Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TIỂU LUẬN vận DỤNG QUAN điểm TOÀN DIỆN của TRIẾT học mác LÊNIN vào VIỆC GIÁO dục đạo đức của SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.03 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN

TÊN BÀI TIỂU LUẬN: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN CỦA
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA
SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

NAM ĐỊNH, THÁN 11 NĂM 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LƯƠNG THẾ VINH
KHOA:

TIỂU LUẬN THAY THẾ THI KẾT THÚC HỌC PHẦN

TÊN BÀI TIỂU LUẬN: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN CỦA
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA
SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện:
Khóa học: …………. Mã số sinh viên:
Giảng viên hướng dẫn:

NAM ĐỊNH, THÁNG 11 NĂM 2021


MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG
Chương 1.

1.1.


1.2.

1
2

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN –
NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Nội dung quan điểm toàn diện
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG VIỆC

2
2
5

Chương 2. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN VIỆT NAM

2.1.
2.2.

HIỆN NAY
Thực trạng giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện

8

nay
Các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo

11


đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay

19
22
22

PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


Phần 1. MỞ ĐẦU
Sinh viên là lực lượng hùng hậu và ngày càng có vai trị quan trọng đối
với sự phát triển của xã hội. Những năm học giảng đường đại học, cao đẳng
sinh viên không chỉ được học những kiến thức cơ bản và chuyên ngành mà
còn được rèn dạy về đạo đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng. Nhưng thực tế
hiện nay một bộ phận không nhỏ sinh viên có lối sống thích hưởng thụ, thực
dụng, xa hoa, lãng phí, xa rời truyền thống đạo đức của dân tộc, thậm chí có
những sinh viên mất niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những vấn đề trên đã và đang làm
ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống của sinh viên; ảnh hưởng đến lòng yêu nước,
tình u thương con người, đức tính cần cù, tiết kiệm, tinh thần đoàn kết, tinh
thần hiếu học; ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển đạo đức sinh viên,
Vì vậy, để sinh viên Việt Nam trở thành những người sống có hồi bão,
có lý tưởng, u nước, có ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ công dân, cần kiệm
xây dựng đất nước, có tinh thần quốc tế chân chính; nhân ái, sống có nghĩa
tình, trung thực, dũng cảm; chăm chỉ học tập, nghiên cứu, nâng cao hiểu biết
về xã hội, trình độ chun mơn nghề nghiệp, trình độ thẩm mỹ và thể lực; có
tác phong cơng nghiệp, có ý thức tập thể, đồn kết, kỷ luật, tơn trọng kỷ
cương phép nước, hăng hái và năng động sáng tạo trong học tập và lao động
thì việc nghiên cứu, vận dụng “Quan điểm toàn diện của Triết học Mác Lênin vào giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt nam hiện nay” là một nhiệm

vụ quan trọng và cấp thiết.


2
Phần 2. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN –
NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1.1. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a, Khái niệm và nội dung mối liên hệ phổ biến
Thế giới vật chất được tạo thành từ những sự vật, hiện tượng, những
quá trình khác nhau. Vậy, giữa chúng có mối quan hệ qua lại với nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau. Nếu chúng tồn tại
trong sự liên hệ qua lại, thì nhân tố gì quy định sự liên hệ đó.
Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng, các sự vật và hiện
tượng tồn tại tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia; giữa chúng khơng có sự
phụ thuộc, khơng có sự ràng buộc lẫn nhau; có chăng chỉ là những liên hệ hời
hợt bên ngồi, mang tính ngẫu nhiên. Quan điểm của phương pháp siêu hình
đã dẫn đến những sai lầm về thế giới quan triết học, dựng lên những ranh giới
giả tạo giữa các sự vật và các hiện tượng. Vì vậy, phương pháp siêu hình
khơng có khả năng phát hiện ra cái chung, cái bản chất, cái mang tính quy luật
của sự vận động và phát triển của các sự vật và hiện tượng. Còn chủ nghĩa
duy tâm đã thừa nhận rằng các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau
của thế giới tồn tại trong sự liên hệ qua lại. Nhưng theo những nhà duy tâm
thì cơ sở của sự liên hệ, tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng là cảm
giác, ý thức, ý niệm, ý niệm tuyệt đối hay là các lực lượng siêu nhiên.
Ngược lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở kế thừa các giá trị
về tư tưởng biện chứng trong kho tàng lý luận của nhân loại và tổng kết
những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX, đã khái quát
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng trong thế giới.
Theo quan điểm biện chứng, thế giới là một chỉnh thể thống nhất. Các sự vật,

hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt, vừa có sự liên
hệ, tác động qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Liên hệ theo quan
điểm biện chứng là sự phụ thuộc, ràng buộc, quy định lẫn nhau và tác động
qua lại với nhau. Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ


3
sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng
hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở
nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới. Trong mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng, những mối liên hệ phổ biến nhất là mối liên hệ giữa các mặt đối lập,
mối liên hệ giữa lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái
riêng, bản chất và hiện tượng… Giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa
tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến
trong phạm vi nhất định hoặc mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó mối liên hệ
đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất
định. Đứng trên quan điểm duy vật khoa học, phép biện chứng duy vật khẳng
định rằng, cơ sở của sự liên hệ là ở tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo
quan điểm này, các sự vật, các hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, khác
nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại khác
nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả tư tưởng, ý thức
của con người vốn là những cái phi vật chất, cũng chỉ là thuộc tính của một
dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người, nội dung của chúng chỉ là kết
quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.
b. Tính chất của mối liên hệ
Tính khách quan của các mối liên hệ. Các sự vật, hiện tượng trong
thế giới có đa dạng, phong phú như thế nào chăng nữa thì chúng cũng chỉ
là những hình thức tồn tại khác nhau của một thế giới vật chất. Theo quan
điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế

giới là có tính khách quan. Sự quy định lẫn nhau, tác động và chuyển hóa
lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng hoặc trong bản thân chúng là cái vốn có
của nó, tồn tại khơng phụ thuộc vào ý thức con người; con người chỉ có khả
năng nhận thức được những mối liên hệ đó.
Tính phổ biến của các mối liên hệ. Phép biện chứng duy vật khẳng
định: Khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại một cách
riêng lẻ, cô lập tuyệt đối với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác mà


