Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Vấn đề bản thể luận trong Triết học Hy Lạp cổ đại. Những đóng góp và hạn chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.24 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Triết học là một môn khoa học chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và hiện tượng của
tự nhiên và xã hội, nhằm tìm ra quy luật của các đối tượng nghiên cứu. Mục đích của
triết học là giải quyết các vấn đề cơ bản của bản thể luận và nhận thức luận. Triết học
Hy Lạp cổ đại là một thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học nhân loại với nhiều thành
công rực rỡ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công rực rỡ triết học Hy Lạp cổ đại vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế. Do đó, để có cái nhìn tổng qt hơn về vấn đề bản thể luận
nói chung cũng như đánh giá các mặt tích cực và hạn chế của bản thể luận trong triết
học duy vật Hy Lạp cổ đại nói riêng, em xin chọn đề tài “Vấn đề bản thể luận trong
Triết học Hy Lạp cổ đại. Những đóng góp và hạn chế”.

NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢN THỂ LUẬN VÀ VẤN ĐỀ BẢN
THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Khái niệm bản thể luận
Thuật ngữ bản thể luận có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nó là sự kết hợp giữa hai từ on
(ỹv) - “cái thực tồn”, cái đang tồn tại và logos (ởỹóùũ) - lời lẽ, học thuyết, tạo thành
“học thuyết về tồn tại”. Theo nghĩa này, bản thể luận được hiểu là học thuyết triết học
về thực tồn nói chung, hồn tồn độc lập với các dạng tồn tại cụ thể của nó. Trước đây,
bản thể luận chưa được sử dụng với tư cách là một khái niệm mà mới chỉ xuất hiện
những tư tưởng về nó; chỉ đến thế kỷ XVII, thuật ngữ này mới chính thức xuất hiện và
1
1


đưa ra những cách hiểu đặc thù về nó. Thuật ngữ “bản thể luận” xuất hiện lần đầu tiên
trong tác phẩm Bách khoa thư triết học của triết gia R.Goclenius được xuất bản năm
1613. Thuật ngữ này được phổ biến rộng rãi trong triết học sau khi C. C.Wolff sử dụng
nó để chỉ một bộ phận căn bản của siêu hình học, bên cạnh vũ trụ luận, tâm lý học và


thần học. Tuy nhiên tư tưởng về bản thể luận đã xuất hiện và được quan niệm từ thời
kì Hy Lạp cổ đại với thuật ngữ “tồn tại”. Khái niệm “tồn tại” lần đầu tiên được triết gia
Pácmênít bàn tới. Ông cho rằng, bản chất của mọi sự vật trong thế giới là tồn tại,
khơng thể có cái khơng tồn tại, bởi chúng ta khơng thể hình dung được cái khơng tồn
tại là cái gì. Tồn tại là cái chỉ có thể nhận thức được bằng lý tính. Mọi tư duy bao giờ
cũng là tư duy về tồn tại. Tư duy, do vậy, đồng nhất với tồn tại. Bản thể luận trong triết
học có thể hiểu là những quan niệm về nguồn gốc của thế giới mà loài người và các
sinh vật khác đang sinh sống.
2. Hoàn cảnh ra đời và những đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại
a) Điều kiện kinh tế, văn hóa – xã hội của Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một lãnh thổ rộng lớn bao gồm khu vực miền Nam bán đảo Ban-căng
(thuộc Châu Âu), nhiều hòn đảo nằm trên biển Êgiê và cả một vùng rộng lớn ở ven
biển bán đảo Tiểu Á. Yếu tố địa lý tự nhiên này đã tạo điều kiện cơ bản để nền nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại phát triển từ rất sớm, ngồi ra
Hy lạp cổ đại cịn là đầu mối giao thông đường biển quan trọng và thuận lợi với các
nước khác trên thế giới. Khí hậu ở Hy Lạp quanh năm ấm áp thuận lợi cho du lịch và
phát triển kinh tế.
Các ngành về khoa học như toán học, vật lý học, thiên văn học trong xã hội Hy Lạp cổ
đại phát triển mạnh mẽ gắn liền với tên tuổi các nhà khoa học nổi tiếng như: Talet,
Pitago, Ơclit, Ácximet…
Xã hội chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp xuất hiện vào thế kỷ X TCN và phát triển mạnh vào
thế kỷ VIII TCN. Đến thế kỷ thứ III sau CN, Athen trở thành trung tâm kinh tế của Hy
Lạp cổ đại và của Châu Âu với sự phát triển của thương nghiệp, thủ công nghiệp và
nông nghiệp.

