Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

tiểu luận đấu TRANH NGĂN CHẶN sự SUY THOÁI về tư TƯỞNG CHÍNH TRỊ của ĐẢNG VIÊN TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA và hội NHẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.76 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC …….
KHOA:

HỌ VÀ TÊN:

TIỂU LUẬN: ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN SỰ SUY THỐI VỀ TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG VIÊN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ HIỆN NAY

TÊN MÔN HỌC: XÂY DỰNG ĐẢNG

THÁN 11 NĂM 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC :……………
KHOA:

TIỂU LUẬN THAY THẾ THI KẾT THÚC HỌC PHẦN

TÊN BÀI TIỂU LUẬN: ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN SỰ SUY THỐI
VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG VIÊN TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện:
Khóa học: …………. Mã số sinh viên:
Giảng viên hướng dẫn:

THÁNG 11 NĂM 2021



MỤC LỤC

PHẦN I. MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SUY THỐI TƯ
Chương 1.
TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG VIÊN
1.1.
Khái niệm suy thối tư tưởng chính trị
1.2.
Biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH

1
2
2
2
4

CHỐNG SUY THỐI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA
Chương 2. ĐẢNG VIÊN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

8

ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ HIỆN NAY
Thực trạng đấu tranh chống suy thối tư tưởng chính
2.1.


trị của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định

8

hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay
Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu
2.2.

tranh chống suy thối tư tưởng chính trị của đảng viên
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và

hội nhập quốc tế hiện nay
PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

12

20
21


Phần 1. Mở đầu
Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị của
đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế là nhiệm vụ quan trọng, cơ bản, lâu dài của Đảng. Trong hơn 35
năm đổi mới, bám sát thực tế trong mỗi giai đoạn, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã thường xuyên, kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh chống suy thối về tư
tưởng chính trị; đề ra các chủ trương, giải pháp nhằm đấu tranh chống suy
thối về tư tưởng chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong giai đoạn do tác động

của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, tình trạng suy thối về tư tưởng
chính trị đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên diễn biến
phức tạp.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục kế thừa, bổ sung, phát triển chủ trương
từ các kỳ đại hội trước, đặc biệt là từ văn kiện Đại hội XII và các hội nghị của
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Đảng ta khẳng định “Việc đánh giá,
xếp loại tổ chức đảng và đảng viên ở một số nơi còn chưa thực chất. Một bộ
phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ,
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lơi sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”. [4, tr80]; sự tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường đã làm cho một
số ít cán bộ, đảng viên tha hóa, biến chất và bị phần tử xấu lợi dụng, lơi kéo,
kích động, xúi giục, mua chuộc nên có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng,
Nhà nước, đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc.
Vì vậy, việc nghiên cứu, học tập và nhận thức sâu sắc nội dung “Đấu
tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị của đảng viên trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện
nay” để từ đó ngăn chặn cái xấu, lan tỏa cái tốt trong hành trình xây dựng con
người mới, xã hội mới - xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ cấp bách có ý nghĩa to
lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta.


2
Phần 2. Nội dung
Chương I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SUY THỐI TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG VIÊN
1.1. Khái niệm suy thối tư tưởng chính trị
Trong thực tế hiện nay, nhiều người hay nhầm lẫn giữa hai khái niệm tư
tưởng chính trị và chính trị tư tưởng. Do vậy, sự suy thối về tư tưởng chính trị
cần phải được nhận thức đúng về bản chất của khái niệm cũng như vị trí cấp
bách của nó trong Nghị quyết.

Khái niệm chính trị tư tưởng phản ánh tồn bộ hoạt động tuyên truyền,
giáo dục đối với cán bộ, đảng viên về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, biện pháp, phương thức tiến hành một mặt công tác của nhiệm
vụ xây dựng Đảng: Cơng tác chính trị tư tưởng cùng với công tác tổ chức cán
bộ và công tác kiểm tra, giám sát, công tác dân vận là những nội dung chủ yếu
của công tác xây dựng Đảng.
Tư tưởng chính trị phản ánh tồn bộ trạng thái tư tưởng của đảng viên
đối với toàn bộ hệ thống các quan điểm chỉ đạo, đường lối chính trị, đường lối
cầm quyền của Đảng ta đã được xác lập trong Cương lĩnh chính trị; Điều lệ
Đảng, Nghị quyết, Chỉ thị, quy định, kết luận do Đảng ban hành hoặc được thể
chế hóa thành các quy định của pháp luật do các cơ quan quyền lực Nhà nước
ban hành.
Khái niệm này tồn tại độc lập, khu biệt với các khái niệm: Tư tưởng
triết học; tư tưởng tôn giáo; tư tưởng quân sự, tư tưởng văn học nghệ thuật…
Trạng thái tư tưởng về chính trị tồn tại ở các cấp độ khác nhau: Kiên định,
khơng kiên định, dao động, suy thối.
Suy thối, theo Từ điển tiếng Việt: suy thoái là suy yếu và sút kém dần,
có tính chất kéo dài; Lùi bước vì yếu kém [5, tr.1276]. Cũng có thể hiểu, suy
thối là sự yếu kém, hư hỏng, làm mất dần đi cái tốt, cái tiến bộ, làm tăng dần
cái xấu, cái lạc hậu, làm chậm lại quá trình phát triển dẫn đến sự thối hóa và
biến chất của sự vật, hiện tượng, q trình hay chính bản thân con người và tổ
chức xã hội của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Trong thế giới


