Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tiểu luận Tâm lý học Gia đình TRẦM CẢM SAU SINH Ở PHỤ NỮ VÀ CHỨC NĂNG TÂM LÝ CỦA GIA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.17 KB, 36 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


TIỂU LUẬN TÂM LÝ HỌC GIA ĐÌNH

TRẦM CẢM SAU SINH Ở PHỤ NỮ
VÀ CHỨC NĂNG TÂM LÝ CỦA GIA ĐÌNH

NGÀNH: TÂM LÝ HỌC


2

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2022

MỤC LỤC


3

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm sau sinh (Postpartum Depression) là một thuật ngữ
khơng mới trong giới khoa học nói chung và y khoa nói riêng. Tuy
nhiên, những năm gần đây nhờ sự phát triển như vũ bão của các
phương tiện thông tin đại chúng mà thuật ngữ này dần được phổ cập
đến phần đông của cộng đồng, đặc biệt là giới tri thức và người đi
làm. Tuy nhiên, cách tiếp cận “dân dã” như thế sẽ dẫn đến những sai
lệch về thuật ngữ khoa học cũng như sẽ ảnh hưởng đến các chuẩn


đốn lâm sàng và thậm chí là hiệu quả của việc điều trị bệnh. Đơn cử
như sự xuất hiện của nhiều “bác sĩ tự thân” – tự chẩn đoán bệnh án
và kết luận tình hình sức khoẻ và tự thực hiện các phương pháp điều
trị một cách vô tội vạ. Hiện tượng tự chẩn bệnh cũng xuất hiện ngày
càng nhiều hơn đối với các vấn đề tâm lý, thông thường họ sẽ cho
rằng mình bị trầm cảm, stress, lo âu thậm chí là rối loạn sau sang
chấn tâm lý, rối loạn ám ảnh cưỡng chế,...
Một điều ít ai biết, hội chứng gần giống và nhẹ hơn của trầm
cảm sau sinh được gọi là “baby blues”. Hiểu ngắn gọn, đây là một
loạt những cơn buồn bã, căng thẳng, lo lắng, thay đổi tâm trạng thất
thường xảy ra trong khoảng thời gian ngắn sau khi sinh và quan
trọng hơn hết là nó sẽ tự biến mất. Khoảng 80% phụ nữ sau sinh mắc
phải hội chứng này, song hầu hết không biết về tình trạng này hoặc
nghĩ đây là trạng thái tinh thần bình thường phải trải qua, số khác lại
đi đến các kết luận về “trầm cảm”. Điều này thực sự nguy hiểm khi
bản thân người phụ nữ hoặc thân nhân của họ tự áp dụng những liệu
pháp điều trị mà không hề biết là đúng hay sai.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), ước tính đến năm 2030, trầm
cảm sẽ là nguyên nhân đứng thứ nhất về gánh nặng bệnh tật cho y
tế toàn cầu. Tỷ lệ trầm cảm ở nữ giới cao gấp gần hai lần so với nam
giới. Phụ nữ mang thai và sinh con có nguy cơ mắc trầm cảm cao.


4

Trên thế giới, trầm cảm ở phụ nữ mang thai (PNMT) và sau sinh là
khá phổ biến, tỷ lệ trầm cảm trong khi mang thai là 12,0% và sau
sinh là 13,0%. Các nghiên cứu gần đây cho thấy trầm cảm trong
mang thai có liên quan đến sinh non, sinh nhẹ cân. Trầm cảm đối với
phụ nữ sau sinh nếu không được phát hiện và điều trị có thể làm

tăng nguy cơ bị bệnh tâm thần và ảnh hưởng đến sự phát triển về
tinh thần và tính cách của trẻ trong tương lai. Bà mẹ bị trầm cảm
thường có những cảm xúc tiêu cực như buồn phiền, lo âu, căng
thẳng, dễ cáu gắt. Nghiêm trọng hơn, họ có thể xuất hiện ý định tự
tử, tự hủy hoại bản thân và con của họ. Một trong các nguyên nhân
chính làm cho hậu quả của trầm cảm trở nên trầm trọng, đó là phụ
nữ thường thiếu kiến thức để nhận biết triệu chứng của bệnh trầm
cảm và khơng tìm sự giúp đỡ khi có dấu hiệu trầm cảm (dẫn theo
Trần Nơ Thị, 2018).
Những nhà khoa học trên thế giới khi nghiên cứu về các yếu tố
ảnh hưởng đến trầm cảm sau sinh của phụ nữ như yếu tố di truyền,
trình độ học vấn thấp, nghèo đói, thu nhập thấp, thất nghiệp, thiếu
sự hỗ trợ xã hội, các sự kiện cuộc sống căng thẳng… đặc biệt là sự
hỗ trợ từ phía các thành viên trong gia đình, chủ yếu từ người chồng
(M.W. O’Hara, 1996 và H.L. Davey, 2011). Ở Việt Nam, các nhà
nghiên cứu chủ yếu chỉ tập trung vào bối cảnh xã hội, niềm tin văn
hóa, bạo lực và rối loạn tâm thần có thể là nguy cơ ảnh hưởng đến
trầm cảm sau sinh Có sâu hơn thì đề xuất được lời khun rằng phụ
nữ nên được kiểm tra các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn và các triệu chứng
trầm cảm từ khi mang thai để có can thiệp thích hợp (dẫn theo
Nguyễn Bích Thuỷ, 2013). Chưa có các nghiên cứu sâu về sự hỗ trợ
từ phía gia đình, đặc biệt là vai trò của người chồng trong việc hỗ trợ
phụ nữ vượt qua trầm cảm sau sinh.


5

Tạp chí Sản Phụ khoa của Mỹ đăng vào tháng 5/2017, có một
nghiên cứu đã kết luận rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến
trầm cảm sau sinh của phụ nữ là sự khơng hài lịng với chồng. Hoặc

trong một nghiên cứu khác nguyên nhân đến từ sự không hài lịng
với mẹ chồng (Weijing Qi, 2022). Hoặc ngược lại, đó là sự bất mãn
của người chồng với họ (bà mẹ sau sinh) và sự rạng nứt trong mối
quan hệ với chồng (K.H. Sharifi, 2020).
Nói như vậy, để có thể thấy rằng vị trí của gia đình, mà cụ thể
hơn là của các thành viên trong gia đình thực sự có tác động trong
việc hỗ trợ hoặc làm nghiêm trọng đến hội chứng trầm cảm sau sinh
ở phụ nữ. Nghiên cứu để hiểu đúng về trầm cảm sau sinh và vai trị
của gia đình đối với trầm cảm sau sinh cũng là một cách để chuẩn bị
cho bản thân mỗi người những kiến thức – kinh nghiệm – kỹ năng đủ
vững chắc trước khi bước vào đời sống hôn nhân.


