Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Giáo trình: KINH TẾ HỌC VĨ MÔ potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.47 MB, 117 trang )


1










Giáo trình

KINH TẾ HỌC VĨ MÔ














2




CHƯƠNG 1
ĐẠI CƯƠNG VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ VÀ SỰ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ KINH TẾ


I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Kinh tế
Ngày nay, từ ktế bao hàm nội dung phong phú hơn nhiều. Đó là:
- Sự làm ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu.
- Sự hoàn thiện và tối ưu hoá việc tổ chức sử dụng các nguồn lực, tổ
chức lđộng xhội một cách khoa học, có hiệu quả.
- Sự cân đối tích lũy và tiêu dùng để phát triển và đề phòng rủi ro.
Kinh tế là tổng thể một bộ phận các yếu tố sản xuất (vốn, đất đai, kỹ thuật,
thông tin,…) và các quan hệ con người với con người trong quá trình sản xuất trực
tiếp, lưu thông phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất trong một giai đoạn
nhất định của lịch sử, mà mấu chốt của vấn đề là sở hữu và lợi ích”.
2. Nền kinh tế quốc dân
Theo cách tiếp cận hệ thống nền kinh tế được xem như là một hệ thống hay
hệ thống kinh tế vĩ mô bao gồm ba yếu tố: Đầu vào, đầu ra và hộp đen kinh tế vĩ
mô.
- Các yếu tố đầu vào gồm:
+ Những tác động từ bên ngoài, bao gồm chủ yếu các biến số phi kinh tế:
thời tiết, dân số, chiến tranh,
+ Những tác động từ chính sách, bao gồm các công cụ của Nhà nước nhằm
điều chỉnh hộp đen kinh tế vĩ mô, hướng tới các mục tiêu đã định trước.
- Các yếu tố đầu ra bao gồm: Sản lượng, việc làm, giá cả, xuất- nhập khẩu.
Đó là các kết quả biến do hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô tạo ra.


- Trong đó yếu tố trung tâm của hệ thống là hộp đen kinh tế vĩ mô, hay còn
gọi là nền kinh tế vĩ mô (Macroeconomy) hoặc là nền kinh tế quốc dân. Hai lực
lượng quyết định sự hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô là tổng cung và tổng cầu.

3
Vậy  nền kinh tế quốc dân (hay hệ thống kinh tế vĩ mô) là tổng thể các
mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất của một quốc gia, từ đó
của cải của xã hội được tạo ra, lưu thông, phân phối và sử dụng.
Nền KTQD là bộ phận cơ bản của toàn bộ tồn tại xã hội, còn hoạt động kinh
tế là nội dung cơ bản của toàn bộ hoạt động xã hội. Hay, nền kinh tế quốc dân là
không gian kinh tế - xã hội, được xác định bởi các dấu hiệu sau:
a. Về hình thức tồn tại của chủ thể hoạt động kinh tế
Chủ thể hoạt động kinh tế gồm:
- Hộ gia đình (người tiêu dùng cuối cùng).
- Chính phủ (người tiêu dùng đại diện).
- Doanh nghiệp (người sản xuất).
- Người nước ngoài.
b. Về tính chất hoạt động của chủ thể kinh tế
Bốn chủ thể trên được coi là chủ thể hoạt động kinh tế vì chúng có những
hoạt động có tính chất đặc thù sau:
- Họ đều là người thực hiện nhu cầu tiêu dùng thông qua hành vi mua từ đó
tạo ra cầu về hàng hóa.
- Họ đều là người bán: như bán tư liệu sản xuất, sản phẩm, thậm chí cả sức
lao động (sức lao động cũng là một loại hàng hóa đặc biệt)  tạo ra cung hàng
hóa.
- Họ là các nhà đầu tư: như đầu tư vào sản xuất kinh doanh của cácDN, CP,
và thậm chí người tiêu dùng bình thường cũng là nhà đầu tư khi họ gửi tiền ở ngân
hàng, mua cổ phiếu, công trái,…
- Họ tạo ra các nguồn thông tin (hay là những yếu tố thông tin của thị
trường) và phải thường xuyên cạnh tranh với nhau.

c. Về nguồn lực để tiến hành hoạt động kinh tế (đầu vào của nền kinh tế)
- Gồm tài nguyên quốc gia.
- Hệ thống tài chính tiền tệ.
- Hệ thống cơ sở hạ tầng, tài sản và dự trữ quốc gia.
- Nguồn nhân lực của một đất nước.
- Các thành tựu và tiến bộ về khoa học công nghệ.
d. Về không gian kinh tế
Không gian kinh tế được hiểu như là một thực thể kinh tế - xã hội được xác
định bởi tính cân đối, tính mở và tính phát triển của nó. Gồm:
- Phương thức sx (với tư cách là mặt bằng cơ sở, là nền tảng quy định sự
phát triển chung của cả nền kinh tế).

4
Phương thức sản xuất xã hội là sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội hợp thành.
Để xã hội phát triển thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Cơ cấu kinh tế (mối quan hệ về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận,
thành phần tham gia vào sự phân công lao động xã hội và cấu tạo nên nền kinh tế
như tỉ trọng của các khu vực kinh tế, số lượng quy mô các doanh nghiệp trong các
ngành nghề,…).
- Các quá trình kinh tế (sự vận động, tương tác, lưu chuyển, trao đổi các
kết quả kinh tế trong cơ cấu kinh tế và bị chi phối bởi các qui luật kinh tế xã hội
như đầu tư, sản xuất, lưu thông phân phối, tích lũy, tiêu dùng).
- Hệ thống thông tin và luật pháp.
e. Về phương thức quan hệ
Là phương thức thị trường, với nội dung căn bản là mua và bán (quan hệ
cung cầu).
3. Nền kinh tế thị trường
3.1. Thị trường

Đây là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi hàng hóa, trao đổi thông tin và lựa
chọn chuyển dịch đầu tư.
* Vai trò của thị trường:
- Thông tin về cung - cầu, tạo điều kiện để mối quan hệ cung cầu về hàng
hóa được cân đối cả về lượng và chất.
- Tạo điều kiện cho việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ diễn ra thuận lợi.
- Thúc đẩy sự chuyên môn hóa và phân công lao động xã hội: thông qua thị
trường các chủ thể kinh tế phát hiện và khẳng định lợi thế của mình trong không
gian, thời gian nhất định.
- Giúp cho các chủ thể kinh tế có sự lựa chọn phương án hoạt động SXKD
tối ưu thông qua việc hạch toán hiệu quả hoạt động.
Họ luôn phải thông qua việc trả lời 3 câu hỏi : Sản xuất cái gì? Sản xuất như
thế nào? Sản xuất cho ai?
3.2. Quan hệ thị trường
Đây là quan hệ mua bán, là sự trao đổi ngang giá.
3.3. Nền kinh tế thị trường
Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, được đưa ra bởi các nét đặc trưng
sau:

5
- Quá trình lưu thông vật chất trong nền kinh tế – xã hội được thực hiện chủ
yếu bằng phương thức mua bán.
- Người tham gia mua bán có quyền tự do nhất định trong việc lựa chọn:
nội dung mua bán, đối tác mua bán, giá cả trao đổi.
Nói quyền tự do nhất định vì việc lựa chọn ba nội dung trên phục thuộc vào
việc mua bán các hàng hóa pháp luật cho phép, giá cả giao động trong khung mà
thị trường có thể chấp nhận được, chọn đối tác phù hợp.
3.4. Các loại hình kinh tế thị trường
* Do khả năng sản xuất của nền kinh tế có giới hạn, đồng thời do nguồn tài
nguyên khan hiếm cho nên con người cần phải giải đáp ba vấn đề cơ bản sau (kể cả

đối với các QG giàu hay nghèo hoặc bất cứ một tổ chức KT nào):
- Sản xuất cái gì, bao nhiêu (What): mỗi xã hội cần phải quyết định xem
nên sản xuất nhiều thực phẩm hay súng đạn, nhiều hàng cao cấp hay hàng chất
lượng thấp, nhiều hàng dành cho tiêu dùng hiện tại hay hàng đầu tư để phục vụ cho
sx và tương lai,….
- Sản xuất như thế nào (How): Nên sản xuất bằng nguồn lực nào, dùng loại
kỹ thuật gì, ai là người quyết định cho quá trình sản xuất đó?
- Sản xuất cho ai (Who): Xã hội nên phân chia thu nhập cho mọi người
ngang bằng nhau hay chênh lệch nhau, nên có một ít người giàu bên cạnh nhiều
người nghèo hay không, nên danh nhiều thu nhập cho quan chức hay bác sỹ và
công nhân,…
3.4.1. Nền kinh tế thị trường thuần túy (Market Economy)
Đó là nền kinh tế theo đuổi các mục đích kinh doanh thuần túy.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường thuần túy cũng có rất nhiều nhược điểm:
như độc quyền, cá lớn nuốt cá bé, lạm phát và thất nghiệp, dịch vụ công và các lợi
ích công cộng bị bỏ rơi, luôn ở trong tình trạng khan hiếm hoặc thiếu hụt, cuối
cùng là khủng hoảng và tổng khủng hoảng của cả nền kinh tế.
3.4.2. Nền kinh tế chỉ huy (command Economy)
Ngược lại kinh tế thị trường, trong nền kinh tế chỉ huy CP là người quyết
định toàn bộ, điển hình là nền kinh tế Liên Xô cũ. Việt Nam trước đây cũng định
hướng theo mô hình kinh tế chỉ huy. Trong nền kinh tế này, ủy ban kế hoạch nhà
nước là trung tâm điều khiển mọi hoạt động kinh tế đi theo một kế hoạch thống
nhất. Mọi người chỉ cần thực hiện nhiệm vụ của mình theo sự phân công trực tiếp
hay gián tiếp của CP.
Ý tưởng này nảy sinh từ hai nguồn:

6
- Ước vọng xây dựng một xã hội không có người bóc lột người, một xã hội,
trong đó, “ Một người vì tất cả, tất cả vì một người”.
- Ước vọng thoát khỏi những cuộc khủng hoảng có tính chu kỳ không thể

tránh nổi của nền kinh tế thị trường thuần túy. Điển hình là J. Keynes (1884 -
1946).
Tuy nhiên, nền kinh tế này cũng có rất nhiều nhược điểm:
- Những căn bệnh của nền kinh tế thị trường nêu trên có thể xuất hiện cả lúc
tăng trưởng lẫn lúc suy thoái như khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát,…
- Mục đích tăng GNP không phải là mục đích cuối cùng của sự nghiệp kinh
tế toàn xã hội. Mà mục đích còn là mối quan hệ về lợi ích giữa các tầng lớp nhân
dân trong một chỉnh thể kinh tế - chính trị - xã hội nhất định.
- Trường phái Keynes mới chỉ xem xét phản ứng động thái của doanh
nghiệp, dân chúng trong vấn đề kinh tế ở khía cạnh của giá cả, tiền công, lạm phát,
thất nghiệp. Tức chưa chú trọng đến mặt cung của nền kinh tế, nên chưa xét được
đến ảnh hưởng của lực lượng sản xuất, của tiến bộ khoa học công nghệ,… đến tổng
cung.
3.4.3. Nền kinh tế thị trường hỗn hợp (nền kinh tế hỗn hợp)
- Định nghĩa:
Nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế trong đó có sự kết hợp tối đa những ưu
điểm của cơ chế thị trường với sự điều tiết của nhà nước nhằm đạt được hệ thống
các mục tiêu kinh tế - chính trị - xã hội một cách hiệu quả nhất trong điều kiện có
thể của một đất nước (Hay đây là nền kinh tế mà ba vấn đề cơ bản được giải quyết
vừa có sự can thiệp của CP vừa theo cơ chế thị trường).

4. Đường cong sản lượng tiềm năng (Đường giới hạn khả năng sản xuất)
4.1. Quy luật sử dụng nguồn lực trong sản xuất của cải vật chất
Trên thực tế, mọi nguồn lực đều có hạn, thậm chí có thể được coi là khan
hiếm hoặc đang trở nên khan hiếm (Nguồn lực khan hiếm: tại một mức giá P > 0
nhất định mà người mua sẵn sàng mua nhưng lượng cung không đáp ứng được
lượng cầu).
Sự khan hiếm là do:
- Tài nguyên đang dần bị cạn kiệt cùng với quá trình gia tăng sản xuất.
- Nhu cầu của con người luôn phát triển cả về lượng lẫn về chất.

Vì vậy, mục tiêu căn bản của kinh tế học vĩ mô là nghiên cứu và chỉ ra cho
xã hội cách sử dụng có hiệu quả các nguồn lực có hạn để một mặt, các nhu cầu của
xã hội vẫn được đáp ứng tối đa, mặt khác, tiết kiệm được mọi nguồn lực trong một
tương lai lâu dài.

7
4.2. Đường cong sản lượng tiềm năng (đường giới hạn khả năng sản xuất -
PPF - Production Posibility Frontier)
* Khái niệm: "Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) phản ánh các
mức sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể đạt được khi sử dụng toàn bộ năng
lực sản xuất của quốc gia".
* Cách dựng: Giả sử chia hàng hoá ra làm hai nhóm
Ví dụ: Lấy hai loại hàng thông dụng là lúa và vải. Nếu sử dụng hết khả năng
sản xuất thì có thể tạo được mức sản lượng như sau:
Bảng 1.1: Những khả năng thay thế khác nhau
Phương án sản xuất
Vải Lúa
Lao động

Sản lượng

Lao động Sản lượng
A 0 0 5 300
B 1 5 4 280
C 2 9 3 240
D 3 12 2 180
E 4 14 1 100
F 5 15 0 0

Từ đó ta xây dựng được đường PPF (Production Posibility Frontier)












Đường PPF có dạng cong lồi ra ngoài so với gốc tọa độ. Hình dáng do quy
luật giảm dần quyết định.
Nếu như năng suất biên tăng dần thì đường PPF cong lõm vào gốc toạ độ.
Nếu như năng suất biên không đổi thì đường PPF là đường thẳng.
4.3. Chi phí cơ hội
Lúa