3
cái gì cũng biến hóa, tư tưởng con người cũng biến hố. Có cái thì biến hóa
tiến bộ lên, tức là phát triển; có cái thì biến hóa lạc hậu đi, tức là suy thối.
Suy thối về tư tưởng chính trị, thuật ngữ được Đảng ta chính thức sử
dụng lần đầu tiên trong Văn kiện Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII
(2/1999). Đó là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin vào mục

tiêu, con đường mà Đảng ta đã lựa chọn; nghi ngờ vai trò cũng như năng lực
lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Suy thối
về tư tưởng chính trị cịn là việc sa sút ý chí phấn đấu, khơng gương mẫu
trong cơng tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa,
làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; khơng cịn ý thức hết lịng vì nước,
vì dân,…
Phát biểu khai mạc Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng do Bộ Chính trị, Ban Bí thư
tổ chức tại Hà Nội vào ngày 27-2, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
quán triệt sâu sắc rằng: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị thể hiện ở chỗ: Phai
nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, dao
động, thiếu niềm tin, sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai
không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức sai, quan điểm lệch lạc; khơng
cịn ý thức hết lịng vì nước, vì dân, khơng làm trịn bổn phận, chức trách được
giao; khơng thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng”.
Suy thối về tư tưởng chính trị khác với những băn khoăn, lo lắng, bức
xúc, có lúc thiếu lịng tin; khác với vi phạm một số khuyết điểm, chấp hành
không nghiêm một số quy định của Hiến pháp, pháp luật. Cũng như phát
triển, suy thối bao giờ cũng mang tính bản chất, tính tổng thể của sự vật, hiện
tượng, quá trình hay con người và tổ chức của con người. Đối với suy thối
về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên sẽ dẫn đến suy thoái về đạo đức,
lối sống, làm sa sút phẩm chất đạo đức, xuống cấp về lối sốnglàm hư hỏng,
làm biến chất cán bộ, đảng viên và làm hỏng mọi việc của cá nhân và tổ chức
của họ.


4
Như vậy, suy thối về tư tưởng chính trị khơng phải là một khái niệm
trừu tượng mà nó biểu hiện rất cụ thể trong một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên.

1.2. Biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị
Hiện nay, sự suy thối về tư tưởng chính trị biểu hiện tính chất, mức độ
khác nhau, diễn ra ở các đối tượng khác nhau, từ đảng viên không giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý – đảng viên thường, đến đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản
lý các cấp, kể cả cán bộ cao cấp. Về vấn đề này, Nghị quyết Trung ương 4
khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ rõ chín biểu hiện suy thối về tư
tưởng chính trị. Cùng với đó, Nghị quyết cũng chỉ ra chín biểu hiện suy thối
về đạo đức, lối sống và chín biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Đó là bước phát triển về nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phát biểu
bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã chỉ rõ: Cái mới của lần này là Trung ương thẳng thắn chỉ ra một
cách có hệ thống những biểu hiện của sự suy thối về tư tưởng chính trị và
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong đó nguy hiểm nhất
là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ
nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin, nói trái, làm trái quan điểm, đường lối
của Đảng; thậm chí sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng khơng bảo vệ, thấy sai
không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc;
khơng cịn ý thức hết lịng vì nước, vì dân, khơng làm trịn bổn phận, chức
trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng;
sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, ham quyền lợi;
bè phái cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vơ cảm trước khó khăn, bức
xúc của dân.
Để nhận diện suy thối về tư tưởng chính trị, chúng ta cần nhận diện
theo đối tượng cán bộ, đảng viên suy thoái. Đối tượng này có thể chia thành


5
hai nhóm: nhóm cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý và nhóm

đảng viên khơng giữ cương vị lãnh đạo, quản lý.
Nhóm đối tượng thứ nhất, sự suy thoái của bộ phận cán bộ, đảng viên
giữ cương vị lãnh đạo, quản lý, kể cả cán bộ cao cấp. Đây là nhóm cán bộ,
đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý có chức, có quyền, trong đó có những
cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý cấp cao, kể cả cấp Trung ương.
Thực tế cho thấy, nhóm cán bộ, đảng viên này có nguy cơ suy thối cao và có
nguy hại lớn, vì sự liên quan lớn hơn đến quyền lực chính trị, quyền lực kinh
tế, quyền lực xã hội của họ. Trong đội ngũ cán bộ, đảng viên này, có nhiều
người đã phấn đấu trưởng thành cùng sự nghiệp cách mạng của Đảng, được
phân công giữ những trọng trách lãnh đạo và quản lý xã hội, luôn tỏ rõ sự
vững vàng về lập trường tư tưởng chính trị và trong sạch về đạo đức, lối sống.
Nhưng cũng có bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên do bố trí khơng đúng
phẩm chất, năng lực, lại không chịu rèn luyện phấn đấu, dần dần rơi vào chủ
nghĩa cá nhân, dẫn tới thối hóa, biến chất. Đảng nhận định: “Đội ngũ cán bộ
cấp trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng, nhưng chưa được xây dựng một
cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương,
chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không
đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân cơng cán bộ” [1, tr. 22].
Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật cơng tâm, khách quan,
khơng vì u cầu cơng việc, bố trí khơng đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng
đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.
Suy thoái về tư tưởng chính trị biểu hiện ở bộ phận cán bộ, đảng viên
có chức, có quyền này là tự cho mình đứng ngoài sự quản lý, giám sát của tổ
chức, coi thường kỷ luật, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, cũng như quy định
của cơ quan, đơn vị; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt
Đảng, có tư tưởng bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; coi thường nguyên tắc “tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Từ đó, dẫn tới độc đoán, chuyên quyền, đặc
quyền, đặc lợi, tham nhũng, coi thường tập thể, trở thành “quan cách mạng”.
Trong số đó, có người mất phương hướng chính trị, quay lại nói xấu Đảng,



