Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bài thảo luận lao động chương 2 Việc làm và đào tạo nghề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.07 KB, 10 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

MƠN HỌC: LUẬT LAO ĐỘNG
BÀI THẢO LUẬN CHƯƠNG 2
(VIỆC LÀM VÀ ĐÀO TẠO NGHỀ)


MỤC LỤC


Tình huống 11:
Ngày 04/11/2013, chị Đỗ Thị vào làm việc tại Cơng ty H theo hợp đồng lao động có
thời hạn 01 năm. Từ ngày 10/5/2014 đến 02/8/2014, chị Đỗ Thị được Công ty H đưa đi
đào tạo nghề tại Trung tâm kiểm nghiệm chất lượng gang thép Vũ Hán, Trung Quốc.
Trước khi đi đào tạo, ngày 31/3/2014, chị Đỗ Thị đã ký “Bản cam kết” với nội dung sau
khi kết thúc khóa đào tạo chị Đỗ Thị sẽ làm việc cho Công ty H trong thời hạn 03 năm
kể từ ngày 31/3/2014, nếu không làm việc đủ thời hạn này thì chị Đỗ Thị phải hồn trả
tồn bộ chi phí đào tạo cho Cơng ty. Sau khi được đào tạo nghề, chị Đỗ Thị tiếp tục làm
việc tại Công ty H đến ngày 11/8/2015 thì chị Đỗ Thị xin nghỉ việc và được Công ty
đồng ý. Trước khi nghỉ việc, chị Đỗ Thị và Công ty H đã ký kết “Giấy cam kết phân kỳ
hồn trả chi phí đào tạo do vi phạm cam kết đào tạo”, theo đó chị Đỗ Thị phải hồn trả
cho Cơng ty H chi phí đào tạo (sau khi đã khấu trừ thời gian chị Đỗ Thị làm việc cho
Công ty) với số tiền là 209.997.076 đồng, trong đó có khoản học phí là 117.137.885
đồng. Sau khi hồn trả cho Cơng ty H được 3 đợt, chị Đỗ Thị dừng việc hoàn trả với lý
do khơng chấp nhận khoản học phí như Cơng ty H đã yêu cầu. Công ty H khởi kiện yêu
cầu chị Đỗ Thị phải hồn trả cho Cơng ty tồn bộ số tiền chi phí đào tạo nghề.
Hỏi: Chị Đỗ Thị có phải hồn trả tồn bộ chi phí đào tạo nghề theo u cầu của
Cơng ty H. khơng? Vì sao?
Trả lời:
Theo nhóm em, tình huống trên có 2 quan điểm trả lời:




-

Quan điểm 1: Chị Đỗ Thị phải hồn trả tồn bộ chi phí đào tạo nghề
theo u cầu của Công ty H.

Đầu tiên, xét Hợp đồng lao động giữa chị Đỗ Thị và Công ty H:
+ Điều 13 Bộ luật lao động 2019 (BLLĐ 2019) quy định về hợp đồng lao động:

“1. Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao
động về việc làm có trả cơng, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi
bên trong quan hệ lao động.

1 Bản án số 01/2017/LĐ-ST ngày 07/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

3


Trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về
việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì
được coi là hợp đồng lao động.
2. Trước khi nhận người lao động vào làm việc thì người sử dụng lao động phải
giao kết hợp đồng lao động với người lao động.”

+ Khoản 1 Điều 15 BLLĐ 2019 quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động: “Tự

nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực.”

 Xét thấy ở tình huống trên, Chị Đỗ Thị có giao kết hợp đồng với Cơng ty H và

hai bên đã ký Bản cam kết với nội dung “sau khi kết thúc khóa đào tạo chị Đỗ Thị sẽ
làm việc cho Công ty H trong thời hạn 03 năm kể từ ngày 31/3/2014, nếu không làm
việc đủ thời hạn này thì chị Đỗ Thị phải hồn trả tồn bộ chi phí đào tạo cho Cơng ty”
trên tinh thần tự nguyện. Như vậy, nếu chị Đỗ Thị nghỉ việc khi chưa đủ thời gian quy
định trong hợp đồng thì phải trả cho Cơng ty số tiền như đã cam kết.

