vị trí độc lập của ngân
sách địa phương trong hệ thống NSNN thống nhất. Trong nền kinh tế thị trường,
ngân sách trung ương ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ lớn, quan trọng như quốc
phòng, an ninh, ngoại giao, đầu tư phát triển còn phải tổ chức quản lý và điều tiết
mọi hoạt động kinh tế, thực hiện ổn định kinh tế vĩ mô. Chính quyền cấp trên cũng
có nhiệm vụ quan trọng lớn hơn chính quyền cấp dưới. Để thực hiện nhiệm vụ, mỗi
cấp chính quyền cần có trong tay nguồn lực tài chính nhất định, chính quyền cấp
trên cần có nguồn lực tài chính lớn hơn cấp dưới nhưng phải đảm nhận cấp kinh phí
đáp ứng cho các nhiệm vụ, yêu cầu to lớn và trọng đại có liên quan đến quốc gia
hoặc phạm vi lãnh thổ rộng lớn hơn. Ngân sách các cấp chính quyền địa phương
phải nâng cao tính chủ động sáng tạo trong việc phân bổ, khai thác tiềm năng thế
mạnh của địa phương, làm cho nguồn lực tài chính quốc gia thêm dồi dào. Muốn
vậy ngân sách các cấp chính quyền ở địa phương phải có vị trí độc lập trong hệ

thống NSNN thống nhất.
Ba là, Đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân cấp quản lý NSNN. Đảm
bảo tính cân đối giữa thu nhập quốc dân sản xuất và thu nhập quốc dân sử dụng trên
từng vùng, từng địa phương. Để giảm bớt khoảng cách giàu, nghèo giữa các vùng,
các địa phương, trong quá trình phân cấp cần được sử dụng phương pháp điều hoà
ngân sách, tức là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính trong phạm vi hệ thống
ngân sách, chuyển một phần số thu của ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới.
Thông qua phương pháp bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu, đây là hai phương
pháp tài trợ mà chính quyền cấp trên thường sử dụng đối với chính quyền cấp dưới.
- Bổ sung cân đối: Bổ sung cân đối thu, chi ngân sách nhằm bảo đảm cho
chính quyền cấp dưới cân đối nguồn ngân sách để thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh được giao. Số bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới ở địa phương được xác định theo nguyên tắc xác định số chênh
lệch giữa số chi và nguồn thu ngân sách cấp dưới (các khoản thu được hưởng 100%
và phần được hưởng theo tỷ lệ phần trăm (%) từ các khoản thu phân chia giữa các
cấp ngân sách chính quyền địa phương).
- Bổ sung có mục tiêu: Bổ sung có mục tiêu nhằm hỗ trợ ngân sách cấp dưới
thực hiện các nhiệm vụ:
14
+ Hỗ trợ thực hiện các chính sách, chế độ mới do cấp trên ban hành chưa
được bố trí trong dự toán ngân sách của năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách, mức hỗ
trợ cụ thể được xác định trên cơ sở khả năng cân đối của ngân sách các cấp có liên
quan;
+ Hỗ trợ thực hiện các chương trình, dự án quốc gia giao các cơ quan địa
phương thực hiện, mức hỗ trợ cụ thể thực hiện theo dự toán chi được cấp có thẩm
quyền giao;
+ Hỗ trợ thực hiện các mục tiêu, công trình, dự án có ý nghĩa lớn đối với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nằm trong quy hoạch và đã được cấp
có thẩm quyền phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật về quản lý đầu tư và xây
dựng, ngân sách cấp dưới đã bố trí chi nhưng chưa đủ nguồn, mức hỗ trợ theo