6

HIỂU ĐÚNG VỀ TRẦM CẢM SAU SINH
1. Trầm cảm sau sinh là gì?
Mang thai và sinh con là thiên chức và cũng là một giai đoạn
quan trọng trong cuộc đời của người phụ nữ. Quá trình vượt cạn
khiến các bà mẹ đã có những sự biến đổi lớn về sinh lý và tâm lý đặc
biệt là sự biến đổi về tâm lý địi hỏi người phụ nữ phải thích nghi dần
dần về cả mặt cơ thể và tinh thần. Và văn hóa truyền thống cũng
góp phần ảnh hưởng đến cuộc sống của những bà mẹ mới sinh. Phần
lớn các bà mẹ dần dần thích nghi với những cái mới nên khơng có
phản ứng nặng nề về cơ thể và tâm lý. Cịn ở một số ít phụ nữ những
thay đổi này có thể quá ngưỡng làm xuất hiện một số rối loạn tâm
thần ở mức độ khác nhau trong đó có trầm cảm sau sinh.
Trước đây các nhà tâm thần học(1) mô tả trầm cảm như một giai
đoạn bệnh điển hình với tình trạng u sầu (melancholia), biểu hiện ức
chế nặng nề các mặt hoạt động tâm thần. Chủ yếu là các quá trình:

(1) Cảm xúc ức chế, biểu hiện bằng khí sắc giảm, buồn rầu; (2) Các
q trình tư duy bị ức chế, dòng tư duy chậm lại; (3) Hoạt động bị ức
chế thể hiện tình trạng chậm chạm cả lời nói và hành vi, nhiều khi
nặng đến mức sững sờ, bất động (Kecbicop, 1980)
Hiện nay, theo mô tả trong bảng phân loại ICD 10 (2) thì trầm cảm
là một hội chứng bệnh lý biểu hiện đặc trưng bởi khí sắc trầm, mất
mọi quan tâm thích thú, giảm năng lượng dễ mệt mỏi, phổ biến là
tăng mệt mỏi rõ rệt nhiều khi chỉ sau một cố gắng nhỏ. Kèm theo là
các triệu chứng phổ biến khác như: giảm sút tập trung chú ý, giảm
sút lòng tự trọng và lòng tự tin; có ý tưởng bị tội và khơng xứng
đáng; bi quan về tương lai; có ý tưởng và hành vi tự hủy hoặc tự sát,
1 Tâm thần học: là khoa học nghiên cứu các vấn đề về tâm thần.
2 ICD 10: Tổ chức Y tế Thế giới, Phân loại thống kê quốc tế về các bệnh tật và vấn đề sức khỏe liên
quan, gọi tắt là Phân loại quốc tế về bệnh tật cung cấp mã hóa các bệnh thành những mã ngắn gọn, làm chuẩn
cho công tác nghiên cứu và thực hành y học. Sách, 1996.


7

rối loạn giấc ngủ; giảm cảm giác ngon miệng. Ngoài ra còn các triệu
chứng loạn thần. Các biểu hiện trên tồn tại trong một khoảng thời
gian tối thiểu 2 tuần liên tục (DSM – V, 2013).
Như vậy, có thể hiểu: Trầm cảm sau sinh là một rối loạn khí
sắc nặng nề (buồn rầu và chán nản), gặp tương đối phổ biến
ở thời kỳ sau sinh, được đặc trưng bởi các triệu chứng của
trầm cảm nhưng chỉ xảy ra khi sinh con.
Trầm cảm sau sinh là một hội chứng mà nhiều phụ nữ sau sinh
gặp phải, là một dạng trong các rối loạn tâm thần xảy ra vào thời kỳ
sinh đẻ. Có đến khoảng 50 đến 75% phụ nữ cảm thấy dễ bị tổn
thương, tinh thần bất ổn hơn sau khi sinh con. Điều này vẫn thường

xuyên xảy ra sau khi sinh con được 1 đến 3 tuần.
Trầm cảm sau sinh thường xảy ra trong giai đoạn hậu sản.
Những thay đổi về sinh học cũng như tinh thần khiến cho các bà mẹ
gặp phải các trở ngại về khả năng chăm sóc con. Tuy được coi là một
triệu chứng thơng thường nhưng lại có khác nhiều phụ nữ cảm thấy
xấu hổ và ngại ngùng khi nói đến vấn đề này. Họ cảm thấy xấu hổ vì
khơng thể làm mẹ một bình thường nhất. Thay vì khám hay nhận sự
giúp đỡ từ những người xung quanh, họ lại giữ cho riêng mình và tự
đưa mình vào trạng thái đau khổ hay tội lỗi mà khơng biết rằng đó
chính là rối loạn tâm thần.

2. Phân biệt trầm cảm sau sinh với “Baby Blues” như thế nào?
Nếu diễn đạt một cách đơn giản điểm khác nhau giữa
“postpartum depression” – trầm cảm sau sinh và “baby blues” chính
là ở mức độ và sự nghiêm trọng của triệu chứng về mặt tâm lý. Cụ
thể:
- Baby blues là trạng thái xuống tinh thần thường trực ở phụ nữ
sau sinh xảy ra do những thay đổi và khó khăn (bên trong và bên


8

ngoài cơ thể) trong vài tuần đầu sau sinh. Họ luôn trong trạng thái
cảm xúc không ổn định, nhiều lo lắng, khó chịu, dễ khóc, mất tập
trung và ln căng thẳng mệt mỏi (UNICEF, 2020).
- Trầm cảm sau sinh thì nặng hơn thế, cho đến hơn 2 – 3 tuần
tiếp theo tình trạng tương tự vẫn khơng hề giảm, mà tinh thần ngày
càng kém đi và lao dốc: Rối loạn lo âu, suy nghĩ nhiều điều tiêu cực,
khó ngủ, ăn không ngon miệng, mất kết nối với người thân và gia
đình… Đi kèm với các triệu chứng về cơ thể như: Chán ăn, sụt cân,

suy nhược cơ thể. Và các triệu chứng của trầm cảm: Căng thẳng hay
lo lắng và hoảng hốt, mất tập trung, cảm giác bị ám ảnh, có những
suy nghĩ hoang tưởng về các hành vi nguy hiểm, gây hại cho bản
thân hoặc cho con (Vinmec, 2022).
Bảng so sánh triệu chứng của Baby Blues và Trầm cảm
sau sinh(3)
Baby Blues

Trầm cảm sau sinh

- Thay đổi tâm trạng nhanh
chóng: Sau khi sinh, mẹ vừa
thấy tự hào về thiên chức làm
mẹ nhưng ngay sau đó có thể
khóc do lo lắng bản thân sẽ
khơng hồn thành tốt nhiệm vụ.
- Cảm giác cáu kỉnh, lo lắng, quá
sức chịu đựng.
- Không muốn ăn uống, khơng
cịn vị giác, kiệt sức vì chăm sóc
bản thân.