15

280
H
A
B
C
5
9

12


100
180
240
Vải
14
E
300
Đường PPF
F

8
Do các nguồn tài nguyên là hạn hẹp, nên xã hội hoặc từng con người luôn
phải lựa chọn xem sẽ tiến hành những hoạt động cụ thể gì trong số những hoạt
động có thể được tiến hành: đọc một cuốn sách hay đi xem phim, nghỉ hè hay đi
làm kiếm tiền,. . .
Khi một người quyết định làm một việc gì đó, tức là đã bỏ mất cơ hội để làm
các việc khác, và khả năng mất đi đó gọi là chi phí cơ hội.
4.4. Ý nghĩa của đường PPF
- Đường PPF mô tả mức sản xuất tối đa mà nền kinh tế có thể đạt được khi
sử dụng toàn bộ năng lực sẵn có.
- Nền kinh tế nằm bên trong đường PPF phản ánh còn có nguồn tài nguyên
không được dùng đến và ngược lại.
Theo thời gian, số lượng các yếu tố sản xuất và công nghệ có thể thay đổi,
nên bản thân đường giới hạn khả năng sản xuất cũng có thể dịch chuyển ra ngoài
hoặc vào trong.
- Nếu có sự di chuyển từ điểm này sang điểm khác trên PPF là việc chuyển
đổi cơ cấu kinh tế.
- Nếu đường PPF dịch chuyển ra phía ngoài thì có sự tăng trưởng KT.
 Từ ý nghĩa đó, với vai trò của mình, Nhà nước phải quan tâm giải quyết
việc:

- Bố trí sử dụng nguồn lực xã hội sao cho vừa bằng sản lượng tiềm năng,
không để cho điểm sản lượng nằm bên trong hay bên ngoài, mà phải nằm trên
đường cong đó.
- Vấn đề nâng cao khả năng sử dụng nguồn lực đó sao cho đẩy được chúng
về bên phải.
II. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA KINH TẾ
HỌC VĨ MÔ VÀ SỰ QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
1. Khái niệm và hệ thống các khoa học kinh tế
1.1. Khái niệm kinh tế học
Nếu tiếp cận một cách tổng quát, thì có hai khái niệm kinh tế học vĩ mô
tương đối đầy đủ sau:
“Kinh tế học là tổng thể các khoa học về cách tổ chức và xử lý các quan
hệ giữa người và người trong hoạt động kinh tế để sử dụng một cách tối ưu các
nguồn lực của xã hội, làm thỏa mãn tối đa những nhu cầu hiện tại và tương lai
của con người”
Hay “Kinh tế học (economics) là môn học nghiên cứu xem xã hội sử dụng
như thế nào nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra những hàng hoá cần
thiết và phân phối cho các thành viên của xã hội".

9
Tùy theo cách thức sử dụng mà kinh tế học được chia thành: Kinh tế học
thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc
* Kinh tế học thực chứng (Positive Economics)
Nhằm mô tả và giải thích những hiện tượng thực tế xảy ra trong nền kinh tế.
Nó trả lời câu hỏi: Thế nào? Tại sao?
Ví dụ: Tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp năm 2007 là bao nhiêu? Điều gì làm
cho thất nghiệp cao như vậy?
Vì sao giá thịt cá giảm trong khi giá thịt gà tăng.
Mục đích: Giải thích lý do vì sao nền kinh tế hoạt động như vậy? Dự đoán
phản ứng? Tác động thúc đẩy có lợi?

* Kinh tế học chuẩn tắc (Normative Economics)
Nhằm đưa ra quan điểm đánh giá hoặc lựa chọn cách thức giải quyết các vấn
đề kinh tế trong thực tế. Nó trả lời câu hỏi: Tốt hay xấu? Cần hay không? Nên thế
này hay thế kia,
Ví dụ: Chính phủ tăng kinh phí quốc phòng thì tốt hay xấu? Cần trả lương
cho kỹ sư bằng bao nhiêu công nhân,
Trong kinh tế học thực chứng, bạn hy vọng sẽ hành động như những nhà
khoa học khách quan, tương tự như những hành động khoa học khác. Còn trong
kinh tế học chuẩn tắc thì yếu tố khách quan đã bị bóp méo theo quan điểm cá nhân.
1.2. Hệ thống các khoa học kinh tế
1.2.1. Xét theo tầm khái quát chung
Kinh tế học được chia thành hai phân ngành lớn là kinh tế học vi mô và kinh
tế học vĩ mô.
* Kinh tế học vi mô ( Microeconomics)
“Nghiên cứu sự hoạt động của nền kinh tế bằng cách tách biệt
từng phần”.
Nó chủ yếu khảo sát hành vi ứng xử của các chủ thể riêng biệt như từng
doanh nghiệp, từng hộ gia đình trong từng loại thị trường khác nhau.
* Kinh tế học vĩ mô (Macroeconomics)
" Nghiên cứu sự hoạt động của nền kinh tế như một thể thống nhất".
- Nó cố ý làm đơn giản hoá nền kinh tế bỏ qua các tác động riêng biệt của
từng cá nhân trong thị trường;
- Nó chú ý đến sự tương tác tổng quát giữa các chủ thể trong việc quyết định
các vấn đề kinh tế.
10
Nó không đề cập đến thị trường lao động của những người thợ mộc hay
những vị Bác sĩ mà đề cập đến thị trường lao động nói chung, được quyết định bởi
tổng mức cung và tổng mức cầu của nền kinh tế.
Như vậy kinh tế vĩ mô chủ yếu giải quyết các cấu khối lớn như: mức sản
xuất, mức thất nghiệp,

* Mối quan hệ
- Kết quả phân tích vi mô là cơ sở để đi đến mô hình kinh tế vĩ mô;
- Tạo nên sự hoà nhập nhất định giữa vi mô và vĩ mô;
- Sự phân chia rành mạch giữa vi mô và vĩ mô ngày càng trở nên khó khăn,
ranh giới đó rất mong manh.
1.2.2. Xét theo lĩnh vực toàn bộ nền kinh tế: có kinh tế học của toàn bộ nền
KTQD, kinh tế học của từng ngành (kinh tế công nghiệp, nông nghiệp,
thương mại,…)
1.3. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế học
Kinh tế học áp dụng các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát (vì khi nghiên cứu cần phải thu thập số liệu).
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp trừu tượng hóa.
- Phương pháp thống kê.
2. Kinh tế học vĩ mô và đặc trưng của nó
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô
- Chỉ nghiên cứu mặt quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất.
Mục đích của mọi sự nghiên cứu nền SX xã hội đều nhằm tìm ra cách tốt
nhất để SX được nhiều của cải vật chất nhất, để SX xã hội có hiệu quả nhất. Bao
gồm 2 cách chính sau:
+ Cách tổ chức con người thành lực lượng tối ưu để tác động có hiệu lực
nhất vào đối tượng sản xuất là thế giới tự nhiên, phân công, hiệp tác,…
+ Cách sử dụng lực tự nhiên để tác động vào tự nhiên một cách có hiệu quả
nhất: sử dụng sức gió, nước,… vào thay sức người trong việc chế ngự thiên nhiên.
- Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu mặt tổ chức con người thành lực lượng tối
ưu để tác động vào giới tự nhiên nhưng chỉ nghiên cứu quan hệ này ở tầm vĩ mô.
- Từ giác độ đó, Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu các vấn đề cơ bản sau và
nghiên cứu mối quan hệ giữa các vấn đề đó:
+ Nghiên cứu cấu trúc tổng thể nền kinh tế, của lực lượng kinh tế toàn xã hội
có liên quan đến việc tạo ra kết quả cuối cùng mà xã hội mong muốn.

