Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Nghệ thuật cộng đồng pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.85 KB, 11 trang )

Nghệ thuật cộng đồng
Nghệ thuật cần thay đổi như xã hội thay đổi

Nghệ thuật cộng đồng bắt nguồn từ những công trình công cộng
cho một cộng đồng dân cư sống tập trung, có tổ chức, định chế xã hội
và văn hoá cùng nhu cầu thẩm mỹ nhất định. Nền văn minh La Mã cổ
với những đô thị lớn là nơi đầu tiên đưa ra thế giới những khái niệm về
không gian công cộng như quảng trường, khải hoàn môn, câu lạc bộ,
đấu trường Những công trình tôn giáo lớn ở Trung Quốc, Ấn Độ và
nhiều nước khác cũng có thể coi là công trình công cộng lớn, và yếu tố
nghệ thuật trong đó có tính cộng đồng rõ rệt. Sự xuất hiện của nghệ
thuật công cộng là tín hiệu của một xã hội đã đạt đến độ phát triển nhất
định và thể hiện một trình độ văn hoá – thẩm mỹ tầm cỡ.
Trong thời cổ, người Việt từng có những công trình công cộng có
công năng sử dụng hữu hiệu, hàm chứa chất lượng nghệ thuật và yếu tố
văn hoá cao. Đình, đền, chùa là ba loại công trình lớn trong mỗi ngôi
làng Bắc bộ, cũng là công trình tiêu biểu của nền văn minh làng xã và
đời sống làng xã – một trong những mô hình sống cộng đồng đặc trưng
nhất của người Việt vào ba thế kỷ 16 – 17 – 18. Chùa có chức năng
phục vụ nhu cầu tín ngưỡng cho cả dân làng ngày rằm và mùng một,
cũng như cho từng cá nhân. Đền là nơi thờ vị thần bảo hộ cho làng.
Đình là công trình có tính cộng đồng lớn nhất, nơi diễn ra các hoạt
động chung của làng từ hành chính cho tới lễ hội. Sự xuất hiện đồng
thời của cả ba công trình trong mỗi ngôi làng là một thể hoàn hảo về
mô hình công trình cộng đồng cho một quần thể vừa và nhỏ, thoả mãn
các nhu cầu từ hành pháp, luật pháp tới sinh hoạt thường nhật, tâm linh
và lễ hội.
Nghệ thuật cộng đồng phải xuất phát trực tiếp từ đời sống của
người dân, có tiếng nói, ngôn ngữ và hơi thở thời đại, hình ảnh của
những vật phẩm trong cuộc sống hôm nay. Biểu tượng Coca-Cola của
Andy Warhol trị giá hàng triệu USD, chưa hẳn đã đẹp về thẩm mỹ,


nhưng tiêu biểu cho một xã hội công nghiệp và văn hoá đại chúng –
một thứ pop art của nước Mỹ ảnh hưởng trên toàn thế giới trong thế kỷ
20.


Tác phẩm điêu khắc của Alexander Calder, bảo tàng nghệ thuật
Sprengel (Hannover, Đức) năm 1971
Một nhà điêu khắc từng cho rằng nghệ thuật công cộng là loại hình
giáo dục xã hội có tính hiệu quả cao nhất trong giáo dục thẩm mỹ. Thứ
nhất bởi nó miễn phí. Thứ hai bởi nó luôn sử dụng một ngôn ngữ nghệ
thuật có tính đại chúng. Thứ ba bởi nó có tính tương tác cao nhất với
đời sống người dân, thông qua sự hiện diện của tác phẩm tại các không
gian công cộng, nơi con người hoạt động tập thể và riêng tư. Tuy nhiên,
sự hình thành của nghệ thuật cộng đồng không dễ, khi nó đòi hỏi xã hội
có một nền tảng ổn định về đời sống, và có nhu cầu đích thực về văn
hoá nghệ thuật, một điều chưa được rõ rệt ở Việt Nam. Đường sá lộn
xộn, nhà cửa xây cất triền miên, áp lực về kinh tế, môi trường ô
nhiễm không phải là một nền móng tốt cho nghệ thuật cộng đồng
phát triển. Giáo dục thẩm mỹ chưa bao giờ được coi trọng, và đại bộ
phận người dân chỉ biết đến nghệ thuật thị giác ở hai thứ là tranh cổ
động và tượng đài – một thứ nghệ thuật minh hoạ thô sơ – chứ không
phải là một nghệ thuật có ngôn ngữ của đời sống thực, hàm chứa ước
vọng và hoài bão của dân tộc. Dẫu vậy, vẫn cần đặt nền móng cho sự
xuất hiện của nghệ thuật cộng đồng, bởi các đô thị lớn của Việt Nam đã
hình thành và phát triển, đời sống đô thị đã tương đối định hình, ngay
cả ở các vùng nông thôn, làng xã cổ cũng dần “phố hoá”, biến thành
các tiểu đô thị thu nhỏ. Nghệ thuật cần thay đổi như xã hội đã thay đổi,
và những nhân tố mới cho nghệ thuật mới dần hình thành, vấn đề là tìm
một ngôn ngữ khác, cách thể hiện nghệ thuật khác cho đời sống đương
đại. Và đó là một câu chuyện mới bắt đầu.