- Thứ hai, xét về nghĩa vụ của chị Đỗ Thị khi vi phạm cam kết đào tạo:
+ Khoản 9 Điều 34 BLLĐ 2019 quy định các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động bao

gồm: “Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều
35 của Bộ luật này.”
+ Điều 40 BLLĐ 2019 quy định nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt

hợp đồng lao động trái pháp luật:
“1. Không được trợ cấp thôi việc.
2. Phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng
lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong
những ngày không báo trước.
3. Phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo quy định tại Điều 62
của Bộ luật này.”

4


+ Theo Điều 4 phần III chấm dứt hợp đồng lao động, trợ cấp thôi việc và bồi thường chi phí

đào tạo thơng tư 21/2003/TT-BLĐTBXH của Bộ lao động: “Người lao động tự ý bỏ
việc hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, trừ các trường hợp quy định tại
Điều 37 của Bộ Luật Lao động, khi chưa học xong hoặc học xong không làm việc cho
người sử dụng lao động đủ thời gian như đã thỏa thuận, thì phải bồi thường mức chi

phí đào tạo bao gồm các khoản chi phí cho người dạy, tài liệu học tập, trường lớp, máy
móc thiết bị, vật liệu thực hành và các chi phí khác hỗ trợ cho người học do người sử
dụng lao động tính có sự thỏa thuận của người lao động.”

 Ở tình huống trên, Chị Đỗ Thị và Công ty H cam kết trong thời hạn 03 năm kể từ
ngày 31/3/2014, nếu không làm việc đủ thời hạn này thì chị Đỗ Thị phải hồn trả tồn
bộ chi phí đào tạo cho Cơng ty. Tuy nhiên đến 11/8/2015 thì chị Đỗ Thị xin nghỉ việc,
như vậy chị chưa hoàn thành đủ thời hạn như đã cam kết (mới chỉ đủ 1 năm 4 tháng 11
ngày) nên chị sẽ phải bồi thường một khoản tiền cho công ty.

- Thứ ba, xét về số tiền mà chị Đỗ Thị phải bồi thường cho công ty H
+ Khoản 3 Điều 40 BLLĐ 2019 quy định nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương

chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật: “3. Phải hoàn trả cho người sử dụng lao
động chi phí đào tạo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.”
+ Điều 62 BLLĐ 2019 quy định về hợp đồng đào tạo nghề giữa người sử dụng lao động,

người lao động và chi phí đào tạo nghề:
“1. Hai bên phải ký kết hợp đồng đào tạo nghề trong trường hợp người lao động
được đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, đào tạo lại ở trong nước hoặc nước
ngồi từ kinh phí của người sử dụng lao động, kể cả kinh phí do đối tác tài trợ cho
người sử dụng lao động.
Hợp đồng đào tạo nghề phải làm thành 02 bản, mỗi bên giữ 01 bản.
2. Hợp đồng đào tạo nghề phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Nghề đào tạo;
b) Địa điểm, thời gian và tiền lương trong thời gian đào tạo;
c) Thời hạn cam kết phải làm việc sau khi được đào tạo;

5



d) Chi phí đào tạo và trách nhiệm hồn trả chi phí đào tạo;
đ) Trách nhiệm của người sử dụng lao động;
e) Trách nhiệm của người lao động.
3. Chi phí đào tạo bao gồm các khoản chi có chứng từ hợp lệ về chi phí trả cho
người dạy, tài liệu học tập, trường, lớp, máy, thiết bị, vật liệu thực hành, các chi phí
khác hỗ trợ cho người học và tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp cho người học trong thời gian đi học. Trường hợp người lao động
được gửi đi đào tạo ở nước ngồi thì chi phí đào tạo cịn bao gồm chi phí đi lại, chi phí
sinh hoạt trong thời gian đào tạo.”

 Khoản bồi thường mà công ty đưa ra bao gồm khoản học phí là khoản chi chi có
chứng từ hợp lệ về chi phí trả cho người dạy, chị Đỗ Thị cũng đi học ở ngước ngồi nên
chi phí đào tạo cịn gồm cả chi phí đi lại, chi phí sinh hoạt ở nước ngồi. Nên nếu chị Đỗ
Thị khơng chấp nhận khoản chi phí học phí thì chị cần chứng minh nó khơng đúng với
thực tế. Nếu khơng chị phải hồn trả tồn bộ chị phí đào tạo cho cơng ty H là
209.997.076 đồng.