2
2


Nhiều cơng trình nghệ thuật, điêu khắc, hội họa, văn học ( thần thoại Hy Lạp) phát

triển đạt trình độ cao, đã biến Athen trở thành trung tâm văn hóa của Hy Lạp cổ đại và
cái nôi của triết học Châu Âu.
b) Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao của nền văn minh cổ đại và là một trong
những điểm xuất phát của lịch sử triết học thế giới. Nền triết học này có những đặc
điểm sau :
Một là, triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận
của giai cấp chủ nơ thống trị. Nó là cơng cụ lý luận để giai cấp chủ nơ duy trì trật tự xã
hội, củng cố vai trò thống trị xã hội.
Hai là, trong triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào
lưu, trường phái duy vật – duy tâm, biện chứng siêu hình, vơ thần – hữu thần. Trong
đó điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của Đêmơcrít và trào lưu duy tâm
của Planton, giữa trường phái siêu hình của Pácmênít và trường phái biện chứng của
Hêraclít,...
Ba là, triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi
hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một
hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Do trình độ tư
duy lý luận cịn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự
nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà chỉ mới nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể, để
có cái nhìn tổng qt về thế giới. Vì vậy, các nhà triết học còn đồng thời còn là các nhà
khoa học tự nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên, để rút ra những kết
luận triết học.
Bốn là, triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác. Các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện,
để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý. Họ đã phát hiện ra nhiều
yếu tố của phép biện chứng, nhưng chưa trình bày thành hệ thống lý luận chặt chẽ.
Năm là, triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại
đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con người, tìm cách lý giải về vấn đề quan hệ
giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội. Mặc dù cịn nhiều
3

3


bất đồng, song nhìn chung, các triết gia Hy Lạp đều khẳng định con người là tinh hoa
cao quý nhất của tạo hóa.

II. QUAN NIỆM VỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC HY
LẠP CỔ ĐẠI – NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ
1 Bản thể luận trong triết học của trường phái Milê
Trường phái Milê là trường phái của các nhà triết học ở Milê - một địa danh thuộc
vùng Iônia, gồm một số nhà triết học tiêu biểu như Talét, Anaximan, Anaximen. Là
những người thể hiện quan điểm của các tầng lớp tiến bộ trong giai cấp chủ nô, họ có
nhiều tư tưởng khác với các quan niệm thần thoại và tơn giáo ngun thủy thống trị
hồi đó. Họ tìm cách lý giải các vấn đề về bản chất và khởi nguyên của thế giới dựa
trên một số các tri thức khoa học sơ khai có được thời đó, coi toàn bộ thế giới chúng ta
như một chỉnh thể thống nhất, sinh ra từ một khởi nguyên duy nhất.
Nhìn chung các nhà triết học trường phái Mile có nhiều quan niệm duy vật sơ khai
nhưng chất phác. Họ coi thế giới như một chỉnh thể thống nhất và tìm cách giải thích
bản chất và nguồn gốc của chỉnh thể đó trong một dạng vật chất cụ thể, coi thế giới
như sự thống nhất của các sự vật muôn màu muôn vẻ. Mặc dù còn ngây thơ, nhưng
những quan niệm của họ đặt nền móng cho sự phát triển các tư tưởng duy vật trong
triết học sau này.
a Quan niệm của Talet
Người sáng lập trường phái Milê là nhà toán học, nhà thiên văn, nhà triết học đầu tiên
của Hy Lạp cổ đại Talet (khoảng 624 - 547 TCN). Talet cho rằng, nguồn gốc của thế
giới chúng ta là nước. Nước là bản chất chung của tất thảy mọi vật, mọi hiện tượng
trong thế giới. Mọi cái trên thế gian đều sinh ra từ nước và khi bị phân hủy lại biến
thành nước. Nước tồn tại vĩnh viễn còn mọi vật do nó tạo nên thì khơng ngừng biến
đổi, sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại tựa như
một vịng tuần hồn biến đổi không ngừng mà nước là nền tảng của vịng tuần hồn

đó.
Đóng góp: Quan niệm của ơng tuy cịn thơ mạc, nhưng đã có ý nghĩa vơ thần, chống
lại thế giới quan tôn giáo đương thời và chứa đựng những yếu tố biện chứng tự phát.
4
4