4
trái lại chúng tồn tại trong sự liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, tác động,
chuyển hóa lẫn nhau. Khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là
một cấu trúc hệ thống, bao gồm các yếu tố cấu thành với những mối liên hệ
bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống mở tồn
tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là phổ biến, nó khơng chỉ diễn ra ở
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy mà còn diễn ra đối
với các mặt, các yếu tố, các q trình của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Trong
giới tự nhiên, giữa tự nhiên vô cơ và tự nhiên hữu cơ, giữa động vật và
thực vật có quan hệ với nhau. Trong đời sống xã hội, giữa các cá nhân, các
tập đồn người, các quốc gia có quan hệ với nhau. Trong tư duy quan hệ
giữa giai đoạn nhận thức cảm tính với giai đoạn nhận thức lý tính
Ph.Ăngghen chỉ rõ, tất cả thế giới tự nhiên mà chúng ta có thể nghiên cứu
được là một hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau Việc các
vật thể ấy đều có liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác
động lẫn nhau, và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động. ¬
Tính đa dạng của các mối liên hệ, quan điểm duy vật biện chứng
không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của sự liên hệ, mà cịn
chỉ ra tính đa dạng của nó. Có mối liên hệ bên trong, có mối liên hệ bên
ngồi. Có mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, liên hệ tất

yếu và liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu.
Có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ chung bao
quát tồn bộ thế giới, có mối liên hệ bao qt một số lĩnh vực hoặc một
lĩnh vực nào đó của thế giới. Có mối liên hệ về thời gian trong q trình
lịch sử của sự vật, hiện tượng… Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa
dạng trong sự tồn tại, vận động và phát triển của chính sự vật và hiện tượng
quy định.
Như vậy, sự liên hệ tác động qua lại của sự vật, hiện tượng trên thế
giới khơng những là vơ cùng, vơ tận mà cịn rất phong phú, đa dạng và
phức tạp. Đặc biệt trong lĩnh vực đời sống xã hội, tính phức tạp của sự liên


5
hệ được nhân lên do sự đan xen, chồng chéo, chằng chịt của vơ vàn các
hoạt động có mục đích, có ý thức của con người. Chính vì vậy mà quá trình
nhận thức và phân loại sát đúng các mối liên hệ trong xã hội trở nên khó
khăn hơn nhiều so với giới tự nhiên. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là
một trong những cơ sở, nền tảng của phép biện chứng duy vật. Đồng thời
nó cũng là cơ sở lý luận của quan điểm tồn diện ¬ một quan điểm mang
tính phương pháp luận khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1.2. Nội dung quan điểm tồn diện
Quan điểm tồn diện chính là ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ
nguyên lý mối liên hệ phổ biến. Quan điểm này có nội dung là: phải nhìn thấy
sự vật như là một chỉnh thể của tất cả các mặt, các thuộc tính, các mối liên hệ
trong bản thân sự vật hiện tượng và giữa sự vật hiện tượng đó với những sự
vật hiện tượng khác và với môi trường xung quanh; phải biết phân biệt các
mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, cơ bản nhất để từ
đó hiểu rõ cái bên trong, chủ yếu, tất nhiên để hiểu rõ bản chất của sự vật.
Quan điểm tồn diện có ý nghĩa hết sức to lớn trong cuộc sống của chúng ta,
cả trong lĩnh vực nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm toàn diện là

một trong những nguyên tắc, phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép
biện chứng duy vật trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Với tư
cách là một nguyên tắc phương, pháp luận trong việc nhận thức các sự vật,
hiện tượng, quan điểm toàn diện thể hiện ở một số yêu cầu cơ bản sau đây:
Một là, phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ phổ biến, mối
liên hệ vốn có của nó. Sự vật, hiện tượng, bản chất của sự vật, hiện tượng
được hình thành, biến đổi và bộc lộ thông qua mối liên hệ giữa chúng với các
sự vật, hiện tượng khác. Vì vậy để nhận thức đúng đắn sự vật, hiện tượng
không chỉ xem xét bản thân nó, mà cịn phải xem xét mối liên hệ giữa nó với
các sự vật, hiện tượng khác. Ý thức được điều đó, chúng ta sẽ tránh được việc
tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự vật, coi những tri thức đó là chân lý
bất biến, tuyệt đối, không thể sữa đổi, bổ sung và phát triển. Bởi vậy, trong


6
cuộc sống đòi hỏi sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho
chúng ta khỏi phạm sai lầm và cứng nhắc.
Hai là, xem xét toàn diện tất cả các mối liên hệ của sự vật phải đánh giá
đúng vị trí, vai trị của chúng, tránh xem xét một cách dàn trải, bình quân. Sự
vật tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, nhưng vị trí, vai trị của các mối liên hệ
khơng “ngang bằng” nhau. Như vậy xem xét tồn diện nhưng khơng “bình
qn, dàn đều” mà có “trọng tâm, trọng điểm”, phải tìm ra vị trí từng mặt,
từng yếu tố, từng mối liên hệ ấy trong tổng thể của chúng, phải từ tri thức về
nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để khái quát, rút ra mối
liên hệ chủ yếu nhất, bản chất nhất, quan trọng nhất chi phối sự tồn tại và phát
triển của chúng.
Ba là, phải nhận thức sự vật trong tính chỉnh thể của nó, trong tính
nhiều mặt và sự tác động qua lại quy định lẫn nhau, chi phối lẫn nhau của
chúng. Sự vật trong thực tế tồn tại với tư cách như một chỉnh thể. Nó khơng
phải là “tổng số đơn giản” các mối liên hệ (mối liên hệ giữa sự vật đó với các

sự vật khác, mối liên hệ giữa các mặt của sự vật, các yếu tố cấu thành sự vật),
mà là tổng số các mối liên hệ hữu cơ, có sự tác động qua lại quy định, chi
phối lẫn nhau. Và bản thân con người, những chủ thể nhận thức với những
phẩm chất và năng lực của mình ln ln bị chế ước bởi những điều kiện xã
hội lịch sử, do đó không thể bao quát được hết những mối liên hệ bên trong và
bên ngoài các sự vật, hiện tượng.
Từ những u cầu trên cho thấy, lơgíc của q trình hình thành quan điểm
toàn diện trong nhận thức, xem xét sự vật, hiện tượng sẽ phải trải qua nhiều giai
đoạn, cơ bản là đi từ quan niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức mỗi mặt,
mỗi mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều
mối liện hệ của sự vật, hiện tượng và cuối cùng đi tới khái quát những tri thức
phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật, hiện tượng.
Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta rút ra cách nhìn đồng
bộ trong hoạt động thực tiễn. Theo đó, muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải
áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau để


