Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

khoá luận GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN TRONG CÁC VỤ ÁN LY HÔN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.51 KB, 99 trang )

TRUNG ƯƠNG ĐỒN TNCS HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN TRONG CÁC VỤ ÁN LY
HÔN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

Họ và tên
Mã số sinh viên
Lớp
Khóa
Giảng viên hướng
dẫn

:
:
:
:
:

Phạm Thị Phương Anh
2018040012
Luật 2
7
ThS. Hồng Trung
Hiếu

Hà Nội, năm 2022



LỜI CẢM ƠN
Đề tài “ Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp
luật Việt Nam qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình” là nội dung em chọn để nghiên cứu và làm khóa luận tốt nghiệp sau
bốn năm theo học chương trình cử nhân Luật tại Học viện Thanh thiếu niên
Việt Nam.
Để hồn thành q trình nghiên cứu và hồn thiện khóa luận này, lời đầu
tiên em xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến Thầy Hồng Trung Hiếu thuộc Bộ
mơn Luật, khoa Chính trị học – Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam. Thầy là
người đã trực tiếp chỉ bảo và hướng dẫn em trong suốt q trình nghiên cứu để
hồn thiện khóa luận. Ngồi ra em xin chân thành cảm ơn các thầy cô là giảng
viên Học viện nói chung và các thầy cơ trong Bộ mơn Luật - Khoa Chính trị
học nói riêng trong bốn năm qua đã truyền đạt cho sinh viên chúng em những
kiến thức vô cùng quý báu đặc biệt là kiến thức chuyên ngành Luật mà em theo
học.
Ngoài ra, em cũng xin cảm ơn tập thể cơ quan Tòa án nhân dân huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tạo điều kiện và thời gian cho em trong suốt quá
trình nghiên cứu để làm khóa luận tốt nghiệp.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn tất cả mọi người đã tạo điều
kiện, cơ hội để em thực hiện tốt khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Luật.
Trân trọng cảm ơn!
Sinh viên Phạm Thị Phương Anh
Lớp K7L2 – Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam

2

2


MỤC LỤC


3

3


PHỤ LỤC
*Bản án số 45/2021/ HNGĐ- ST ngày 16-9-2021 về việc tranh chấp
hơn nhân và gia đình
TỊA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HƯNG HÀ
TỈNH THÁI BÌNH

CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 45/2021/HNGĐ-ST
Ngày 16-6-2021
“V/v Ly hôn giữa anh Phi và chị
Tươi”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Trần Thị Nhàn.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Đinh Ngọc Phức

2. Bà Phạm Thị Huệ
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Mai - thư ký Tòa án nhân dân huyện
Hưng Hà.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà tham gia phiên tịa:
Ơng Nguyễn Văn Kiên - Kiểm sát viên.
Ngày 16-6-2021 tại trụ sở Tồ án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái
Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 332/2020/TLST - HNGĐ ngày
27 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản”
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 28
tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Phạm Hồng Phi, sinh năm 1960.
Bị đơn: Chị Đoàn Thị Tươi, sinh năm 1969.
Đều trú tại: Tổ dân phố Thị An-Tiền Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (Anh Phi, chị Tươi đều có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
4

4


Theo đơn khởi kiện và các bản tự khai nguyên đơn anh Phạm Hồng Phi
trình bày: Anh xây dựng gia đình với chị Tươi do hai bên tự nguyện, có tổ chức
cưới theo phong tục tập quán địa phương vào ngày 16-02-1990 (âm lịch),
nhưng không đăng ký kết hôn. Sau khi cưới, anh và chị Tươi sống hòa thuận
đến ngày 07-01-2001(âm lịch) thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do đơi
bên tính tình khơng hợp, khơng có tiếng nói chung. Chị Tươi đề nghị chia tay
nhau, anh cũng nhất trí. Sau khi anh và chị Tươi chia tay nhau, anh chung sống
với chị Đỗ Thị Ngãi ở thôn Mụa, xã Hồng Lĩnh, huyện Hưng Hà (anh và chị
Ngãi không đăng ký kết hơn) được khoảng 05 tháng thì anh và chị Ngãi chia
tay nhau.

Đến tháng 8-2002 anh và chị Tươi quay về chung sống với nhau và có
đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Hưng Nhân vào ngày 25-9-2002. Sau khi
kết hơn, vợ chồng sống hịa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn.
Nguyên nhân chủ yếu do vợ chồng tính tình khơng hợp, chị Tươi nắm giữ tồn
bộ kinh tế, khơng tơn trọng anh. Vợ chồng mâu thuẫn căng thẳng và sống ly
thân từ giữa năm 2018 đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng khơng
cịn, anh đề nghị Tịa án nhân dân (TAND) huyện Hưng Hà giải quyết cho anh
được ly hôn chị Tươi.
Về ni con chung: Anh và chị Tươi có 04 con chung là Phạm Thị Hồng
Xuân, sinh năm 1990, Phạm Thị Hồng Thu, sinh năm 1998, Phạm Thị Hồng
Phương, sinh ngày 04-12-2004 và Phạm Hồng Dương, sinh ngày 21-10-2007.
Hiện nay cháu Xuân, cháu Thu đã trưởng thành và tự lập về kinh tế nên khơng
đặt trách nhiệm ni dưỡng, cịn cháu Phương và cháu Dương có nguyện vọng
ở với ai thì người đó được ni dưỡng. Nếu 02 con ở với chị Tươi thì anh có
trách nhiệm góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị Tươi là 800.000đồng/01con/01
tháng đến khi con chung trịn 18 tuổi vì anh đã hết tuổi lao động, nghề nghiệp
khơng có, thu nhập khơng ổn định.
Về chia tài sản: Năm 1984 bố mẹ anh là ông Phạm Hồng Nguyệt, bà Trần
Thị Chớp có mua diện tích đất khoảng 120m 2 của ông Nguyễn Duy Hiểu và bà
Đinh Thị Hạt ở khu Tiền Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, đến năm
5

5


1988 anh và bố mẹ anh xây 02 gian nhà mái bằng, diện tích sử dụng khoảng
32m2. Bố mẹ anh đã cho anh toàn bộ khối tài sản nhà và đất trên, anh đã xây
thêm cơng trình phụ để sinh sống.
Năm 1990, anh và chị Tươi về chung sống như vợ chồng tại nhà đất của
anh, anh và chị Tươi có đi vay nợ để trả bà Khúc Thị Hè, sinh năm 1971, địa

chỉ: Khu Văn, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà 01 chỉ vàng 9999 giá
khoảng 300.000 đồng; anh Đỗ Văn Tụng, sinh năm 1962, địa chỉ: Thôn Ruốm,
xã Tân Hòa, huyện Hưng Hà 1.000 gạch đỏ trị giá 50.000đồng, chị Tươi có đưa
cho anh 300.000đồng để anh trả tiền mua xi măng. Tất cả các khoản nợ trên
đều là tiền anh làm cơng trình phụ cịn nợ. Số tiền vay nợ trên do anh và chị
Tươi cùng làm để trả nợ dần. Năm 1993 anh và chị Tươi đã mua thêm được
khoảng 40m2 đất rộng 2m chạy dọc bám theo đất của anh, mua của chị Đỗ Thị
Hậu, sinh năm 1961 ở cùng khu. Năm 1996 anh và chị Tươi lát nền nhà và mở
rộng cửa và đóng tồn bộ cánh cửa của nhà; xây 03 bức tường để nối với tường
nhà ở làm nhà dệt và xây bể nước mưa. Năm 1997 xây nhà bếp ăn và lát sân,
xây thêm tường giậu và cổng. Đến tháng 01-2001, anh và chị Tươi mâu thuẫn
đã tự chia tay. Anh và chị Tươi đã phân chia tài sản với nhau, anh sở hữu toàn
bộ tài sản chung của anh và chị Tươi, anh thanh toán cho chị Tươi số tiền
25.500.000đồng, có viết văn bản thanh tốn tiền cho nhau nhưng đến nay giấy
tờ đó đã mất. Đến tháng 9-2002, vợ chồng đoàn tụ, đã kiến thiết được các tài
sản chung gồm: Năm 2003 vợ chồng mua 01 xe máy Oriental; năm 2006 vợ
chồng đã xây tầng 2, ốp lại tường bên trong, bên ngoài của tầng 1; năm 2016
vợ chồng trát lại tường mặt phía Bắc bên ngồi của ngôi nhà tầng 1, ốp lát lại
nhà ăn, đôn, lát sân bằng gạch đỏ, ốp cầu thang, làm mái tôn hiên nhà, lợp ngói
pro chống nóng bếp và mua 01 bộ bàn ghế sa lơng, 01 tủ lạnh TOSIBA. Ngồi
ra vợ chồng còn một số đồ dùng sinh hoạt trong gia đình, anh khơng u cầu
Tịa án giải quyết. Năm 2003 anh làm thủ tục hành chính đứng tên tồn bộ diện
tích đất của bố mẹ anh cho anh cùng đất vợ chồng mua thêm, được UBND
huyện Hưng Hà cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh (hiện
nay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị mất).
6