11
+ Nghiên cứu mục tiêu vĩ mô của hoạt động kinh tế (được hiểu là mục tiêu
toàn diện, toàn dân, toàn xã hội của hoạt động kinh tế).
+ Nghiên cứu những quy luật vận động của nền kinh tế quốc dân và kết cục
của các vận động đó như quy luật cung - cầu lao động, tiền tệ, về tích lũy hàng hóa
và dịch vụ,…
- Trên cơ sở các quy luật đó, kinh tế học vĩ mô tìm ra mối quan hệ cân đối ở
tầm vĩ mô cần bảo đảm cho sự vận động kinh tế đạt được các mục tiêu đã nêu.
- Đi sâu hơn nữa, có thể thấy, kinh tế học vĩ mô:
Chỉ ra đích của sự hoạt động của toàn bộ nền kinh tế và con đường cho toàn
bộ nền kinh tế đạt được đích đó. Cụ thể:
+ Là môn học đề cập đến các quy luật KT khách quan, mqh lợi ích và các
động thái kinh tế tổng thể của một xã hội.
+ Nghiên cứu các yếu tố cơ bản có tác động bao trùm gồm: giá cả, lãi suất, tỉ
giá hối đoái, môi trường kinh doanh,…
+ Nghiên cứu các hiện tượng kinh tế cơ bản như: chu kỳ kinh doanh, thất
nghiệp, lạm phát.
+ Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến sự phát triển lâu dài của cả xã hội
như: tích lũy - tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư, cán cân thanh toán,…
+ Các chính sách và công cụ kinh tế của CP tác động vào nền KTQD để đạt
được mục tiêu đề ra.
2.2. Đặc trưng của kinh tế học vĩ mô
- Một là, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu những con đường sử dụng tối đa hiệu
quả các nguồn lực kinh tế.
- Kinh tế học vĩ mô có tính giả định hợp lý
Đó là tính giản lược hợp lý của các nhân tố khi nghiên cứu các hiện tượng
kinh tế. Có nghĩa là chúng ta phân tích, lý giải một yếu tố nào đó, người ta thường
cố định những nhân tố khác. Nhưng sự giả định đó là chấp nhận được trên thực tế
(trong điều kiện không gian và thời gian xác định) và không làm sai lệch bản chất
của vấn đề đang nghiên cứu.

- Kinh tế học vĩ mô có tính định lượng
Trong nhiều trường hợp, nếu chỉ dừng lại ở các kết luận định tính thì việc
nghiên cứu không giúp gì cho cuộc sống. Việc định lượng kết quả trong nghiên
cứu kinh tế giúp chúng ta hiểu vấn đề một cách xác thực, rõ nét hơn về bản chất
của các diễn biến kinh tế, tìm ra các nguyên nhân một cách chính xác.

- Kinh tế học vĩ mô có tính hệ thống
Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu các vấn đề, các hoạt động kinh tế trong mối
liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với các vấn đề, các hoạt động thuộc mọi lĩnh vực
12
khác, diễn ra trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Kinh tế học vĩ mô không coi kết
quả nào là kết quả sinh ra từ một nguyên nhân, không có quyết định nào chỉ dựa
trên một thông số và yếu tố đầu vào.
- Kinh tế học vĩ mô có tính tương đối
Theo quan niệm tương đối của kinh tế học vĩ mô, mọi quy luật, xu hướng
của các động thái kinh tế chỉ mang tính phổ biến mà thôi. Bởi vì, không có quy luật
nào là triệt để, không có ngoại lệ. Và kinh tế học nghiên cứu dựa trên quy luật số
đông.
3. Kinh tế học vĩ mô và sự quản lý nhà nước về kinh tế
3.1. Vấn đề quản lí nhà nước về kinh tế
* Ưu, nhược điểm của kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm mà nền kinh tế chỉ huy không thể
đạt được như:
- Thị trường giúp cho từng DN sử dụng nguồn tài nguyên một cách có hiệu
quả, bởi vì mọi doanh nghiệp luôn tích cực tìm cách hạ thấp chi phí để gia tăng lợi
nhuận.
- Nhờ yếu tố cạnh tranh, họ tích cực cải tiến, đổi mới, nâng cao chất lượng
sản phẩm.
- Ngoài ra, thị trường cũng giúp cho nền kinh tế SX sản phẩm với số lượng
và cơ cấu phù hợp với yêu cầu của xã hội.

Rõ ràng cơ chế thị trường không phải là một cơ chế hỗn đôn. Thế nhưng thị
trường cũng không phải là một cơ chế hoàn hảo. Bên cạnh những ưu điểm trên, nó
có nhiều nhược điểm trong việc giải quyết 3 vấn đề cơ bản. Có thể kể đến những
nhược điểm chính sau:
- Tạo ra khoảng cách giàu nghèo. Tình trạng đó gọi là sự bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập.
- Tự động tạo nên các chu kỳ kinh doanh (business cycle), nếu có các yếu tố
làm hạn chế hiệu quả sẽ làm cho nền kinh tế tăng trưởng chậm.
- Có nhiều tác động ngoại vi (externalities) có hại, như việc thải khí độc,
tiếng ồn, nước nhiễm bẩn làm ô nhiễm môi trường; việc khai thác bừa bãi nguồn
tài nguyên,…
- Thiếu vốn đầu tư cho hàng công cộng (public). Phần lớn các loại hàng hoá
này khó hoặc không thể thu lợi, cho nên không kích thích các doanh nghiệp đầu tư.
- Tình trạng độc quyền trong kinh tế, điều đó là có hại vì nó không kích
thích cải tiến, đổi mới, vì nó sản xuất sản lượng ít và bán với giá cao, vì nó tăng
thêm chênh lệch trong phân phối thu nhập.
- Thông tin thị trường bị sai lệch và cạnh tranh không lành mạnh.
13
- Thị trường không dẫn dắt được sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát
triển.
- Ở các nước phát triển, một bộ phận lớn trong nông dân bị tách biệt một
phần ra khỏi thị trường hàng hoá - tiền tệ phong phú của cả nước.
Với các nhược điểm đó ta thấy rõ ràng thị trường không hoàn hảo. Vì vậy, cả lý
thuyết và thực tế đều khẳng định rằng sự can thiệp của nhà nước là cần thiết.
3.2. Ý nghĩa của kinh tế học vĩ mô đối với quản lý nhà nước về kinh tế
Từ kinh tế vĩ mô, những người làm công tác quản lý nhà nước về kinh tế có thể tìm thấy:
- Các vấn đề kinh tế vĩ mô mà bản thân các chủ thể của nền kinh tế không thể tự giải
quyết được, cần có sự can thiệp của nhà nước.
- Từ kinh tế học vĩ mô Nhà nước có thể tìm được các con đường, những cơ hội hiện tại
cũng như tiềm năng mà Nhà nước có thể sử dụng để can thiệp vào đời sống kinh tế.

