Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất qua thực tiễn tại tòa án nhân dân quận Đống Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.8 KB, 101 trang )



1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ NGỌC VÂN




XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ TRANH CHẤP
VỀ TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT QUA THỰC TIỄN
TẠI TÕA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - 2014






2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THỊ NGỌC VÂN




XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ TRANH CHẤP
VỀ TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT QUA THỰC TIỄN
TẠI TÕA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cừ




HÀ NỘI - 2014



3




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Thị Ngọc Vân










4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các chữ viết tắt


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THÔNG QUA
HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
6
1.1.

Căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng thông qua hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất
6
1.1.1.
Khái niệm về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
6
1.1.2.
Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi hai vợ
chồng được tặng cho chung
12
1.2.
Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng thông qua hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất
24
1.2.1.
Căn cứ xác định
24
1.2.2.
Quyền của vợ, chồng đối với tài sản riêng là quyền sử dụng đất
27

Chương 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TẶNG
CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY
HÔN TẠI TÕA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
31
2.1.
Nhận xét chung về tình hình tranh chấp và giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn tại Tòa án
nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

31
2.1.1.
Khái quát một số vấn đề về điều kiện kinh tế - xã hội quận
Đống Đa ảnh hưởng đến các tranh chấp về quyền sử dụng đất
của vợ, chồng khi ly hôn
31


5
2.1.2.
Nhận xét và đánh giá chung
34
2.2.
Thủ tục và đường lối giải quyết các tranh chấp về tài sản là
quyền sử dụng đất được tặng cho của vợ chồng khi ly hôn
49
2.2.1.
Thủ tục giải quyết
49
2.2.2.
Đường lối giải quyết
51
2.2.3.
Nguyên tắc chung chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
55
2.2.4.
Một số trường hợp cụ thể
62

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TẶNG CHO
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
74
3.1.
Về phương diện lập pháp
74
3.1.1.
Hoàn thiện các quy định của Bộ luật dân sự
74
3.1.2.
Hoàn thiện pháp luật đất đai
77
3.1.3.
Hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình
78
3.1.4.
Hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự
81
3.2.
Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất của vợ chồng
khi ly hôn
84
3.2.1.
Nâng cao trình độ, giáo dục phẩm chất đạo đức, rèn luyện bản
lĩnh chính trị cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
84
3.2.2.
Phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật liên quan đến tài sản
của vợ chồng nói chung và quyền sử dụng đất của vợ chồng

nói riêng
86
3.2.3.
Một số kiến nghị trong công tác thi hành án
87
3.2.4.
Nghiên cứu, thành lập Tòa án hôn nhân và gia đình và người
chưa thành niên phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp
88

KẾT LUẬN
90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
92


6



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
: Bộ luật Dân sự
BLTTDS
: Bộ luật Tố tụng dân sự
HN&GĐ
: Hôn nhân và gia đình
QSDĐ

: Quyền sử dụng đất
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
UBND
: Ủy ban nhân dân






7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật, hàng năm
Tòa án nhân dân (TAND) trong cả nước nói chung và TAND quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội nói riêng thụ lý xét xử hàng chục ngàn vụ án về hôn nhân
và gia đình (HN&GĐ) trong đó có nhiều vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng
cho quyền sử dụng đất (QSDĐ). Tòa án đã áp dụng các quy định của Luật
HN&GĐ, các quy định có liên quan của Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật Đất
đai và các văn bản pháp luật khác để xét xử. Việc xét xử tại TAND quận
Đống Đa, thành phố Hà Nội nhìn chung là kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nhất là quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em - được dư luận xã hội đồng tình và ủng hộ. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử các
vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho QSDĐ trong thời gian qua cũng cho
thấy, còn nhiều tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng tới chất lượng xét xử loại vụ án
này, cụ thể là:

- Vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho tài sản là QSDĐ không chỉ
liên quan đến vợ, chồng mà còn liên quan đến cha mẹ chồng, cha mẹ vợ… là
người có tài sản tặng cho nhưng nhiều trường hợp Tòa án không đưa họ vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Điều
đó đã vi phạm quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS).
- Áp dụng chưa đúng quy định của Luật HN&GĐ về tài sản riêng, tài
sản chung của vợ chồng, quy định của BLDS, của Luật Đất đai về tặng cho
bất động sản… nên có sai sót trong việc xác định tài sản riêng, tài sản chung,
hiệu lực của việc tặng cho tài sản là QSDĐ.
- Quan hệ HN&GĐ ở nước ta vẫn chịu nhiều ảnh hưởng của phong
tục, tập quán nhất là tập quán cha mẹ cho con trai, con dâu tài sản nhưng không


8
làm đúng các thủ tục theo quy định của pháp luật. Khi ly hôn giữa con trai và
con dâu, giữa con gái với con rể, thì cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ có tranh
chấp, đòi lại tài sản. Có Tòa án công nhận việc tặng cho tài sản; có Tòa án lại
không công nhận, buộc con trai, con dâu trả lại cho cha mẹ chồng tài sản hoặc
ngược lại. Việc xét xử ở các cấp Tòa án không thống nhất về vấn đề này.
- Nhiều quy định của các văn bản pháp luật nêu trên chậm được cơ
quan có thẩm quyền hướng dẫn nên chưa bảo đảm việc áp dụng thống nhất
trong cả nước.
- Vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện việc xét xử các vụ án ly
hôn có tranh chấp về tặng cho QSDĐ qua thực tiễn tại TAND quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội nhằm đánh giá thực trạng hoạt động xét xử loại vụ án này
của TAND Đống Đa, thành phố Hà Nội. Đưa ra những khó khăn, vướng mắc,
rút ra được những nguyên nhân để trên cơ sở đó kiến nghị các giải pháp khắc
phục, nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, là vấn đề rất cần thiết và rất có
ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu

Vấn đề tặng cho tài sản nói chung và tặng cho tài sản là QSDĐ cũng
như việc xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho QSDĐ nói riêng
có tính thời sự, được xã hội rất quan tâm.
Ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về các vấn đề trên, như:
Tòa án với việc giải quyết những vụ việc về hôn nhân và gia đình - những tồn
tại, vướng mắc và hướng hoàn thiện, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Tòa
án nhân dân tối cao (TANDTC), Hà Nội, năm 2001; Giao dịch dân sự vô hiệu
và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, Luận án tiến
sĩ Luật học, của Nguyễn Văn Cường, Hà Nội, năm 2005; Chế độ tài sản của
vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học,
của Nguyễn Văn Cừ, Hà Nội, năm 2005; Cơ sở lý luận và thực tiễn về tặng


9
cho quyền sử dụng đất, Luận án tiến sĩ Luật học, của Nguyễn Hải An, Hà Nội,
năm 2011); Phân định tài sản của vợ và chồng khi ly hôn, của Kiều Thanh
Nghĩa, Tạp chí TAND, số 4 và 5, năm 2000; Một số ý kiến về phân định tài
sản của vợ chồng khi ly hôn, của Tưởng Duy Lượng, Tạp chí TAND, số 4 và 5,
năm 2000; Những khó khăn, vướng mắc khi xác định đã cho hay chưa cho
trong trường hợp các con ra ở riêng cha mẹ có giao một số tài sản cho con sử
dụng; Một số kiến nghị về hướng giải quyết, của Tưởng Duy Lượng, Tạp chí
TAND, tháng 4/2007;
Ngoài ra có một số bài nghiên cứu về thực tiễn giải quyết các tranh
chấp về tài sản chung vợ chồng trong các vụ án ly hôn của một số luật gia,
thẩm phán… trong một số tạp chí chuyên ngành như Tạp chí TAND, Tạp chí
Kiểm sát, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí luật học
Tuy nhiên, các công trình nêu trên chủ yếu đề cập đến các tranh chấp
về tài sản của vợ chồng tặng cho tài sản nói chung trong các vụ án về
HN&GĐ mà chưa có nghiên cứu chuyên sâu tranh chấp về tặng cho tài sản là
QSDĐ trong các vụ án ly hôn và thực tiễn xét xử loại tranh chấp này tại

TAND quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Do đó, vấn đề này cần được tập
trung nghiên cứu nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập và hoàn thiện
pháp luật là rất cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của việc nghiên cứu
đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài: "Xét xử các vụ án ly hôn có
tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất qua thực tiễn tại Tòa án nhân
dân quận Đống Đa " là nhằm phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử của TAND
quận Đống Đa đối với các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho tài sản là
QSDĐ. Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động xét xử của TAND quận
Đống Đa và kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả xét xử
loại vụ án này trong thời gian tới.