6



Anh xác định 120m2 đất ở và 02 gian nhà 32m 2 tầng 1 là tài sản riêng của
anh có trước khi anh và chị Tươi chung sống. Còn lại các tài sản khác là tài sản
chung của vợ chồng gồm: 40m2 đất mua thêm, nhà tầng 2, nhà dệt tầng1, mái
tơn, sân, cổng giậu, cơng trình phụ, bể nước mưa, bộ bàn ghế, xe máy, tủ lạnh
là tài sản chung của anh và chị Tươi. Anh đề nghị Tòa án cho anh được sở hữu
toàn bộ tài sản chung của vợ chồng, anh có trách nhiệm thanh tốn 1/2 giá trị
các tài sản bằng tiền cho chị Tươi.
Về nợ chung: Vợ chồng anh khơng vay nợ ai, cịn chị Tươi trình bày năm
2016, chị Tươi có vay con gái Phạm Thị Hồng Xuân 85.000.000đồng để sửa
nhà và mua sắm đồ dùng trong nhà, vay của anh Lương Đức Hoàng số tiền
165.000.000đồng để nuôi hai con ăn học anh không biết, chị Tươi khơng bàn
bạc gì với anh.
Tại bản tự khai, biên bản ghi lời khai và tại phiên tòa bị đơn chị Đồn
Thị Tươi trình bày:
Q trình chị và anh Phi về chung sống từ ngày 16-02-1990 (âm lịch) và
đến ngày 07-01-2001 (âm lịch) chia tay nhau như anh Phi trình bày là đúng.
Đến tháng 8-2002 (âm lịch) chị và anh Phi lại về chung sống với nhau, có
đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Hưng Nhân vào ngày 25-9-2002. Sau khi
kết hơn, vợ chồng sống hịa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn.
Nguyên nhân là do anh Phi nói chị khơng nhận bố mẹ và anh em nhà chồng
dẫn đến anh Phi vô trách nhiệm với vợ con. Vợ chồng mâu thuẫn căng thẳng và
đã sống ly thân nhau từ giữa năm 2018 đến nay. Năm 2019 chị đã làm đơn xin
ly hôn anh Phi, nhưng sau đó vì thương con chị khơng nộp đơn. Nay anh Phi
khởi kiện xin ly hôn với chị, quan điểm của chị khơng muốn vợ chồng ly hơn
vì con. Nếu anh Phi cố tình xin ly hơn, chị cũng đồng ý.
Về ni con chung: Chị và anh Phi có 04 con chung như anh Phi trình bày
là đúng. Hiện nay cháu Xuân, cháu Thu đã trưởng thành và tự lập về kinh tế
nên không đặt trách nhiệm nuôi dưỡng, cịn cháu Phương và cháu Dương có
nguyện vọng ở với ai thì chị tơn trọng quan điểm của hai cháu, nếu hai cháu ở
với chị thì chị ni cả hai con, chị u cầu anh Phi góp cấp dưỡng ni con

cùng chị 1.500.000đồng/1con/1tháng đến khi con chung tròn 18 tuổi, chị đề
7

7


nghị anh Phi cấp dưỡng nuôi con 1 lần để chị có điều kiện chăm sóc, ni
dưỡng các con ăn học.
Về chia tài sản: Năm 1990 khi chị và anh Phi chung sống với nhau như vợ
chồng tại nhà đất của anh Phi ở khu Tiền Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện
Hưng Hà, lúc đó anh Phi đã có khoảng 120m 2 đất ở và 02 gian nhà xây đổ mái
bằng diện tích khoảng 32m2. Khi chị về chung sống với anh Phi, chị và anh Phi
phải đi vay nợ lãi để trả các khoản nợ anh Phi vay trước đó để trả tiền anh Phi
mua đất và làm nhà gồm: Vay dì Khúc Thị Hè 01 chỉ vàng 9999 giá 300.000
đồng; vay anh Đỗ Văn Tụng, sinh năm 1962, địa chỉ: Thơn Ruốm, xã Tân Hịa,
huyện Hưng Hà 630.000đồng là tiền anh Phi vay 7000 gạch xây nhà. Chị và
anh Phi phải trả tiền vay và lãi đến năm 1995 mới hết số nợ trên. Chị còn đưa
cho anh Phi 500.000đồng để trả tiền nợ mua xi măng làm nhà.
Năm 1993, chị và anh Phi mua thêm 40m 2 đất với giá 300.000đồng
của chị Đỗ Thị Hậu ở cùng khu. Năm 1996, chị và anh Phi lát nền nhà và mở
rộng cửa và đóng tồn bộ cánh cửa của nhà và xây 03 bức tường để nối với
tường nhà ở làm nhà dệt và xây bể nước mưa. Năm 1997 xây nhà bếp, ăn và lát
sân, xây thêm tường giậu và cổng.
Ngày 07-01-2001 (âm lịch) chị và anh Phi thỏa thuận chia tay. Chị để anh
Phi sở hữu, sử dụng toàn bộ tài sản chung của chị và anh Phi, anh Phi thanh
tốn cho chị số tiền 25.500.000đồng, có viết văn bản chia tài sản, anh Phi đã
thanh toán đủ số tiền cho chị, nhưng đến nay giấy tờ đó đã mất.
Tháng 9-2002, chị và anh Phi quay lại chung sống với nhau. Chị đã mang
số tiền 25.500.000đồng về, vợ chồng đã mang tiền để đi mua đất, nhưng khơng
mua được, số tiền đó vợ chồng đã chi tiêu chung và nuôi con. Tháng 12-2003,

vợ chồng chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
156m2 mang tên chủ hộ anh Phạm Hồng Phi gồm diện tích đất anh Phi có trước
khi chị và anh Phi chung sống như vợ chồng và khoảng 40m2 đất chị và anh
Phi mua của bà Hậu. Năm 2003, vợ chồng mua 01 xe máy Oriental. Năm 2006,
vợ chồng đã xây tầng 2, ốp lại tường bên trong, bên ngoài của tầng 1. Năm
2016, vợ chồng trát lại tường tầng 1 mặt phía Bắc bên ngồi của ngơi nhà, ốp
lát lại nhà ăn, đôn, lát sân bằng gạch đỏ, ốp cầu thang, làm mái tôn hiên nhà,
8