Hạn chế: Tuy nhiên, bên cạnh những quan niệm mang tính duy vật sơ khai, thế giới
quan của Talet cịn ít nhiều chịu ảnh hưởng của các quan niệm thần thoại và tôn giáo
nguyên thủy khi ông cho rằng thế giới chúng ta đầy rẫy các vị thần linh. Ông khơng lý
giải được hiện tượng từ tính của nam châm và hổ phách, ơng khẳng định chúng có linh
hồn. Các vị thần linh, trong ý tưởng của ông, là những lực lượng hoạt động trong thế
giới làm cho mọi sự vật có thể vận động được và biến đổi được. Tiếp cận với quan
điểm nhất nguyên trong nhận thức, Talet cho rằng phải quy toàn bộ các tri thức về một
nền tảng duy nhất của chúng. Từ đó, đặc tính vật lý của nước được nâng lên cấp độ
thần linh. Thế giới chứa đầy thần linh. Nước và tất cả những gì phát sinh từ nước đều
có linh hồn, có thần tính.
c) Quan niệm của Anaximandre
Anaximandre (khoảng 610 đến 546 TCN) là học trò và người kế tục Talet. Khác với
Talet, Anaximandre cho rằng, bản ngun bây giờ khơng cịn là nước, mà là cái có ý
nghĩa phổ quát hơn. Theo Anaximandre, để truy tìm bản nguyên sâu xa nhất, ngun
nhân của các ngun nhân, thì khơng thể dừng lại ở những hành chất cụ thể được.
Nước, hay một cái gì khác cụ thể, khơng phải là ngun nhân, mà là kết quả của một
quá trình sinh thành trong vũ trụ. Cái xác định là kết quả của những gì chưa xác định
mà thành. Nó vơ cùng, vơ tận, khơng chịu sự chi phối của những điều kiện không thời gian, vĩnh viễn, và không xác định được; trong sự tự do đó nó hợp nhất mọi thứ
để tạo nên những cái cụ thể mà ta biết, hoặc cảm nhận. Cái không xác định (apâyrôn)
của Anaximandre là nỗ lực vươn đến quan điểm thực thể về bản nguyên: vượt qua cái
cụ thể cảm tính để suy tưởng về một căn ngun có tính trừu tượng. Tất cả các đặc tính
của Apâyrơn được quy về một đặc tính chủ yếu là vận động. Sự vận động của thực thể
apâyrôn quyết định quá trình hình thành của vũ trụ và con người. Khi vận động theo

vịng xốy lốc, apâyrơn tạo nên những cực đối kháng - ẩm và khơ, lạnh và nóng. Kết
hợp theo từng cặp những tính chất ấy sẽ dẫn đến hình thành đất (khơ và lạnh), nước
(ẩm và lạnh), khí (ẩm và nóng) và lửa (khơ và nóng). Từ trung tâm, những kết cấu vật
chất dần dần được xác định. Dưới tác động của lửa một phần nước bốc hơi, cịn đất thì
tụ lại giữa đại dương. Trái đất đã hình thành như vậy. Bầu trời phân chia ra ba vịng, do
khí bao quanh, tương tự như ba vành bánh xe rỗng, được bơm đầy lửa. Vành dưới
5
5


nhiều lỗ hổng, chứa lửa, là các vì sao. Vành giữa một lỗ hổng, là Mặt trăng. Vành trên
cùng một lỗ hổng, là Mặt trời. Theo Anaximandre, sự sống hình thành trước tiên ở đại
dương, sau đó tiến dần lên cạn. Con người có thể chất yếu đuối nên sinh ra và phát
triển trong bụng một loài cá khổng lồ. Chỉ khi trưởng thành loài người mới lên đất liền
và sống độc lập.
Đóng góp: Phê phán các quan niệm trực quan của thần thoại và tôn giáo nguyên thủy
về thế giới, Anaximandre cho rằng những gì bề ngồi mà thế giới hiện ra trước mắt
chúng ta chưa hẳn là bản thân thế giới một cách đích thực. Lần đầu tiên trong triết học
cổ đại Hy Lạp, Anaximandre đã cố gắng giải thích thế giới từ nguyên nhân tự thân, gạt
bỏ yếu tố vật linh thuyết, vật hoạt luận, đưa ra tư tưởng biện chứng tự phát về tính phổ
biến của vận động, biến đổi, sự thống nhất các mặt đối lập, về q trình thành sự sống
từ thế giới vơ cơ, con người từ loài vật.
Hạn chế: Tuy nhiên, cũng như Talét, Anaximandre còn chịu ảnh hưởng của các quan
niệm thần thoại và tôn giáo, khẳng định tồn tại điểm tận cùng giới hạn của thế giới.
Mọi sự vật theo ông đều sinh ra từ apeirôn và có lỗi lầm với nhau, nhưng lỗi lầm của
chúng phá vỡ các chuẩn mực và giới hạn của chúng. Mọi cái cuối cùng đều trở thành
apeirôn. Theo nghĩa này, apeirôn trở thành một cái ít nhiều mang tính thần bí.
3. Bản thể luận theo quan điểm của Heraclite
a Quan niệm của Héraclite (544483)
Héraclite là nhà duy vật, ông đã đứng trên lập trường duy vật cổ đại để giải quyết vấn