10
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu được đặt ra, luận văn có nhiệm vụ
giải quyết các vấn đề sau đây:
- Khái quát các quy định của pháp luật hiện hành về tặng cho tài sản là
QSDĐ, các nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn.
- Phân tích, đánh giá thực trạng xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp
về tặng cho tài sản QSDĐ. Qua đó nêu được những kết quả, khó khăn, vướng
mắc, các nguyên nhân.
- Kiến nghị giải pháp khắc phục vướng mắc, nâng cao hiệu quả hoạt
động xét xử của TAND quận Đống Đa về giải quyết các vụ án ly hôn có tranh
chấp về tặng cho tài sản là QSDĐ.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu đề tài là thực tiễn giải quyết tranh chấp về tặng
cho QSDĐ của vợ chồng khi ly hôn; các vụ việc thực tiễn gắn với hoạt động
xét xử loại án này tại TAND quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, các
phương pháp nghiên cứu cụ thể theo truyền thống như: phương pháp lịch sử,
phân tích, so sánh, tổng kết thực tiễn… được thực hiện trong quá trình phân
tích nội dung của đề tài.
6. Kết quả của đề tài nghiên cứu
Kết quả của việc nghiên cứu đề tài:
- Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của
TAND quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, sự phù hợp của quy định pháp luật
với thực tiễn đời sống xã hội.


11
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có
tranh chấp về tặng cho tài sản là QSDĐ tại TAND quận Đống Đa, thành phố
Hà Nội
- Kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử trong đó có
kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét hoàn thiện pháp luật và hướng
dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Xác định tài sản của vợ chồng thông qua hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất theo pháp luật hiện hành.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất
của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh
chấp về tặng cho quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn.



12
Chương 1
XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THÔNG QUA HỢP ĐỒNG
TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

1.1. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG THÔNG
QUA HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Theo quy định tại Điều 19 Hiến pháp năm 1980 thì: Đất đai, rừng núi,
sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên, thiên nhiên trong lòng đất, vùng biển, thềm lục
địa… đều thuộc sở hữu toàn dân. Điều 17 và Điều 18 Hiến pháp năm 1992
(được sửa đổi bổ sung vào ngày 25/12/2001) cũng khẳng định: đất đai, rừng
núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển,
thềm lục địa và vùng trời… đều thuộc sở hữu toàn dân; các chủ thể khác chỉ
có QSDĐ, tức là chỉ "có quyền khai thác các thuộc tính của đất để phục vụ
cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước" [45]. QSDĐ là
quyền tài sản, quyền này trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong
giao dịch dân sự.
Khoa học luật quốc tế quan niệm, quốc gia là thực thể được hình
thành trên cơ sở có lãnh thổ, có dân cư và quyền lực nhà nước với thuộc tính
chính trị - pháp lý bao trùm là chủ quyền quốc gia. Đất đai là bộ phận quan
trọng nhất cấu thành lãnh thổ quốc gia cùng với vùng trời, vùng biển và hải
đảo. Chủ quyền lãnh thổ là một trong những thuộc tính quan trọng nhất của
Nhà nước. Bởi vậy, đất đai nói chung không thể là đối tượng của giao dịch
dân sự. Mỗi quốc gia đều có chủ quyền trên lãnh thổ của mình và bởi vậy quy
chế về đất đai của các quốc gia là khác nhau. Trải qua những chính sách về
đất đai dựa trên những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của đất nước ở từng thời
kỳ khác nhau mà chính sách của Nhà nước cũng thay đổi để phù hợp với các
điều kiện nhất định.