8


lợp ngói pro chống nóng bếp. Năm 2016, vợ chồng mua 01 bộ bàn ghế sa lông,
01 tủ lạnh TOSIBA. Ngồi ra vợ chồng chị cịn một số đồ dùng sinh hoạt trong
gia đình, chị khơng u cầu Tịa án giải quyết.
Chị xác định toàn bộ tài sản nêu trên (gồm 156m 2 đất ở và toàn bộ tài sản
gắn liền với đất cùng các tài sản là động sản) là tài sản chung của vợ chồng.
Chị đề nghị Tòa án chia đôi tài sản chung của vợ chồng, chia cho chị bằng hiện
vật để chị có chỗ ăn ở ni con. Cịn ai sử dụng, sở hữu phần tài sản có giá trị
cao hơn thì có trách nhiệm thanh toán chênh lệch giá trị bằng tiền cho bên kia.
Về khoản nợ: Năm 2016, chị có vay con gái là Phạm Thị Hồng Xuân
85.000.000đồng để xây, sửa nhà và mua sắm đồ dùng trong nhà; vay của anh
Lương Đức Hoàng số tiền 165.000.000đồng để nuôi hai con ăn học trong 3
năm. Các khoản vay này đều khơng có giấy tờ, văn bản. Anh Phi biết khoản
vay của con gái, không biết khoản vay của anh Hoàng. Hiện nay cháu Xuân và
anh Hoàng đều đang sinh sống tại Nhật Bản. Mặc dù đã được Tịa án giải thích
quy định của pháp luật về giải quyết các khoản nợ, nhưng chị vẫn đề nghị Tòa
án xem xét giải quyết các khoản nợ trên cho chị đỡ thiệt thòi.
Anh Phi và chị Tươi đều thống nhất về giá các tài sản tranh chấp mà Hội
đồng đã định giá gồm: Nhà ở tầng 1 tường 220 trị giá 65.762.000 đồng; nhà ở

tầng 2 tường 220 trị giá 62.963.000 đồng, nhà dệt tầng 1 trị giá 26.322.000
đồng; nhà ở tầng 2 tường 110 trị giá 41.498.000 đồng; sân phơi lợp tôn trị giá
22.444.000 đồng; điện nước 15.055.000 đồng; 01 xe máy trị giá 2.000.000
đồng; 01 tủ lạnh trị giá 1.000.000 đồng; bộ bàn ghế trị giá 15.000.000 đồng;
các tài sản như: Cổng, tường giậu, nhà lợp pro phía đường, nhà bếp, bể nước
giá trị khấu hao đã hết; trị giá đất là 156 m 2 x 6.000.000đồng/m2 =
936.000.000đồng. Tổng cộng trị giá toàn bộ tài sản tranh chấp là
1.188.044.000đồng.
Tại phiên tồ hơm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà
phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án kể từ khi thụ lý đến
trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật tố
9

9


tụng dân sự. Người tham gia tố tụng đã chấp hành cơ bản đúng các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự.
Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho ly hôn giữa anh
Phi và chị Tươi. Về nuôi con chung: Giao cháu Dương cho anh Phi nuôi
dưỡng, giao cháu Phương cho chị Tươi nuôi dưỡng, đôi bên không phải cấp
dưỡng nuôi con cho nhau. Anh Phi, chị Tươi được quyền thăm nom chăm sóc
con chung mà không ai được cản trở.
Về chia tài sản:
- Xác nhận 120 m2 đất ở trong thửa đất số 356/45, tờ bản đồ số 07,
diện tích 156m2 tại khu Thị An -Tiền Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng
Hà, tỉnh Thái Bình và tài sản gắn liền với đất 02 gian nhà mái bằng diện tích 32
m2 là tài sản riêng của anh Phi.
- Buộc anh Phi có trách nhiệm thanh tốn cơng sức đóng góp của chị

Tươi trong 02 gian nhà tầng 1, diện tích 32m 2 thuộc quyền sở hữu của anh Phi
số tiền là: 16.440.000đồng
- Giao cho anh Phi được quyền sở hữu và sử dụng tài sản chung của
anh Phi và chị Tươi gồm: 40m2 đất trong thửa số 356/45, tờ bản đồ số 07 diện
tích 156m2 tại khu Thị An-Tiền Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà,
tài sản gắn liền với thửa đất trên (gồm nhà dệt xây tường 110 tầng 1, nhà ở tầng
2, nhà bếp, bể nước, sân phơi, cổng, tường giậu, nhà lợp pro phía đường, hệ
thống điện nước) và các đồ dùng sinh hoạt: 01 xe máy, 01 tủ lạnh, bộ bàn ghế,
ở khu Thị An-Tiền Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà cho anh Phi sở
hữu sử dụng. Tổng trị giá tài sản là: 426.282.000đ. Anh Phi phải thanh toán
tiền chênh lệch trị giá tài sản chung cho chị Tươi là: 213.141.000đồng.
Chị Tươi được lưu cư tại nhà chia cho anh Phi sử dụng đến khi anh
Phi thanh toán các khoản tiền xong cho chị Tươi.
Về lệ phí, án phí: Anh Phi tự nguyện chịu cả 5.000.000đồng tiền lệ phí
đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản. Miễn tiền án phí ly hơn sơ
thẩm và tiền án phí chia tài sản cho anh Phi. Chị Tươi có đơn xin xem xét giảm
án phí chia tài sản, nên đề nghị Tòa án xem xét giảm án phí chia tài sản cho chị
Tươi theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
10

10


[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã
được xem xét tại phiên tòa. Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà nhận định:
[2] Anh Phi khởi kiện yêu cầu được ly hôn chị Tươi trú tại tổ dân phố
Thị An-Tiền Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà. Căn cứ khoản 1 Điều
28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

[3] Về hơn nhân: Anh Phi và chị Tươi kết hơn với nhau trên cơ sở tự
nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Hưng Nhân vào ngày 25-92002, đây là hơn nhân hợp pháp. Trước đó anh Phi và chị Tươi chung sống với
nhau như vợ chồng từ năm 1990 nhưng không đăng ký kết hôn nên không
được coi là quan hệ hôn nhân. Sau khi kết hơn, vợ chồng sống hịa thuận đến
năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu do vợ chồng tính tình
khơng hợp, vợ chồng khơng tơn trọng nhau, thường xuyên cãi cọ nhau, hơn
nữa chị Tươi có mâu thuẫn với gia đình anh Phi, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng
càng trầm trọng. Vợ chồng sống ly thân từ giữa năm 2018 đến nay, anh Phi đề
nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Tươi, mặc dù chị Tươi khơng
muốn vợ chồng ly hơn vì con cái, nếu anh Phi cố tình chị cũng chấp nhận. Hội
đồng xét xử (HĐXX) xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh Phi, chị Tươi đã trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hơn nhân khơng đạt được,
cần xử cho ly hôn giữa anh Phi và chị Tươi là phù hợp với quy định tại khoản 1
Điều 56 của Luật Hơn nhân và gia đình.
[4] Về ni con chung: Anh Phi và chị Tươi có 04 con chung là Phạm Thị
Hồng Xuân, sinh năm 1990 và Phạm Thị Hồng Thu, sinh năm 1998, Phạm Thị
Hồng Phương, sinh ngày 04-12-2004 và Phạm Hồng Dương, sinh ngày 21-102007. Hiện nay cháu Xuân, cháu Thu đã trưởng thành và tự lập về kinh tế nên
không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng. Tại phiên tòa cháu Phương xin ở với chị
Tươi; cháu Dương xin ở với anh Phi. HĐXX xét thấy cần tôn trọng nguyện
vọng của hai cháu. Do vậy cần giao cháu Dương cho anh Phi nuôi dưỡng, giao
cháu Phương cho chị Tươi nuôi dưỡng, đôi bên không phải cấp dưỡng nuôi con

11

11


cho nhau là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82 và 83-Luật Hơn nhân và gia
đình.
[5] Về tài sản:

Về diện tích đất đang có tranh chấp: Anh Phi và chi Tươi đều thừa
nhận năm 1990 khi anh chị chung sống với nhau như vợ chồng thì anh Phi đã
có 120m2 đất ở và 02 gian nhà mái bằng diện tích 32m 2 tại khu Thị An -Tiền
Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà (theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất được UBND huyện Hưng Hà cấp năm 2003 thì diện tích đất trên nằm
trong thửa số 356/45, tờ bản đồ số 7, diện tích 156m 2 tại khu Thị An -Tiền
Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, đứng tên chủ sử dụng là anh Phi).
Chị Tươi cho rằng trong thời kỳ hôn nhân anh Phi đã tự nguyện nhập khối tài
sản riêng nêu trên của anh vào thành tài sản chung của vợ chồng, tuy nhiên chị
Tươi không đưa ra được căn cứ chứng minh cho yêu cầu của chị, bản thân anh
Phi không thừa nhận việc anh nhập khối tài sản trên thành tài sản chung của vợ
chồng. Mặt khác theo xác minh của Tòa án thì nguồn gốc diện tích đất 120m 2
nêu trên là do ông Phạm Hồng Nguyệt và bà Trần Thị Chớp (bố mẹ đẻ anh Phi)
nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Duy Hiểu, bà Đinh Thị Hạt và tặng cho
anh Phi vào khoảng năm 1984-1985, sau đó anh Phi đã làm 02 gian nhà mái
bằng trên đất để ở. Vì vậy cần xác định 120 m 2 đất ở trong thửa đất số 356/45,
tờ bản đồ số 07, diện tích 156m 2 tại khu Thị An -Tiền Phong, thị trấn Hưng
Nhân, huyện Hưng Hà và tài sản gắn liền với đất là 02 gian nhà mái bằng diện
tích 32 m2 là tài sản riêng của anh Phi.
Năm 1990 anh Phi và chị Tươi chung sống với nhau như vợ chồng.
Chị Tươi cho rằng khi về chung sống chị và anh Phi đã phải đi vay nợ lãi để trả
tiền anh Phi còn nợ tiền mua đất, làm nhà, cụ thể: Trả bà Khúc Thị Hè 01 chỉ
vàng, anh Đỗ Văn Tụng 630.000 đồng tiền anh Phi mua gạch và đưa cho anh
Phi 500.000đồng để trả tiền xi măng. Mặc dù chị Tươi không cung cấp được
căn cứ chứng minh cho yêu cầu của chị, nhưng anh Phi thừa nhận một phần là
anh và chị Tươi có đi vay nợ để trả bà Hè 01 chỉ vàng, anh Tụng 1000 gạch giá
50.000 đồng và chị Tươi đưa cho anh 300.000 đồng để anh trả tiền xi măng.
12

12



Hơn nữa, anh Phi và chị Tươi đều thống nhất: năm 1996 anh, chị đã lát nền
nhà, mở rộng cửa và đóng tồn bộ cánh cửa nhà ở này. Năm 2006 (lúc này đã
kết hôn) vợ chồng ốp lại tường bên trong, bên ngoài. Năm 2016 trát lại tường
tầng 1 mặt phía Bắc bên ngồi của ngơi nhà. Như vậy mặc dù 02 gian nhà mái
bằng tầng 1 diện tích 32m2 là tài sản riêng của anh Phi (có trước khi anh chị
chung sống với nhau như vợ chồng), nhưng xét thấy chị Tươi có cơng sức đóng
góp cùng anh Phi trả nợ, sửa sang, duy trì, tơn tạo 02 gian nhà trên nên cần
phải tính cơng sức của chị Tươi tương đương bằng 1/4 trị giá hiện tại của 02
gian nhà là hợp lý (65.762.000 đồng : 4 = 16.440.000 đồng).
Anh Phi và chị Tươi đều thừa nhận: Tháng 01-2001, anh Phi và chị Tươi
chia tay, hai bên thỏa thuận để anh Phi sở hữu toàn bộ tài sản chung của anh
chị, anh Phi thanh toán cho chị Tươi số tiền 25.500.000đồng, anh Phi đã thanh
toán cho chị Tươi xong số tiền trên. Chị Tươi trình bày, khi chị và anh Phi quay
lại chung sống vào năm 2002 thì chị đã mang số tiền 25.500.000 đồng về chi
tiêu chung trong gia đình. Mặc dù anh Phi khơng thừa nhận lời trình bày của
chị Tươi, nhưng anh Phi vẫn chấp nhận những tài sản anh và chị Tươi đã tạo
lập trong thời gian anh và chị Tươi chung sống như vợ chồng và sau khi kết
hôn đến nay đều là tài sản chung. Do vậy cần xác định khối tài sản sau đây là
tài sản chung của anh Phi và chị Tươi: 40m 2 đất ở (mua năm 1993) nằm trong
thửa đất số 356/45, tờ bản đồ số 07, diện tích 156m 2 tại khu Thị An -Tiền
Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà; tài sản gắn liền với thửa đất trên
gồm: Nhà dệt xây tường 110 tầng 1, nhà ở tầng 2, nhà bếp, bể nước, sân phơi,
cổng, tường giậu, nhà lợp pro phía đường, hệ thống điện nước và các đồ dùng
sinh hoạt gồm: 01 xe máy Oriental, 01 tủ lạnh TOSIBA và bộ bàn ghế sa long.
[6] Về chia tài sản chung: HĐXX xét thấy không thể chia tài sản chung
cho chị Tươi bằng hiện vật theo yêu cầu của chị được, nên cần giao toàn bộ tài
sản chung của anh Phi và chị Tươi cho anh Phi sở hữu và sử dụng. Anh Phi có
trách nhiệm thanh tốn cho chị Tươi ½ trị giá tài sản bằng tiền là phù hợp. Cụ

thể: Trị giá khối tài sản chung là 426.282.000 đồng : 2 = 213.141.000đồng.

13

13


[7] Về nợ: Chị Tươi trình bày, năm 2016 chị có vay con gái Phạm Thị
Hồng Xuân 85.000.000đồng để sửa nhà và mua sắm đồ dùng trong nhà; vay
của anh Lương Đức Hồng số tiền 165.000.000đồng để ni hai con ăn học
trong 3 năm. Các khoản vay trên đều không có giấy tờ, văn bản. Hiện nay chị
Xn, anh Hồng đang sinh sống tại Nhật bản. Chị Tươi có nộp cho Tòa án
đơn đề nghị của chị Xuân và anh Hồng nhưng đều nộp sau ngày Tịa án mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hịa giải. Tịa
án đã có thơng báo trả lại đơn cho chị Xn, anh Hồng. Do vậy Tịa án không
xem xét giải quyết các khoản nợ này.
[8] Về chi phí đo đạc, thẩm định và định giá: Anh Phi tự nguyện chịu cả
số tiền 5.000.000đồng lệ phí đo đạc, xem xét thẩm định và định giá tài sản.
[9] Về án phí: Miễn tiền án phí ly hơn sơ thẩm và tiền án phí chia tài sản
cho anh Phi. Giảm ½ án phí chia tài sản cho chị Tươi theo quy định của pháp
luật.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản
1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hơn nhân và gia đình. Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội về án phí, lệ phí Tịa án.
Tun xử:
1. Về hơn nhân: Cho ly hơn giữa anh Phạm Hồng Phi và chị Đồn Thị
Tươi.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu Phạm Hồng Dương, sinh ngày 2110-2007 cho anh Phi nuôi dưỡng; giao cháu Phạm Thị Hồng Phương, sinh ngày

04-12-2004 cho chị Tươi nuôi dưỡng; anh Phi, chị Tươi không phải cấp dưỡng
nuôi con cho nhau. Anh Phi, chị Tươi có quyền và nghĩa vụ thăm nom con
chung mà không ai được cản trở.
3. Về chia tài sản:
3.1. Xác nhận 120 m2 đất ở trong thửa đất số 356/45, tờ bản đồ số 07,
diện tích 156m2 tại khu Thị An-Tiền Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng
Hà, tỉnh Thái Bình và tài sản gắn liền với đất là 02 gian nhà mái bằng tầng 1
diện tích 32 m2 là tài sản riêng của anh Phi.
14