đề “cơ sở đầu tiên” của thế giới từ một dạng vật chất cụ thể. Theo ơng, lửa, chính là
bản ngun của thế giới, là cơ sở làm nên sự thống nhất của thế giới, là cái mà từ đó,
mọi thứ sinh ra và trở về. Mọi thứ, kể cả linh hồn, đều là biến thái của lửa. “Bất cứ sự
vật nào cũng có thể biến thành lửa và lửa cũng có thể biến thành sự vật nào, cũng như
hàng hoá nào cũng có thể biến thành vàng và vàng cũng có thể biến thành bất cứ hàng
hoá nào”.
Heraclite coi phương châm nghiên cứu của mình khơng dừng lại ở sự thơng thái, hiểu
biết mà quan trọng phải biết được cái logos. Logos là một khái niệm nền tảng trong
triết học Heraclite, dùng để giải thích bản nguyên lẫn bản tính của thế giới. Heraclite
cho rằng sự vật biến đổi không hỗn độ, mà nó tuân theo một quy luật tức Logos. Một
6
6


là, quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Hai là, Heraclite nhấn mạnh tính
thống nhất và đa dạng của thế giới. Nhưng sự thống nhất đó là sự thống nhất của các
mặt đối lập - đó là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Ba là, sự vật phát triển
không ngừng của thế giới do quy luật khách quan (logos).
d) Những đóng góp và hạn chế
Đóng góp: Triết học của ơng là triết học duy vật, nêu rõ tính thống nhất của thế giới và
sự vận động vĩnh viễn của vật chất. Ông đã đi tìm bản chất của tinh thần khơng phải là
ở ngồi vật chất mà chính là ở trong thế giới vật chất; giá trị ấy có tính định hướng cho
việc tìm bản chất đích thực của đời sống tinh thần. Héraclite đã đưa triết học Hy Lạp
cổ đại nói chung và triết học duy vật cổ đại nói riêng tiến lên một bước mới với những
quan điểm duy vật và những yếu tố biện chứng. Học thuyết của ông sau này đã được
các nhà triết học cận đại hiện đại kế thừa. Mỗi nhà triết học từ lập trường triết học của
mình đã tiếp cận và đánh giá khác nhau về triết học Heraclite. Mác và Ăngghen coi
ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại.
Hạn chế: Quan niệm của ông không thể tránh khỏi những hạn chế của những nhà triết
học thời trước đó là sự ngây thơ, chất phác, cảm tính trong những quan niệm của mình.

Một hạn chế khác của ơng đó là hạn chế sai lầm về mặt chính trị. Triết học của ơng có
tính chất phản dân chủ, thù địch với thần dân đem một thiếu số người mà ông gọi là
“ưu tú” đối lập với quần chúng nhân dân. Và ông chủ trương phải dùng chính quyền
để dập tắt nhanh chóng phong trào dân chủ.
Tóm lại mặc dù có những sai lầm nhất định nhưng triết học của Heraclite đã đưa triết
học duy vật cổ đại lên một bước mới với những quan điểm duy vật và những yếu tố
biện chứng. Ăngghen viết “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ,
nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và người
đầu tiên đã diễn đạt được rõ rang quan niệm ấy là Heraclite: mọi vật tồn tại lại khơng
đồng thời tồn tại, vì mọi vật đều trơi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật
đều luôn luôn xuất hiện và biến đi.”