- Khơng thể ăn, ngủ hoặc chăm
sóc con vì tuyệt vọng.
- Luôn trong trạng thái tinh thần
buồn bã, vô dụng, cô đơn, tuyệt
vọng, hay khóc một mình.
- Cảm thấy bản thân khơng thực
hiện tốt trách nghiệm và khơng
có khả năng chăm sóc tốt cho

con.
- Dễ bị hoảng sợ, lo lắng.

Baby Blues không quá nghiêm trọng, và đến hơn 80% phụ nữ
sau sinh đều gặp phải. Nó được ví như “một đám sương mù dày đặc”
kéo đến ngay sau khi mẹ sinh con ra và sẽ tự “tan biến” sau vài

3 Theo tham khảo y khoa từ BSCKI. Vũ Thanh Tuấn - Bác sĩ khoa Khám bệnh, Bệnh viện Đa khoa
MEDLATEC – Hà Nội.


9

tuần, người phụ nữ nhanh chóng lấy lại sinh lực và tinh thần vui vẻ,
tận hưởng thời gian bên con (Lisa Fields, 2021).
Tuy nhiên, có một điểm giống là tất cả mọi người trong gia đình,
kể cả bố em bé và ông bà, đều phải điều chỉnh nếp sinh hoạt, thói
quen hằng ngày sao cho vừa phù hợp với sự xuất hiện của một em
bé vừa chào đời vừa phù hợp với những thay đổi tâm lý của người
mẹ. Cả hai đều gây ra một sự xáo trộn không hề nhỏ, đặc biệt với
những thay đổi ở chính bản thân người phụ nữ và những vất vả khi
lần đầu có con (đối với người chồng) nên nhiều gia đình tìm đến bác
sĩ trị liệu tâm lý hoặc bệnh viện tâm thần để nhận sự trợ giúp. Mà họ
quên rằng, sự trợ giúp lớn nhất và hiệu quả nhất chính là từ bản thân
họ - những thành viên trong gia đình.

3. Trầm cảm sau sinh có các mức độ nào?
Trầm cảm sau sinh là những cảm xúc mạnh mẽ hòa quyện vào
nhau như phấn khích, vui sướng cho đến lo lắng và sợ hãi từ việc ra
đời của một em bé. Nhưng trầm cảm sau sinh cũng có thể dẫn đến

các triệu chứng nặng, đòi hỏi điều trị lâu dài và đây là điều không ai
mong đợi. Trầm cảm sau sinh khơng phải do yếu đuối hay khiếm
khuyết về tính cách, mà đôi khi triệu chứng xuất hiện đơn giản chỉ vì
đây là một phần của việc sinh nở ở người phụ nữ.
Trầm cảm sau sinh được chia thành cách mức độ:
+ Trầm cảm nhẹ: Sau sinh khoảng 3 đến 4 ngày người mẹ
thường thấy mệt mỏi, chán ăn, ngủ kém, các hoạt động khó khăn và
vụng về. Họ thường lo lắng thái quá cho sức khỏe của con và bản
thân, cảm thấy mình kém cỏi vì khơng có khả năng chăm sóc con
được tốt, thương khóc lóc vơ cớ, cho rằng mình bị bỏ rơi,...
+ Trầm cảm vừa: Người mẹ thường cảm thấy mệt mỏi, kiệt
sức, rối loạn giấc ngủ, dễ bị kích thích hay cáu giận vơ cớ, biểu hiện


10

cơn chảy nước mắt. cảm giác bất lực, buồn rầu, chán nản không
muốn tiếp xúc với mọi người, người bệnh quá lo lắng về cách cho ăn,
cách giữ vệ sinh, cách dạy dỗ con, hay cho con ăn rất cầu kỳ, tỷ
mỉ,...
+ Trầm cảm nặng: Thường tiếp theo giai đoạn “buồn sau sinh”
với các triệu chứng trầm cảm rõ nét. Biểu hiện như ln cho mình và
con mắc bệnh hiểm nghèo, mình là người mẹ khơng biết cách chăm
sóc con, kém cỏi, vô dụng, xấu xa, không xứng đáng,... Bệnh nhân
thường lo âu sợ hãi, buồn rầu, hay khóc lóc vô cớ, mất định hướng về
không gian, thời gian, không làm chủ được bản thân, thậm chí có
những lời nói và hành vi thô bạo xúc phạm tới những người xung
quanh, khả năng chăm sóc con ngày càng kém, có khi khơng quan
tâm đến con mình, bỏ mặc hoặc hành hạ con thậm chí giết hại con
rồi tự sát.


4. Nguyên nhân nào gây ra trầm cảm sau sinh?
4.1. Nguyên nhân sinh học

Rối loạn trầm cảm sau sinh có liên quan đến việc thay đổi
hormone đặc biệt là hormone sinh dục trong quá trình mang thai và
đặc biệt là sau sinh (Sadock, 2000). Trong thời gian mang thai có sự
gia tăng hàm lượng của các hormone sinh dục đặc biệt là estrogen
và progesterone(4) trong huyết tương của người phụ nữ. Ngoài ra cịn
có sự gia tăng của cortizol và CRH. Các hormone buồng trứng dễ
dàng xâm nhập vào não và có tác dụng như chất điều biến ngoại lai
của hoạt động thần kinh. Các thụ thể hormone buồng trứng không
chỉ được tìm thấy trong vùng não kiểm sốt chức năng sinh sản mà
còn thấy xuất hiện nhiều ở các vùng nào quan trọng của người quy
định về cảm xúc, nhận thức và hành vi (Hanley, 2009).
4 Progesterone: hormone steroid nội sinh có trong chu kỳ kinh nguyệt, thời kỳ mang thai và phát triển
phơi thai của người và các lồi khác.