7
tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện
tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm,
then chốt để tập trung lực lượng giải quyết.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, chủ nghĩa chiết
trung và thuật ngụy biện. Ảnh hưởng lối tư duy của người sản xuất nhỏ,
chúng ta hay mắc bệnh phiến diện trong nhận thức và thực tiễn: chỉ nhận thấy
mặt này, mối liên hệ này mà không thấy mặt khác, mối liên hệ khác, làm việc
nọ, bỏ việc kia; nhận thức sự vật trong trạng thái cô lập, giải quyết cơng việc
khơng đảm bảo tính đồng bộ. Một biểu hiện của bệnh phiến diện nữa đó là
việc xem xét và giải quyết cơng việc một cách dàn đều, bình qn, khơng thấy
được vị trí, vai trị khác nhau của các mối liên hệ, không xác định được trọng
tâm, trọng điểm trong hoạt động.

Quan điểm toàn diện cũng hoàn toàn xa lại với chủ nghĩa chiết trung và
thuật ngụy biện. Như vậy, trong mọi hoạt động cần quán triệt quan điểm toàn
diện. Việc nghiên cứu trong các nghành khoa học tự nhiên không tách rời nhau,
ngược lại phải trong mối quan hệ với nhau, thâm nhập vào nhau. Có nhiều sự
vật, hiện tượng địi hỏi phải có sự nghiên cứu liên ngành giữa các khoa học.
Trong lĩnh vực xã hội, nguyên tắc tồn diện cũng có vai trị quan trọng. Chúng
ta bây giờ không thể hiểu được bản chất một hiện tượng xã hội nếu tách nó ra
khỏi những mối liên hệ, những sự tác động qua lại với các hiện tượng xã hội
khác.
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG VIỆC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên theo quan
điểm toàn diện
Việc giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên là một trong những nội
dung giữ vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Vì vậy, vận
dụng quan điểm tồn diện của Triết học Mác - Lênin trong giáo dục đạo đức
cho sinh viên Việt Nam hiện nay, cần phải giáo dục toàn diện các nội dung ụ
thể:


8
Một là, làm cho sinh viên Việt Nam nhận thức được đạo đức cách mạng,
trung với nước, hiếu với dân, phải có lịng u thương nồng nàn, suốt đời phấn
đấu hi sinh vì lợi ích của nhân dân “Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Hiếu không dừng ở hiếu với
nhân dân, mà cịn hiếu với đồng bào, gia đình và xã hội. Vì vậy cần thương yêu
nhân dân, sống lao động chiến đấu vì nhân dân. Thường xuyên chăm lo bảo vệ
lợi ích chính đáng của nhân dân, việc gì có lợi cho dân thì làm, việc hại cho dân
thì hết sức trách, chống lại mọi biểu hiện phiền hà nhũng nhiễu nhân dân, dựa
vào dân, làm dân tin tưởng vào chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hai là, chú trọng phát triển những phẩm chất cao quý cho sinh viên Việt
Nam theo Tư tưởng Hồ Chí Minh: Cần kiệm, liêm chính, chí cơng, vơ tư.
Ở đây, “Cần” là cần cù, siêng năng lao động, học tập, “kiệm” là tiết kiệm
thời gian của cải, khơng hoang phí, xa xỉ “Cịn “Liêm” là trong mọi tình thế
ln giữ cho mình trong sạch, ngay thẳng, thật thà. Thế hệ sinh viên Việt Nam
hiện nay phải luôn trao dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn, không kiêu căng
tự mãn, không xa hoa lãng phí. Cần kiệm trong lao động, học tập và có đời tư
trong sáng. Thực hành tự phê bình và phê bình, thẳng thắn để giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.
Ba là, giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam để họ tin tưởng tuyệt
đối vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức phấn đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, là người chèo lái con thuyền cách
mạng Việt Nam đi đến bờ thắng lợi. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.
Bốn là, giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam phải chú trọng cả đức
và tài. Tài ở đây là nói đến sự hiểu biết tinh thơng về văn hóa, khoa học, chính
trị, kỹ thuật, quân sự và khả năng vận dụng sự hiểu biết đó vào cuộc sống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng,
có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó” [1, tr.492]. Vì vậy, hai mặt
đức và tài “ hồng” và “ chuyên”, phẩm chất và năng lực phải kết hợp hài hòa


9
với nhau làm cho thế hệ trẻ phát huy tài năng trí tuệ và tâm hồn một cách tồn
diện để xứng đáng những con người mới XHCN.
Năm là, giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam là phải tự giáo dục, tự
rèn luyện. Vì tuổi trẻ là lứa tuổi đang trong giai đoạn phát triển mạnh về nhân
cách, với ham muốn tự khẳng định mình. Vì vậy, khi mặt tự giáo dục thực sự
đặt ra ở mỗi sinh viên thì việc giáo dục mới có hiệu quả và chắc chắn. Vì vậy,
sinh viên Việt Nam hiện nay phải tự tu dưỡng trên mọi phương diện: đạo đức,