7
7


4. Bản thể luận theo quan điểm của Đêmơcrít
a Thuyết nguyên tử của Đêmôcrit
Đêmôcrit (460-370 TCN) là nhà văn, nhà triết học, tâm lý học, toán học,sinh vật học,
vật lý học, mỹ học, ngôn ngữ học, âm nhạc và nhà kỹ thuật. Đêmơcrít kiên định lập
trường duy vật vơ thần. Ông có quan điểm duy vật khi giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học.
Ông cho rằng, cội nguồn của thế giới là nguyên tử, là vật chất. Ông đã phát triển
thuyết nguyên tử của Lơxíp – người thầy của ơng – lên trình độ mới. Theo Đêmơcrít
bản ngun của thế giới gồm hai thứ là nguyên tử và chân không. Tất cả mọi vật đều
sinh ra từ nguyên tử. Ngun tử (atomon) là vật chất nhỏ nhất, khơng nhìn thấy được,
không phân chia được, không mùi, không vị, không có âm thanh màu sắc, khơng nóng
lên, khơng lạnh đi, không khô, không ướt, không thể bị hủy hoại và do đó là vĩnh cửu.
Chúng đồng nhất về chất, chỉ khác nhau về hình thức, trật tự và tư thế (hình thức: A,
B; trật tự: 123, 213; tư thế: N – Z. M – W…). Tính mn màu mn vẻ của sự vật

được quyết định bởi hình thức cấu tạo, trật tự sắp xếp và tư thế của các nguyên tử khi
kết hợp với nhau. Trong “chân không rộng lớn”, trong không gian vô tận của vũ trụ,
những nguyên tử tự vận động mãi mãi, “rung chuyển về mọi phía”; chúng xô đẩy lẫn
nhau và làm thành một cơn lốc nguyên tử lôi cuốn tất cả những nguyên tử ngày càng
tươi mới. Vận động không tách rời vật chất, vận động của nguyên tử là tự thân, vĩnh
viễn, theo chiều hướng tạo thành những cơn lốc ngun tử.
Đêmơcrít nêu lên ba bước luận chứng để chứng minh nguyên tử và chân không là bản
nguyên của thế giới:
Thứ nhất, lấy sự vật có thể cảm giác được làm tiêu chuẩn thì sự vật là có nhiều, vơ
cùng, vơ tận và ln vận động. Xuất phát từ kinh nghiệm thì chúng ta có thể chia tách
các vật tồn tại, do đó giữa các vật phải có khoảng khơng, và vì có khoảng khơng thì
các sự vật mới có thể sinh thành và biến hóa được.
Thứ hai, chia tách phải có điều kiện, điều kiện đó chính là chân khơng. Vì nếu khơng
có chân khơng thì giữa các vật sẽ khơng có khơng gian, nếu khơng có khơng gian thì
khơng những sự vật khơng thể chia tách được mà cịn khơng thể phát triển được. Do
đó chân khơng là tiền đề cho tồn tại và sự vận động của sự vật. Tồn tại và chân không
8
8


có mối quan hệ mật thiết với nhau, khơng tách rời nhau. Tồn tại giải thích nguyên tắc
hiện hữu của sự vật, chân khơng giải thích tính ngun tắc đa dạng và vấn đề của sự
vật.
Thứ ba, nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất của tồn tại. Không phải vật nào cũng có thể làm
bản nguyên được mà bản nguyên phải tồn tại bất sinh bất diệt. Mọi sự vật đều có thể
chia tách nhưng khơng mất đi vì tồn tại không thể biến thành phi tồn tại. Sự vật có thể
chi tách nên nó khơng thể là bản ngun, nó phải lấy cái khơng thể chia tách làm bản
ngun. Cái duy nhất không thể chia tách, bất sinh bất diệt chính là ngun tử, vì vậy,
ngun tử là bản nguyên của thế giới. Trong quan niệm về vũ trụ của ơng cũng khơng
có chỗ cho thần thánh. Trong đó chỉ có những nguyên tử vận động theo những cơn lốc