- Cung cấp những quy luật vận hành của nền kinh tế thị trường, để giúp người quản lý
kinh tế vĩ mô có thể nắm vững để có thể điều khiển được sự vận động của nền kinh tế theo mục
đích đặt ra.
- Cung cấp các chính sách, công cụ mà nhà nước có thể sử dụng để điều tiết sự vận động
vĩ mô của nền kinh tế như chính sách tài khóa, tiền tệ, thu nhập, ngoại thương.
CHƯƠNG 2
CẤU TRÚC VĨ MÔ VÀ NHỮNG MỤC TIÊU CƠ BẢN
CỦA NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN

I. CẤU TRÚC VĨ MÔ CỦA NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Tiếp cận theo yếu tố cấu thành hoạt động kinh tế












Tiền tệ
Chi tiêu
và thuế
Các lực lượng
khác
Lao động
Vốn


Các yếu tố
đầu vào






Tổng
cầu
Tổng
cung
Sản lượng
GNP thực
Công ăn
việc làm và thất
nghiệp
Giá cả và
lạm phát
Tài nguyên
Hộp đen kinh tế vĩ mô
Các yếu tố
đầu ra
14


2. Tiếp cận theo các loại chủ thể hoạt động kinh tế
2.1. Khái niệm
Chủ thể hoạt động kinh tế chính là người mua và bán trên thị trường.

15
2.2. Các chủ thể kinh tế thị trường
Để phân tích một cách cụ thể hơn vai trò của các thể chế của hệ thống kinh tế hỗn
hợp, các nhà kinh tế đã chia tất cả các tác nhân trong nền kinh tế thành 4 nhóm, nhằm
giải thích hành vi và phương thức thực hiện các chức năng chủ yếu của từng nhóm,
đó là:
- Người tiêu dùng: Là tất cả các cá nhân và hộ gia đình, họ mua hàng hoá và dịch vụ
để thoả mãn những nhu cầu thực phẩm, quần áo, dịch vụ đi lại,…
- Các doanh nghiệp
- Người nước ngoài
- Chính phủ

2.3. Cơ hội can thiệp của Nhà nước vào nền KTQD qua chi tiêu của Chính phủ
a. Bằng tiêu dùng của Chính phủ, Nhà nước có thể hướng dẫn toàn xã hội
theo hướng tối ưu.
b. Bằng tiêu dùng của Chính phủ Nhà nước có thể điều tiết sản xuất xã hội
Chính phủ là một chủ thể kinh tế quan trọng, là người tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ
lớn của quốc gia. Ở hầu hết các nước, tỷ lệ chi tiêu của Chính phủ so với tổng sản lượng
có khuynh hướng tăng theo thời gian.
3. Tiếp cận theo một số giác độ khác
Theo các giác độ khác, cấu trúc vĩ mô của nền KTQD gồm các khâu, các ngành,
các bộ phận như sau:
a. Theo các khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng
Sản xuất - Lưu thông - Tiêu dùng
b. Theo các ngành cấu thành nền KTQD, gồm:
Công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải,…
c. Theo nguồn lực tạo nên của cải vật chất, có: tài nguyên, dự trữ quốc gia, kết cấu
hạ tầng, doanh nghiệp,…
II. NHỮNG MỤC TIÊU VĨ MÔ CỦA NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Có sự tăng trưởng bền vững

Tăng trưởng bền vững là sự tăng trưởng ổn định, liên tục.
Cơ sở của sự tăng trưởng ổn định là cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, là các
thành tựu tiến bộ chung khác của toàn xã hội, tạo nên một xã hội, được gọi là xã hội phát
triển.
Sự tăng trưởng kinh tế được đo bằng các chỉ tiêu sau đây:
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP - Gross National Product)
16
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product)
Sản phẩm quốc dân ròng (NNP - Net National Product)
Sản phẩm quốc nội ròng ( NDP - Net Domestic Product)
Thu nhập quốc dân ( Y - National Income)
Thu nhập khả dụng (YD - Dispossible Income)
Chúng được chia thành hai nhóm:
Nhóm 1: Theo lãnh thổ là GDP - NDP.
Nhóm 2: Theo quyền sở hữu là GNP - NNP - Y - YD.
1.1. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
1.1.1. Khái niệm
"GNP là chỉ tiêu phản ánh giá trị bằng tiền của toàn bộ sản phẩm cuối cùng do
công dân một nước SX ra trong khoảng thời gian nhất định, thường là 1 năm".
Sản phẩm trung gian là những loại sản phẩm được dùng làm đầu vào cho sản
phẩm khác và chỉ sử dụng một lần trong quá trình sản xuất.
Sản phẩm cuối cùng là những loại sản phẩm còn lại ngoài sản phẩm trung gian.
Xét về công dụng, những sản phẩm này dùng để đáp ứng nhu cầu cuối cùng của nền kinh
tế, đó là nhu cầu tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu.
Mỗi loại sản phẩm đều có thể đóng vai trò là sản phẩm trung gian hoặc sản phẩm
cuối cùng tuỳ theo mục đích sử dụng của con người. Chẳng hạn, khi dùng cá tươi,
điện,… để làm thành cá đóng hộp thì phần cá, và điện đó là sản phẩm trung gian. Nhưng
nếu cá tươi và điện được dùng để nấu ăn hoặc để xuất khẩu thì phần cá và điện này lại là
sản phẩm cuối cùng của nền kinh tế.
Giá trị sản phẩm cuối cùng:Tổng giá trị sản phẩm hàng hóa và dịch vụ sản xuất

ra được gọi là tổng xuất lượng (Gross Output)
Do giá cả là một thước đo co dãn. Lạm phát thường xuyên đưa mức giá chung lên
cao. Do vậy, GNP tính bằng tiền có thể tăng nhanh chóng khi giá trị thực của tổng sản
phẩm tính bằng hiện vật có thể không tăng hoặc tăng rất ít.
Để khắc phục nhược điểm này, các nhà kinh tế thường sử dụng cặp khái niệm:
- GNP danh nghĩa ( GNP
n
), đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong
một thời kỳ, theo giá cả hiện hành, tức là giá cả của cùng thời kỳ đó.
- GNP thực tế (GNP
r
), đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất trong một thời
kỳ, theo giá cố định ở một thời kỳ được lấy làm gốc.
Cầu nối giữa GNP
n
và GNP
r
là chỉ số giá cả, còn gọi là chỉ số lạm phát (D) tính
theo GNP.



D

=
GNP
n

GNP
r


x100
Hay GNPr

=
GNPn
D
17
Chỉ tiêu GNPn và GNPr thường được dùng cho các mục tiêu phân tích khác nhau.
Chẳng hạn, khi muốn nghiên cứu mối quan hệ tài chính, ngân hàng, người ta thường
dùng GNPn; khi cần phân tích tốc độ tăng trưởng kinh tế người ta thường dùng GNPr.
1.1.2. Cách tính GNP
GNP có mối quan hệ chặt chẽ với GDP, vì vậy muốn tính GNP phải tính được
GDP.
1.2. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
1.2.1. Khái niệm
"GDP là chỉ tiêu phản ánh giá trị bằng tiền của toàn bộ sản phẩm cuối cùng
được SX ra trên lãnh thổ một nước tính trong khoảng thời gian nhất định, thường là 1
năm".