14


3.2. Buộc anh Phi có trách nhiệm thanh tốn cơng sức đóng góp của
chị Tươi trong 02 gian nhà tầng 1, diện tích 32m2 thuộc quyền sở hữu của anh
Phi số tiền là: 16.440.000đồng (Mười sáu triệu bốn trăm bốn mươi nghìn
đồng).
3.3. Giao cho anh Phi được quyền sở hữu và sử dụng tài sản chung
của anh Phi và chị Tươi gồm: 40m2 đất ở trong thửa số 356/45, tờ bản đồ số 07
diện tích 156m2 tại khu Thị An-Tiền Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng
Hà, tỉnh Thái Bình, tài sản gắn liền với thửa đất trên (gồm nhà dệt xây tường
110 tầng 1, nhà ở tầng 2, nhà bếp, bể nước, sân phơi, cổng, tường giậu, nhà lợp
pro phía đường, hệ thống điện nước) và các đồ dùng sinh hoạt: 01 xe máy
Oriental, 01 tủ lạnh TOSIBA và bộ bàn ghế sa long ở tại khu Thị An-Tiền
Phong, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà cho anh Phi sở hữu sử dụng. Tổng
trị giá tài sản là 426.282.000đồng. Anh Phi phải thanh toán tiền chênh lệch trị
giá tài sản chung cho chị Tươi là: 213.141.000đồng (Hai trăm mười ba triệu
một trăm bốn mươi mốt nghìn đồng).
4. Chị Tươi được lưu cư tại nhà chia cho anh Phi sử dụng đến khi anh
Phi thanh toán các khoản tiền xong cho chị Tươi.

5. Về lệ phí: Anh Phi tự nguyện chịu cả 5.000.000đồng tiền lệ phí đo
đạc, xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản (anh Phi đã nộp đủ).
6. Về án phí: Miễn tiền án phí ly hơn sơ thẩm và tiền án phí chia tài
sản cho anh Phi. Chị Tươi phải chịu 5.740.000đồng (Năm triệu bẩy trăm bốn
mươi nghìn đồng) tiền án phí chia tài sản.
7. Anh Phi, chị Tươi có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày
tuyên án sơ thẩm.
Nơi nhận:
- Đương sự
- VKSND huyện Hưng Hà;
- Chi cục THA huyện Hưng Hà;
- UBND thị trấn Hưng Nhân;
- Lưu hồ sơ.

15

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà

15


*Bản án số 72/2021/ HNGĐ- ST ngày 16-6-2021 về việc tranh chấp
hơn nhân và gia đình
TỊA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HƯNG HÀ
TỈNH THÁI BÌNH

CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 72/2021/HNGĐST
Ngày: 16-9- 2021
V/v: Tranh chấp hơn nhân và
gia đình
NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa: Bà Nguyễn Bích Thủy
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Đinh Ngọc Phúc
2. Bà Quách Thị Anh Thơ
- Thư ký phiên tịa: Ơng Trần Trung Đức - Thư ký Tịa án nhân dân huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình
tham gia phiên tịa: Bà Nguyễn Thị Thu Giang - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hưng Hà,
tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm cơng khai vụ án thụ lý số: 139/2001/TLSTHNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2021 về tranh chấp hơn nhân và gia đình, theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2021/QĐXX-ST ngày 01 tháng 9 năm
2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn Tộc, sinh năm 1963 Địa chỉ: Tổ dân phố
Vân Đông, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình
2. Bị đơn: Bà Thái Thị Hiền, sinh năm 1965
Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố Vân Đông, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng
Hà, tỉnh Thái Bình
16

16



Nơi ở hiện nay: Tổ dân phố Xuân Trúc - Kiều Thạch, thị trấn Hưng Nhân,
huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
3. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Đỗ Thanh Dân, sinh năm 1950, Địa chỉ: Thôn Khánh Thành
Nam, xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hịa.
- Người đại diện theo 1 quyền cho ơng Đỗ Thanh Dân: Bà Đỗ Thị Chủ,
sinh năm 1955; Địa chỉ: Số 48B, tổ 14, phường Sông Hiên, thành phố Cao
Bằng, tỉnh Cao Bằng.
3.2. Bà Đỗ Thị Khéo, sinh năm 1953, Địa chỉ: Tổ dân phố Vân Đông, thị
trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
3.3. Bà Đỗ Thị Chủ, sinh năm 1955; Địa chỉ: Số 48B, tổ 14, phường Sông
Hiến, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.
3.4. Chị Đỗ Thị Tuyền, sinh năm 1984
3.5. Anh Hà Văn Tiến, sinh năm 1980 Đều ở địa chỉ: Khu Xuân Trúc Kiều Thạch, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
- Người đại diện theo ủy quyền cho anh Hà Văn Tiến: Chị Đỗ Thị Tuyền.
sinh năm 1984.
3,6, Ông Nguyễn Văn Cừ, sinh năm 1953: Địa chỉ: Tổ dân phố khu Đầu,
thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
3.7. UBND thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình
- Người đại diện theo pháp luật: Ơng Đặng Quang Tứ - Chức vụ Chủ tịch
UBND thị trấn Hưng Nhân.
(Ơng Tộc, bà Hiền, chị Tuyền có mặt; bà Chủ, bà Khéo, ông Cự và ông
Tứ xin văng Imặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, bản tự khai và tại phiên tịa, ngun đơn
ơng Đỗ Văn Tộc trình bày:
Về hơn nhân: Ơng (Tộc) và bà Thái Thị Hiền kết hôn cùng nhau do đôi
bên tự nguyện, có đăng ký kết hơn tại trụ sở Ủy ban nhân dân (viết tắt là

UBND) xã Phủ Sơn (cũ) nay là thị trấn Hưng Nhân vào ngày 27-01-1984. Sau
khi kết hơn vợ chống chung sống hịa thuận đến năm 2015 thì phát sinh mâu
thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do vợ chồng bất đồng quan điểm sống,
không bảo ban được nhau trong cuộc sống hàng ngày, hay xảy ra đánh, cãi,
chửi nhau. Mâu thuẫn trầm trọng nhất là vào năm 2017, vợ chồng xảy ra đảnh,
17

17


cãi nhau, bà Hiền đã tự ý bỏ nhà đi, ông đã khuyên bảo nhiều lần để bà Hiền về
đoàn tụ nhưng bà Hiền chỉ về vải ngày xong lại đi, vợ chồng sống ly thân từ
tháng 4 năm 2018 đến nay. Nay ơng xác định tình cảm vợ chồng khơng cịn,
khơng thể đồn tụ được, ơng đề nghị Tịa án giải quyết cho ông được ly hôn bà
Hiền,
Về con chung: Ơng và bà Hiền có 05 con chung là Đỗ Thị Tuyền, sinh
năm 1984, Đỗ Thị Hòa, sinh năm 1987, Đỗ Thị Hồng và Đỗ Thị Tâm đều sinh
năm 1989 và Đỗ Thanh Tùng, sinh năm 1999. Tất cả các con chung đều đã
trưởng thành và tự lập về kinh tế nên không đặt ra yêu cầu giải quyết.
Về tài sản chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng ông có những tài
sản chung sau: Có (04 gian nhà xây trong đó 03 gian nhà xây lợp ngói xi măng,
hiện đồ mái bằng và 01 gian thờ, 1/3 gian thỏ đổ mái bằng để làm gác xép, trên
bắn mái tôn, Nhà được xây dựng năm 1999, phần mái tôn được làm năm 2010;
01 lán tôn làm năm 2015; 01 bể nước xây năm 1999; 02 gian bếp lợp ngói xi
măng xây dựng năm 1999; 02 gian lán (nhà xay xát) lợp ngói xi măng xây
dựng năm 2015; Tường dậu, bờ ao xây năm 1993; tường dậu hoa trước nhà xây
năm 2001; 01 giếng đào; 01 chuồng chăn nuôi, 01 miếu thờ xây. Ngồi ra vợ
chồng cịn trồng được các cây như sau: 01 cây bơ, 03 cây mít, 01 cây nhãn, 03
cây bưởi, 03 cây xoài, 14 cây cau, 06 chậu xanh. Tồn bộ các cơng trình và các
cây trên được xây dựng và trồng trên diện tích đất ở và đất ao theo Tòa án đo