13
Trước Hiến pháp năm 1980, pháp luật nước ta ghi nhận cho công dân
có quyền sở hữu đất đai. Từ Hiến pháp năm 1980 đến Hiến pháp năm 1992,
đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Hiến pháp
năm 1980 còn quy định: Nghiêm cấm việc mua bán chuyển nhượng đất đai
dưới mọi hình thức. Từ sau Hiến pháp năm 1992 và Luật Đất đai năm 1993,
thì đất đai vẫn thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý nhưng
Nhà nước giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được sử dụng ổn định lâu dài
và có năm quyền của người sử dụng đất, trong đó chưa quy định về quyền
được tặng cho QSDĐ.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có các quy định của pháp
luật làm cơ sở cho việc xác định căn cứ xác lập QSDĐ của tổ chức, hộ gia
đình và cá nhân. Luật Đất đai năm 1993 và BLDS năm 1995 trước đây đã quy
định những căn cứ xác lập QSDĐ của cá nhân, hộ gia đình: Được Nhà nước
giao đất; được Nhà nước cho thuê đất; được người khác chuyển QSDĐ phù
hợp với những quy định của BLDS và pháp luật đất đai. Theo quy định này
thì người "có đất" chỉ được công nhận là hợp pháp khi "đất đó" có được từ
các căn cứ trên.
Những quy định của BLDS năm 2005 và các văn bản pháp luật đất đai
quy định về căn cứ xác lập QSDĐ của cá nhân, hộ gia đình trên đây đã tạo cơ
sở pháp lý cho "người có đất" thực hiện được các quyền của người sử dụng đất,
trong đó có quyền được để lại thừa kế QSDĐ. Tuy nhiên, với thực tế sôi động
của thị trường bất động sản diễn ra ngày càng phổ biến thì những quy định
của BLDS năm 1995 cũng như Luật Đất đai năm 1993 và các văn bản pháp
luật khác về căn cứ xác lập QSDĐ là còn chưa đầy đủ, chưa dự liệu được một
cách xác thực với những quan hệ về đất đai đã và đang diễn ra trên thực tế.
Luật Đất đai năm 2003 ra đời cùng với các Nghị định của Chính
phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai đã quy định thêm một số căn cứ xác
lập QSDĐ mà trên thực tế đã diễn ra làm phát sinh QSDĐ, Cụ thể hóa những



14
căn cứ mà các văn bản pháp luật trước đây dự liệu, Luật Đất đai năm 2003,
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ cũng như
BLDS năm 2005 đều tiếp tục quy định những căn cứ đó.
Để đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất và tạo điều kiện cho các
quan hệ dân sự về đất đai được lưu thông phù hợp với cơ chế thị trường, Nhà
nước cho phép các chủ thể được chuyển QSDĐ thông qua các hình thức:
Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, tặng
cho QSDĐ và góp vốn bằng giá trị QSDĐ. Về bản chất chuyển QSDĐ là giao
dịch dân sự, trong đó đối tượng của giao dịch là QSDĐ. QSDĐ là chế định
pháp luật bao gồm các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm quy
định về các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình sử dụng đất.
Quyền sử dụng đất là một bộ phận cấu thành của quyền sở
hữu đất, thông qua việc được độc lập quyền giao đất, cho thuê đất,
Nhà nước trao cho người sử dụng đất việc thực hiện thời hạn thuê
đất nhận giao đất những quyền và nghĩa vụ nhất định trong đó có sự
phân biệt theo loại đất, theo đối tượng sử dụng, theo hình thức thuê
đất hoặc giao đất [27].
Theo đó, QSDĐ là một quyền năng mà Nhà nước trao cho người sử
dụng đất, nhằm mang lại lợi ích cho người sử dụng đất và cho xã hội. QSDĐ
là quyền về tài sản gắn liền với một tài sản đặc biệt đó là đất đai thuộc sở hữu
toàn dân.
Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003, BLDS năm 1995 và
BLDS năm 2005 đều khẳng định người sử dụng đất có QSDĐ. Tuy nhiên,
không thể đồng nhất quyền sở hữu đất đai với QSDĐ bởi có sự khác nhau về
cả nội dung, ý nghĩa cụ thể.
- Quyền sở hữu đất đai là quyền ban đầu (có trước), còn QSDĐ là
quyền phái sinh (có sau) xuất hiện khi được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê

đất, cho phép nhận chuyển QSDĐ hay công nhận QSDĐ.