xoáy. Các nguyên tử cùng loại cố kết với nhau làm thành những vòng lớp nguyên tử,
càng nặng càng ở gần tâm, càng nhẹ càng ở xa tâm. Đất, nước, lửa, khơng khí lànhững
vịng ở trung tâm cơn lốc. Từ đó hình thành các hành tinh và trái đất.
Đêmơcrit là nhà duy vật lớn nhất thời cổ đại, đã dẫn đầu cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm, tôn giáo, xây dựng nên “đường lối Đêmơcrit”.
e) Những đóng góp và hạn chế
- Đóng góp: Học thuyết ngun tử của ơng là một tiên đốn thiên tài mà cho đến nay
nó vẫn giữ nguyên giá trị, các nhà khoa học hiện đại đã chứng minh một số quan điểm
của ông là đúng. Ngoài ra quan điểm về nguồn gốc vũ trụ cũng có một số giá trị nhất
định. Tuy nhiên dưới ánh sáng của khoa học, thì quan niệm của Đêmơcrít là sai lầm,
nhưng nó đã góp phần chống lại thế giới tơn giáo, duy tâm đang thống trị thời kì đó.
Quan điểm về vận động của ơng cũng là một phán đốn có giá trị đặc biệt. Theo đó
ơng đã đi tìm nguồn gốc của sự vận động ở trong chính thế giới vật chất. Đây là một
quan niệm đúng đắn mà sau này các nhà triết học Macxit đã cơng nhận. Đêmơcrit
khơng phủ nhận vai trị của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hóa vai trị của lý tính. Đây
cũng là một quan điểm đúng đắn mà sau này các nhà triết học Macxit cũng cơng nhận.
Ngồi ra, các quan điểm của ơng cịn có vai trị quan trọng trong chủ nghĩa vơ thần, đó
là những quan điểm về nguồn gốc, phủ nhận sự tồn tại của thần linh.
- Hạn chế: Tuy có nhiều thành tựu rực rỡ, nhưng triết học của Đêmơcrít vẫn có nhiều
hạn chế khơng thể tránh khỏi. Triết học của Đêmơcrít vẫn thể hiện tính thô sơ, chất
9
9


phác, thể hiện tư duy trực quan, cảm tính, thể hiện trong các quan niệm về nguyên tử,
linh hồn con người, về nguồn gốc của vũ trụ, về nguồn gốc bản thân con người, thần
thánh.
5. Bản thể luận theo quan điểm của Platôn
a Học thuyết về Ý niệm của Platôn
Platôn (427 - 347 TCN) sinh tại Eginơ (Egine) một hòn đảo khơng xa Aten, trong gia

đình thuộc dịng dõi q tộc. Ông là nhà triết học duy tâm khách quan lớn nhất thời cổ;
là học trị của Xơcrát, tham gia tổ chức triết học do Xôcrát cầm đầu, ủng hộ phái chủ
nô quân chủ, chống lại nền dân chủ chủ nô. Platôn đã thành lập ở Athen một viện hàn
lâm (trường đại học đầu tiên ở châu Âu), một trung tâm triết học duy tâm chống lại
triết học duy vật của Đêmôcrit.
Về mặt bản thể luận, theo Platôn vũ trụ này có hai thế giới là thế giới ý niệm và thế
giới của các sự vật cảm tính (hay cảm biết được bằng giác quan). Trong đó, thế giới
các sự vật cảm tính là khơng chân thực, khơng đúng đắn vì các sự vật khơng ngừng
sinh ra và mất đi, thay đổi và vận động, không ổn định, bền vững, hồn thiện; cịn thế
giới ý niệm là thế giới phi cảm tính phi vật thể, là thế giới đúng đắn, chân thực, các
sự vật cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm. Theo ông, thế giới của những ý niệm
là tồn tại chân thực, vĩnh viễn, tuyệt đối, bất biến, nó là cơ sở tồn tại của thế giới các
sự vật cảm tính. Cịn thế giới các sự vật cảm tính là tồn tại khơng chân thực, phụ thuộc
vào thế giới của các ý niệm, nó là cái bóng của ý niệm.
Đứng trên lập trường duy tâm thần bí, ông khẳng định rằng, bản nguyên của thế giới là
“thế giới ý niệm”, mà ông gọi là “những ý tưởng có trước”, một thế giới trừu tượng,
bất biến, tĩnh tại, đơng lạnh, khơng có sự sống. Chỉ có chúng mới tồn tại chân thực.
Linh hồn là do thánh tạo ra, có động cơ (“thần tình ái”) và mục đích rõ ràng. Động cơ
và mục đích đã khuyến khích các ý niệm vận động rồi in dấu ấn vào “không tồn tại”,
“hư vô” – cái mà ông gọi là “vật chất” – theo những “tương quan tốn học”, những
“hịa điệu” khác nhau mà sinh ra giới tự nhiên – “thế giới các sự vật cảm tính” mn
hình, mn vẻ, xấu, đẹp khác nhau. Thế giới thứ hai, theo Platôn, thế giới các sự vật
cảm tính chỉ là sản phẩm của “thế giới ý niệm”, chỉ là “cái bóng” của chúng nên nó là
“tồn tại khơng chân thực”. Vì mọi cái trong nó ln biến đổi, có sinh ra, có mất đi, nó
10
10


chỉ là cái bóng của thế giới ý niệm, do thế giới ý niệm quyết định. Ý niệm của Platôn
như là khuôn mẫu để thế giới các sự vật cảm tính mơ phỏng theo.