6
chống phá chế độ. Suy thối về tư tưởng chính trị sẽ dẫn đến cơ hội về chính
trị, làm phân hóa bộ phận lãnh đạo, làm tan rã Đảng, vơ hiệu hóa sự quản lý
của Nhà nước, làm chệch hướng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Bài học xương máu về sự sụp đổ của các Đảng Cộng sản và chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu cuối thế kỷ XX vẫn cịn đó; và
chỉ ra rằng, nó có ngun nhân chính từ những mặt, những biểu hiện suy thoái
về tư tưởng chính trị trong bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý cao nhất.
Suy thối về tư tưởng chính trị của bộ phận cán bộ, đảng viên có chức,
có quyền cịn biểu hiện ở bệnh quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức
xúc của nhân dân. Hiện nay, vẫn cịn khơng ít người lãnh đạo, cán bộ cấp cao
cịn xa dân, không sát cơ sở, không hiểu thực tiễn, ít lắng nghe ý kiến cấp
dưới, không nắm được công việc, cuộc sống của nhân dân, nên nhiều trường
hợp đề ra chủ trương, chính sách của “Nhà trời”, khơng phù hợp với thực tế,
không đi vào cuộc sống, không được “Nhà dân” đồng tình và ủng hộ.
Suy thối về tư tưởng chính trị đang dẫn đến những hệ lụy khơn lường,
nó đang tạo ra “tự diễn biến”, dẫn đến “tự chuyển hóa” trong một bộ phận
khơng nhỏ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền và đang bị các thế lực thù
địch lợi dụng triệt để, phục vụ cho chiến lược “diễn biến hịa bình” chống phá
cách mạng nước ta. Khơng cịn nghi ngờ gì nữa, sự suy thối đó chính là giặc
“nội xâm”, là kẻ thù bên trong, tạo cơ hội cho kẻ thù bên ngoài, cho giặc
ngoại xâm thơn tính nước ta, trong đó nạn tham nhũng đang là nguy cơ trực
tiếp nhất, nguy hại nhất.
Nhóm đối tượng thứ hai, sự suy thoái của bộ phận đảng viên khơng giữ
chức vụ trong Đảng và chính quyền. Đảng viên khơng giữ cương vị chức
trách trong Đảng và chính quyền là những đảng viên chưa hoặc không được
giao các chức vụ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, chỉ chịu trách nhiệm cá nhân khi
thực hiện các nhiệm vụ đảng viên. Sự suy thối của bộ phận này có những
điểm giống và điểm khác với đối tượng cán bộ, đảng viên có chức, có quyền

nêu trên.


7
Sự suy thối về tư tưởng chính trị của nhóm đối tượng này là thiếu
niềm tin vào các cấp, nghi ngờ vai trò lãnh đạo của Đảng, phai nhạt lý tưởng
cách mạng, dao động về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; khơng làm trịn
nhiệm vụ người đảng viên. Nhiều người không thấm nhuần tư tưởng và tiêu
biểu về phẩm chất: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Trong sản xuất,
kinh doanh và cơng tác, có đảng viên không chấp hành nghiêm luật pháp, lợi
dụng hoặc cố ý làm trái chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để làm
giàu bất chính; khơng biết hoặc khơng dám đấu tranh, rất hay ngộ nhận và
phụ họa theo những nhận thức, hành động tiêu cực, tư tưởng sai trái, quan
điểm lệch lạc; phát ngôn sai với đường lối, quan điểm của Đảng; không làm
chủ được bản thân, rất dễ bị kích động, thậm chí có người ý thức chính trị
kém, bị kẻ địch lợi dụng lơi kéo.
Suy thối về tư tưởng chính trị và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có
mối quan hệ biện chứng với nhau: suy thối về tư tưởng chính trị trong đạo
đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. “Tự diễn biến” xảy ra ở
hai phạm vi: đối với cá nhân và tổ chức. “Tự diễn biến” đối với cá nhân là sự
thay đổi về nhận thức chính trị - xã hội, thay đổi về quan điểm, tư tưởng theo
chiều hướng tiêu cực, xấu đi, nhận thức và hành động xa rời, nhận thức, đi
ngược lại chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. “Tự diễn biến” đối với
tổ chức là những thay đổi ở tầm vĩ mô về đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật, làm thay đổi bản chất chính trị, thậm chí làm suy yếu và tan rã tổ
chức đó. “Tự diễn biến” của cá nhân có thể dẫn đến sự thay đổi của tập thể, tổ
chức. “Tự diễn biến” của tổ chức chi phối, áp đặt, điều khiển đối với các cá
nhân trong tổ chức đó.
“Tự chuyển hóa” là hậu quả tất yếu của các quá trình “tự diễn biến”,