Cái bóng của những tượng đài

Tượng đài và tranh cổ động
Trong một thời gian dài hơn nửa thế kỷ 20, người Việt chỉ có tượng
đài và tranh cổ động là hai thứ nghệ thuật có tính xã hội thực thụ, gắn
với thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, sau đó là giai đoạn
bao cấp đến những năm 1990. Tượng đài chịu ảnh hưởng từ dòng nghệ
thuật hoành tráng Đông Âu, phối cảnh trong những không gian công
cộng, có tính kiến trúc cũng như đòi hỏi một tư duy lớn về khối, quy
hoạch không gian và môi trường. Tranh cổ động là một hình thức tuyên
truyền chính trị bằng ngôn ngữ đồ hoạ, từng đóng vai trò lớn trong
công tác tuyên truyền tư tưởng nhà nước thời chiến bởi ngôn ngữ đồ
hoạ nhanh, đơn giản, trực tiếp và dễ nhân bản. Đặc điểm chung của hai
dòng nghệ thuật này là mô tả tư tưởng một cách trực tiếp bằng thứ ngôn
ngữ nghệ thuật đơn giản và dễ nhận biết, dẫn đến việc môtíp hoá chung
chung các hình tượng từ điêu khắc đến hội hoạ. Ở tranh cổ động, công
– nông – binh nhất thiết phải cầm búa, cầm liềm, cầm súng, trên cánh
đồng hoặc trong nhà máy, ở tượng đài đều là một dáng nhân vật mặt
chữ điền, chân tiến lên một bước Dẫu vậy, tranh cổ động có tác dụng
lớn trong việc thay đổi nhận thức xã hội, và cũng xuất hiện nhiều tác
phẩm độc đáo, đạt đến ngôn ngữ đồ hoạ biểu tượng và tạo ấn tượng thị
giác cao, vượt qua tính mô tả đơn giản thông thường như các bức tranh
của Lương Xuân Nhị, Đào Đức hay Đặng Thị Khuê. Tượng đài, ngược
lại, lại là một sự thất bại kéo dài, vì nghệ sĩ Việt Nam phần lớn không
được đào tạo về nghệ thuật hoành tráng, thiếu tư duy và khả năng xử lý
không gian trên diện rộng, thiếu vắng quy hoạch kiến trúc tổng thể cho
không gian công cộng. Khi xã hội chuyển mình sang thời hiện tại, hai
dòng nghệ thuật này trở nên lạc lõng khi không thay đổi theo những đòi
hỏi mới về ngôn ngữ nghệ thuật và ý tưởng.