Từ quan niệm trên Platơn đã đưa ra khái niệm "tồn tại" và "không tồn tại". Vấn đề tồn
tại (bản thể) chiếm vị trí đặc biệt trong triết học Platơn.Tồn tại đích thực phải là tồn tại
như thế nào? Đâu là tồn tại khác, hay “cái bóng của tồn tại”? Cái gì là cơ sở, nền tảng
của mọi tồn tại? "Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được bằng trí tuệ
siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Cịn "khơng tồn tại" là vật chất, cái có tính thứ hai
so với cái tồn tại phi vật chất. Như vậy, ông đã có tư tưởng duy tâm khách quan về thế
giới, cả hai thế giới này theo ông đều là sản phẩm của thần.
Platôn là nhà triết học duy tâm khách quan lớn của thời cổ mà về sau nhiều nhà triết
học (trung cổ và cận đại) lặp lại dưới hình thức cải biên. Ơng tun truyền cho chế độ
cộng hồ qn chủ của chủ nô thượng lưu, chống lại chế độ dân chủ. Các học thuyết
của ông về “ý niệm”, “vũ trụ”, “nhà nước lý tưởng”, “nhận thức luận”, đạo đức, nghệ
thuật, lơgíc học đều được các nhà triết học duy tâm về sau phát triển thành triết học
“Platôn mới” với khẩu hiệu “Hãy trở về với Platôn”.
6. Bản thể luận theo quan điểm của Arixtốt (384 – 332 TCN)
a

Nhị nguyên luận của Arixtốt

Ngoài chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm như hai khuynh hướng, hay hai đường
lối cơ bản, hình thành và phát triển trong cuộc tranh luận về nguyên nhân, cơ sở của
tồn tại, trong triết học Hy Lạp cịn hình thành phương án thứ ba - nhị nguyên luận
(dualism xuất phát từ tiếng la tinh dualis là tính hai mặt, phân đơi). Đại diện cho
phương án này là Arixtốt.
Arixtốt phê phán Platơn vì đã tuyệt đối hóa ý niệm, xem nó như một thế giới lý tưởng,
tồn tại độc lập. Nhằm vượt qua Platôn, Arixtốt xây dựng quan niệm mới về tồn tại trên
cơ sở thừa nhận tính tuyệt đối, tính phổ biến và tính đơn nhất của nó. Tồn tại, theo
Arixtốt, là cái bao hàm những đặc tính tạo nên bản chất của sự vật. Khi ta nói cái gì đó
có, ta nói trước hết đến các thuộc tính tạo nên nó. Đó là tồn tại đơn nhất, có cá tính. Đó
là tồn tại phổ biến, bao hàm những đặc tính chung nhất của sự vật. Ngồi hai đặc tính
vừa nêu Arixtốt dành nhiều quan tâm đến tồn tại thuần túy tự thân, tuyệt đối, tách khỏi

vậ chất, nghĩa là tồn tại như một bản thể siêu việt, vượt khỏi thế giới khả giác hữu
11
11


hình, hay Thượng đế. Vấn đề này được làm sáng tỏ thêm trong học thuyết về tồn tại
như sự thống nhất tiềm thể, hay khả năng (vật chất, hay thể chất) và hiện thể, hay hiện
thực phi vật chất (hình thức, hay mô thức). Cùng với hai mặt đối lập ấy Arixtốt còn
đưa ra yếu tố thứ ba, một thể nền (hypokeimenon) mà trên đó các q trình sinh thành,
biến đổi diễn ra từ sự tương tác của các mặt đối lập. Như vậy có thể hình dung một cấu
trúc gồm ba thành tố:cái hiện hữu, cái đối lập với hiện hữu, cái mà từ đó một cái khác
xuất hiện. Vật chất là khả năng tồn tại (tiềm thể). Nguyên nhân đích thực, sơ khởi của
tồn tại khơng phải là những yếu tố vật chất, mà là cái đem lại một thiết định cho sự vật
để sự vật là chính nó. Nhưng, theo Arixtốt, vật chất xét trong những trường hợp khác
nhau vừa là khả năng, vừa là hiện thức. Chẳng hạn, việc xem khối đồng là “vật chất”
của quả cầu chưa phải là cách xem xét duy nhất. Có thể nói đơn giản “khối đồng là
một hiện thực”, cịn các phân tử đồng là “vật chất” hợp nhất thành “khối”. Theo trình
tự đó có thể truy đến kỳ cùng, đến chỗ bản thân các hành chất cơ bản của vũ trụ (đất,
nước, lửa khí) cũng là những hiện thực (mô thức) đặc biệt, kết hợp với “thể chất”, tức
vật chất đặc biệt nào đó. “Vật chất” với tính cách là nguồn gốc tự nhiên của bốn hành
chất - vật chất đầu tiên - có lẽ là hỗn mang khơng xác định, thứ “khả năng” thuần tuý,
tự nó chưa thể trở thành hiện thực.
f) Những đóng góp và hạn chế
- Đóng góp: Tuy cịn nhiều quan điểm duy tâm trong học thuyết này nhưng nhìn chung
nó đã có những giá trị nhất định. Giá trị của triết học của ông còn thể hiện ở quan điểm
biện chứng thừa nhận là tồn bộ sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và
biến đổi thông qua vận động mà thế giới tự nhiên được biểu hiện ra, vận động không
tách rời tự nhiên. Ở quan điểm này, ông đã tiến gần với quan niệm vận động là tự thân
của vật chất, quan điểm mà sau này các nhà triết học Macxit đã chứng minh là đúng.
Ngồi ra ơng có những quan điểm biện chứng thể hiện về sự giải thích về cái riêng và