đạc ngày 19-8-2021 là 854,4 m ở tại tổ dân phố Vận Đông, thị trấn Hưng
Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ơng nhất trí với kết quả đo đạc, xem
xét thẩm định và định giá tài sản ngày 19-8-2021 của Tòa án nhân dân huyện
Hưng Hà. Về nguồn gốc các cơng trình xây dựng và các cây trồng trên đất nêu
trên là do vợ chồng ơng tạo lập được trong q trình chung sống. Nguồn gốc
diện tích đất ở và đất ao trên là của bố mẹ để ông là cụ Đỗ Văn Múa, chết năm
1990 và bà Nguyễn Thị Út chết năm 1987 để lại, bố mẹ ông không để lại di
chúc cũng chưa định đoạt cho ai diện tích đất này, chưa cho vợ chồng ông. Từ
khi bố mẹ ông chết vợ chồng sinh sống trên diện tích đất này và vợ chồng ông
là người thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đất đối với nhà nước. Nếu Tòa án giải
18

18


quyết cho ông và bà Hiền ly hôn ống đề nghị được sở hữu tồn bộ nhà và các
cơng trình xây dựng cũng như toàn bộ cây cối trên đất, ơng có trách nhiệm
thanh tốn cho bà Hiền giá trị chênh lệch tài sản theo giá mà hội đồng định giá
đã định giá toàn bộ tài sản là 200.244.658 đồng : 2 = 100.122.329 đồng.
Về di sản của bố mẹ ông để lại gồm: 02 cây nhãn (trị giá mỗi cây
2.000.000 đồng, hai cây là 4.000.000 đồng) và toàn bộ diện tích đất ở và đất ao
của bố mẹ ơng để theo Tòa án đo đạc ngày 19-8-2021 là 854,4 m thuộc quyền
sở hữu của anh chị em ông, ông đề nghị Tịa án khơng phân chia trong vụ án ly
hơn giữa ơng và bà Hiền, đề nghị Tịa án xác định đất ở và đất ao, 02 cây nhãn
trên là di sản thừa kế của bố mẹ ông để lại, khơng đề nghị Tịa án phân chia di
sản thừa kế và giao cho ông được quyền quản lý, sử dụng để chị em ông đi về
hương hoa cho các cụ. Ơng từ chối u cầu tính cơng sức của ơng trong việc
duy trì và tơn tạo tồn bộ diện tích đất ở và đất ao được xác định là di sản thừa
kế của bố mẹ ông. Bố mẹ đẻ ông sinh 04 người con gồm: Ông Đỗ Thanh Dân,
Bà Đỗ Thị Khéo, Bà Đỗ Thị Chủ và ông (Đỗ Văn Tộc). Ngồi ra bố mẹ ơng

khơng có người con riêng hay con ni nào.
Về nợ chung: Trong q trình chung sống ơng và bà Hiền có vay của
Ngân hàng Nơng nghiệp phát triển nơng thơn phịng giao dịch thị trấn Hưng
Nhân số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), ông không nhớ rõ năm
nào nhưng khoán nợ này vợ chồng ơng đã thanh tốn trả cho Ngân hàng, hiện
nay khơng cịn nợ nữa, ơng khơng cịn tài liệu nên khơng xuất trình cho Tịa án
được. Bà Hiền trình bày bả Hiện có vay của ơng Nguyễn Văn Cự ở tổ dân phố
Dầu, thị trấn Hưng Nhân số tiền 50.000.000 đồng để trả cho Ngân hàng Nông
nghiệp phát triển nông thôn khu vực thị trấn Hưng Nhân khi đến hạn trả nợ.
Ơng xác định ơng khơng vay của ơng Cự khoản tiền nào như bà Hiền trình bày
nên khơng có trách nhiệm thanh tốn tra cho ơng Cự. Vợ chồng ơng có vay của
Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn Hưng Nhân số tiền 150,000,000 đồng (Một
trăm năm mươi triệu đồng) vào năm nào ông không nhớ rõ những khoản vay
này đã được vợ chồng ơng trả cho Quỹ tín dụng, đến nay khơng cịn khoản nợ
nào đối với Quỹ tín dụng. Việc bà Hiền khai vay của con gái và con rể là Đỗ
19

19


Thị Tuyền và Hà Văn Tiến ở khu Châu, thị trấn Hưng Nhân số tiền
110.000.000 đồng để trả nợ gốc và 26.768.000 đồng để trả nợ lãi cho Quỹ tín
dụng , ông xác định ông không vay của chị Tuyền và anh Tiên khoản tiền nào
nên khơng có trách nhiệm trả nợ cho chị Tuyền và anh Tiên như chị Tuyền yêu
cầu. Bà Hiền khai vợ chồng có vay của Ngân hàng chính sách xã hội phịng
giao dịch huyện Hưng Hà thông qua Hội phụ nữ thị trấn Hưng Nhân số tiền là
50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng). Sau đó của chị Tuyền và anh Tiến
cho vợ chồng ông vay để trả số nợ trên. Ông xác định việc bà Hiền vay của Hội
phụ nữ hay vay của chỉ Tuyền, anh Tiến thời gian nào ông không biết nên ông
không khơng có trách nhiệm trả cho chị Tuyền và anh Tiến số tiền 93.384.000

công như chị Tuyền anh Tiến về, cầu. Việc bà Hiền trình bày bà Hiển tự trả nợ
số tiền 40.000.000 đồng tiền cho Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn Hưng Nhân và
50.000.000 đồng vay có Cự để trả cho Ngân hàng nông nghiệp và 4,900,000
đồng tiền lãi cho N nông nghiệp, tổng số tiền là 94.900.000 đồng, bà Hiền yêu
cầu ông phải trả một 1/2 số tiền là 47.453.000 đồng ơng khơng nhất trí vì mặc
dù vợ chồng sống thân nhưng tiền của bà Hiền cũng là tiền chung của vợ
chồng. Ông xác định những khoản vay trên đều ghi trong hợp đồng vay là phục
vụ sinh hoạt đời sống hàng ngày nhưng khi nhận tiền về bà Hiền sử dụng mục
đích gì ơng khơng biết vì chi tiêu hàng ngày là do bà Hiền cầm tiền, ơng khơng
giao nộp thêm cho Tịa án tài liệu chứng cử nào.
Tại các bản tự khai và tại phiên tịa, bị đơn bà Thái Thị Hiền trình bày:
Về hơn nhân: Bà nhất trí với trình bày của ơng Đỗ Văn Tộc về thời gian,
điều kiện và hoàn cảnh kết hơn như ơng Tộc trình bày. Sau khi kết hơn vợ
chồng chung sống hịa thuận đến năm 1996 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên
nhân mâu thuẫn chủ yếu do ông Tộc thường xun chơi bời lơ đề, rượu chè,
tính tình gia trưởng nên không bảo bạn được nhau trong cuộc sống hàng ngày,
hay xảy ra đảnh, cãi, chửi nhau. Bà đã cố gắng khắc phục nhiều nhưng ơng Tộc
tính gia trưởng nên rất nhiều lần đánh gây thương tích cho bà khiến bà phải đi
điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện và tỉnh. Nhất là vào năm 2017, không biết
vì lý do gì ơng Tộc chửi và đánh bà, cắt một bên tại của bà nhưng bà nghĩ vì
20