Triển lãm nghệ thuật toàn quốc và khu vực
Một trong những hình thức nghệ thuật cộng đồng phổ biến sau
1975 là triển lãm mỹ thuật. Khi hoạ sĩ chưa thể có triển lãm cá nhân, và
vào thời kỳ nghệ thuật có tính tập thể cao, triển lãm mỹ thuật toàn quốc
năm năm một lần là sự kiện nghệ thuật lớn cả trong giới nghệ thuật và
trên toàn xã hội. Trong thời kỳ đầu, các triển lãm nhà nước có vai trò
nhất định trong việc đưa nghệ thuật tiếp xúc với xã hội, cho nghệ sĩ bày
tỏ cá nhân và sáng tạo của mình ra công chúng, có ý nghĩa giáo dục
thẩm mỹ và nâng cao văn hoá cho người dân. Tuy nhiên, sự cứng nhắc
của tiêu chí tác phẩm và giải thưởng, sự lạc hậu về nhận thức trong
chính hội đồng nghệ thuật và tính hội hè dễ dãi của các triển lãm nhà
nước đã hạ thấp giá trị nghệ thuật của hoạt động này. Nghệ sĩ càng cá
tính, tác phẩm càng độc đáo càng dễ bị gạt bỏ, nghệ thuật hiện thực xã
hội chủ nghĩa và nghệ thuật tả thực vẫn được đề cao, dẫn đến một thứ
sáng tác chuyên dành cho các “triển lãm” và một loạt nghệ sĩ chuyên
đoạt “giải thưởng”, dẫn đến việc hoạt động này ngày càng lạc hậu, xa
rời cộng đồng.

Triển lãm cá nhân và triển lãm nhóm
Trước năm 1985, các nghệ sĩ chưa từng có triển lãm cá nhân, và họ
chỉ giới thiệu nghệ thuật qua triển lãm toàn quốc. Các hoạ sĩ Bùi Xuân
Phái, Nguyễn Sáng và Nguyễn Tư Nghiêm là những người đầu tiên
được làm triển lãm cá nhân vào năm 1986. Các triển lãm cá nhân và
nhóm sau thời Đổi mới, ngoài việc nghệ sĩ tự giới thiệu nghệ thuật của
mình ra công chúng, còn có vai trò lớn trong việc giới thiệu văn hoá
Việt Nam ra thế giới từ khi mở cửa, như những triển lãm nhóm “Gang
of Five” của Đặng Xuân Hoà, Hà Trí Hiếu nhóm “Năm hoạ sĩ” Hà Nội
của Đinh Quân, Nguyễn Quốc Hội, Phạm Ngọc Minh và các triển lãm
cá nhân của Nguyễn Quân, Nguyễn Xuân Tiệp, Lương Xuân Đoàn, Lê

Huy Tiếp, Đinh Ý Nhi, Trương Tân, Vũ Thăng cùng nhiều nghệ sĩ
khác. Dù những triển lãm này ít nhiều còn phổ biến ngoài giới nghệ
thuật, đây vẫn là sự mới mẻ đối với cộng đồng xã hội, khi họ bắt đầu có
cơ hội thưởng thức nghệ thuật đích thực đầy cá tính và sáng tạo với tư
duy mới, nằm ngoài tính chính trị và ngôn ngữ tập thể cũ kỹ. Đến
những năm gần đây, khi văn hoá trở nên đa chiều, nghệ thuật bắt đầu
phổ quát, công chúng đòi hỏi cao hơn về chất lượng tác phẩm và
thưởng thức, vai trò các triển lãm nhỏ bắt đầu suy giảm. Số lượng triển
lãm ngày càng nhiều mà thời gian diễn ra ngắn, nghệ thuật không có cơ
hội được nghiên cứu kỹ lưỡng và công chúng cũng không có cơ hội
được thưởng thức trọn vẹn.

Nghệ thuật mới cho một xã hội mới


Tượng đài Cây chổi viết


Tượng đài Olympic 1990 - Albert Palay

Khi những hình thức hoạt động cũ không còn phù hợp, nghệ thuật
cộng đồng tự tìm đến những ý tưởng mới, hình thức mới và con đường
mới đến với xã hội. Hoạt động bảo tàng hiện đại, trại sáng tác
(workshop), dự án nghệ thuật, nghệ thuật đường phố (như graffiti)
xuất hiện, đưa nghệ thuật tương tác và thâm nhập vào xã hội một cách
trực tiếp hơn và mạnh mẽ hơn.
Bảo tàng nghệ thuật hiện đại không còn là nơi lưu giữ những bức
tranh và pho tượng một cách ngay ngắn, chờ đợi người đến xem một
cách thụ động, mà trở thành một trung tâm văn hoá nghệ thuật, nơi
triển lãm và giới thiệu những sáng tác mới, khuynh hướng mới của

nghệ sĩ đương đại. Hoạt động bảo tàng phải liên tục và sôi nổi như một
thực thể sống và trong đó, người dân có thể trực tiếp tham quan nghệ sĩ
sáng tác, hoặc tham dự vào nghệ thuật như một phần của các tác phẩm,
cộng đồng được hưởng lợi ích trực tiếp và gián tiếp qua việc thưởng
thức nghệ thuật đa chiều như vậy. Điều vẫn chưa xảy ra ở các bảo tàng
nghệ thuật Việt Nam.