• Quan điểm 2: Chị Đỗ Thị khơng phải hồn trả tồn bộ chi phí đào tạo nghề theo u

cầu của Công ty H.
Theo hợp đồng lao động chị Đỗ Thị ký với cơng ty H ngày 4/3/2013 có thời hạn là 1
năm, như vậy đến thời điểm ngày 11/8/2015 chị Đỗ Thị đã thực hiện xong hợp đồng lao
động.
Ngày 31/3/2014 khi hợp đồng lao động cịn thời hạn thì chị Đỗ Thị được công ty
sắp xếp cho đi đào tạo nghề nâng cao trình độ. Đồng thời ký một “Bản Cam Kết” cùng
công ty H với nội dung sẽ làm việc trong 3 năm sau khi đào tạo xong và sẽ hồn trả tồn
bộ chi phí đào tạo nếu khơng làm việc đủ thời hạn đã cam kết.
Bản cam kết mà chị Đỗ Thị đã ký với công ty H không đáp ứng đủ các điều kiện của
một hợp đồng lao động hay hợp đồng đào tạo nghề theo Điều 13 và Điều 62 BLLĐ

2019 vì Bản cam kết khơng đề cập đến các nội dung là điều kiện để được coi là một hợp
đồng lao động hay hợp đồng đào tạo nghề.

6


Bản cam kết mà chị Đỗ Thị đã ký thực tế là một hành vi pháp lý đơn phương hay
một hợp đồng dân sự thông thường với công ty H, đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực
tại Điều 117 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS 2015).

Do vậy, việc chị Đỗ Thị xin nghỉ việc và được công ty H đồng ý không được coi là
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo Điều 35 BLLĐ 2019 nên khơng phải
hồn trả chi phí theo khoản 3 Điều 40 BLLĐ 2019. Mà trong trường hợp này là chấm
dứt hợp đồng theo khoản 2 Điều 422 BLDS 2015.

Tình huống 22
Ngày 08/02/2017, Công ty L. đã ký với anh Văn hợp đồng lao động số
VH000315/2017 xác định thời hạn 01 năm (kể từ ngày 08/02/2017 đến ngày 07/02/2018),
với vị trí kỹ thuật viên sản xuất Cell tại L.Display.
Để anh Văn nắm bắt được chun mơn và gắn bó với lâu dài với L. Display; ngày
25/02/2017, Công ty L. đã ký với anh Văn hợp đồng đào tạo số VH000315/2017- ĐT, với
nội dung: Công ty L. tổ chức để anh Văn sang thành phố Gumi Hàn Quốc học khóa đào
tạo kỹ thuật trong thời hạn 47 ngày. Công ty L. lo thủ tục và chịu trách nhiệm chi trả mọi
chi phí cho anh Văn tham gia khóa học (bao gồm: Chi phí tổ chức khóa học; vé máy bay;
phụ cấp lưu trú, cơng tác phí; chi phí đi lại; lệ phí vi sa, hộ chiếu..; tiền thuê khách sạn,
nhà nghỉ; tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong thời gian đào tạo).
Anh Văn có nghĩa vụ phải tham gia đầy đủ và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của
khóa đào tạo; tự thanh tốn mọi chi tiêu cá nhân ngồi các khoản mà Cơng ty L. đã hỗ trợ
như trên. Anh Văn có trách nhiệm hồn trả cho Cơng ty L. chi phí đào tạo khi khơng hồn
thành khóa đào tạo vì bất kỳ lý do nào hoặc đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động

trong thời gian đào tạo, không đảm bảo thời gian làm việc cho Công ty L. như cam kết...
Để đảm bảo cho các Hợp đồng lao động và Hợp đồng đào tạo nêu trên; ngày
01/3/2017, ơng Hồng là bố đẻ của anh Văn đã ký với Công ty L. cam kết bảo lãnh của
gia đình cho anh Văn. Trong đó, ơng Hoàng cam kết:
- Anh Văn sẽ thực hiện đầy đủ nội dung của hợp đồng đào tạo và chính sách của
Công ty L. liên quan đến đào tạo; cam kết hồn trả chi phí đào tạo và chi phí bồi thường
cho Cơng ty L. thay cho anh Văn trong vịng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo
của Công ty L. về việc anh Văn không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hồn trả chi phí đào tạo
và chi phí bồi thường liên quan theo hợp đồng đào tạo.
2 Bản án số 01/2017/TLST-LĐ ngày 21 tháng 6 năm 2017 về tranh chấp học nghề theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 698/2017/QĐXXST-LĐ ngày 22 tháng 8 năm 2017.