20


các con nên tôi không làm đơn gửi đến các cơ quan có thẩm quyền. Sau khi
điều trị xong, bà không dám về chung sống cùng ông Tộc nữa, bà và ông Tộc
sống ly thân từ tháng 4 năm 2018 đến nay. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng
giữa bà và ơng Tộc khơng cịn, ơng Tộc có đơn xin ly hơn bà nhất trí ly hơn.
Về ni con chung: Bà nhất trí với trình bày của ơng Tộc về họ tên, năm

sinh của các con. Hiện nay các con chung đều đã trưởng thành và tự lập về
kinh tế nên không đặt ra yêu cầu giải quyết.
Về chia tài sản chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng có những tài
sản chung sau: Có 04 gian nhà xây trong đó 03 gian nhà xây lợp ngói xi măng,
hiên mái đổ mái bằng và 01 gian thờ, 1/3 gian thỏ đổ mái bằng để làm gác xép,
trên bãn mải tôn Nhà được xây dựng năm 1999, phần mái tôn được làm năm
2010; 01 lán tôn làm năm 2015; 01 bể nước xây năm 1999; 02 gian bếp lợp
ngói xi măng xây dựng năm 1999; 02 gian lán (nhà xay xát) lợp ngói xi măng
xây dựng năm 2015; Tường dậu, bờ 40 xây năm 1993; tường dậu hoa trước nhà
xây năm 2001; 01 giêng đào; 01. chuồng chăn nuôi, 01 miếu thờ xây. Ngồi ra
vợ chồng cịn trồng được các cây như sau: 01 cây bơ, 03 cây mít, 01 cây nhăn,
03 cây bưởi, 03 cây xoài, 14 cây cau, 06 chậu xanh. Tồn bộ các cơng trình và
các cây trên được xây dựng và trồng trên diện tích đất ở và đất ao theo Tòa án
đo đạc ngày 19-8-2021 là 854,4 m ở tại tổ dân phố Vân Đông, thị trấn Hưng
Nhãn, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Bà nhất trí với kết quả đo đạc, xem xét
thẩm định và định giá tài sản ngày 19-8-2021 của Tòa án nhân dân huyện Hưng
Hà. Về nguồn gốc các cơng trình xây dựng và các cây trồng trên đất nêu trên là
do vợ chồng bà tạo lập được trong quá trình chung sơng. Nguồn gốc diện tích
đất ở và đất ao trên là của bố mẹ chồng bà là cụ Đỗ Văn Múa, chết năm 1990
và bà Nguyễn Thị Út chết năm 1987 để lại, bố mẹ chồng bà đã cho vợ chồng
bà diện tích đất trên nhưng khơng có văn bản giấy tờ gì. Từ khi bị mẹ chồng bà
chết, vợ chồng sinh sống trên diện tích đất này và là người thực hiện nghĩa vụ
nộp thuế đất đối với nhà nước.
Nếu Tịa án giải quyết cho bả và ơng Tộc ly hôn bà đề nhường ông Tộc
được sở hữu nhà và các cơng trình xây dựng cũng như tồn bộ cây cối trên đất,
21

21



ơng Tộc có trách nhiệm thanh tốn cho bà giá trị chênh lệch tài sản theo giá mà
hội đồng định giá đã định giá toàn bộ tài sản là 200.244.658 đồng : 2=
100.122.329 đồng.
Về diện tích đất ở và đất ao của bố mẹ chồng bà để theo Tòa án đo đạc
ngày 19-8-2021 là 854,4 m bà không đề nghị Tịa án phân chia trong vụ án ly
hơn giữa bà và ơng Tộc, đề nghị Tịa án khơng phân chia di sản thừa kế và giao
cho ông Tộc được quyền quản lý, sử dụng để các con cháu đi về hương hoa cho
các cụ. Bà đề nghị Tòa án xem xét cơng sức của của bà trong việc duy trì, tơn
tạo diện tích đất ở và đất ao do bố mẹ chồng bà để lại bằng 1/2 suất thừa kế, đề
nghị Tòa án buộc những người được hưởng di sản thừa kế có trách nhiệm
thanh tốn trị giá thành tiền cho bà. Trị giá di sản thừa kế của bố mẹ chồng bà
là 02 cây nhãn = 4.000.000 đồng bà khơng u cầu giải quyết.
Về nợ chung: Trong q trình chung sống bà và ơng Tộc có vay những
khoản sau: Ngày 24-8-2016, vay của Ngân hàng chính sách xã hội phịng giao
dịch huyện Hưng Hà thơng qua hội phụ nữ thị trấn Hưng Nhân số tiền là
50.000.000 đồng. Ngày 11-10-2017 vay của Ngân hàng Nơng nghiệp phát triển
nơng thơn phịng giao dịch thị trấn Hưng Nhân số tiền 50.000.000 đồng. Ngày
17-11-2017 vay của Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn Hưng Nhân số tiền là
150.000.000 đồng, mục đích của các khoản vay trên đều là tu sửa nhà cửa, mua
máy móc để sản xuất (máy xay, sát, máy đùn cảm). Sau khi vợ chồng sông ly
thân các khoản vay trên đến hạn trả nợ, ông Tộc không trả, các cơ quan cho
vay liên tục đôn đốc bà trả nợ nên con gái và con rể bà là chị Tuyền và anh
Tiên phải cho vợ chồng bà vay số tiền 50.000.000 đồng để trả nợ cho Ngân
hàng chính sách xã hội Việt Nam phòng giao dịch thị trấn Hưng Hà, số tiền lãi
của khoản vay này bà là người đứng ra trả 12.600.000 đồng. Khoản nợ của quỹ
tín dụng nhân dân thị trấn Hưng Nhân chị Tuyền và anh Tiến trả nợ số tiền
110.000.000 đồng tiền gốc và 26,768.000 đồng tiền lãi, tổng là 136.768.000
đồng, số tiền gốc còn lại 40.000.000 đồng bà trực tiếp phải trả cho Quỹ tín
dụng. Tổng số tiền chị Tuyền và anh Tiến trả nợ hộ cho vợ chồng bà là
186.768.000 đồng. Số tiền nợ của Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn

22

22


phòng giao dịch thị trấn Hưng Nhân vào ngày 02-01-2018, bả phải vay của ông
Cự số tiền 50.000.000 đồng để trả nợ gốc (khi vay có viết giấy nhưng bà đã
làm mất nên khơng xuất trình cho Tịa án được) và bản thân bà phải thanh toán
trả lại cho Ngân hàng là 4.900.000 đồng. Đến nay toàn bộ những khoản vay
trên đã được thanh tốn cho Ngân hàng nơng nghiệp, Quỹ tín dụng nhân dân
thị trấn Hưng Nhân và Ngân hàng chính sách xã hội. Nếu ly hơn bà đề nghị
Tịa án buộc ơng Tộc phải | trả cho chị Tuyển và anh Tiến số tiền là 93.384.000
đồng; trả cho bà 1/2 số tiền bà đã vay và trả gồm: 50.000.000 đồng vay của ông
Cự + 4.906.000 đồng tiền trả lãi cho Ngân hàng nông nghiệp + 40.000.000
đồng tiền gốc trả cho Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn Hưng Nhân, tổng =
94.900.000 đồng vì mục đích các khoản vay trên là vay để mua máy móc
nhưng ơng Tộc khơng làm nữa và đã bán máy đi nên ông Tộc phải có trách
nhiệm thanh tốn trả lại cho bà số tiền là 47.453.000đồng. Còn số tiền lãi bà đã
trả cho Ngân hàng chính sách xã hội và một số khoản bà vay bên ngồi bà
khơng u cầu Tịa án giải quyết. Bà xác định bà và ông Tộc không vay của chị
gái ông Tộc là bà Chủ số tiền nào.
Tại các biên bản ghi lời khai và các đơn đề nghị và đơn đề nghị xét xử
văng mặt, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị Chủ trình bày:
Bố mẹ để bà là cụ Đỗ Văn Múa (chết năm1990) và cụ Nguyễn Thị Út chết
năm 1987, bố mẹ bà sinh 04 người con gồm: Ông Đỗ Thanh Dân, Bà Đỗ Thị
Khéo, ông Đỗ Văn Tộc và bà (Đỗ Thị Chủ). Bố mẹ bà khơng có người con
riêng hay con nuôi nào. Trước khi chết bố mẹ bà khơng để lại di chúc gi. Khi
cịn sống bố mẹ bà có diện tích đất ở, đất vườn và đất ao ở thôn Vân Đông, xã
Phú Sơn cũ nay là tổ dân phố Vân Đông, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà,
tỉnh Thái Bình. Theo đo đạc bản đồ 299 năm 1986 diện tích đất này thể hiện tại