nếu khơng được ngăn chặn kịp thời. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có mối
quan hệ khơng tách rời với "diễn biến hịa bình". Đó là mối quan hệ giữa
khách quan và chủ quan, giữa nhân tố bên ngồi và bên trong. "Diễn biến hịa
bình" thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đến lượt nó, “tự diễn biến”,


8
“tự chuyển hóa” thúc đẩy “diễn biến hịa bình”, trong đó “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” là nhân tố bên trong nguy hiểm nhất.
Như vậy, sự suy thoái về tư tưởng chính trị sẽ dẫn đến “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” và q trình này chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn,
nguy hiểm khơn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực
xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân
tộc, đe dọa sự sống còn của Đảng, của chế độ. Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã cho thấy điều đó.
Chương II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH
CHỐNG SUY THỐI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG VIÊN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
2.1. Thực trạng đấu tranh chống suy thối tư tưởng chính trị của
đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế hiện nay
* Thành tựu trong đấu tranh chống suy thoái tư tưởng chính trị của
đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế hiện nay
Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị là nhiệm
vụ quan trọng, cơ bản, lâu dài của Đảng. Trong hơn 35 năm đổi mới, bám sát
thực tế trong mỗi giai đoạn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thường xuyên, kịp
thời lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh chống suy thối về tư tưởng chính trị; đề ra
các chủ trương, giải pháp nhằm đấu tranh chống suy thối về tư tưởng chính

trị, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ. Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, công tác đấu tranh chống suy thối về tư tưởng chính trị của đảng viên
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Cụ thể:
Một là, nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng
viên về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được nâng lên; nhận diện sâu sắc,


9
đầy đủ hơn các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hố”; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình; kết hợp hài hồ giữa “xây”
và “chống”. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã coi trọng hơn việc đề cao tinh thần
cảnh giác, đấu tranh với những biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhất là việc đấu tranh với những
biểu hiện nói và làm trái với Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Coi trọng xây dựng, củng cố, nâng cao
chất lượng hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở.
Coi trọng cơng tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ, góp phần tăng cường
đồn kết trong Đảng. Kịp thời phát hiện, đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại
âm mưu, hoạt động “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch, tổ chức
phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị. Đấu tranh với những phần tử
suy thối về tư tưởng chính trị ngay từ chi bộ, khu dân cư.
Hai là, đã thành lập được các ban chỉ đạo đấu tranh chống “diễn biến
hịa bình”, chống suy thối về tư tưởng chính trị.
Ban Bí thư và Chính phủ đã thành lập một số ban chỉ đạo như: Ban
Chỉ đạo đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa
của Trung ương (gọi tắt là Ban Chỉ đạo Trung ương 94); Ban Chỉ đạo 609 đấu
tranh trên mặt trận lý luận; Ban Chỉ đạo Đề án 213 đấu tranh trên lĩnh vực văn
học, nghệ thuật; Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại; Ban Chỉ đạo Nhân

quyền của Chính phủ. Các địa phương, ban, ngành thành lập Ban Chỉ đạo 94
của địa phương, ban, ngành mình. Mới đây, Bộ Quốc phịng đã thành lập Bộ
Tư lệnh tác chiến khơng gian mạng.
Ba là, các hoạt động đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị
được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm, cụ thể và được tổ chức phong phú,
đa dạng.
Các ban chỉ đạo địa phương, ban, ngành định kỳ giao ban, định hướng
thông tin, phối hợp với các lực lượng, tập trung đấu tranh theo các nội dung,
lĩnh vực và nhóm đối tượng được phân cơng. Ban Chỉ đạo Trung ương 94


10
hàng tuần xây dựng kế hoạch đấu tranh, phân công viết các bài đấu tranh, phê
phán các quan điểm sai trái, lệch lạc.
Tăng cường quản lý và định hướng thông tin, quyết liệt chặn, lọc các
thông tin xấu, độc trên mạng xã hội và internet. Chủ động làm việc với các
nhà cung cấp dịch vụ trong và ngoài nước yêu cầu hợp tác ngăn chặn hành vi
vi phạm pháp luật của Việt Nam; ngăn chặn, gỡ bỏ những nội dung đưa thông
tin chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, xuyên tạc, bơi nhọ các đồng chí
lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Các cơ quan báo chí từ Trung ương đến địa phương có chun trang,
chun mục, kịp thời định hướng thơng tin và đấu tranh phê phán, ngăn chặn,
đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị.
Bốn là, cơng tác tun truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân được chú trọng, đẩy mạnh.
Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nâng cao sức
đề kháng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời phê phán các quan
điểm sai trái, phản động một cách kịp thời, thường xuyên bằng nhiều hình

thức, phương pháp.
Huy động được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và sự đồng
tình, ủng hộ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối tư tưởng chính
trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Trên thực tế, các cấp ủy, tổ chức đảng các
cấp đã chủ động đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, từng bước ngăn chặn được tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hịa bình” của
các thế lực thù địch. Nhiều tấm gương điển hình, tiên tiến được nhân rộng, lan
toả trong đời sống xã hội, đồng thời xử lý kịp thời, nghiêm minh, khách quan
những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật; tăng cường
kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và xã hội, có tác dụng cảnh báo, răn đe, phòng