7


- Trả một khoản tiền phạt tương đương 195.144.999đ cho Công ty L. trong trường
hợp anh Văn trốn ở lại nước ngoài trong và sau thời gian đào tạo; số tiền phạt nêu trên sẽ
trả cho Công ty L. trong thời hạn 10 ngày, kể từ khi nhận được thông báo về việc anh Văn
trốn ở lại nước ngoài.
Thực hiện Hợp đồng Đào tạo số VH000315/2017-ĐT nói trên, Cơng ty L. đã lo mọi
thủ tục để anh Văn được cấp thị thực nhập cảnh vào Hàn Quốc trong thời hạn 02 tháng.
Ngày 13/3/2017, Công ty L. đã tổ chức đưa đoàn người lao động Việt Nam sang Hàn
Quốc để theo học khóa đào tạo. Anh Văn đã nhập cảnh vào Hàn Quốc qua cửa khẩu sân
bay quốc tế Incheon. Vào hồi 19h30 ngày 13/3/2017, khi tới sân bay Incheon, anh Văn đã
tách khỏi đồn và khơng trở lại. Hiện tại, anh Văn đang cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc.
Mặc dù đã được nhiều đồng nghiệp công tác tại Công ty L. khuyên nhủ nhưng anh Văn
đã trao đổi và nhắn tin cho họ cũng như gia đình là khơng trở lại theo học khóa đào tạo do
Cơng ty L. tổ chức.
Dự trù chi phí cho anh Văn theo khóa học bao gồm: Chi phí làm hộ chiếu 200.000đ,
chi phí cấp thị thực là 450.000đ, vé máy bay là 12.375.000đ, tiền ký túc xá là

16.638.783đ, chi phí đi lại bằng xe bus là 1.691.924đ, chi phí ăn uống là 11.253.868đ, chi
phí giảng viên là 105.486.852đ, phịng đào tạo là 489.694đ, tiền tài liệu là 772.400đ, tiền
cơng tác phí là 35.392.500đ, tiền lương là 8.519.645đ, tiền đóng bảo hiểm là 1.874. 324đ;
tổng cộng là 195.144.999đ.
Thực tế, Công ty L. đã chi để anh Văn theo học khóa học nghiệp vụ tại Hàn Quốc
gồm các khoản: Chi phí tại Việt Nam gồm: Chi phí cấp visa là 450.000đ, tiền vé máy bay
là 14.440.932đ, tiền tạm ứng cơng tác phí mà anh K đã nhận là 17.707.500đ; tổng cộng là
32.598.432đ.
Chi tại Hàn Quốc cho 21 người theo khóa học là 2.787.829.113đ; bình qn chi phí
cho mỗi người là 132.753.767đ (trong đó chi phí cho 21 người tiền ký túc xá là
349.414.450đ, tiền thuê xe bus để đi lại là 35.530.400đ, chi phí giảng viên là
2.378.026.500đ, tiền phòng đào tạo là 8.637.363đ, tiền tài liệu là 16.220.400đ).
Tổng cộng các khoản mà Công ty L đã chi để anh Văn theo học các khóa học chuyên
môn tại Hàn Quốc là 165.352.199đ.
Công ty L. yêu cầu anh Văn phải trả 100% chi phí đào tạo là 165.352.199đ; trong
trường hợp anh Văn khơng trả được thì ông Hoàng và bà Phạm phải trả thay số tiền trên.
Ơng Hồng và bà Phạm phải trả khoản tiền phạt là 195.144.999đ. Kể từ ngày 28/4/2017
đến ngày xét xử sơ thẩm, anh Văn phải trả lãi của số tiền chi phí đào tạo theo mức lãi suất
20%/năm.
Ơng Hồng và bà Phạm đã được Tịa án tống đạt hợp lệ thơng báo thụ lý vụ án, nhiều
lần tống đạt giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ, tiếp
8


cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải; nhưng ơng Hồng và bà Phạm đều khơng giao nộp
chứng cứ và đều khơng có mặt theo triệu tập của Tịa án.
Hỏi:
1. Thỏa thuận bảo lãnh và phạt vi phạm trong vụ việc trên đây là đúng hay trái pháp
luật? Vì sao?
2. Xác định các trường hợp người học nghề, người lao động phải chị trách nhiệm

hồn trả chi phí đào tạo?
Giả sử anh Văn hồn thành khóa đào tạo và sau khi đã làm việc được 35% tổng thời
gian cam kết làm việc theo hợp đồng đào tạo thì anh Văn chấm dứt hợp đồng lao động
đúng pháp luật. Vậy, anh Văn phải chịu trách nhiệm hồn trả chi phí đào tạo như thế nào?
Trả lời
1. Thỏa thuận bảo lãnh và phạt vi phạm trong vụ việc trên đây là đúng hay trái pháp luật? Vì