lý tưởng, trình độ nghề nghiệp.
Sáu là, giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam là phải hịa mình với
quần chúng nhân dân. Thế hệ trẻ nếu không tự rèn luyện, tự giáo dục, đặt lợi
ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân thì đạo đức cách mạng sẽ bị che lấp, chủ
nghĩa cơ hội sẽ có điều kiện sẽ trỗi dậy, dỗ dành người ta đi xuống dốc. Mỗi
người đều có tính cách, sở trường và nhu cầu riêng, “ nếu lợi ích cá nhân
khơng trái với lợi ích tập thể thì khơng phải là xấu” [1, tr.291]. Do đó mỗi
người phải biết hài hịa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Đồng thời xã hội
phải quan tâm đến lợi ích cá nhân làm cho chúng phát triển hài hòa cân đối.
Bảy là, giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên Việt Nam hiện nay là
phải giáo dục tinh thần quốc tế trong sáng, là làm cho sinh viên ln biết quan
tâm đến tình hình thế giới. Cần tăng cường sự hiểu biết, có tinh thần hữu nghị
đồn kết với sinh viên trên thế giới. Vì sinh viên là lực lượng năng động, thích
khám phá và có nhiều đóng góp cho xã hội. Cho nên phải tích cực đóng góp
vào phong trào thanh niên thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
2.2. Thực trạng giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay
2.2.1. Thành tựu
Trong thời gian qua, được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
cùng với sự tham gia của các ngành, các cấp, gia đình, nhà trường, tồn xã hội,
sự nỗ lực của Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh
niên Việt Nam và Hội Sinh viên Việt Nam..., công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho sinh viên Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định.


10
Một là, các cấp ủy Đảng, lãnh đạo Nhà trường cao đẳng, đại học nước
ta hiện nay đã có nhận thức đúng và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
thực hiện công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên.
Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, Nhà trường, các tổ chức chính

trị xã hội trong trường đại học, cao đẳng Việt Nam đều xác định công tác giáo
dục đạo đức cách mạng cho sinh viên là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu trong các nhà trường. Từ đó các tổ chức, cơ quan đã tăng cường sự
lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên.
Các cấp ủy đảng đã chỉ đạo, tổ chức cho sinh viên học tập, quán triệt
Chỉ thị 23- CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh nghiên cứu tuyên truyền,
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới”; Chỉ thị số 05-CT/TW
ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp
luật của nhà nước theo quy định của trung ương. Đã tích cực chỉ đạo thực
hiện đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, học tập các
mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cơng tác giáo dục chính
trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh viên, đã trang bị cho sinh viên nhân
sinh quan cách mạng, thế giới quan Mác - Lênin, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên. Hàng năm các cấp ủy đảng
đều mở các lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng cho các sinh viên ưu tú, tạo điều
kiện để họ phấn đấu và sớm được đứng vào hàng ngũ của Đảng; mở các lớp
bồi dưỡng lí luận chính trị cho đảng viên mới là sinh viên để nâng cao nhận
thức chính trị, rèn luyện bản lĩnh, lập trường cho họ.
Các cấp ủy đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo Nhà trường, các tổ chức đoàn
thanh niên, hội sinh viên tích cực tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động
giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên theo các chỉ thị, chương trình của
Bộ giáo dục và đào tạo, của Trung ương Đoàn thanh niên, Hội sinh viên Việt
Nam... Các cấp ủy đảng đã lãnh đạo các nhà trường xây dựng, bổ sung, hoàn
thiện, tổ chức thực hiện nghiêm túc các nội quy, quy chế về đào tạo, rèn luyện,
quản lí sinh viên; quy định về khen thưởng, kỉ luật; quy định về việc xây dựng


11
nếp sống văn hóa trong sinh viên,… tạo cơ sở pháp lí để định hướng cho sinh

viên tự học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống. Định kỳ nhà trường đã
tổ chức các hội nghị đối thoại giữa sinh viên với lãnh đạo nhà trường. Thông
qua hội nghị này những thắc mắc của sinh viên được giải toả, các kiến nghị
được Nhà trường tiếp thu để có phương án làm tốt hơn việc hỗ trợ học tập, rèn
luyện cho sinh viên. Các cấp ủy đảng cũng đã cùng với các nhà trường lãnh
đạo, chỉ đạo, tạo mọi điều kiện cho các tổ chức đoàn thanh niên, hội sinh viên
trong trường tổ chức các hoạt động giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
đảm bảo về nội dung, phong phú về hình thức, tạo điều kiện thuận lợi để sinh
viên được hoạt động, cống hiến và trưởng thành. Đặc biệt là tạo ra được mơi
trường văn hóa, giáo dục lành mạnh đảm bảo từng bước hình thành, phát triển,
củng cố những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho sinh viên.
Hai là, nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên nhìn chung
vừa đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, khoa học phù hợp theo quan điểm toàn
diện của chủ nghĩa Mác-Lênin, với yêu cầu của Đảng, của mục tiêu giáo dục
đại học, vừa phù hợp với thực tiễn trong thành phố, trong nước, thế giới.
Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên Việt Nam hiện nay
đã đáp ứng đúng được yêu cầu cơ bản của Đảng, của Nhà nước, của Bộ giáo
dục và đào tạo. Cụ thể các cấp ủy đảng, các nhà trường, các tổ chức đoàn thanh
niên, hội sinh viên triển khai công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh
viên với những nội dung chủ yếu như sau: Tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng, củng cố thế giới quan, nhân
sinh quan, niềm tin, lí tưởng cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên; tuyên truyền,
giáo dục đường lối, chủ trương, của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
văn bản, chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các nội quy, quy chế, quy định
của các nhà trường, các tổ chức Đồn, Hội để hình thành, củng cố, rèn luyện,
phát triển ý thức chính trị, ý thức pháp luật, kỉ cương, kỉ luật cho sinh viên;
tuyên truyền, giáo dục truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng, truyền
thống của Đảng, Đoàn, Hội cho sinh viên, để khơi dậy trong họ ý thức, tinh
thần, trách nhiệm đối với cội nguồn, truyền thống, dân tộc, tập thể; trách nhiệm