11
ngừa chung. Trong nhiệm kỳ khóa XII, Đảng đã phải xử lý tới hơn 87.000
cán bộ, đảng viên. Ở một số lĩnh vực, địa bàn, tình hình cịn diễn biến phức
tạp, nghiêm trọng, có biểu hiện ngày càng tinh vi, nhất là biểu hiện nhũng
nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà, hành là chính… tạo ra sự bức xúc lớn cho nhân
dân. Chưa kể những biểu hiện mới xuất hiện như tham nhũng chính sách, tác
động hướng lái, chuyển hóa các quan điểm, tư tưởng trong xây dựng pháp
luật..
* Hạn chế trong đấu tranh chống suy thối tư tưởng chính trị của đảng
viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế hiện nay và nguyên nhân
Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 vẫn cịn hạn chế,
khuyết điểm: có lúc, có nơi, việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức đấu tranh chống
suy thối tư tưởng chính trị của đảng viên hiệu quả chưa cao; việc nắm, đánh
giá suy thoái tư tưởng chính trị của đảng viên chưa kịp thời, sâu sát.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý

nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của cơng tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý
tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đơi với làm, vi
phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật.
Một số tổ chức đảng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu còn thấp; các
nguyên tắc xây dựng Đảng thực hiện chưa nghiêm, thậm chí cịn vi phạm.
Một số nơi cịn lỏng lẻo trong việc rèn luyện, quản lý đảng viên; tính chiến
đấu trong tự phê bình và phê bình cịn yếu...
Cơ chế kiểm soát quyền lực và chế tài xử lý vi phạm ở nhiều lĩnh vực
chưa có hoặc có nhưng chưa cụ thể, hiệu quả thực thi thấp. Hoạt động giám
sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân
đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả;
chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong việc
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch...


12
Nguyên nhân hạn chế:
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan,
song trực tiếp và quyết định nhất là do một số cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ
lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy
thoái tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hố” của đội ngũ cán bộ,
đảng viên tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình; chưa quyết tâm và có biện
pháp chỉ đạo đủ mạnh, cịn thụ động, trơng chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của
cấp trên; không thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa gương
mẫu, mất đoàn kết nội bộ, chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy
thối, “tự diễn biến”, “tự chuyển hố”, thậm chí cịn cục bộ, lợi ích nhóm, bị
cám dỗ bởi lợi ích vật chất, thờ ơ, vơ cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân
dân; ý thức tu dưỡng, rèn luyện của một số cá nhân còn hạn chế...

2.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu
tranh chống suy thối tư tưởng chính trị của đảng viên trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đánh giá “công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ, quyết liệt, có
hiệu quả rõ rệt” [4, tr 73], tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế. Vì vậy, Báo cáo
Chính trị Đại hội XIII khẳng định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi
trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng chỉnh đốn Đảng tồn diện về chính trị,
tư tưởng , đạo đức, tổ chức và cán bộ. Tập trung thực hiện đồng bộ, có hiệu
quả 10 nhiệm vụ giải pháp xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ
chức; củng cố nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên;
tăng cường xây dựng Đảng về cán bộ cao cấp, nhất là cấp chiến lược và người
đứng đầu; tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát kỷ
luật đảng; thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân,
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; kiên quyết kiên trì đấu tranh phịng,
chống tham nhũng lãng phí; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo
của Đảng trong điều kiện mới” [4, tr.180]. Vì vậy, trong thời gian tới, để ngăn


13
chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị cần thực hiện tốt những
giải pháp sau:
Một là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tư
tưởng đáp ứng u cầu phịng, chống sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cơ quan, đơn vị.
Tập trung giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, quần
chúng về các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội; về những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử của cơng cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh

đạo; giáo dục chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa; lịch sử, truyền thống, bản
sắc văn hóa của dân tộc, truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng; tập trung
bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và nhân cách quân nhân, giữ
vững, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”... Đồng thời, giáo dục
nhận thức rõ những hạn chế, bất cập không thể tránh khỏi trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, thực hiện cơ chế thị trường, mở
cửa, hội nhập quốc tế. Thơng qua đó, xây dựng cho mỗi cán bộ, đảng viên,
quần chúng có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, biết vận sáng tạo và phát triển phù hợp với
thực tiễn nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình.
Cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo chỉ huy các cấp cần chú trọng đẩy mạnh
công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nhất là các học viện, nhà
trường và cơ quan nghiên cứu, góp phần làm sáng tỏ đường lối quan điểm của
Đảng, lý giải những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra. Tư duy trên nhiều lĩnh
vực, đặc biệt là tư duy về bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới có bước phát
triển, góp phần vào việc hoạch định những chủ trương, chính sách lớn về
nhiệm vụ qn sự, quốc phịng; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân...
Cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các
cấp quán triệt, thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định về lãnh đạo, chỉ
đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Thực hiện có hiệu quả Đề án “Đổi