11

Theo Meyer (2010), trong tuần lễ đầu sau sinh trong cơ thể
người mẹ có sự gia tăng đáng kể các monoamine oxidase A (MAO –
A) gắn vào khu vực quan trọng của não bộ tham gia vào điều chỉnh
khí sắc. Trong đó “MAO - A chuyển hóa serotonin, norepinephrine và
dopamine làm suy yếu các chất này là nguyên nhân dẫn đến giảm
khí sắc”.
4.2. Nguyên nhân tâm lý, xã hội

Thay đổi về tâm lý ở phụ nữ khi có thai:

Ngồi việc thay đổi về hình thể và sinh lý. Mang thai, còn là một
hiện tượng phức tạp bao gồm thay đổi về tâm lý, xã hội. Mang thai,
đặc biệt là lần đầu tiên thì biến đổi tâm lý rất mạnh mẽ. Trong khi có
thai thì hormone được tăng tuyết rất nhiều và đây là nguyên nhân
dẫn đến thay đổi cảm xúc của người mẹ. theo Finket, chính do nội
tiết tố trong cơ thể phụ nữ thay đổi đột ngột và đặc biệt là estrogen
đã làm cho cảm xúc của phụ nữ thay đổi thất thường, nhanh chóng.
Nhiều khi họ trở nên khó tính, cố chấp hai phản ứng thái q với
những vấn đề nhỏ nhoi,... Họ cũng trở nên nhạy cảm hơn, dễ khóc
hơn, tâm trạng buồn vui lẫn lộn. nồng độ progesteron tăng cao trong
quý đầu tiên làm cho người phụ nữ mang thai rơi vào trạng thái buồn
ngủ và khó cưỡng lại được (Hanley. 2009).
Thời gian mang thai của phụ nữ kéo dài từ 38 đến 42 tuần và
được chia thành 3 quý. Trong mỗi quý người phụ nữ có những thay
đổi về thể chất và tâm lý khác nhau (Hanley. 2009).
+ Quý I: Mang thai thường đi kèm với nhiều lo lắng, căng thẳng
đặc biệt là mang thai lần đầu. Trong q đầu người phụ nữ khơng
nhìn thấy những thay đổi xảy ra trong cơ thể của họ nhưng giai đoạn
này vô cùng quan trọng. Giai đoạn này nhiều phụ nữ lo lắng thai nhi
cử động trong tử cung vì họ khơng biết đó là một dấu hiệu của thai
nhi, khi trẻ ra đời có làm thay đổi cuộc sống, mối quan hệ xung


12

quanh mình hay khơng. với phụ nữ mang thai lần đầu họ thường lo
lắng bị sảy thai, thai chết lưu,... Mặc dù họ biết điều đó là khơng có
căn cứ. Ngồi ra người phụ nữ mang thai cịn có thể có các biểu hiện
mệt mỏi, giảm trí nhớ, buồn nơn, đau, đau lưng, tiểu tiện rát, táo
bón, tạo một số mùi hoặc một số thức ăn nhất định.

+ Quý II: Những mệt mỏi căng thẳng, lo âu trong quý I đã qua
thì sự thay đổi cảm xúc của quý II lại bắt đầu. Mặc dù những cảm
giác trong giai đoạn này thường mức độ nhẹ hơn so với trước đó
nhưng cũng gây ra những vấn đề tương tự. Họ lo lắng về việc chuẩn
bị cho sự ra đời của đứa trẻ, liệu đứa trẻ có phát triển bình thường,
liệu mình có xanh đúng thời hạn hay khơng,... một số bà mẹ cảm
thấy thiếu tự tin do sự tăng cân nhiều của cơ thể.
+ Quý III: Trong giai đoạn này người phụ nữ mong đợi đến kỳ
sinh đẻ và họ phải đối mặt với sự thay đổi đáng kể về mặt cơ thể.
một số phụ nữ cảm thấy chán nản về hình ảnh của cơ thể mình, họ
cảm thấy mình khơng cịn hấp dẫn nữa, thấy mình đang xấu đi,...
cảm giác sợ mất đứa trẻ thường biến mất trong giai đoạn này nhưng
lại xuất hiện những lo lắng vì sự xuất hiện của đứa trẻ, lo lắng về
cuộc chuyển dạ sắp tới của bản thân.
Thay đổi tâm lý ở phụ nữ sau sinh:
Sau sinh đời sống tinh thần của phụ nữ có nhiều biến đổi. nhiều
phụ nữ thấy mệt mỏi, kiệt sức sau cuộc chuyển dạ kèm theo mất ngủ
vì phải chăm sóc cho đứa bé vào ban đêm, thay đổi thói quen sinh
hoạt, thay đổi trong các mối quan hệ,... là những thách thức không
nhỏ đối với phụ nữ nhất là đối với những phụ nữ sinh con lần đầu
tiên. Tuy những thay đổi tâm lý của người phụ nữ sau sinh phụ thuộc
nhiều vào thể chất, tình cảm và lối sống của họ. Như ba mẹ cảm
thấy mệt mỏi, chán nản hoặc có cảm giác bị ràng buộc, cảm giác


13

mất mát sự tự do, mất đi thói quen sinh hoạt hàng ngày, mất đi vẻ
hấp dẫn.
+ Biểu hiện rõ nét nhất của sự biến đổi tâm lý của phụ nữ sau

sinh dễ xúc động, dễ khóc, dễ tủi thân,...
+ Lo sợ là cảm giác gặp ở hầu hết các bà mẹ: Cho trẻ ăn chưa
no, sợ trẻ bị ốm,có khi lo lắng khơng có cơ sở nhưng tại sao trẻ lại
chậm biết lẫy, chậm mọc răng,...
+ Cáu gắt là một triệu chứng thường gặp ở phụ nữ sau sinh. Do
họ bị hạn chế các giao tiếp xã hội, bận rộn trong việc chăm sóc trẻ,...
nên thường có cảm giác khó chịu, bức bối và dễ cáu gắt.
4.3. Nguyên nhân tâm lý

Mang thai và quá trình chuyển sang làm mẹ không chỉ mang lại
niềm vui, niềm mong ước, sự thỏa mãn và hạnh phúc cho người mẹ
mà còn hơi dài nhiều căng thẳng về tâm lý. Người mẹ phải đối diện
về những thay đổi của hình dáng cơ thể, họ cảm thấy mình khơng
cịn hấp dẫn nữa, họ lo lắng về sự phát triển của thai nhi trong bụng,
họ luôn lo lắng về chế độ ăn của mình như thế nào để con phát triển
tốt nhất, họ cũng luôn lo lắng sợ sảy thai, sợ thai chết lưu, sợ trẻ đẻ
ra bị dị tật cũng như lo việc chuyển dạ sắp tới,...
Hoặc có thể có một vài mâu thuẫn trong gia đình mà khơng được
giải quyết triệt để gây ra áp lực dẫn đến mất cân bằng tâm lý (5). Vấn
đề về giới tính của đứa trẻ cũng có thể là một trong những nguyên
nhân khiến phụ nữ mắc trầm cảm sau sinh. Do họ phải chịu áp lực
trong gia đình về giới tính đứa trẻ nên khi thấy đứa trẻ khơng như
mong đợi người phụ nữ dễ có tâm lý chán nản, buồn bã. Nhiều bà mẹ
không do chuẩn bị chu đáo khi sinh con cả về tâm lý và về kinh tế
nên khi phải thay đổi làm mẹ lúng túng, lo lắng về chăm sóc con
5 Cân bằng tâm lý: tình trạng ổn định của tinh thần, đủ sức giải quyết các vấn đề thông thường.