15
- Quyền sở hữu đất đai là một loại quyền trọn vẹn, đầy đủ còn QSDĐ
lại không trọn vẹn, đầy đủ. Vì, thứ nhất là người sử dụng đất không có đầy đủ
các quyền năng như Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu. Thứ hai là
không phải người nào cứ có QSDĐ hợp pháp là có đủ các quyền chuyển
quyền của người sử dụng đất. Luật Đất đai năm 2003 có sự phân biệt giữa các
chủ thể sử dụng đất. Chẳng hạn chủ hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không
phải là đất thuê mới có quyền chuyển đổi QSDĐ nông nghiệp trong cùng một
xã, phường, thị trấn với hộ gia đình khác (Điều 113 Luật Đất đai năm 2003),
tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất theo hình thức trả tiền thuê đất
hàng năm chỉ có quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu
của mình gắn liền với đất thuê mà không được thực hiện các quyền chuyển
nhượng, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ thuê (Điều 111 Luật Đất đai
năm 2003). Hoặc chỉ những người sử dụng đất theo hình thức giao đất có trả
tiền sử dụng đất và thuê đất theo phương thức trả tiền thuê đất một lần cho cả
thời gian thuê đất hoặc đã trả tiền thuê đất cho nhiều năm mà thời hạn thuê
đất đã được trả tiền còn lại ít nhất 5 năm mới được pháp luật cho hưởng đầy
đủ các quyền chuyển QSDĐ.
- Quyền sở hữu đất đai là một loại quyền tồn tại độc lập, còn QSDĐ
lại là quyền phụ thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện ở chỗ: người sử dụng đất
chỉ được sử dụng đất trong phạm vi nhất định (về diện tích đất, thời gian sử
dụng đất, mục đích sử dụng đất).
Như vậy, QSDĐ là quyền của người sử dụng đất có quyền khai thác
các thuộc tính của đất đai một cách hợp pháp phục vụ cho mục đích của mình
và quyền chuyển QSDĐ theo quy định của pháp luật.
Bởi vậy, người có QSDĐ không có toàn bộ các quyền năng như quyền
sử dụng tài sản khác mà chủ sở hữu tài sản đó vốn có, như không có các

quyền mua bán, tiêu hủy tài sản… Mà được chuyển QSDĐ thông qua các
hình thức: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho


16
QSDĐ, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ, quyền được bồi
thường khi Nhà nước thu hồi theo quy định của Luật Đất đai.
Chuyển QSDĐ được hiểu là: Sự chuyển dịch QSDĐ từ chủ thể này
sang chủ thể khác theo quy định của BLDS và pháp luật về đất đai.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường chịu sự chi phối của quy luật
giá trị, phần lớn các giao dịch dân sự đều thực hiện theo nguyên tắc trao đổi
ngang giá. Con người thường sử dụng hợp đồng như một phương tiện để trao
đổi các lợi ích vật chất nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sản xuất, sinh hoạt,
tiêu dùng. Tuy nhiên, có những trường hợp việc chuyển giao tài sản và
chuyển giao sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác lại không có tính
đền bù, ngang giá. Bởi lẽ con người còn sử dụng hợp đồng như một phương
tiện để giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhau, một trong các trường hợp thực
tế đó chính là hợp đồng tặng cho tài sản.
Hợp đồng tặng cho tài sản là một loại hợp đồng dân sự, do đó nó có
nét đặc trưng của hợp đồng dân sự, để đưa ra khái niệm về hợp đồng tặng cho
QSDĐ trước hết cần xuất phát từ khái niệm hợp đồng dân sự: "Hợp đồng dân sự
là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự" [29]. Đồng thời cần xem xét khái niệm tặng cho tài sản dưới
nhiều góc độ khác nhau như: "Tặng cho là để tỏ lòng quý mến" [30]; hay
"Tặng cho là trao cho để khen gợi, khuyến khích để tỏ lòng quý mến" [48];
hoặc "Tặng cho là chuyển hẳn cho người khác dùng cái của mình mà không
nhận lại cái gì" [47]. Như vậy việc tặng cho tài sản dựa trên yếu tố tình cảm,
động viên, khuyến khích giữa bên tặng cho và bên được tặng cho. Để việc
tặng cho được xác lập thì lời đề nghị của người tặng cho không đủ mà cần
phải có sự chấp nhận của người được tặng cho, do vậy tặng cho tài sản là một