cái chung. Khi phê phán Platôn tách rời ý niệm như là cái chung khỏi các sự vật cảm
biết như là cái riêng, Arixtot đã cố gắng khảo sát cái chung trong sự thống nhất không
tách rời cái riêng. Theo ông, nhận thức cái chung trong cái đơn lẻ là thực chất của nhận
thức cảm tính.
12
12


- Hạn chế: Giống như các nhà triết học trước đây hạn chế của ông vẫn là sự ngây thơ,
chất phác trong quan niệm và sự tư duy trực quan cảm tính. Hạn chế của ơng cịn thể
hiện trong học thuyết về sự tồn tại: Ông cho rằng, giới tự nhiên vừa là vật chất đầu
tiên, là cơ sở của mọi sinh tồn, vừa là hình dáng (cái được đưa từ bên ngoài vật chất)
nhận thức của con người là thu nhận hình dáng chứ khơng phải chính sự vật. Ngồi ra
ơng cịn thừa nhận hình dáng của mọi hình dáng là thần thánh , xuất phát từ thần
thánh. Hạn chế của ơng cịn được thể hiện ở chỗ khi quan niệm về sự vận động của vật
chất, ông cho rằng thần thánh là nguồn gốc của mọi vận động.

Như vậy, lịch sử triết học cổ đại Hy Lạp là lịch sử hình thành và phát triển thế giới
quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Nét nổi bật của chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ
đại là tính chất mộc mạc, thơ sơ. Nó khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan
không phải do thần thánh hoặc một lực lượng siêu nhiên nào tạo nên. Thế giới vật chất
xuất hiện từ vật chất, từ những nguyên thể vật chất đầu tiên như nước, lửa, khơng khí,
ngun tử,…Song, do trình độ cịn thấp của khoa học nên các nhà triết học duy vật
đương thời chỉ có thể quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên và phỏng đoán để rút
ra những kết luận triết học. Tuy vậy, quan niệm duy vật thơ sơ này đã có tác dụng rất
lớn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, chống tơn giáo, chống thần học cổ
đại. Tính đa dạng, muôn vẻ, sự phân cực quyết liệt giữa các trường phái cũng làm nên
đặc trưng phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại, xác lập “đường lối Democritos” và
“đường lối Platon” trong lịch sử triết học phương Tây. Về hạn chế, hạn chế trước tiên
của triết học Hy Lạp ở những thế kỷ đầu tiên, là tính chất phác, sơ khai của nó, mối

liên hệ của nó với thần thoại và tôn giáo nguyên thủy, đan xen với những mầm mống
của tri thức khoa học, phản ánh trình độ nhận thức chung của xã hội.

KẾT LUẬN
Triết học Hy Lạp cổ đại đã được nhiều thành tựu rực rỡ đặc biệt là về bản thể luận.
Nhiều quan điểm cịn mang tính chất phác, ngây thơ nhưng căn bản là đúng đã định
hướng cho triết học duy vật thời kì sau này và đó cịn là cơ sở để các nhà triết học duy
vật thời kì này đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm. Tuy cịn có những hạn chế
13
13


mang tính khách quan hay chủ quan nhất định nhưng triết học thời kì này đã có những
thành tựu là đặt ra nhiều vấn đề mà triết học sau này phải nghiên cứu và giải quyết đó
là nền móng cho triết học duy vật Châu Âu sau này.

14
14



×