14


khiến người phụ nữ bị áp lực nặng nề. tình trạng này kéo dài khiến
người phụ nữ mắc phải chứng trầm cảm sau sinh.
4.4. Các streess trong gia đình và xã hội

Trong thời kỳ mang thai đặc biệt là sau sinh cơ thể người phụ nữ
có thay đổi lớn về mọi mặt như giải phẫu, sinh lý, nội tiết,... kèm
thêm sự kiệt sức do quá trình chuyển dạ, việc phải chăm sóc con vào
ban đêm,... làm cho họ thấy mệt mỏi, tính tình thay đổi thất thường,
trở nên khó tính, tính cố chấp, cáu gắt, hai dễ tủi thân. Chính vì vậy
trong giai đoạn này sự quan tâm chăm sóc của gia đình, của người
thân đặc biệt là người trồng có vai trị rất quan trọng. nhiều nghiên
cứu đã minh chứng là những bất ổn trong hơn nhân, tình khó khăn,
các sự kiện căng thẳng trong cuộc sống,... đặc biệt là các trang
chứng đột ngột ở giai đoạn gần sinh hoạt sau sinh nếu thiếu sự hỗ
trợ của xã hội thì cũng góp phần giảm nguy cơ trầm cảm sau sinh.
Việc nhận được sự hỗ trợ xã hội qua bạn bè, người thân trong thời kỳ
mang thai đặc biệt là giai đoạn sau sinh có ý nghĩa rất quan trọng
đối với phụ nữ, là một yếu tố bảo vệ đối với trầm cảm sau sinh là
một yếu tố liên quan có hiệu lực khá mạnh với trầm cảm sau sinh.
Ngồi ra một số nghiên cứu cho thấy rằng những trường hợp có thai
ngồi ý muốn, sau sảy thai, sau phá thai hoặc thai chết lưu hay sau
một tai biến sản khoa như tiền sản giật, sản giật (6),... có thể làm tăng
nguy cơ xuất hiện trầm cảm sau sinh. Một số nghiên cứu phân tích
tổng hợp của Beck năm 1996 trên 6 nghiên cứu bao gồm 1.200
người đối tượng cho kết quả: mang thai ngồi ý muốn có mối liên
quan đến trầm cảm sau sinh, tuy nhiên mối liên quan này có hiệu lực
nhỏ (Beck, 2013).

6 Sản giật: tình trạng khởi phát cơn co giật hoặc hôn mê ở phụ nữ mang thai. Đây là một biến chứng
nặng của tiền sản giật, căn bệnh có thể gây ra huyết áp cao và một số triệu chứng khác ở phụ nữ mang thai.



15

4.5. Các yếu tố liên quan đến trẻ

Giới tính của trẻ được cho là một yếu tố nguy cơ đến trầm cảm
sau sinh. Các nghiên cứu gần đây của Patel và cộng sự (2002), Lee
và cộng sự (1998) cho thấy vấn đề các cặp vợ chồng sinh con gái có
mối liên quan đối với trầm cảm sau sinh, điều này khơng thấy ở các
nước phát triển. Do đó phản ứng của cha mẹ đối với giới tính của trẻ
có thể là nguy cơ tiềm tàng đối với trầm cảm sau sinh ở các nhóm
văn hóa cụ thể (Patel, 2002). Theo phân tích tổng hợp một loạt các
nghiên cứu gần đây của các nước châu Á, P. Klaininvà cộng sự (2008)
cũng cho thấy sự lựa chọn giới tính có liên quan đến trầm cảm sau
sinh (Klaininv, 2008).
Mặt khác, vấn đề sức khỏe của trẻ cũng như khó khăn trong việc
chăm sóc trẻ cũng là yếu tố liên quan đến trầm cảm sau sinh. Nhận
định của Beck (2002) khi nghiên cứu 789 bà mẹ sau sinh cho thấy
trẻ hay quấy khóc, khó rõ ràng là một trong những nguyên nhân gây
căng thẳng cho bà mẹ và là một yếu tố liên quan chặt chẽ đến trầm
cảm sau sinh. Theo Lượng Bạch Lan (2008) cho thấy những bà mẹ có
con khơng được khỏe có nguy cơ bị trầm cảm sau sinh cao gấp bốn
lần so với các bà mẹ khác.
4.6. Các yếu tố văn hóa truyền thống

Theo báo cáo của Lee và các cộng sự (1998) cho thấy các nghi
lễ truyền thống đối với các bà mẹ sau sinh là phải ở nhà và phải thực
hiện chế độ ăn kiêng và hạn chế các hoạt động thể chất trong vòng
4 tuần sau sinh. Đồng thời các bà mẹ được hỗ trợ của người thân

trong gia đình đối với việc chăm sóc trẻ và giúp các cơng việc trong
gia đình. Chính việc thực hành các nghi thức truyền thống này đã
giúp các bà mẹ cải thiện sức khỏe của mình (Lee, 1998).
Tuy nhiên theo báo cáo của Leung và các cộng sự (2005) nghiên
cứu trên các bà mẹ Hồng Kông đã đưa ra các hạn chế môi trường


16

sống, những khó khăn trong việc thực hiện các điều ngăn cấm của
tập quán truyền thống và bản thân các bà mẹ đã tự đặt câu hỏi làm
như thế nào người phụ nữ có thể thích nghi với các nghi thức hiện đại
(Leung, 2005).
Có thể nói các nghi lễ truyền thống đặc biệt là ở các nước châu Á
cũng là một trong những yếu tố liên quan đến trầm cảm sau sinh. ở
một số nước thì nghi lễ truyền thống có ảnh hưởng xấu đến các bà
mẹ bởi lẽ khi các bà mẹ thực hiện nghi lễ truyền thống này các bà
mẹ cảm thấy khó khăn và khơng thoải mái nhưng vẫn phải thực hiện
vì đó là văn hóa truyền thống từ xưa để lại. Dẫn đến các bà mẹ ln
cảm thấy khó chịu gượng ép, khơng thấy vui vẻ và thích thú dần dẫn
đến những thay đổi cảm xúc, nhận thức và hành vi. Còn ở một số
nước khác các nghi lễ truyền thống lại có những ảnh hưởng tích cực
như các bà mẹ được kiêng cữ, được trợ giúp xã hội, được nghỉ ngơi,...
giúp các bà mẹ giảm bớt những gánh nặng công việc, không cảm
thấy mệt mỏi, lấy lại sức khỏe qua một q trình vượt cạn.