hợp đồng.
Như vậy, có thể nói hợp đồng tặng cho tài sản là một quan hệ tặng cho
được hình thành từ sự thỏa thuận giữa các bên để thỏa mãn các nhu cầu về sản


17
xuất, kinh doanh hoặc các nhu cầu về sinh hoạt hàng ngày, còn pháp luật về
hợp đồng tặng cho tài sản là sự quy định của Nhà nước đối với các bên trong
việc thỏa thuận về tặng cho tài sản. Sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng
tặng cho và quy định của pháp luật có mối quan hệ mật thiết với nhau, nếu
các bên thỏa thuận tặng cho nhau tài sản theo đúng quy định của pháp luật thì
được Nhà nước công nhận sự thỏa thuận đó và hợp đồng được pháp luật công
nhận và bảo vệ. Trường hợp các bên có những thỏa thuận không phù hợp với
quy định của pháp luật thì sẽ không được công nhận; hợp đồng tặng cho này
có thể bị vô hiệu và không có giá trị tại thời điểm ký kết.
Quyền tài sản là quyền của chủ thể đối với một loại tài sản, nên có
thể khẳng định, hợp đồng tặng cho QSDĐ là một dạng của hợp đồng tặng cho
tài sản.
Điều 722 BLDS năm 2005 quy định: "Hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên tặng cho giao quyền sử
dụng đất cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng
cho đồng ý nhận theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai" [29].
Có thể thấy, khái niệm trên đã thể hiện được khá đầy đủ đặc điểm của
hợp đồng tặng cho QSDĐ. Khái niệm trên sẽ ngắn gọn hơn nếu như không có
cụm từ "còn bên được tặng cho đồng ý nhận", vì chỉ khi bên được tặng cho
đồng ý nhận thì mới có việc xác lập, giao kết hợp đồng. Việc bên tặng cho thể
hiện ý chí muốn tặng cho và bên được tặng cho đồng ý nhận chính là đề nghị
giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển khái niệm nêu trên chúng ta có khái
niệm hợp đồng tặng cho QSDĐ như sau: Hợp đồng tặng cho QSDĐ là sự

thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên tặng cho giao QSDĐ cho bên được
tặng cho mà không yêu cầu đền bù theo quy định của pháp luật.
Dưới phương diện khách quan, hợp đồng tặng cho QSDĐ là hệ thống
các quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh


18
quan hệ tặng cho QSDĐ. Đây chính là các quy định về điều kiện (Điều 470
BLDS 2005), nội dung (Điều 723 BLDS năm 2005), hình thức và hiệu lực
(Điều 467 BLDS 2005) của hợp đồng tặng cho QSDĐ và Quyền và nghĩa vụ
(Điều 724, 725, 726 BLDS 2005) của các bên khi tặng cho QSDĐ.
1.1.2. Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi hai vợ
chồng đƣợc tặng cho chung
1.1.2.1. Căn cứ xác định
* Vợ chồng được tặng cho chung trong thời kỳ hôn nhân
Tại khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
Tài sản chung của vợ chồng gồm: tài sản do vợ, chồng tạo
ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những
thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài
sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và
những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung [29].
Việc xác định QSDĐ là tài sản chung của vợ chồng căn cứ vào sự tồn
tại của quan hệ hôn nhân- quan hệ vợ chồng. Theo khoản 7 Điều 8 Luật
HN&GĐ năm 2000: "Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ
chồng tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân" [25]. Thời
kỳ hôn nhân bắt đầu từ khi kết hôn tức là ngày Ủy ban nhân dân (UBND) xã,
phường, thị trấn- nơi thường trú của vợ hoặc chồng công nhận, vào Sổ đăng
ký kết hôn và cấp giấy chứng nhận kết hôn cho hai vợ chồng.
Để xác định đúng khối tài sản chung vợ chồng thì trước tiên và quan
trọng là phải xác định đúng thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng. Theo nguyên

tắc chung trong Luật HN&GĐ năm 2000 thì quan hệ vợ chồng được xác lập
từ thời điểm đăng ký kết hôn (khoản 7 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000). Tuy
nhiên do tác động của các yếu tố như điều kiện lịch sử, phong tục tập quán và
nhận thức pháp luật nên trong một số thời điểm nhất định, pháp luật về