thửa đất ở số 559, tờ bản đồ số 5, diện tích 350 m ghi tên người sử dụng cụ
Múa và diện tích đất 40 tại thửa số 560, tờ bản đồ số, diện tích 235 m ghi tên
người sử dụng cụ Múa. Đến năm 2007 đo đạc, xác định ranh giới, mốc giới
theo hiện trạng đang sử dụng thì diện tích đất nêu trên thể hiện tại số thửa 336,
tờ bản đồ địa chính số 7 diện tích là 434,1 m gồm loại đất ở và đất lâu năm
23

23


khác và số thửa 337 cùng ở tờ bản đồ địa chỉnh số 07, diện tích là 425,6 m loại
đất ao, địa chỉ ở thôn Vân Đông, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình ghi tên người sử dụng ơng Đỗ Văn Tộc. Đến ngày 19-8-2021, Tịa
án đo đạc thẩm định thì diện tích đất ở và đất ao. trên có tổng diện tích là
844m. Tồn bộ diện tích đất trên khi bố mẹ bà mất đi ơng Tộc và bà Hiền sử
dụng. Nay ông Tộc và bà Hiển ly hơn, bà đề nghị Tịa án giải quyết phân tài
sản mà vợ chồng ông Tộc bà Hiền tạo dựng được trên đất theo quy định của
pháp luật. Đối với tổng diện tích đất ở và đất vườn, ao mà ông Tộc và bà Hiện
đang sử dụng, bố mẹ đẻ bà chưa phân chia định đoạt cho ai nên bà đề nghị Tịa
án xác định tồn bộ diện tích đất ở, đất vườn và đất ao theo số liệu mà Tòa án
đã đo đạc ngày 19-8-2021 là 844 m là di sản thừa kế của bố mẹ bà để lại (vì
diện tích đất này khơng có tranh chấp gì về ranh giới, mốc giới với các hộ liền
kề, không chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng, tặng cho diện tích đất nào, sử
dụng từ thời bố mẹ bà đến nay đã hàng trăm năm); bà khơng đề nghị Tịa án
phân chia khối di sản thừa kế là diện tích đất ở và đất ao nêu trên. Bà Khéo là
chị gái bà đã từ chối nhận di sản thừa kế này nên bà, ông Dân và ông Tốc đã
thống nhất và đề nghị Tòa án giao quyền quản lý về đất đai cho ơng Tộc, ơng
Tộc có trách nhiệm trong nom và hương khói cho gia tiên, ơng Tộc khơng được
thực hiện quyền cầm cố, chuyển nhượng, tặng cho ai phản diện tích đất là di
sản thừa kế của bố mẹ bà để lại.

Về số tiền chi phí thẩm định tài sản theo quyết định thẩm định ngày 22-42021 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, bà tự nguyện chịu toàn bộ chi phí
thẩm định này, khơng phân chia cho ai.
Vì tình hình dịch bệnh phức tạp và đi lại khó khăn nên bà đề nghị Tòa án
cho bà được văng mặt tại phiên tịa xét xử vụ án ly hơn giữa ông Tộc và bà
Hiền.
Tại các đơn đề nghị và đơn đề nghị ghi ngày 20-7-2021, người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan ơng Đỗ Thanh Dân trình bày: Ông Dân trình bày nội
dung như bà Đỗ Thị Chủ trình bày.
Tại biên bản ghi lời khai, đơn xin xét xử và giải quyết vắng mặt ngày 308-2021, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bà Đỗ Thị Khéo trình bày:
24

24


Bà đã được Tòa án cho xem văn bản từ chối nhận di sản ghi ngày 12-7-2021 do
bà Đỗ Thị Chủ giao nộp cho Tòa án, bà xác định nội dung, chữ ký chữ viết
trong mục ghi “Người từ chối nhận di sản” là chữ ký và chữ viết của bà. Bà
được biết Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa ông Đỗ Văn Tộc và bà Thái
Thị Hiền, có giải quyết tài sản liên quan đến diện tích đất do cụ Múa và cụ Út
là bố mẹ đẻ bà để lại gồm thửa đất ở số 559, diện tích 350 m và thửa đất ao số
560, diện tích 235 m tại khu Vân Đơng, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà,
tỉnh Thái Bình hiện nay diện tích đất này do ông Tộc và bà Hiện đang sử dụng.
Nếu Tịa án giải quyết về diện tích đất bà trình bày ở trên, bà từ chối nhận di
sản thừa kể do bố mẹ bả để lại là 02 thửa đất trên. Vì sức khỏe yếu, khơng đi
lại được nên bà đề nghị Tòa án cho bà được vãng mặt tại các buổi làm việc,
vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án ly hôn giữa ông Tộc và bà Hiền.
Tại đơn đề nghị và bản tự khai, biên bản ghi lời khai và tại phiên tịa,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Đỗ Thị Tuyền trình bày: Chị là
con chung của ông Đỗ Văn Tộc và bà Thái Thị Hiền. Vào năm 2017 do bố mẹ
chị có vay của Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn Hưng Nhân số tiền 150,000,000

đồng, đến hạn tra nợ, bố mẹ chị sống ly thân nên Quỹ tín dụng nhiều lần đôn
đốc vợ chồng chị trả nợ cho bố mẹ chị nên vợ chồng chị (chị và anh Hà Văn
Tiến) cho ông Tộc và bà Hiền vay số tiền 110.000.000 đồng + 26.768.000
đồng, chị và anh Tiến đã trả nợ cho Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn Hưng Nhân
số tiền gốc và lãi, cụ thể như sau: Vào ngày 29-11-2018 trả 20.000.000 đồng
tiền gốc, ngày 26-8-2019 trả 30.000.000 đồng tiền gốc, ngày 21-11-2019 trả
60.000.000 đồng tiền gốc và 26.768.000 đồng tiền lãi. Nguồn gốc số tiền vợ
chồng chị cho vay trên là do vợ chồng chị vay của Quỹ tín dụng nhân dân thị
trấn Hưng Nhân để trả nợ cho khoản vay của ơng Tộc và bà Hiền. Ngồi ra vào
năm 2019 vợ chồng chị cịn cho ơng Tộc và bả Hiển số tiền vay là 50.000.000
đồng để trả Ngân hàng chính sách xã hội (thơng qua Hội phụ nữ thị trấn Hưng
Nhân), số tiền này cũng do chị trực tiếp đi trả cho Ngân hàng, Tổng số tiền vợ
chồng chị đã trả cho ông Tộc và là 186.768.000 đồng. Nếu Tịa án giải quyết
vụ án ly hơn giữa ông Tộc và bà Hiền chị đề nghị như sau: Số tiền vợ chồng
25

25


×