Tóm lại, qua rất nhiều các nghiên cứu và báo cáo của các tác
giả trong nước và nước ngoài đã đưa ra rất nhiều nguyên nhân ảnh
hưởng đến trầm cảm sau sinh như nguyên nhân sinh học do các
hormone thay đổi do các yếu tố tâm lý xã hội, chấn thương tâm lý

hay yếu tố văn hóa có liên quan đến trầm cảm sau sinh,... Hiện nay
vấn đề này vẫn đang gây nhiều tranh luận và chưa xác định được
yếu tố nào là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến trầm cảm sau sinh.
cũng như chưa có nghiên cứu được tiến hành trên cộng đồng người
Việt Nam dưới góc độ tâm lý.
Tuy nhiên, theo kiến thức của riêng cá nhân thì các yếu tố ảnh
hưởng đến trầm cảm sau sinh có thể là các yếu tố tâm lý xã hội,
chấn thương tâm lý cụ cụ thể như căng thẳng trong cuộc sống, hỗ


17

trợ xã hội, hài lòng trong cuộc sống chung, và hài lịng về hơn nhân
với chồng là những yếu tố góp phần gia tăng trầm cảm sau sinh. Trợ
giúp người phụ nữ trong việc khắc phục các yếu tố trên nói chung và
đặc biệt là vai trị của gia đình nói riêng là rất quan trọng.

3. Tiêu chuẩn nào giúp chẩn đốn trầm cảm sau sinh?
Theo DSM 5(7) thì người trầm cảm xuất hiện ít nhất 5 trong
những triệu chứng sau, xuất hiện cùng lúc, kéo dài 2 tuần làm thay
đổi so với hoạt động trước đó; ít nhất một trong các triệu chứng phải
là: (1) khí sắc trầm cảm, (2) mất hứng thú hoặc mất vui.
+ Khí sắc trầm cảm gần như suốt ngày, hầu như mỗi ngày được
khai báo bởi bệnh nhân (ví dụ: cảm thấy buồn hay trống rỗng, tuyệt
vọng) hoặc thông quan quan sát của người khác (ví dụ: khóc). Chú ý:
ở trẻ em và thành thiếu niên có thể biểu lộ việc dễ bực tức.
+ Giảm sút rõ về thích thú hoặc thú vui trong tất cả, hầu như tất
cả các hoạt động hầu như suốt ngày, gần như mỗi ngày (được nhận
thấy bởi bệnh nhân hoặc thông qua quan sát của người khác)
+ Giảm cân đáng kể không phải do ăn kiêng hoặc tăng cân (ví

dụ: thay đổi trọng lượng cơ thể quá 5% trong 1 tháng) hoặc tăng hay
giảm cảm giác ngon miệng gần như mỗi ngày. Ghi chú: ở trẻ em có
thể khơng đạt mức tăng cân như dự đốn.
+ Mất ngủ hay ngủ nhiều hầu như mỗi ngày.
+ Kích động hay chậm chạp tâm thần vận động hầu như mỗi
ngày (được nhận thấy bởi người khác chứ không phải chỉ là cảm giác
của bệnh nhân về việc bứt rứt hoặc chậm chạp bên trong cơ thể).
+ Mệt mỏi hoặc mất năng lượng hầu như mỗi ngày.

7 DSM 5: Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, Tài liệu sổ tay chẩn đoán và thống kê các loại rối loạn tâm
thần. Sách, tái bản lần 5.


18

+ Cảm giác bị mất giá trị hoặc cảm giác tội lỗi q mức hoặc
khơng thích hợp (có thể đạt đến mức hoang tưởng) hầu như mỗi
ngày (không chỉ là việc tự trách móc hoặc có cảm giác tội lỗi do bị
bệnh).
+

Giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung chú ý hoặc thiếu

quyết đoán hầu như mỗi ngày (do bệnh nhân khai báo hoặc được
quan sát bởi người khác).
+ Ý nghĩ về cái chết tái diễn (không chỉ là sợ chết), các ý tưởng
tự tử tái diễn nhưng khơng có kế hoạch tự tử, hoặc có mưu toan tự tử
hoặc có kế hoạch tự tử cụ thể.
Tài liệu này cũng xác định mức độ nặng nhẹ của trầm cảm, cụ
thể được xác định bằng: số lượng các triệu chứng, mức độ nghiêm

trọng của các triệu chứng và mức độ ảnh hưởng đến các chức năng
xã hội và nghề nghiệp.
+ Nhẹ: Nếu có rất ít triệu chứng của trầm cảm, các triệu chứng
đảm bảo tiêu chuẩn chẩn đoán là: hiện diện, cường độ của các triệu
chứng là đau buồn nhưng dễ quản lý, các triệu chứng trên dẫn đến
sự suy giảm nhẹ trong hoạt động xã hội hoặc nghề nghiệp.
+ Trung bình: Số lượng triệu chứng, cường độ của các triệu
chứng, sự suy giảm trong hoạt động xã hội hoặc nghề nghiệp nằm
trong khoảng giữa của mức độ “nhẹ” và “nặng”.
+ Nặng: Số triệu chứng vượt quá mức yêu cầu để chẩn đoán,
cường độ của các triệu chứng là đau buồn rất nhiều và khó quản lý.
+ Thuyên giảm một phần: các triệu chứng của trầm cảm trước
đây có mặt nhưng khơng đáp ứng đủ tiêu chuẩn chẩn đốn, hoặc
thời gian kéo dài chưa đến 2 tháng, và khơng có một triệu chứng
nghiêm trọng nào của trầm cảm chủ yếu nào mất đi trong giai đoạn
này.


19

+ Thun giảm hồn tồn: Trong 2 tháng qua, khơng có dấu
hiệu/triệu chứng nào nghiêm trọng của rối loạn có mặt.
+ Rối loạn Trầm cảm dai dẳng/Trầm cảm mạn tính: kéo dài 2
năm.

4. Các hệ quả của trầm cảm sau sinh tác động như thế nào?
Những nghiên cứu trong khoảng thời gian gần đây phát hiện ra
rằng trong giai đoạn sau sinh thường dễ nhạy cảm với những thay
đổi trong cuộc sống của người mẹ và đứa con mới chào đời thì rối
loạn tâm lý thường có thể gặp nhất là trầm cảm. Trầm cảm sau sinh

có thể là nguy cơ dẫn đến sức khỏe tâm thần của người mẹ cũng như
mối quan hệ giữa người mẹ và các thành viên khác trong gia đình
đặc biệt là những đứa con mới sinh nó có thể ảnh hưởng đến sự phát
triển về cảm xúc, tâm lý, nhân cách và trí tuệ của trẻ sau này.
Một trong những hậu quả trầm trọng của trầm cảm sau sinh là
người mẹ có thể xuất hiện những ý nghĩa hai hành vi tự sát và nguy
hiểm hơn là bà mẹ có thể giết chết chính đứa con mà họ đã mang
nặng đẻ đau. Trong cảm sau sinh thường xuất hiện ở những phụ nữ
có tình trạng sức khỏe kém, tình trạng kinh tế xã hội thấp, quan hệ
vợ chồng và với các người thân khá ít có sự gắn bó, sinh con khơng
theo ý muốn, tình trạng hơn nhân khơng thỏa mãn, hai mẹ có lạm
dụng chất kích thích, trình độ học vấn thấp, tuổi của mẹ quá cao
hoặc thấp quá, can thiệp trong quá trình sinh nở và cả những văn
hóa truyền thống,...
Khơng những vậy trầm cảm sau sinh đối với người phụ nữ cịn
ảnh hưởng lớn đối với bầu khơng khí tâm lý gia đình. Đó là tình trạng
rạn nứt các mối quan hệ biểu hiện ở các mặt như giao tiếp, ứng xử,
hành động, cảm xúc,... đối với các thành viên trong gia đình có sự
thay đổi theo hướng tiêu cực. Nếu khơng có sự đồng thuận và thơng
cảm từ các thành viên trong gia đình, khơng những làm nặng thêm