Lãnh thổ một nước: GDP thể hiện mức SX đạt được do tất cả đơn vị thường
trú ở một nước không phân biệt quốc tịch.
1.2.2. Phương pháp tính GDP
Mục đích: Tìm cách tính GDP theo mức giá của từng năm, và trong mức giá đó có cả
thuế gián thu mà các doanh nghiệp đã cộng và giá bán sản phẩm.
a. Các khái niệm cơ bản
- Khấu hao (De): Là khoản tiền dùng để bù đắp giá trị hao mòn của TSCĐ. TSCĐ
: Là những loại tài sản có giá trị lớn (>10 triệu VND), được sử dụng trong thời gian dài
(tức sử dụng được nhiều lần).
- Đầu tư (I) : Là lượng tiền mua sắm tư bản mới, gồm: đầu tư cố định vào kinh

doanh, đầu tư cố định vào nhà ở và đầu tư vào hàng tồn kho (như máy móc, thiết bị,
nhà xưởng,… cộng với chênh lệch tồn kho):
Chênh lệch tồn kho = tồn kho cuối năm - tồn kho đầu năm
(Hàng tồn kho hay hàng dự trữ là những hàng hóa hiện được giữ lại để sản xuất
hay tiêu thụ sau này)
- Tiêu dùng(C): Là lượng tiền mà hộ gia đình dùng để mua hàng tiêu dùng (quần
áo, thực phẩm,…).
C được chia thành 3 bộ phận chủ yếu: hàng mau hỏng (như quần áo, thực
phẩm, ), hàng lâu bền (ô tô, ti vi, ) và dịch vụ (cắt tóc, khám bệnh, ).
- Tiết kiệm(S): Là phần còn lại của thu nhập khả dụng sau khi tiêu dùng.
- Thuế (TA): Là nguồn thu quan trọng nhất của Chính phủ. Thuế có hai loại: Trực
thu và gián thu.
+ Thuế trực thu (Td): trực tiếp đánh vào thu nhập của các thành phần
dân cư.
18
Các loại thuế trực thu phổ biến là thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh
nghiệp (thuế lợi tức) đánh vào lợi nhuận của các doanh nghiệp, thuế di sản hay thuế
thường để đánh vào tài sản thừa hưởng được do người chết để lại, “thuế cộng đồng”
(community charge) đánh vào người dân sống tại 1 địa phương, dùng để chi tiêu cho các
công trình công cộng.
+ Thuế gián thu (T
e
): Gián tiếp đánh vào thu nhập, người mua hàng là người chịu
thuế.
- Chi tiêu của Chính phủ: Bao gồm chi mua hàng hóa dịch vụ (G) và chi chuyển
nhượng(TR).
+ Chi mua hàng hóa và dịch vụ của CP là những khoản chi tiêu của Chính phủ
được đáp ứng lại bằng một lượng hàng hóa hay dịch vụ nào đó. Thường gồm 2 loại chi
cho tiêu dùng (Cg), chi cho đầu tư (Ig)
+ Chi chuyển nhượng: là những khoản chi tiêu của Chính phủ không đòi hỏi bất

cứ lượng hàng hóa hay dịch vụ nào đối lưu trở lại.
Chi chuyển nhượng là các khoản Chính phủ dùng để trả lương hưu, trợ cấp thất
nghiệp, trợ cấp thương binh và gia đình liệt sĩ, trợ cấp học bổng cho sinh viên, trợ cấp
người nghèo, bù lỗ cho các doanh nghiệp quốc doanh,…
- Xuất khẩu (X): Là lượng tiền thu được do bán hàng hóa và dịch vụ ra nước
ngoài.
- Nhập khẩu (IM): Là lượng tiền dùng để mua hàng hóa và dịch vụ từ nước ngoài.
Tổng giá trị xuất nhập khẩu gọi là tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
- Tiền lương(W): Là lượng thu nhập nhận được do cung cấp sức lao động.
- Tiền thuê (r): Là khoản thu nhập có được do cho thuê đất đai nhà cửa và các loại
tài sản khác.
Thực chất gồm hai phần: Khấu hao tài sản cho thuê và phần lợi tức của chủ sở
hữu tài sản. Tuy nhiên, người ta gộp cả lại vì tách hai phần này rất phức tạp.
- Tiền lãi (i): Là thu nhập nhận được do cho vay tính theo một mức lãi suất nhất
định.
- Lợi nhuận (P -

): Là khoản thu nhập còn lại sau khi trừ đi chi phí.
b. Dòng chu chuyển kinh tế








Thu nhập từ dịch vụ và yếu tố sản xuất
cung hàng hóa, dịch vụ
Cung dịch vụ, yếu tố sản xuất

DNgh
hi

p

Hộ GĐ
Thu nhập từ việc cung hàng hóa, dịch vụ
19
Trong đó:
* Dòng giá trị hàng hóa và dịch vụ
Giá trị gia tăng (VA): Là lượng gia tăng trong giá trị của hàng hoá do kết quả của
quá trình sản xuất.
VA = Giá trị sản lượng của DN - Giá trị sản phẩm trung gian
VA bao gồm: Khấu hao (De), tiền lương (W), tiền thuê (r), tiền lãi (i), thuế gián
thu (Te) và lợi nhuận ( ).
* Dòng chi tiêu
- Chi mua hàng hóa và dịch vụ của hộ gia đình(C), trả cho các doanh nghiệp.
- Chi đầu tư của Doanh nghiệp (I): gồm khấu hao(De), đầu tư ròng (In).
- Chi mua của Chính phủ (G): gồm chi cho tiêu dùng(Cg) và chi cho đầu tư (Ig),
không bao gồm các khoản chi chuyển nhượng (TR).
- Chi tiêu của nước ngoài mua hàng hóa sản xuất trong nước (X); chi phí của
người trong nước mua hàng hóa của người nước ngoài (IM).
Tổng chi tiêu = C + I + G + X- IM
* Dòng thu nhập









Tổng thu nhập = r + W + i + P + De + Te
c. Phương pháp tính GDP
Từ dòng chu chuyển gợi cho ta 3 cách tính khối lượng hoạt động kinh tế, có thể
tính theo:
(1) Giá trị của các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra (GTGT)
(2) Mức thu nhập từ các yếu tố sản xuất (lưồng phân phối hay thu nhập)
(3) Giá trị của khoản chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ (Luồng chi tiêu hoặc luồng
sản phẩm).
Theo định nghĩa về GDP và lý luận trên, ta có:
* GDP theo phương pháp sản xuất hay giá trị gia tăng
GDP =  VA
i

Với VA
i
là suất lượng của DN
i
- Chi phí trung gian DN
i
.
* Phương pháp phân phối hay theo luồng thu nhập
Thu nh

p c

a CP

Doanh nghiệp

Doanh thu

Chính phủ
Nộp thuế
gián thu(Te)
Thu nh

p DN

Chi tr


cho vi

c s


d

ng
ngu

n l

c ph

c v


SX


Hộ gia đình
Thu nh

p cho h


TSCĐ
Chi bù đắp hao mòn
tài sản(De)
Được giữ lại DN
20
GDP = r + W + i + P + De + Te
* Tính theo phương pháp chi tiêu hay luồng sản phẩm
GDP = C + I + G + X- I M
Tóm lại:
- Cả ba phương pháp phải cho cùng một kết quả.
- Nếu kết quả khác nhau là do dữ liệu thu thập không chính xác.
- Một số khó khăn khi tính GDP ở Việt Nam.
+ Một là, hiện tượng trốn thuế - khai báo giảm về kết quả sản xuất.
+ Hai là, Doanh nghiệp quá nhỏ không có hệ thống sổ sách.
+ Ba là, phải ước tính sản phẩm tự cung cấp nên rất khó chính xác.
+ Bốn là, phương pháp thu thập số liệu không tốt và cán bộ thống kê không làm
hết trách nhiệm,
d. Ý nghĩa của các chỉ tiêu GDP , GNP, mối quan hệ giữa chúng và cách tính GNP
từ GDP
* Ý nghĩa
GDP nói lên hiện thực kinh tế trên lãnh thổ quốc gia, chưa nói đến chủ thể của
hiện thực đó. Qua GDP người ta biết được trên một quốc gia nào đó, thực lực kinh tế có
được bao nhiêu.