12
vì cộng đồng, vì tương lai. Bồi dưỡng tình cảm cách mạng, ý chí, nghị lực, bản
lĩnh cách mạng, làm bùng cháy những khát vọng, hoài bão sống đẹp, sống có
ích của tuổi trẻ; Tun truyền, giáo dục những phẩm chất đạo đức cách mạng,
đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và những phẩm chất đạo
đức mới của con người Việt Nam hiện đại, để hình thành cho sinh viên những
phẩm chất đạo đức cần thiết, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Hàng năm, những nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
đã được các cấp ủy đảng, nhà trường, các tổ chức đoàn thanh niên, hội sinh
viên xây dựng thành chương trình, kế hoạch khoa học và được tổ chức, triển
khai thực hiện, kiểm tra, đánh giá nghiêm túc.
Ba là, các hình thức, phương pháp giáo dục đạo đức cách mạng cho
sinh viên bước đầu đã có sự đổi mới, tương đối đa dạng, phong phú và có sự
phù hợp, hấp dẫn, lôi cuốn nhất định đối với sinh viên.
Trong những năm qua, các cấp ủy đảng, nhà trường, các tổ chức đoàn
thanh niên, hội sinh viên trong trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã có
nhiều cố gắng trong việc đổi mới, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp
giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên, được đơng đảo sinh viên hưởng
ứng, tích cực tham gia và đã đạt được những kết quả nhất định.
Nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, giảng dạy học tập các
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã có những đổi mới nhất
định. Việc giảng dạy, học tập các môn học này đã được thực hiện thông qua
những hình thức như học trên lớp có giảng viên hướng dẫn và tự học ở nhà,
và bằng nhiều phương pháp như phương pháp thuyết trình, đàm thoại, nêu
vấn đề… Đây là hình thức giáo dục đạo đức cách mạng rất quan trọng, mang
tính pháp quy đối với mọi sinh viên. Qua việc thực hiện hình thức giáo dục
này mà thế giới quan, nhân sinh quan, lí tưởng, niềm tin cách mạng của sinh
viên từng bước được xây dựng và củng cố và phát triển.
Với sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quan tâm phối kết hợp của

Nhà trường, Đoàn thanh niên và Hội sinh viên trong các trường đã tổ chức
được nhiều hoạt động phong phú, hấp dẫn để giáo dục đạo đức cách mạng cho


13
sinh viên. Tiêu biểu như các hoạt động: mở các lớp bồi dưỡng lí luận chính
trị, các đợt sinh hoạt chính trị, các diễn đàn, hội nghị, hội thảo cho sinh viên;
tổ chức các cuộc thi, hội thi với những chủ đề phong phú, hấp dẫn cho sinh
viên như: “tìm hiểu 75 năm lịch sử vẻ vang của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh”,
“tìm hiểu 60 năm nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “tìm hiểu thân
thế, sự nghiệp, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Phát
minh xanh”, “Khát vọng xanh”…; tổ chức các phong trào thi đua, các cuộc
vận động, các hoạt động tập thể nhân các ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn trong
năm, các hoạt động giao lưu kết nghĩa với các tổ chức, đơn vị ngoài nhà
trường như các phong trào; tổ chức các hoạt động ngoại khóa như tham quan,
dã ngoại, thực tế chuyên môn,cho sinh viên các khoa chuyên ngành đặc thù;
thực hiện các chương trình phát thanh định kỳ của Đồn thanh niên, Hội sinh
viên tại kí túc xá với các nội dung như thông báo thông tin thời sự trong nước,
quốc tế, các hoạt động của nhà trường và các chương trình phát thanh phong
phú khác như Nhịp cầu văn hóa, thơng tin thể thao, q tặng âm nhạc…
Có thể khẳng định rằng, những hình thức, phương pháp giáo dục đạo
đức cách mạng khá phong phú, hấp dẫn, bổ ích nêu trên đã góp phần quan
trọng vào việc giác ngộ, bồi dưỡng, củng cố, nâng cao nhận thức, lập trường
tư tưởng chính trị cho sinh viên. Khích lệ mạnh mẽ tinh thần tự học, tự nghiên
cứu, sáng tạo, tinh thần xung kích trên mọi mặt trận của đồn viên, sinh viên.
Đặc biệt là nó đã và đang góp phần từng bước hình thành và phát triển những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho sinh viên.
2.2.2. Những khuyết điểm, hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho sinh viên Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác giáo dục đạo đức thanh

niên Việt Nam vẫn còn bộc lộ những hạn chế như sau:
Một là, sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác giáo dục đạo
đức cách mạng cho sinh viên của các cấp ủy đảng, lãnh dạo các nhà trường và
các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên trong trường cao đẳng, đại học ở
nước ta hiện nay đang cịn có những hạn chế nhất định.


14
Mặc dù các cấp ủy đảng, nhà trường, các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội
sinh viên trong trường cao đẳng, đại học nước ta đã có nhận thức đúng và đã
tích cực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho sinh viên, nhưng trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện của các tổ chức này vẫn còn tồn tại một số những hạn chế nhất định.
Đối với các cấp ủy Đảng, việc quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo công tác
giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên của các cấp ủy đảng chưa thực sự
sâu sát, chưa kịp thời, chưa có những giải pháp thực sự hữu hiệu để phát hiện,
ngăn chặn những tác động xấu của mặt trái của cơ chế thị trường đến một bộ
phận sinh viên, bởi vậy nó có ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả giáo dục đạo
đức cách mạng cho sinh viên.
Đối với các tổ chức Đoàn thanh niên và Hội sinh viên: cơng tác tun
truyền giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên
đã được các tổ chức này tự đánh giá là chưa sâu, chưa đồng bộ, đôi khi mới
dừng lại ở mức độ phong trào, hình thức, có lúc chưa theo sát, chưa đáp ứng
được yêu cầu, chưa bắt kịp những diễn biến tư tưởng trong đồn viên sinh
viên. Có một số hoạt động của Đồn, Hội có triển khai, phát động nhưng thiếu
sự kiểm tra, theo dõi, đánh giá thường xun.
Chính vì vậy, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công
tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên Việt Nam hiện nay đang cịn có
những hạn chế cơ bản.
Hai là, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục đạo đức cách mạng

cho sinh viên mặc dù đã được đổi mới, đã khá đa dạng, phong phú nhưng vẫn
cịn mang tính trừu tượng, thiếu cụ thể, chưa đi sâu vào từng đối tượng sinh
viên cụ thể, chưa thật sự hấp dẫn, lôi cuốn thuyết phục sinh viên. Nhiều hoạt
động cịn mang tính hình thức, nặng về bề nổi, nhẹ về chiều sâu, hiệu quả thấp.
Xét về tổng thể, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục đạo đức
cách mạng cho sinh viên đã đảm bảo tính cơ bản, toàn diện và khoa học, khá
phong phú, phù hợp cho mọi đối tượng sinh viên nói chung và đã có những
đổi mới nhất định. Nhưng xét riêng đối với từng đối tượng sinh viên thì thấy