20

tình trạng trầm cảm ở người phụ nữ mà cịn ảnh hưởng lớn đến các
chức năng tâm lý của gia đình. Nếu gia đình có hiểu biết về trầm
cảm sau sinh, có sự thơng cảm, động viên, an ủi và ngăn cản kịp thời
những hành vi tiêu cực từ những rối loạn hành vi do trầm cảm sau
sinh, thì người phụ nữ sẽ có cơ hội thun giảm bệnh tình rất cao.


5. Cách nào để điều trị và hỗ trợ phụ nữ vượt qua trầm cảm sau sinh?
5.1. Điều trị bằng thuốc

Các nhà nghiên cứu tin rằng những thay đổi về nồng độ
hoocmon sau khi sinh đóng một vai trị trong việc phát triển trầm
cảm. Bác sĩ có thể kê toa brexanolone (Zulresso), một phiên bản
tổng hợp mới của hoocmon allopregnanolone.
Nồng độ hoocmon tuyến giáp giảm trong thời kỳ hậu sản sẽ gây
ra các triệu chứng tương tự như trầm cảm sau sinh. Các vấn đề về
tuyến giáp cũng có thể được điều trị bằng thuốc.
Một loại hiện tượng thứ ba sau sinh cần xem xét là rối loạn tâm
thần sau sinh, mặc dù ít phổ biến hơn, là một căn bệnh nghiêm
trọng. Rối loạn tâm thần xảy ra trong vòng vài ngày đến 3 tuần sau
khi sinh, miễn là ba tháng. Một người phụ nữ bị rối loạn tâm thần sau
sinh cách xa thực tế, thường bị ảo giác hoặc hoang tưởng. May mắn
thay, bệnh này cũng có thể được điều trị bằng thuốc.
Tuy nhiên, mặc dù những thuốc được nêu hoặc chưa nêu được
cơng nhận là có hiệu quả trong việc giảm các triệu chứng trầm cảm
sau sinh. Nhưng sẽ chỉ được dùng đến khi được cung cấp tư vấn tâm
lý hoặc kê đơn thuốc chống trầm cảm từ bác sĩ để kiểm soát các
triệu chứng.
5.2. Điều trị tâm lý

Tư vấn tâm lý cũng là cách vượt qua trầm cảm sau sinh hiệu
quả. Nếu trầm cảm dạng nhẹ thì chỉ cần tư vấn tâm lý thơng thường


21

cũng có thể vượt qua được bệnh. Trường hợp bệnh nặng, cần kết hợp

giữa điều trị bằng thuốc và tư vấn tâm lý. Về cơ bản sẽ tuân thủ các
nguyên tắc chính:
Một là, người phụ nữ cần nhận thức rõ vai trị của bản thân, ln
tin tưởng bản thân sẽ tốt hơn. Đặc biệt, cần kiên trì áp dụng các cách
khắc phục trầm cảm sau sinh trong thời gian dài mới mang lại kết
quả tích cực .
Hai là, nghỉ ngơi, thư giãn, giữ tâm trạng vui vẻ, thoải mái sẽ
giúp giảm tình trạng bệnh. Ngồi ra, người mẹ cần tránh thức khuya,
ăn uống khoa học, đủ chất để duy trì sức khỏe tốt nhất. Không cố ép
bản thân làm những điều khơng thích hoặc gây khó chịu cho bản
thân. Học cách thư giãn sẽ giúp cải thiện tinh thần và tình trạng
bệnh
Ba là, thay vì tranh thủ con ngủ, người mẹ sẽ đi làm việc nhà thì
người mẹ cũng nên ngủ khi con đã ngủ, đây là lời khuyên của các
chuyên gia. Sinh hoạt cùng giờ giấc với con sẽ giúp mẹ tránh nguy
cơ bị trầm cảm. Đây cũng là một trong những nguyên tắc khi nuôi
con bằng sữa mẹ.
Bốn là, các bài tập thể dục sẽ giúp người mẹ cải thiện sức khỏe
và tạo hưng phấn tinh thần sau sinh đồng thời đẩy lùi nguy cơ mắc
bệnh trầm cảm.
Năm là, sự động viên của bạn bè, người thân và đặc biệt là người
chồng sẽ tác động rất lớn đến tình trạng bệnh. Thay vì giữ các thói
quen cũ, cố gắng làm mọi thứ “đúng giờ” như trước khi sinh con thì
gia đình hãy linh động làm mọi thứ dựa theo điều kiện của mẹ, như
vậy người mẹ sẽ không cảm thấy khơng q áp lực và mệt mỏi khi
có con cũng như phòng ngừa hội chứng trầm cảm sau sinh.


22


5.3. Nguyên tắc điều trị chính

- Phối hợp thuốc chống trầm cảm và tâm lý trị liệu trong đó
người bệnh tập trung cải thiện mối quan hệ với người khác chủ yếu
với chồng và con.
- Điều trị tâm lý được ưu tiên bởi vì khi dùng thuốc người mẹ có
thể phải ngưng cho con bú do thuốc xuất hiện trong sữa mẹ, tuy
nhiên dùng thuốc vẫn là bắt buộc khi xét thấy lợi ích đem lại là cao
hơn các yếu tố có hại.
- Cần theo học một số chương trình giáo dục tiền sản cho cả
người vợ lẫn chồng trước khi sinh con, hoặc ít nhất tìm sách báo
hướng dẫn, hoạt động này giúp cung cấp những kiến thức đúng đắn
về sức khỏe sinh sản, nhận thức tốt sẽ giúp phòng tránh trầm cảm
sau sinh.