sao?
Thoả thuận bảo lãnh và phạt vi phạm trong vụ việc trên không trái với pháp luật. Vì:
Theo Điều 40 BLLĐ 2019 thì khi người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động trái với pháp luật thì phải hồn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động
quy định tại Điều 62 BLLĐ 2019. Trong tình huống trên, sau khi cơng ty L và anh Văn ký
kết hợp đồng đào tạo, anh đã khơng thực hiện đúng hợp đồng là hồn thành khố đào tạo
kỹ thuật tại Hàn Quốc mà có hành vi chạy trốn khi xuống tới sân bay Incheon. Vì vậy,
anh Văn phải hồn trả tồn bộ chi phí đào tạo bao gồm các khoảng được quy định tại
khoản 3 Điều 62 BLLĐ 2019: “các khoản chi có chứng từ hợp lệ về chi phí trả cho
người dạy, tài liệu học tập, trường, lớp, máy, thiết bị, vật liệu thực hành, các chi phí khác
hỗ trợ cho người học và tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp cho người học trong thời gian đi học. Trường hợp người lao động được gửi
đi đào tạo ở nước ngồi thì chi phí đào tạo cịn bao gồm chi phí đi lại, chi phí sinh hoạt
trong thời gian đào tạo.”
Mặt khác, ơng Hồng (cha anh Văn) đã ký cam kết bảo lãnh cho anh Văn trong
trường hợp anh trốn ở nước ngoài. Theo Điều 335 BLDS 2015 quy định: “Bảo lãnh là
việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là
bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên
được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.” Như vậy, ơng Hồng phải thay anh Văn
thực hiện nghĩa vụ hồn trả chi phí đào tạo cho cơng ty L trong thời hạn 10 ngày theo cam
kết bảo lãnh. Đối với mức phạt vi phạm căn cứ vào Điều 418 BLDS 2015 thì mức phạt vi
phạm do các bên thoả thuận trong trường hợp luật liên quan không quy định. Theo đó,

BLLĐ khơng có quy định cụ thể về mức phạt vi phạm vì vậy sẽ do các bên tự do thoả
9


thuận. Do đó, mức phạt vi phạm được thoả thuận trong cam kết bảo lãnh không trái với
pháp luật hiện hành.

2. Xác định các trường hợp người học nghề, người lao động phải chịu trách nhiệm hồn trả

chi phí đào tạo?
-Trường hợp 1: khi người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo (Điều 40 BLLĐ
2019).
-Trường hợp 2: khi người lao động và người sử dụng lao động ký kết hợp đồng đào
tạo có ghi nhận trách nhiệm hồn trả chi phí đào tạo (điểm d khoản 2 Điều 62 BLLĐ
2019).
Giả sử anh Văn hồn thành khóa đào tạo và sau khi đã làm việc được 35% tổng thời
gian cam kết làm việc theo hợp đồng đào tạo thì anh Văn chấm dứt hợp đồng lao động
đúng pháp luật. Vậy, anh Văn phải chịu trách nhiệm hồn trả chi phí đào tạo như thế nào?
Nếu anh Văn đã hồn thành khóa đào tạo và và sau khi đã làm việc được 35% tổng
thời gian cam kết làm việc theo hợp đồng đào tạo thì anh Văn chấm dứt hợp đồng lao
động đúng pháp luật thì anh Văn vẫn phải chịu trách nhiệm hồn trả chi phí đào tạo. Cơ
sở pháp lý: điểm d khoản 2 Điều 62 BLLĐ 2019. Vì theo như cam kết giữa 2 bên thì
“Anh Văn có trách nhiệm hồn trả cho Cơng ty L. chi phí đào tạo khi khơng hồn thành
khóa đào tạo vì bất kỳ lý do nào hoặc đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trong
thời gian đào tạo, không đảm bảo thời gian làm việc cho Công ty L. như cam kết…”. Mặc
dù anh Văn đã làm việc được 35% thời gian đã cam kết trong hợp đồng nhưng anh vẫn
không đảm bảo được thời gian làm việc như yêu cầu của Công ty L. Vì thế, anh phải trả
100% chi phí đào tạo với số tiền 165.532.199 đồng cho Công ty L.
_HẾT_


10



×