Trái lại, GNP nói lên thực thu kinh tế của một nước, khả năng thật về kinh tế của
công dân nước đó, bởi vì GDP không bao gồm kết quả của hoạt động của công dân nước
sở tại tiến hành ở nước ngoài.
Nếu GDP > GNP, có nghĩa là vai trò quốc tế về kinh tế của nước nhà không cao so
với vai trò kinh tế quốc tế tại nước nhà (sức mạnh kinh tế của nước nhà còn yếu).
Nếu GDP < GNP thì ngược lại.

Mối quan hệ GDP và GNP:
GNP = GDP + là thu nhập ròng từ nước ngoài
Thu nhập ròng từ nước ngoài = Thu nhập từ các yếu tố XK - Thu nhập từ các yếu tố
nhập khẩu


Vì GNP bao gồm GDP và phần chênh lệch về tài sản từ nước ngoài nên GNP
bình quân đầu người là thước đo tốt hơn về số lượng hàng hóa và dịch vụ mà mỗi người
dân của một nước có thể mua được. Còn GDP bình quân đầu người là thước đo tốt hơn
về số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra tính bình quân cho một người dân.
Điều này giải thích vì sao các thống kê của NHTG thường đưa ra các ước tính về GNP,
trong khi các nước tính bình quân đầu người lại dùng GDP.
1.3. Từ tổng sản phẩm quốc dân đến sản phẩm quốc dân ròng (NNP)
- Sản phẩm quốc dân ròng (NNP - Net National Product): Phản ánh phần giá trị
mới sáng tạo, do công dân một nước sản xuất ra.
21
NNP = GNP - De
Giá trị mới sáng tạo là phần giá trị mới được tạo ra trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Nó không kể đến giá trị sản phẩm trung gian và KH TSCĐ được chuyển dịch vào giá
trị sản phẩm, vì phần này được tạo ra từ giai đoạn sản xuất trước đó (Trong hệ thống
tài khoản thu nhập quốc dân, khấu hao được gọi là tiêu hao tư bản cố định (xấp xỉ
10%GNP), vì khấu hao tư bản là chi phí để sản xuất sản phẩm cho nền kinh tế. Do đó,
một số nhà kinh tế cho rằng NNP là chỉ tiêu tốt hơn để phản ánh phúc lợi kinh tế).

1.4. Thu nhập quốc dân (Y)
- Thu nhập quốc dân(Y):
Phản ánh mức thu nhập mà công dân một nước tạo ra, không kể phần tham gia của
Chính phủ (chủ yếu dưới dạng thuế gián thu, chiếm khoảng 10%NNP, phần này tạo ra sự
chênh lệch giữa giá người tiêu dùng trả cho hàng hóa và giá mà doanh nghiệp nhận được.
Vì DN không bao giờ nhận được phần chênh lệch về thuế này, nên nó không phải là thu
nhập của DN, vì vậy sau khi đã trừ T
e
khỏi NNP ta thu được Y)
Y = NNP
mp
- T
e
= GNP - De - Te
Một số nhà kinh tế cho rằng thuế gián thu (Te) chỉ có tác dụng làm tăng giá sản
phẩm. Có khi thu nhập tạo ra là không đổi nhưng do CP tăng thuế làm cho giá TT tăng và
do đó làm tăng NNP theo giá thị trường. Vì vậy, chỉ tiêu NNP theo giá TT không phản
ánh đúng đắn thu nhập do công dân một nước tạo ra. Từ đó hình thành chỉ tiêu “Thu nhập
quốc dân Y”. Y cho biết mọi người trong nền KTQD kiếm được bao nhiêu thu nhập.


1.5. Thu nhập khả dụng (YD)
Là thu nhập cuối cùng mà dân chúng có toàn quyền sử dụng theo ý thích cá nhân.
YD = Y - Td + TR
1.6. Tốc độ tăng trưởng cao và ổn định
Tốc độ tăng trưởng là % tăng GDP hoặc GNP hàng năm. Tốc độ đó được đánh giá
trong sự so sánh với:
- Tiềm năng kinh tế của đất nước.
- Tốc độ tăng dân số: Nếu tiềm năng lớn, tốc độ tăng dân số cao thì tốc độ tăng
trưởng phải cao.

- Cách tính các chỉ tiêu về tốc độ tăng:
Tốc độ tăng hàng năm phản ánh % thay đổi của sản lượng năm sau so với năm
trước.
Chỉ tiêu năm (t) - chỉ tiêu năm (t-1)
Chỉ tiêu năm (t-1)
x100
Vt =

22



Trong đó: Vt là tốc độ tăng của một chỉ tiêu nào đó năm t.
- Tốc độ tăng bình quân:
Phản ánh % thay đổi sản lượng ở năm sau so với năm trước, tính trung bình cho
một giai đoạn nhiều năm.




2. Sự tăng trưởng của nền kinh tế dựa trên cơ sở giải quyết tốt các vấn đề kinh tế,
khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Để có được cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững, trên tầm vĩ mô, nền kinh tế còn
phải phấn đấu đạt được các mục tiêu về công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế, thể
hiện trên các mặt sau đây:
- Trình độ tập trung hóa lực lượng sản xuất một cách tối ưu.
- Trình độ chuyên môn hóa và các hình thức thống nhất mối liên hệ sản xuất liên
ngành một cách có hiệu lực nhất.
- Trình độ phân bố lực lượng sản xuất theo lãnh thổ hợp lý nhất.
- Tạo dựng được cơ sở nguyên liệu hùng hậu hoặc thiết lập được quan hệ quốc tế

vững mạnh nhằm giải quyết chủ động vấn đề nguyên liệu.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, trình độ cơ khí hóa, tự động hóa cao,…
- Xây dựng được kết cấu hạ tầng hùng hậu cho sản xuất và cho đời sống.
3. Ổn định kinh tế - xã hội
3.1. Giải quyết tốt vấn đề việc làm
Thể hiện ở:
- Tỷ lệ người thất nghiệp thấp nhất (gần xấp xỉ với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên), thể
hiện khả năng lớn trong việc giải quyết việc làm của xã hội.
- Hệ số sử dụng quỹ thời gian lao động trong năm cao nhất so với tổng quỹ cần sử
dụng.
- Sự chênh lệch về hệ số sử dụng quỹ thời gian lao động của các loại lao động xã
hội không lớn.
- Tạo được điều kiện làm việc tốt.
3.2. Thực hiện được sự phân phối công bằng
Phân phối công bằng thể hiện ở các mặt sau đây
Ch


tiêu n
ă
m cu

i

Ch


tiêu



n
ă
m
đ

u

1
x100
V =
(
n
-
1
)