15
rằng, nội dung giáo dục đạo đức cách mạng, mà đặc biệt là giáo dục thế giới
quan, nhân sinh quan và lí tưởng cho sinh viên cịn mang tính trừu tượng,
thiếu tính thiết thực, cụ thể; chưa phù hợp với thực tiễn, chưa phù hợp với
từng đối tượng sinh viên. Chẳng hạn nội dung các môn khoa học Mác - Lênin
mặc dù đã qua nhiều lần chỉnh lí và bổ sung nhưng vẫn còn một số nội dung
chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, chưa phản ánh được sự phát triển
của thực tiễn thế giới và trong nước, do đó tính thuyết phục chưa cao. Hoặc
về nội dung chương trình giáo dục lí luận chính trị của Đồn thanh niên cho
đoàn viên thể hiện qua các bài học lí luận chính trị của Đồn cũng cho thấy,
nội dung chương trình này hồn tồn phù hợp với đối tượng đoàn viên thanh
niên chưa phải là sinh viên...
Ba là, hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
chưa cao.
Như trên đã khẳng định, công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh
viên Việt Nam trong những năm gần đây đã đạt được những thành tựu quan
trọng, song cũng cần phải khẳng định rằng hiệu quả của công tác giáo dục đạo
đức cách mạng cho sinh viên chưa cao. Biểu hiện là còn một bộ phận sinh
viên dường như vẫn nằm ngoài ảnh hưởng của những hoạt động giáo dục đạo
đức cách mạng của các trường. Bộ phận sinh viên này khơng có những biểu

hiện chuyển biến tích cực trong cả nhận thức và hành động. Họ có nhận thức
mơ hồ, lệch lạc, thậm chí sai lầm. Sống thiếu niềm tin, nghị lực, bản lĩnh và ý
chí. Khơng tự giác tu dưỡng, rèn luyện, thờ ơ với các hoạt động tập thể, vô
trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng. Sống thiếu trung thực, vi phạm
kỉ luật, thậm chí vi phạm pháp luật, kết quả học tập và rèn luyện yếu kém...
Bên cạnh đó, trong xu thế hội nhập và tồn cầu hóa, năng lực hoạt động
của sinh viên hiện nay đang còn non yếu, dễ bị chi phối bởi lối sống ích kỷ,
lười lao động, sống gấp, sống hưởng thụ, họ coi thường giá trị đạo đức, những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Mặt trái của cơ chế thị trường, văn hóa phẩm
ngoại lai lan tràn trên Internet, trong xã hội, các tệ nạn xã hội, cộng với lối sống
xa nhà buông thả, sống thực dụng theo đồng tiền đang ngày càng xói mịn các


16
chuẩn mực đạo đức đã tác động đến tâm lý sinh viên. Thực trạng trên dẫn đến
chất lượng giáo dục giảm xuống, nhiều sinh viên không xác định nghệ nghiệp,
không xác định được tương lai của bản thân đã bỏ học giữa chừng.
Trong công tác giáo dục đào tạo hiện nay, một số bộ phận sinh viên còn
mơ hồ về đạo đức cách mạng, ngại tham gia vào các hoạt động tập thể, chưa
có ý chí phấn đấu cao trong học tập và rèn luyện bản thân. Một số học sinh,
sinh viên nhận thức chưa đúng về nghề nghiệp bản thân dẫn đến lười học tập,
vi phạm nội quy, quy chế của nhà trường, trong học tập thiếu trung thực. Hiện
nay, đang cịn có những học sinh, sinh viên chỉ hưởng thụ, không nghĩ đến
trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân để cống hiến cho gia đình, xã hội; chưa
tích cực học tập và rèn luyện đạo đức, ý thức chuẩn bị cho ngày mai lập thân,
lập nghiệp chưa cao.
Việc giáo dục đối với sinh viên cũng được các nhà trường cao đẳng, đại
học nước ta rất quan tâm; luôn luôn mong muốn nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác trong giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên để tạo ra một lớp
người có tâm hồn trong sáng, lý tưởng cao đẹp, có ý chí trong học tập, vươn lên

lập nghiệp bằng chính ngành nghề được đào tạo, đồng thời biết giữ gìn và phát
huy những chuẩn mực đạo đức xã hội, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam. Tuy cơ sở vật chất được trang thiết bị tương đối hiện đại, nhưng một
số giáo viên khai thác và sử dụng đồ dùng phương tiện dạy học chưa khoa học,
hợp lý dẫn đến hiệu quả chưa cao; trình độ ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào
giảng dạy của bộ phận giáo viên chưa cao, chưa được tiến hành thường xuyên
nên ảnh hưởng đến nâng cao chất lượng dạy, học của trường.
Sinh viên Việt Nam hiện nay xuất thân từ nông nghiệp là chủ yếu đến
thành phố học tập; cuộc sống xa nhà, xa phụ huynh nên việc phối hợp để kịp
thời giáo dục, uốn nắn những lệch lạc của các em là khó khăn; cuộc sống nơi
đơ thị tạo sự ăn chơi đua địi, thiếu lý tưởng, hờ hững những gì diễn ra xung
quanh, sống theo quan niệm được đến đâu hay đến đấy, cuộc sống nhận chu
cấp từ gia đình khơng phải lo toan vất vả nên sinh viên trở nên ích kỷ, chỉ nghĩ
đến bản thân, biết hưởng thụ, không xác định tương lai bản thân, thậm chí đến