19
HN&GĐ vẫn thừa nhận quan hệ hôn nhân thực tế. Do đó, thời điểm xác lập
quan hệ vợ chồng trong một số trường hợp cũng khác nhau.
- Trường hợp sống chung như vợ chồng trước ngày 03/01/1987
Trong khoảng thời gian trước ngày 03/01/1987 tức là trước khi Luật
HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực thi hành, tại Điều 11 Luật HN&GĐ năm 1959
đã quy định: "Việc kết hôn phải được ủy ban hành chính cơ sở nơi trú quán
của bên người con trai hoặc bên người con gái công nhận và ghi vào sổ kết
hôn. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị về mặt pháp luật" [21].
Theo quy định trên thì việc kết hôn phải được đăng ký thì mới có giá
trị về mặt pháp luật. Tuy nhiên trong thời kỳ này yếu tố phong tục tập quán
còn ăn sâu trong tư tưởng người dân nên dẫn đến một thực trạng: phần lớn
việc kết hôn chỉ tuân theo những phong tục, tập quán ở mỗi địa phương mà
không tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trước thực tế trên, để đảm bảo quyền lợi cho vợ, chồng và các thành viên
trong gia đình thì pháp luật trong từng thời kỳ đã có quy định về việc thừa
nhận hôn nhân thực tế.
Căn cứ vào các quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số
35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GĐ;
tại khoản 1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BTP
ngày 03/01/2001 của TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp
hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc
hội về việc thi hành Luật HN&GĐ và tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số
77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 thì có thể kết luận:

+ Việc đăng ký kết hôn được Nhà nước khuyến khích, không coi là
nghĩa vụ bắt buộc và việc đăng ký kết hôn không bị hạn chế về thời gian;
+ Quan hệ vợ chồng được công nhận kể từ ngày họ bắt đầu sống
chung như vợ chồng, chứ không phải từ ngày họ đăng ký kết hôn;


20
+ Nếu có yêu cầu xin ly hôn thì Tòa án thụ lý giải quyết theo quy
định về ly hôn của Luật HN&GĐ năm 2000.
- Trường hợp sống chung như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước
ngày 01/01/2001
Tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của
Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
Nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng từ ngày
03/01/1987 đến ngày 01/01/2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo
quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời
hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày
01/01/2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn,
nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết [25].
Tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001
quy định:
Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày
03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo
quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thì có nghĩa vụ
đăng ký kết hôn. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết
hôn, thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng [2].
Theo quy định tại điểm a, b, c khoản 2 Thông tư liên tịch số
01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 thì thời điểm
xác lập quan hệ vợ chồng được xác định như sau:

+ Kể từ ngày 01/01/2001 cho đến hết ngày 01/01/2003 mà nam nữ
sống chung như vợ chồng đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được
công nhận là đã xác lập kể từ ngày bắt đầu sống chung như vợ chồng. Đối với
các trường hợp, trong khoảng thời gian từ ngày 01/01/2001 cho đến hết ngày