23
- Phân phối lợi nhuận công ty giữa các cổ đông
- Phân phối thu nhập tập thể giữa các thành viên cùng lao động.
- Phân phối thu nhập giữa chủ và thợ trong các quan hệ lao động làm thuê.
- Phân phối lợi ích giữa người sử dụng công sản với chủ nhân công sản đó là toàn
xã hội, nhà nước là đại diện.
- Phân phối cơ hội làm kinh tế giữa mọi thành viên trong xã hội.
3.3. Góp phần đáng kể cho phúc lợi xã hội
4. Giải quyết tốt vấn đề giá cả
- Sự hợp lý về tỷ giá giữa các loại sản phẩm, dịch vụ.
- Sự bình ổn vật giá
- Sự ổn định tỷ giá hối đoái.
- Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
III. SỰ CẦN THIẾT CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC BẢO ĐẢM CÁC MỤC

TIÊU TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
Để đạt được các mục tiêu trên, cần có nhà nước vì:
1. Mâu thuẫn giữa tính toàn diện của mục tiêu vĩ mô với tính phiến diện của mục
tiêu vi mô
- Tính toàn diện của mục tiêu vĩ mô thể hiện ở chỗ, kết quả đạt được trên giác độ
toàn xã hội phải là kết quả cuối cùng, thực sự có giá trị sử dụng. Còn đối với doanh
nghiệp, họ chỉ cần bán được sản phẩm và có lợi nhuận là đạt được mục đích kinh doanh.
Tuy nhiên trên giác độ toàn bộ nền KTQD, kết quả mỗi doanh nghiệp chỉ là bán thành
phẩm không cấu thành GDP.
- Mục tiêu vĩ mô còn thể hiện ở chỗ, mục tiêu vĩ mô không chỉ là mục tiêu kinh tế
mà còn là mục tiêu xã hội, trong khi đó, các doanh nhân theo đuổi mục tiêu vi mô chỉ
quan tâm đến hiệu quả kinh tế mà thôi.
2. Mâu thuẫn giữa tính toàn xã hội của mục tiêu vĩ mô với tính cá nhân của mục tiêu
kinh tế vi mô
Đó là mâu thuẫn giữa một bên là doanh nhân chạy theo lợi ích cá nhân, bóc lột tài
nguyên, với một bên là nhà nước luôn đứng về phía lợi ích quốc gia, tìm mọi cách bảo vệ
và phát triển nguồn lợi.
3. Mâu thuẫn giữa tính lâu dài của mục tiêu vĩ mô với tính hiện hữu của mục tiêu vi

CHƯƠNG 3
TỔNG CUNG - TỔNG CẦU
24

I. CUNG VÀ TỔNG CUNG
1. Khái niệm
Cung là số lượng hàng hoá mà người bán sẵn sàng cung ứng với các mức
giá khác nhau.
Tổng cung là tổng khối lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cuối cùng của
nền sản xuất xã hội cung cấp cho xã hội đó trong một thời gian nhất định (ký
hiệu là AS).

Tổng cung liên quan đến sản lượng tiềm năng (Qp - Potential Output), “Sản
lượng tiềm năng (potential output) là mức sản lượng đạt được trong khi nền
kinh tế tồn tại một mức thất nghiệp bằng với "thất nghiệp tự nhiên".
Hay sản lượng tiềm năng là mức sản lượng mà nền kinh tế sẽ sản xuất
được nếu tất cả các yếu tố sản xuất được sử dụng hết.
Thất nghiệp tự nhiên (Natural Unemployment) bao gồm thất nghiệp cơ học và
thất nghiệp cơ cấu.
2. Các loại tổng cung
2.1. Xét theo tính hiện thực
- Tổng cung khả năng (tiềm năng): đó là khả năng cung ứng tối đa của nền
sản xuất xã hội.
- Tổng cung thực tế: Là cung đã hoặc sẽ xuất hiện do nhu cầu thực tế của thị
trường.
Thông thường AS
r
thường nhỏ hơn AS
p
.
2.2. Xét theo tính sẵn sàng của tổng cung
- Tổng cung trong ngắn hạn (AS
SR
): Đó là toàn bộ công suất thiết kế của nền
sản xuất xã hội.
- Tổng cung dài hạn (AS
LR
- LAS): đó là cung chưa sẵn sàng, nhiều yếu tố
cấu thành cung chỉ mới ở dạng các yếu tố riêng rẽ.
Tổng cung dài hạn là đường thẳng song song với trục tung và cắt trục hoành
ở mức sản lượng tiềm năng. (trên đồ thị là đường LAS).
Về mặt dài hạn, chi phí đầu vào đã điều chỉnh thì các doanh nghiệp không

còn động lực để tăng sản lượng. Giá cả sẽ tăng lên nhanh chóng để đáp ứng với sự
thay đổi của tổng cầu. Hay nói cách khác, trong thời gian dài, mức sản lượng bị
quy định (điểu chỉnh) bởi khối lượng tư bản, lao động và công nghệ hiện có. Như
vậy, nó không phụ thuộc vào mức giá  do đó đường LAS là đường thẳng đứng.
25
2.3. Xét theo tính khả thi của AS
- Tổng cung chủ quan: đó là tổng cung mong muốn của các doanh nhân, nó
luôn có xu hướng vươn tới AS tiềm năng.
- AS khả thi (hiện thực): đó là cung có thể được thị trường bao tiêu hết.
- AS hiệu quả: Đó là AS mà doanh nhân có lợi nhất nếu thực hiện.
3. Các yếu tố cấu thành AS
Đó là các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Điều đó khác với cơ cấu của
cung. Bao gồm 4 yếu tố: tài nguyên, lao động, vốn, tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Tài nguyên:
Không có tài nguyên sẽ không có cung, tài nguyên bao gồm nhiều loại, trong đó
có đất đai là tài nguyên quan trọng nhất.
- Lao động:
Đây là nhân tố quan trọng nhất và có ý nghĩa quyết định nhất. Tổng cung tăng
lên hoặc giảm xuống là do sự thay đổi về số lượng và chất lượng của lực lượng
lao động.
- Vốn:
Bao gồm vốn vật chất, vốn nhân lực và tiền tệ, ở đây đề cập chủ yếu đến vốn
vật chất như máy móc, thiết bị, và các sức tự nhiên bị con người chinh phục,
tham gia cùng con người trong quá trình khai thác và chế biến tài nguyên.
- Tiến bộ kỹ thuật: đây là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến mức tăng tổng cung.
4. Cấu trúc của tổng cung
AS gồm hai phần là cung trong nước và cung cho nước ngoài.
Cung trong nước là phần đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước. Đó chính
là phần còn lại của GDP sau khi trừ đi phần xuất khẩu và phần sản phẩm không
thể phân phối được (bộ phận này gồm bộ phận tăng trưởng tự nhiên của ngành

lâm nghiệp, chăn nuôi trong GDP).
Cung cho nước ngoài là tổng giá trị xuất khẩu tính theo thống kê của Hải
quan.




Tổng
cung
xã hội
Cung
trong
nước
Cung
nước
ngoài
Tổng giá trị SX
trong nước (trừ bộ
phận không thể
phân phối được)
Tổng giá trị
xuất khẩu
= +
+
=

×