phương án được cấp thẩm quyền phê duyệt.
+ Hỗ trợ một phần để xử lý khó khăn đột xuất: khắc phục thiên tai, hoả hoạn,
tai nạn trên diện rộng với mức độ nghiêm trọng, sau khi ngân sách cấp dưới đã sử
dụng dự phòng, một phần quỹ dự trữ tài chính của địa phương nhưng chưa đáp ứng
được nhu cầu.
+ Hỗ trợ thực hiện một số nhiệm vụ cần thiết, cấp bách khác, mức bổ sung
theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
+ Số bổ sung theo mục tiêu từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới
được xác định hàng năm. Mức bổ sung cụ thể được căn cứ khả năng cân đối ngân
sách cấp trên và yêu cầu về mục tiêu cụ thể của cấp dưới. Việc sử dụng vốn, kinh
phí bổ sung theo mục tiêu phải theo đúng mục tiêu quy định.
Ngoài ra, việc thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng, miền qua chi
ngân sách cấp trên vào đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cũng được sử dụng như
biện pháp bổ trợ cho hai phương thức trên.
1.2.5. Nội dung phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc xử lý các mối quan hệ giữa các
cấp chính quyền nhà nước từ trung ương đến địa phương trong hoạt động của ngân
sách nhà nước, từ đó cho phép hình thành một cơ chế phân chia ranh giới quyền lực
về quản lý ngân sách nhà nước giữa các cấp chính quyền. Vì vậy nội dung phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước về cơ bản bao gồm 3 nội dung chủ yếu sau:
15
Một là, Về quyền lực: Phân cấp ban hành chế độ, chính sách, tiêu chuẩn,
định mức:
Trong quản lý ngân sách nhà nước, chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức có vai
trò và vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là một trong những căn cứ quan trọng để xây
dựng dự toán, phân bổ ngân sách và kiểm soát chi tiêu, mà còn là một trong những tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng quản lý và điều hành ngân sách của các cấp chính quyền.
Thông qua việc phân cấp nhằm làm rõ vấn đề cơ quan nhà nước nào có thẩm
quyền ban hành ra các chế độ, chính sách, định mức, tiêu chuẩn, phạm vi, mức độ
của mỗi cấp chính quyền. Cơ sở pháp lý này được xây dựng dựa trên hiến pháp

hoặc các đạo luật tổ chức hành chính, từ đó định ra hành lang pháp lý cho việc
chuyển giao các thẩm quyền gắn với các trách nhiệm tương ứng với quyền lực đã
được phân cấp, đảm bảo tính ổn định, tính pháp lý, không gây sự rối loạn trong
quản lý ngân sách nhà nước.
Hội đồng nhân dân cấp thành phố quyết định một số chế độ thu phí gắn với
quản lý đất đai, tài nguyên thiên nhiên, gắn với chức năng quản lý hành chính nhà nước
của chính quyền địa phương và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của
pháp luật; việc huy động vốn để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân
sách cấp thành phố. Được quyết định chế độ chi ngân sách phù hợp với đặc điểm thực
tế ở địa phương. Riêng chế độ chi có tính chất tiền lương, tiền công, phụ cấp, trước khi
quyết định phải có ý kiến của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực.
Hai là, Phân cấp về mặt vật chất, tức là phân cấp về nguồn thu và nhiệm vụ chi:
Có thể nói đây luôn là vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất, gây nhiều bất đồng
nhất trong quá trình xây dựng và triển khai các đề án phân cấp quản lý ngân sách. Sự
khó khăn này bắt nguồn từ sự phát triển không đồng đều giữa các địa phương, sự khác
biệt về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội giữa các vùng miền trong cả nước.
Ngân sách trung ương hưởng các khoản thu tập trung quan trọng không gắn
trực tiếp với công tác quản lý của địa phương như: Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu,
thu từ dầu thô hoặc không đủ căn cứ chính xác để phân chia như: thuế thu nhập
doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành, đồng thời đảm bảo nhiệm vụ chi
cho các hoạt động có tính chất đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan
trọng của quốc gia như: Chi đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, chi quốc phòng,
16
an ninh, chi giáo dục, y tế, chi đảm bảo xã hội do Trung ương quản lý và hỗ trợ
các địa phương chưa cân đối được thu, chi ngân sách
Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu để đảm bảo chủ động thực
hiện những nhiệm vụ được giao, gắn trực tiếp với công tác quản lý tại địa phương
như: Thuế nhà đất, thuế môn bài, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao
Nhiệm vụ chi ngân sách địa phương gắn liền với nhiệm vụ quản lý kinh tế -