23

CHỨC NĂNG TÂM LÝ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC
HỖ TRỢ PHỤ NỮ VƯỢT QUA TRẦM CẢM SAU SINH
1. Vì sao gia đình lại quan trọng giúp phụ nữ vượt qua trầm cảm sau sinh?
Nhiều người với triệu chứng của bệnh trầm cảm khơng tự nhận
mình bị trầm cảm. Có thể do họ không tự nhận thức những triệu
chứng này, và cũng có thể do họ gặp khó khăn tâm lý trong việc
thừa nhận mình bị trầm cảm. Một phần, đây là một vấn đề tế nhị,
phần khác, họ có thể cảm thấy thất bại hoặc cho rằng người khác sẽ
đánh giá mình nếu mình bị trầm cảm. Do đó, nếu là người thân việc
phát hiện sớm các dấu hiệu trầm cảm ở phụ nữ sau sinh là điều hết
sức cần thiết trong khi chính bản thân họ khơng nhận ra điều đó.
Trầm cảm là một bệnh lý vơ cùng phức tạp với nhiều nghiên cứu

đang được tiến hành để xác định chính xác ngun nhân. Những
nhân tố đóng góp đã biết bao gồm các đặc tính di truyền, mức độ nội
tiết tố, các yếu tố kích phát từ mơi trường, thuốc men, hệ quả của
việc sống chung với một bệnh nặng, đau buồn và mất mát do cái
chết của một người thân, trải qua việc bị hành hạ về thể chất hoặc
cảm xúc, sống với một người trầm cảm nặng, và những nhân tố
khác. Và người thân trong gia đình là người nắm rõ nhất những nhân
tố đó, hoặc thậm chí họ chính là nguyên nhân gây ra những đau khổ
đó ở người phụ nữ. “Muốn gỡ dây thì phải tìm người buộc dây” – gia
đình là nơi tháo gỡ đa số các khó khăn tâm lý, trong đó có trầm cảm
sau sinh.
Một nghiên cứ Sức khỏe Tâm thần Mỹ phát hiện rằng nhiều phụ
nữ không điều trị trầm cảm bởi vì họ xấu hổ hoặc chối bỏ việc bị
trầm cảm. Trên thực tế, 41% phụ nữ được khảo sát dẫn chứng việc
cảm thấy xấu hổ hoặc thẹn thùng là rào cản cho điều trị. Mặc dù,
trên thực tế tất cả bác sĩ đều được đào tạo bài bản trong việc tiếp
cận khéo léo với phụ nữ bị trầm cảm sau sinh. Nhưng hơn hết chính


24

là sự động viên, thuyết phục của người thân để họ có thể cùng nhau
“đặt chân vào cổng bệnh viện” trước đã.
Một khía cạnh khác. đưa ra quyết định đưa người thân đến một
trung tâm chăm sóc là một việc rất căng thẳng. Không ngoại lệ đối
với phụ nữ bị trầm cảm sau sinh, việc chấp nhận “bệnh” từ phía gia
đình cũng như sự phối hợp với các bác sĩ và chuyên gia trị liệu tâm lý
là điều hết sức cần thiết.
Như vậy, có thể trả lời cho câu hỏi đề mục một cách dễ dàng khi
có đầy đủ lý do để gia đình trở thành yếu tố quan trọng giúp phụ nữ

vượt qua trầm cảm sau sinh. Gia đình vừa là nguyên nhân, vừa là nơi
xảy ra các biểu hiện, cũng là nơi khuyên giảm các triệu chứng của
trầm cảm sau sinh và cũng là nơi chào đón “người mẹ khoẻ mạnh”
trở về với chồng, con.

2. Các thành viên trong gia đình cần làm gì để phụ nữ vượt qua trầm cảm
sau sinh?
Trầm cảm sau sinh là một căn bệnh ảnh hưởng đến cả gia đình.
Cho dù người thân đang trải qua nỗi buồn bình thường sau sinh hay
trầm cảm sau sinh thì khi được hỗ trợ, nâng đỡ sẽ hồi phục nhanh
hơn. Trầm cảm là một bệnh và rất cần được bác sĩ điều trị như những
bệnh khác, gia đình đóng vai trị như “chiến tuyến thứ 2” hỗ trợ và
nâng đỡ tinh thần cho bệnh nhân.
Có thể kể đến một số vai trò trong chức năng tâm lý chính của
gia đình trong việc hỗ trợ phụ nữ vượt qua trầm cảm sau sinh như
sau:
2.1. Yếu tố người chồng
Người chồng đóng vai trị quan trọng, khơng những là chỗ dựa
tâm lý mà còn là niềm tin và hy vọng cho sự phát triển trong tương
lai của mẹ và bé. Tuy nhiên, trên thực tế rất nhiều ông chồng nghĩ


25

rằng, chỉ cần cung cấp vật chất cho vợ là đủ mà không hề nhận thức
được sự quan tâm, chia sẻ bằng hành động và lời nói động viên có
thể giúp người vợ tránh được nguy cơ trầm cảm.
Người chồng nên thông cảm cho những hành vi, thái độ, lời nói
của vợ trong lúc vợ có những triệu chứng của trầm cảm sau sinh. Cụ
thể:

+ Khơng chì trích. Người chồng nên hiểu rằng bệnh đang ở giai
đoạn tạm thời và tin tưởng rằng sự giúp đỡ của mình có thể giúp cho
người vợ phục hồi nhanh chóng. Khơng nên nói chuyện về những
thiếu sót của người vợ vì có thể làm cho người vợ cực kỳ bực bội. Dù
chỉ một dấu hiệu nhỏ chê trách có thể góp phần cho người bệnh rơi
vào tình trạng suy sụp của tự ti và mặc cảm tội lỗi.
+ Chịu khó lắng nghe. Bệnh nhân trầm cảm nói chung thường ít
nói, họ chỉ tâm sự được với người tin tưởng. Đối với người vợ, chồng
là người được đặt trọn niềm tin, vì vậy việc người chồng lắng nghe,
thấu hiểu được những suy nghĩ của người vợ sẽ giúp người vợ cũng
cố niềm tin, tìm lại chỗ đứng. Người chồng phải chịu khó, phải thấu
hiểu rằng rất nhiều cảm xúc tiêu cực đã đầu độc tâm trí của người
bệnh khiến người bệnh than phiền khơng ngớt hoặc khơng nói gì.
Việc của người chồng lúc này tốt nhất là lắng nghe, chứ khơng phải
nói rằng người bệnh đã sai hoặc cố gắng uốn nắn chỉ đạo gì cả.
+ Quan tâm. Bệnh nhân trầm cảm nói chung và bệnh nhân trầm
cảm sau sinh nói riêng khơng thích sự cơ độc, do vậy sự có mặt bên
cạnh thường xuyên của người chồng không những giảm bớt những
hành vi khơng mong muốn mà cịn làm giảm cảm giác đơn độc, mất
giá trị của người vợ trầm cảm.
Một ví dụ thực tế minh hoạ, kết quả nghiên cứu mới đây về “Mối
tương quan giữa bạo hành gia đình và trầm cảm của thai phụ tại
TP.HCM” được thực hiện ở 1.387 thai phụ đến 6 tuần lễ sau sinh của


×