14
mới cơng tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”, làm tốt công
tác giáo dục pháp luật, giáo dục khoa học xã hội và nhân văn. Thủ trưởng các
cấp phải có kế hoạch tổ chức thực hiện cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng
chặt chẽ, hiệu quả, khắc phục triệt để tình trạng “giao khốn” cho cơ quan
chính trị và cán bộ chính trị. Thực hiện nghiêm quy chế học tập lý luận chính
trị; hàng năm, bắt buộc mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng, nhất là cán bộ chủ
chốt phải hoàn thành nhiệm vụ học tập lý luận chính trị và được cập nhật kiến
thức mới.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp đối với công tác tư tưởng. Nâng
cao chất lượng cán bộ làm công tác tư tưởng ở các cấp. Tăng cường sinh hoạt
đối thoại dân chủ, công khai; đẩy mạnh thực hiện biện pháp nêu gương, “tự
soi, tự sửa”, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ lãnh đạo. Nắm
chắc diễn biến tư tưởng, dư luận, các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên, quần
chúng; chủ động phát hiện và xử lý kịp thời những vấn đề nảy sinh. Phát huy
vai trò chủ động, tự giác của bản thân cán bộ, đảng viên, quần chúng trong
việc rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Lãnh đạo, chỉ
đạo kết hợp chặt chẽ, hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng với nâng
cao chất lượng xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật và cải cách hành chính.
Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh; gắn với chống suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; rèn
luyện phong cách làm việc khoa khọc, dân chủ, sâu sát cơ sở, nói đi đơi với
làm, khắc phục biểu hiện quan liêu, quân phiệt, vô cảm; coi đây là công việc
thường xuyên của các tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị.
Đẩy mạnh hoạt động văn hóa, văn nghệ, góp phần xây dựng, phát triển
mơi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, có vai trị định hướng tư tưởng,
hướng dẫn hành động, xây dựng lối sống có văn hóa, ni dưỡng tâm hồn và
nhân cách con người.
Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; duy trì thực hiện nghiêm chế
độ lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị đối thoại và trực tiếp giải quyết những


15
khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất của cán bộ, đảng viên, quần chúng;
phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng tham gia xây dựng Đảng.
Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của các cấp
ủy, tổ chức đảng các cấp trong cơ quan, đơn vị
Tạo sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức của cấp uỷ, tổ chức đảng

các cấp về tầm quan trọng, sự cần thiết, cấp bách của phòng, chống sự suy
thối, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cơ quan, đơn vị; phát huy vai trò
lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng; hiệu lực, quản lý, điều hành của chính
ủy, chính trị viên, người chỉ huy; vai trị tham mưu, hướng dẫn của cơ quan
chính trị các cấp trong phịng, chống sự suy thối, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong cơ quan, đơn vị. Bảo đảm cho Đảng bộ luôn trong sạch vững
mạnh, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Bổ sung, hoàn thiện hệ thống tiêu chí xây dựng tổ chức đảng trong
sạch, vững mạnh; thường xuyên kiện toàn cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; coi
trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng, xây dựng cấp uỷ, chi bộ trong sạch vững
mạnh, đặc biệt là, cấp uỷ, chi bộ ở đơn vị, xã, phường, thị trấn... Gắn xây
dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng cơ quan, đơn vị
vững mạnh toàn diện; xây dựng cấp uỷ trong sạch vững mạnh với xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì, xứng đáng là những cán bộ
vừa “hồng”, vừa “chuyên”, như Bác Hồ đã dạy.
Tiếp tục đổi mới phong cách làm việc sâu sát cơ sở. Chăm lo xây dựng
đội ngũ cấp ủy viên ở cơ sở, trước hết là bí thư cấp ủy có phẩm chất, năng lực
và đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, thật sự tiền phong, gương
mẫu, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể,
đề cao tính chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của
người đứng đầu cấp ủy, đơn vị; đề cao vai trị tiền phong, gương mẫu của bí
thư, cán bộ chủ trì trong rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và đấu
tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đổi mới nội dung, thực hiện nghiêm túc nền nếp, chế độ sinh hoạt
đảng; nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết; năng lực tổ chức