Tác phẩm Cổng Đám Mây của nhà điêu khắc Anish Kapoor (Chicago-
Hoa Kỳ)

Trại sáng tác (workshop) là hình thức hoạt động nghệ thuật cộng
đồng có tính lưu động và tương tác cao diễn ra trong những năm gần
đây. Sau 1997, các trại sáng tác điêu khắc ngoài trời được tổ chức
thường xuyên, bắt đầu từ ba trại điêu khắc trong dịp festival Huế các
năm 1998, 2002 và 2005, sau đó tác phẩm được để lại hai bên bờ con
sông Hương. Trại điêu khắc An Giang hai năm 2003 và 2005, là một
mô hình tổ chức mới liên kết giữa chính quyền địa phương và doanh
nghiệp, mời các nhà điêu khắc trong nước và quốc tế đến sáng tác với
dự định thành lập một công viên điêu khắc cho tỉnh. Phong trào làm trại
sau đó lan ra nhiều nơi như Vũng Tàu, Đà Lạt, Việt Trì, Nha Trang, Đà
Nẵng như một trào lưu đầy hứa hẹn về nghệ thuật cộng đồng, trong đó
người dân được tiếp xúc với nghệ sĩ trong quá trình sáng tác, các tác
phẩm được đặt để ở nơi công cộng như một sự miễn phí về nghệ thuật.
Tuy nhiên, phần lớn các trại cho đến hiện tại chưa đạt hiệu quả mong
muốn, dẫn đến trở thành một thứ nghệ thuật phong trào kiểu khác, mất
đi tính xã hội hoá và chất lượng nghệ thuật.
Dự án nghệ thuật là khái niệm mới xuất hiện chừng năm năm ở
Việt Nam, khởi đầu từ những chương trình văn hoá cộng đồng của các
đại sứ quán và nhà văn hoá nước ngoài, sau đó là vai trò của một số

nghệ sĩ tiền phong và vài trung tâm nghệ thuật tư nhân. Miền Bắc khởi
xướng là hoạ sĩ Trần Lương hoạt động ban đầu ở trung tâm Nghệ thuật
đương đại (Hà Nội), Nhà sàn Đức quy tụ nhiều nghệ sĩ trẻ khát vọng về
nghệ thuật mới, Nguyễn Minh Phước với Ryllega, sau đó trong Nam có
Nguyễn Như Huy và Zero Station, gần đây là Ngô Lực, Himiko
Nguyễn. Những dự án khởi đầu có quy mô nhỏ, mang tính thể nghiệm
nghệ thuật sắp đặt và trình diễn, mời một vài người dân tham gia tương
tác với nghệ sĩ, sau đó mở rộng về cự li và mang tính xã hội nhiều hơn
như những dự án đem nghệ thuật lên vùng cao, dự án sắp đặt lớn tại mỏ
than Mạo Khê năm 2003, dự án graffiti đường phố Các dự án nghệ
thuật ở Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều, dầu quy mô vẫn nhỏ, song
vẫn là hoạt động có tính khả thi và triển vọng nhất.
Ở đây, chưa bàn tới một vài yếu tố cho nghệ thuật cộng đồng như
đầu tư từ Nhà nước và doanh nghiệp, quy hoạch không gian công cộng,
giáo dục thẩm mỹ, năng lực nghệ thuật nhưng có một điểm quan
trọng là nhận thức sâu sắc về lợi ích cho cộng đồng. Chỉ khi mỗi cá thể
trong cộng đồng gắn lợi ích của mình vào lợi ích chung, nghệ thuật
cộng đồng mới có cơ hội phát triển, và xã hội mới thu được lợi ích
đáng có.

×