17
các vi phạm các tệ nạn xã hội, vi phạm đạo đức, lý tưởng sống của một bộ phận
thanh niên; đây cũng là khó khăn địi hỏi cần có giải pháp để giáo dục.
2.3 Các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
cho sinh viên Việt Nam hiện nay
Vận dụng quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác – Lênin vào giáo
dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay, cần thực hiện tốt hệ thống các
giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vai trị của cơng tác giáo dục đạo đức
sinh viên.
Để nâng cao nhận thức về vai trị của cơng tác giáo dục đạo đức cho
sinh viên, cần đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục trong toàn xã hội ý thức chăm
lo giáo dục sinh viên, làm cho toàn dân thấy được sinh viên là lực lượng xã
hội to lớn, đóng vai trò quyết định của sự nghiệp cách mạng, là người chủ

tương lai của đất nước, để có sự quan tâm đến sinh viên, đầu tư cho công tác
giáo dục đạo đức sinh viên, cùng với Đảng, chính quyền, mặt trận và các đồn
thể chính trị - xã hội làm tốt công tác giáo dục đạo đức sinh viên. Bên cạnh
đó, khơng ngừng giáo dục cho sinh viên nâng cao nhận thức về vai trị, vị trí
của mình trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của các thế hệ sinh viên
Việt Nam; đề cao ý thức tự tôn dân tộc hướng tới những giá trị chân - thiện mỹ; có ý thức lập thân lập nghiệp vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, thường xuyên chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống
trong sạch, lành mạnh cho sinh viên.
Đây là giải pháp cơ bản nhằm xây dựng, hình thành nhân cách con
người mới xã hội chủ nghĩa cho sinh viên, vì đạo đức là “gốc của người cách
mạng”. Trước hết cần phải nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận
Mác - Lênin, nâng cao chất lượng bài giảng, phải làm thế nào để sinh viên
nhận thức được sự cần thiết phải nghiên cứu học tập các môn này. Để thực
hiện điều này, chúng ta cần đổi mới phương pháp giảng dạy, vừa phải nâng


18
cao trình độ lý luận, vừa gắn lý luận với thực tiễn cuộc sống, nhất là gắn với
những nội dung lĩnh vực sinh viên đang được đào tạo. Điều đó chỉ thực hiện
tốt khi chúng ta tăng cường việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng
viên, đổi mới phương pháp ra đề thi. Đề thi phải mang tính chất tổng hợp kiến
thức, phải phát huy được tính độc lập tư duy của sinh viên. Từ việc đổi mới
phương pháp đánh giá đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp giảng dạy
và sinh viên phải đổi mới phương pháp học tập. Ngoài ra, các cơ sở đào tạo
cần đảm bảo điều kiện tự học như tài liệu tham khảo, địa điểm tự học, tự
nghiên cứu. Nếu những khâu nêu trên khơng thực hiện đồng bộ thì mọi cố
gắng thay đổi từng bộ phận sẽ dẫn tới hiệu quả khơng cao. Cùng với đó, để
việc giáo dục đạo đức sinh viên có hiệu quả, cần tổ chức tốt các phong trào

hành động cách mạng của thanh niên mà tiêu biểu là phong trào: “Thanh niên
lập nghiệp và tuổi trẻ giữ nước”, “Thanh niên tình nguyện”, “Chiến dịch mùa
hè xanh”, “Thanh niên khởi nghiệp đổi mới sáng tạo”...
Ba là, phải kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong
việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên.
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp
của các tổ chức, các lực lượng cùng chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối
sống cho sinh viên Việt Nam, hình thành phẩm chất cao đẹp của con người
mới xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục là kết quả tổng hợp của một quá trình từ mầm non đến đại học,
là kết quả giáo dục trong gia đình, trong nhà trường, trong quan hệ xã hội...,
trong đó mơi trường nhà trường có vai trị quyết định. Mục đích của giáo dục
là nhằm bồi dưỡng và phát triển tri thức, năng lực, phẩm chất, nhân cách, tư
tưởng, tình cảm, đạo đức, tinh thần, thái độ của người học theo hướng tích cực,
qua quá trình dạy và học, góp phần vào phát triển hồn thiện con người, chuẩn
bị cho họ có đầy đủ phẩm chất và năng lực tham gia vào lao động sản xuất và
trong đời sống xã hội. Do đó, các cấp học phải hướng đến mục đích đó. Chúng
ta cần khắc phục bệnh chạy theo thành tích trong giáo dục và đào tạo. Khơng
nên vì u cầu tỷ lệ phần trăm lên lớp dẫn đến nâng điểm, hạ thấp chất lượng


19
đào tạo, và nguy hiểm hơn, điều đó làm cho một bộ phận sinh viên Việt Nam
tự mãn với kiến thức của mình, có danh mà khơng có thực.
Trong phạm vi toàn xã hội, chúng ta cần kiên quyết lập lại kỷ cương trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ giao thông vận tải đến quản lý đất
đai, quản lý y tế, văn hóa, giáo dục, quản lý chặt chẽ việc sử dụng internet của
sinh viên... Nếu khơng thực hiện tốt điều này thì việc giáo dục đạo đức xã hội
chủ nghĩa cho sinh viên với mong muốn xây dựng một xã hội có kỷ cương, nề
nếp, con người đối xử với nhau nhân văn, nghĩa tình sẽ trở nên vơ nghĩa.