16
thực hiện nghị quyết, xác định đúng nội dung lãnh đạo, chỉ đạo đi sâu lãnh
đạo hoàn thành nhiệm vụ chính trị, khắc phục hạn chế yếu kém... Rà sốt, bổ

sung, sửa đổi và thực hiện nghiêm quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo trên
các mặt công tác trọng yếu. Xác định rõ mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với
cá nhân phụ trách; xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu, chống quan
liêu độc đoán, dân chủ hình thức... Hàng năm, lấy kết quả thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao; tự phê bình và phê bình; sự nêu gương của cán bộ
lãnh đạo, quản lý; hiệu quả đấu tranh, khắc phục suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” là những tiêu chí quan trọng để đánh giá, xếp loại tổ chức đảng
và cán bộ, đảng viên.
Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có nền nếp, chất lượng, hiệu quả chế độ
kiểm điểm tự phê bình và phê bình hàng năm của các cấp ủy, tổ chức đảng và
đảng viên theo đúng tinh thần Nghị quyết số 04-NQ/TW khóa XII. Khắc phục
tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và có biện pháp bảo vệ người thẳng
thắn, quyết liệt trong phê bình. Cấp ủy cấp trên gợi ý kiểm điểm đối với tập
thể, cá nhân những nơi có vấn đề phức tạp, có biểu hiện suy thối, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”; u cầu giải trình rõ nguyên nhân, trách nhiệm, xây
dựng kế hoạch sửa chữa, khắc phục; trực tiếp dự, chỉ đạo kiểm điểm. Từng
cán bộ, đảng viên, quần chúng đối chiếu với 27 biểu hiện suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ, tự soi mình để rèn luyện, phấn đấu.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chủ động rà soát việc thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 và kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm của cơ
quan, đơn vị mình đã đề ra; chỉ rõ những việc đã làm được, những việc chưa
làm và chưa làm tốt; nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm; kịp thời
điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung những nội dung cần thiết để lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện; nhất là những vấn đề phức tạp, nổi cộm mới phát sinh, những nội
dung vừa qua chưa thực hiện được, hoặc thực hiện chưa đạt yêu cầu đề ra. Bí
thư cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp hàng năm phải có kế hoạch hành động cụ
thể của cá nhân thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW; từng cán bộ, đảng viên,



17
quần chúng phải có cam kết việc rèn luyện giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối
sống, khơng có biểu hiện suy thối “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; các cấp
ủy, tổ chức đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng
viên, quần chúng ở cơ quan, đơn vị mình.
Lãnh đạo, chỉ đạo, tiến hành tốt công tác phát triển đảng viên mới; sàng
lọc và kiên quyết đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi đảng. Thơng
qua đó, phát huy tốt vai trị giám sát thường xuyên của tổ chức đảng, đảng
viên đối với cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị.
Ba là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ được giao.
Cán bộ là nhân tố quyết định thành bại của cách mạng, là khâu then
chốt trong công tác xây dựng Đảng, phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng. Đường lối, quan điểm của Đảng là cơ sở, định hướng để xác định
mục tiêu, phương hướng, chủ trương, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ vững
mạnh, đủ sức lãnh đạo, quản lý đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Vì
vậy, cấp ủy các cấp phải quán triệt, cụ thể hóa và thực hiện nghiêm nguyên
tắc Đảng lãnh đạo công tác cán bộ và thống nhất quản lý đội ngũ cán bộ; tăng
cường sự lãnh đạo của cấp ủy, phát huy vai trò của cán bộ chủ trì và cơ quan
chính trị trong tổ chức thực hiện.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì các cấp có
bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với
nhân dân; có phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống trong sạch; có số lượng
và cơ cấu hợp lý; có năng lực lãnh đạo, chỉ huy tốt; trình độ, kiến thức chun
mơn ngày càng cao; có uy tín trong tập thể, đáp ứng tốt hơn yêu cầu xây dựng
trong tình hình mới. Các cấp phải kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng đội ngũ cán
bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên; xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì vững
mạnh với xây dựng cấp ủy các cấp trong sạch, vững mạnh, làm hạt nhân lãnh
đạo, chỉ huy và đoàn kết trong đơn vị.



18
Cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp phải đề cao trách nhiệm, quản lý đội ngũ
cán bộ một cách tồn diện, cả về tư tưởng, quan điểm chính trị, đạo đức, lối
sống, năng lực chuyên môn, sức khỏe, các mối quan hệ xã hội, tâm tư nguyện
vọng, hậu phương, gia đình cán bộ. Phải kết hợp chặt chẽ giữa quản lý cán bộ
với quản lý đảng viên, quản lý của tổ chức với tự quản lý của cán bộ; trong
đó, tự quản lý có vai trị rất quan trọng. Hoàn thiện quy định và tổ chức thực
hiện việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ chủ trì các cấp; có quy chế nhận xét,
đánh giá cán bộ một cách khách quan, khoa học, dựa vào chất lượng và hiệu
quả công tác để đánh giá cán bộ, có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ ở các cấp;
gắn nhận xét, đánh giá, phân loại cán bộ với quy hoạch, đào tạo, sử dụng và
thực hiện chính sách cán bộ. Rà soát, cách chức, miễn nhiệm, điều động ngay
những trường hợp suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, khơng hồn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật
và các trường hợp tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm, điều động cán bộ không bảo
đảm tiêu chuẩn.
Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, phát huy vai trị của cán bộ chủ trì
và cơ quan chính trị các cấp trong tổ chức thực hiện công tác cán bộ. Mọi vấn
đề về cán bộ và công tác cán bộ phải được bàn bạc dân chủ, cơng khai, đúng
quy trình, quy định. Coi trọng xây dựng đội ngũ những người làm công tác
cán bộ vững mạnh tồn diện, trước hết là về chính trị, tư tưởng, thực sự làm
tốt vai trò tham mưu giúp cấp ủy xây dựng chủ trương, biện pháp lãnh đạo,
chỉ đạo và hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện công tác cán bộ; bảo đảm
cho công tác cán bộ luôn được thực hiện đúng theo quan điểm, đường lối của
Đảng và sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cấp trên cũng như cấp mình.
Thực hiện tốt cơng tác quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển cán
bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các cấp. Việc quy hoạch cán bộ
phải vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính tổng thể, lâu dài; kết hợp

chặt chẽ giữa quy hoạch cán bộ có kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ huy, đã qua
chiến đấu với cán bộ trẻ, tài năng, đức độ, bảo đảm tính kế thừa, phát triển
vững chắc.