xã hội, quốc phòng, an ninh do địa phương trực tiếp quản lý. Việc đẩy mạnh phân
cấp quản lý ngân sách trong điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ quản lý ở các
vùng, miền khác nhau là động lực quan trọng để khơi dậy các khả năng của địa
phương, xử lý kịp thời các nhiệm vụ của Nhà nước trên phạm vi từng địa phương.
Ngân sách cấp trên thực hiện nhiệm vụ bổ sung ngân sách cho ngân sách cấp
dưới dưới hai hình thức: Bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu.
Nội dung phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp được quy
định cụ thể tại các điều 30, 31, 32, 33, 34 Luật NSNN năm 2002. Trong đó quy định
nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương như sau:
1.2.5.1. Nguồn thu của ngân sách địa phương
- Các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%: Theo cơ chế phân cấp
hiện tại, các khoản thu mà NSĐP được hưởng 100% gồm các khoản thu như: thuế,
phí, lệ phí và các khoản thu nộp ngân sách khác, Cụ thể
+ Thu từ thuế: Thuế nhà đất, thuế tài nguyên (không kể thuế tài nguyên hoạt động
dầu khí); Thuế môn bài; Thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế sử dụng đất nông nghiệp;
+ Thu từ phí và lệ phí: Lệ phí trước bạ; phần nộp ngân sách theo quy định
của pháp luật từ các khoản phí, lệ phí do các cơ quan đơn vị thuộc địa phương tổ
chức thu, không kể phí xăng dầu;
+ Các khoản thu ngoài thuế: Tiền sử dụng đất; tiền cho thuê đất, thuê mặt
nước, không kể tiền thu thuê mặt nước thu từ hoạt động dầu khí; Tiền đền bù thiệt
hại khi nhà nước thu hồi đất; tiền cho thuê và bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước;
Thu nhập từ vốn góp của NSĐP; Tiền thu hồi vốn của NSĐP tại các cơ sở kinh tế,
thu từ quỹ dự trữ của cấp thành phố; Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức cá
nhân ở nước ngoài trực tiếp cho địa phương theo quy định của pháp luật; thu từ quỹ
17
đất công ích và hoa lợi công sản khác; phần nộp ngân sách theo quy định của pháp
luật từ các khoản thu sự nghiệp của các đơn vị do địa phương quản lý;
+ Các khoản thu khác: Huy động từ các tổ chức cá nhân theo quy định của
pháp luật; Đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước;
Thu từ huy động đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng; Thu kết dư NSĐP;

các khoản thu phạt, tịch thu và thu khác ngân sách; Thu bổ sung từ ngân sách cấp
trên; Thu chuyển nguồn từ năm trước chuyển sang.
- Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương
và ngân sách địa phương: Các khoản thu chung, cả NSTW và NSĐP cùng hưởng theo
tỷ lệ phần trăm (%) gồm 5 loại chủ yếu. Đây là những khoản có số thu lớn, có tính đàn
hồi cao, nhạy cảm với hoạt động kinh tế, có tính điều tiết cao, Cụ thể là:
+ Thuế giá trị gia tăng, không kể thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu;
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp, không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của
các đơn vị hạch toán toàn ngành;
+ Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hoá, dịch vụ trong nước;
+ Phí xăng, dầu.
- Thu bổ sung từ ngân sách trung ương;
- Thu từ huy động đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy
định (tại khoản 3 Điều 8 của Luật NSNN)
1.2.5.2. Nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương
- Chi đầu tư phát triển:
+ Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội do địa
phương quản lý;
+ Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài
chính của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
- Chi thường xuyên:
+ Các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá
thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường,
các hoạt động sự nghiệp khác do địa phương quản lý;
18
+ Quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội (phần giao cho địa phương);
+ Hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương;

+ Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật;
+ Thực hiện các chính sách xã hội đối với đối tượng do địa phương quản lý;
+ Chương trình quốc gia do Chính phủ giao cho địa phương quản lý;
+ Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
- Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư;
- Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của cấp thành phố;
- Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới.
Ngân sách địa phương được sử dụng nguồn thu hưởng 100%, số thu được
phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia và số bổ sung
cân đối từ ngân sách cấp trên để cân đối thu, chi ngân sách cấp mình, bảo đảm các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh được giao.
- Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp chính
quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cấp thành phố quyết định. Các khoản thu
phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương gồm:
+ Các khoản thu về thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác ngân sách địa
phương hưởng 100% theo quy định tại Điểm 1.3.1 phần II của Thông tư
59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003;
+ Các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương phần ngân sách địa phương được hưởng theo quy định tại Điểm 1.1.2 phần
II của Thông tư 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003;
- Số bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới ở địa
phương được xác định theo nguyên tắc xác định số chênh lệch giữa số chi và nguồn
thu ngân sách các cấp dưới (thu 100% và phần được hưởng theo tỷ lệ phần trăm (%)
từ các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách chính quyền địa phương).
Ba là, phân cấp về quản lý chu trình ngân sách, tức là phân công, phân định
trách nhiệm, quyền hạn trong lập, chấp hành và quyết toán NSNN:
19

×