Đối với các cơ sở đào tạo cần tạo một môi trường nhân văn, kỷ cương
trong học tập và giảng dạy. Cán bộ, giảng viên phải trở thành tấm gương về
đạo đức, về cách ứng xử, về việc thực hiện kỷ cương, nề nếp trong dạy và
học. Cần tăng cường hoạt động giao lưu giữa thầy và trị để có sự đồng cảm,
có điều kiện giúp đỡ nhau trong quá trình dạy và học. Trong q trình lên lớp,
dù giáo viên chun mơn hay giáo viên các mơn lý luận chính trị đều phải tích
cực tham gia vào hoạt động giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nâng cao
nhiệt tình cách mạng cho sinh viên. Chính những tấm gương rèn luyện, phấn
đấu của các thầy cơ là nguồn động viên, khích lệ việc học tập và sự phấn đấu
vươn lên của sinh viên. Song hành với đó, các bậc phụ huynh cũng cần nâng
cao trách nhiệm trong giáo dục đạo đức, nếp sống cho con cái.
Thường xuyên nâng cao chất lượng sinh hoạt Đoàn của các tổ chức
đồn, bằng nhiều hình thức khác nhau để nâng cao tính tích cực xã hội của
sinh viên. Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, những sinh hoạt tập thể, qua
những phong trào giúp đỡ nhau trong học tập, thực tế để sinh viên hiểu rõ
nhau hơn, có sự cảm thơng với nhau, từ đó mà có sự gắn bó, xác định được
trách nhiệm giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Thông qua hoạt động thực tiễn
cuộc sống, kiểm nghiệm mà sinh viên củng cố niềm tin vào lẽ phải, vào
những điều kiện tốt đẹp trong cuộc sống.
Bốn là, tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị trong q trình dạy
của thầy và học tập của trị.


20
Muốn cho sinh viên học tập tốt, rèn luyện tốt, cùng với sự phát triển
của kinh tế - xã hội, các cơ sở giáo dục cần tăng cường đầu tư trang thiết bị
dạy và học ngày một tốt hơn. Có như vậy chúng ta có thể nâng cao hiệu quả
dạy và học, nâng cao chất lượng đào tạo. Những điều kiện học của sinh viên
tốt khiến họ có điều kiện mở rộng kiến thức, mở rộng khả năng tư duy, nhìn
nhận các vấn đề xã hội đúng đắn, chính xác và tốt hơn. Đồng thời, trang thiết

bị học tập ngày càng hiện đại, sinh viên cảm nhận được những thành tựu mà
chủ nghĩa xã hội mang lại cho họ. Trên cơ sở đó tạo cho sinh viên niềm tin
vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa, ra sức rèn luyện, có ý thức phấn đấu vươn lên
về mọi mặt trong quá trình hội nhập quốc tế.
Năm là, phát huy vai trị tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối
sống của sinh viên. Sinh viên Việt Nam là lớp người trẻ, khỏe, có nhiệt tình
cách mạng, nhạy cảm với cái mới, cái tiến bộ. Phát huy vai trò của sinh viên
trong tự học tập, tự tu dưỡng đạo đức lối sống là biện pháp quan trọng giúp họ
nhanh chóng tiến bộ, trưởng thành. Đó cịn là điều kiện quyết định kết quả rèn
luyện của mỗi cá nhân. Trước hết phải hình thành cho sinh viên nhu cầu, động
cơ phấn đấu, rèn luyện đúng đắn, làm cho mỗi người có ý thức làm chủ, ham
học hỏi, cầu tiến bộ, vươn lên tự khẳng định mình. Cần tạo mọi điều kiện
thuận lợi để sinh viên phấn đấu, rèn luyện; đồng thời phải thường xuyên theo
dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả, định hướng phấn đấu cho sinh viên. Quan tâm
đáp ứng những nhu cầu chính đáng của sinh viên về vật chất, tinh thần; giao
nhiệm vụ phù hợp với sở trường, năng khiếu đặc điểm tâm, sinh lý của họ sẽ
tạo điều kiện tốt để sinh viên rèn luyện đạo đức, lối sống. Mỗi sinh viên phải
xác định rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân, sống có lý tưởng, có hồi
bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộ. Bản thân mỗi người tự giác rèn
luyện, biết tự kiềm chế, biết vượt qua những cám dỗ và tiêu cực xã hội, những
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng, lợi mình hại người. Sinh
viên Việt Nam cần phải tự tin vào chính mình, giữ vững niềm tin trong cuộc
sống, vào các giá trị chân, thiện, mỹ; vượt qua mọi khó khăn gian khổ như
Bác Hồ đã dạy: “gian nan rèn luyện mới thành công”.


21
Phần 3. KẾT LUẬN
Giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay nhằm hình thành
cho sinh viên đạo đức cách mạng, lối sống mới xã hội chủ nghĩa. Trong

những năm qua, các cấp ủy đảng, lãnh dạo các nhà trường và các tổ chức
Đoàn thanh niên, Hội sinh viên trong trường cao đẳng, đại học ở nước ta đã
có nhiều hoạt động nhằm giáo dục đạo đức và lối sống cho sinh viên và đã thu
được nhiều kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn những khuyết
ddieerm, hạn chế cần khắc phục.
Để thực hiện tốt hơn giáo dục đạo đức cho sinh Việt Nam hiện nay, các
cấp ủy đảng, lãnh dạo các nhà trường và các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội
sinh viên trong trường cao đẳng, đại học ở nước ta cần phải quán triệt quan
điểm toàn diện, đồng thời thực hiện đồng bộ các giải pháp: nâng cao nhận
thức về vai trò của công tác giáo dục đạo đức sinh viên; thường xuyên chăm
lo giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh cho sinh viên;
phải kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục,
rèn luyện đạo đức cho sinh viên; tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị
trong quá trình dạy của thầy và học tập của trò; phát huy vai trò tự học tập, tự
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của sinh viên. Trong đó sự quan tâm của Đảng
uỷ, Ban Giám hiệu nhà trường cao đẳng, đại học và sự tự giác rèn luyện của
bản thân mỗi sinh viên là yếu tố quyết định thành công việc nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

Hồ Chí Minh tồn tập (1995), tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh tồn tập (1995), tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh tồn tập (1995), tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật giáo

dục Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quy định về cơng tác giáo dục phẩm
chất, chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên trong các đại
học, học viện, trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, ban


22
hành theo Quyết định số 50/2007/QĐ - BGDĐT ngày 29/8/2007 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Chỉ thị về tăng cường công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật trong ngành giáo dục, số 45/2007/CT - BGDĐ ngày
17/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Quyết định ban hành chương trình các
mơn Lí luận chính trị trình độ đại học, cao đẳng cho sinh viên khối không
chuyên ngành Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, số 52/ 2008 / QĐGDĐT ban hành ngày 18/9/2008


×