19
Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Tích
cực, đổi mới quy trình, nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa; rút ngắn được thời gian đào tạo. Kết hợp tốt
các loại hình đào tạo, gắn đào tạo theo chức vụ với trình độ học vấn, giữa
nâng cao lý luận với bồi dưỡng năng lực thực tiễn; kết hợp đào tạo chính quy
với bồi dưỡng tại chức, đào tạo với tự đào tạo, đào tạo trong nước với đào tạo
ở nước ngoài; chú trọng xây dựng bản lĩnh chính trị, mặt bằng kiến thức, trình
độ cơ bản và chuyên ngành, bảo đảm cho cán bộ thực hiện tốt chức trách,
nhiệm vụ được giao.
Bốn là, đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi
hành kỷ luật Đảng.
Để góp phần xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên,
cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp, cần tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng phải
gắn với kiểm tra cá nhân người đứng đầu; thực hiện theo phương châm “Mở
rộng giám sát, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm”. Cơng tác kiểm tra, giám sát
phải góp phần phát hiện và khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi
mới manh nha; bên cạnh việc tiếp tục thực hiện kiểm tra tổ chức, cá nhân
đảng viên có dấu hiệu vi phạm, phải tăng cường chủ động giám sát, kiểm tra
về phẩm chất đạo đức, kết quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên, về nhận thức và chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và việc chấp hành Điều lệ Đảng.
Bên cạnh kiểm tra, giám sát theo nội dung, kế hoạch đã xác định, cần

tập trung kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đảng và đảng viên có khuyết
điểm, hồn thành nhiệm vụ hạn chế; coi trọng kiểm tra tổ chức đảng và đảng
viên là cán bộ chủ trì có biểu hiện vi phạm ngun tắc tổ chức và sinh hoạt
đảng, quy chế làm việc, vi phạm Quy định về những điều đảng viên không
được làm, mất đoàn kết nội bộ, thiếu trách nhiệm trong thực hiện chức trách,


20
nhiệm vụ... Xem xét, giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo của tổ chức
đảng và đảng viên, bảo đảm chặt chẽ, đúng nguyên tắc.
Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, vi phạm nguyên tắc
tổ chức và sinh hoạt Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, quần chúng; giữ vững kỷ
cương, kỷ luật của Đảng; nhằm tăng cường “sức đề kháng”, vơ hiệu hóa mọi
âm mưu, hoạt động phá hoại tư tưởng, thâm nhập, chuyển hóa, lũng đoạn nội
bộ, tha hóa cán bộ, đảng viên và quần chúng của các thế lực thù địch.
Đẩy mạnh cơng tác đấu tranh phịng, chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, trước hết là người lãnh đạo cơ quan, đơn vị các cấp phải có biện
pháp và gương mẫu, kiên quyết đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ
hội thực dụng, tham nhũng, lãng phí; chủ động phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp
thời, nghiêm minh các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, quần chúng vi
phạm, nhất là các hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn để tham nhũng, trục
lợi cá nhân, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ...
Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một thực tế đang tồn
tại ở nước ta với những biểu hiện ở các mức độ và phạm vi cụ thể khác nhau,
trở thành một trong những nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.



21
Phần 3. KẾT LUẬN
Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới của cơng cuộc đổi mới tồn diện,
đồng bộ, trong điều kiện hội nhập quốc tế, đội ngũ cán bộ, đảng viên nếu
khơng vững vàng về chính trị, khơng thống nhất về tư tưởng, không trong
sạch về đạo đức, lối sống, không kiên định về hành động... nhất định
không đảm đương được nhiệm vụ, tồn Đảng khơng thể đứng vững, chế
độ bị đe dọa. Vì vậy, ngăn chặn, đẩy lùi, loại bỏ sự suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống đối với cán bộ, đảng viên , trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay …là
việc rất cấp bách và rất quan trọng, mệnh hệ tới sự tồn vong của Đảng,
Nhà nước và chế độ ta, là công việc và danh dự của dân tộc ta; bảo vệ
chính trị nội bộ làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế
lực thù địch. Đó khơng chỉ là tư tưởng hành động của những quyết sách
của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, là nguyện vọng của Nhân dân mà
còn là động lực để phát triển kinh tế, ổn định chính trị, thúc đầy đất nước
ta tiến lên, sánh vai cùng các quốc gia trên hoàn cầu.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về
“Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ”, số 04-NQ/TW ngày 05 tháng 11 năm 2016, Hà
Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ IX , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Từ điển Tiếng Việt (2014), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội



22
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Khóa VI, VII, VIII,
IX, X) (2010), Phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


×