21
01/01/2003 mặc dù chưa đăng ký kết hôn nhưng trong khoảng thời gian này
có yêu cầu xin ly hôn thì Tòa án thụ lý và áp dụng quy định về ly hôn của
Luật HN&GĐ năm 2000 để giải quyết vụ án về ly hôn theo thủ tục chung và
quan hệ vợ chồng được công nhận là đã xác lập kể từ ngày bắt đầu sống
chung như vợ chồng.
+ Kể từ sau ngày 01/01/2003 họ mới đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ
chồng của họ chỉ được công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ đăng ký kết hôn.
- Trường hợp sống chung như vợ chồng sau ngày 01/01/2001
Tại điểm C khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH 10 ngày 09/06/2000
quy định:
Kể từ ngày 01/01/2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại
điểm a và điểm b khoản 3 Nghị quyết này, nam và nữ chung sống
với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được
pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì tòa án
thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu
cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để giải quyết [26].
Căn cứ vào quy định trên và quy định tại khoản 3 Thông tư liên tịch
số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 thì trường
hợp này quan hệ vợ chồng chỉ được công nhận từ thời điểm đăng ký kết hôn
chứ không phải từ thời điểm bắt đầu sống chung như vợ chồng.
Qua thực tiễn xét xử, do không nắm vững những quy định nêu trên
nên Tòa án đã xác định sai thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng, dẫn đến việc

xác định sai về tài sản chung vợ chồng.
Bản chất của quan hệ hôn nhân được thể hiện ở hai góc độ đó là: tính
gắn kết tình cảm và tính hợp nhất về tài sản. Khi hình thành quan hệ hôn nhân
thì vợ chồng phải có nghĩa vụ yêu thương và chăm sóc lẫn nhau. Tài sản là


22
QSDĐ vợ chồng được tặng cho chung trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung
vợ chồng.
Để xác định đúng căn cứ phát sinh tài sản chung vợ chồng thì cần
phân biệt được thế nào là "tặng cho chung", "tặng cho riêng". Được coi là
tặng cho chung khi chủ tài sản thể hiện ý chí trong hợp đồng tặng cho bằng
cách ghi bên nhận tặng cho là cả vợ và chồng nhưng không xác định kỷ phần.
Được coi là tặng cho riêng khi chủ tài sản chỉ thể hiện phần bên nhận
tặng cho chỉ là vợ hoặc chồng hoặc phần bên nhận tặng cho có ghi cả vợ và
chồng nhưng xác định rõ kỷ phần mỗi người được hưởng.
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp
luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sử
hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên cả vợ chồng. Tuy
nhiên theo hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP, đối với tài sản
hình thành trong thời kỳ hôn nhân (tài sản vợ chồng được tặng cho chung) mà
trên giấy chứng nhận quyền tài sản chỉ ghi tên một người thì tài sản vẫn được
coi là tài sản chung vợ chồng. QSDĐ mà vợ chồng được tặng cho chung trong
thời kỳ hôn nhân thì dù Giấy chứng nhận QSDĐ đứng tên người vợ hoặc
người chồng thì vẫn được coi là tài sản chung vợ chồng.
* Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng được tặng cho riêng nhưng vợ
chồng tự nguyện nhập vào khối tài sản chung
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng được tặng cho riêng trong thời kỳ
hôn nhân hoặc QSDĐ mà vợ, chồng có trước khi kết hôn là tài sản riêng của
vợ hoặc chồng. Trong quá trình chung sống vợ chồng đã tự nguyện sáp nhập

QSDĐ riêng đó vào khối tài sản chung thì sẽ trở thành tài sản chung vợ chồng.
Tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật HN&GĐ quy định:
Việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản
khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng


23
vào tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 32
Luật Hôn nhân và gia đình phải được lập thành văn bản, có chữ ký
của cả vợ và chồng. Văn bản đó có thể được công chứng hoặc
chứng thực [1].
Theo quy định trên thì hình thức của loại thỏa thuận này giữa vợ và chồng
đối với tài sản là QSDĐ phải lập thành văn bản. Nếu không lập thành văn bản
theo quy định thì về nguyên tắc bị coi là vô hiệu về hình thức. Tuy nhiên trong thực
tiễn, xuất phát từ yếu tố văn hóa, truyền thống nên tính minh bạch, rõ ràng về
pháp lý thường bị xem nhẹ. Đa số các trường hợp vợ chồng khi nhập tài sản riêng
vào khối tài sản chung đều không lập thành văn bản do đó khi xảy ra tranh chấp
rất khó xác định là vợ, chồng đã nhập QSDĐ vào khối tài sản chung hay chưa.
Việc vợ, chồng nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung là một điều
tốt, tạo sự gắn kết gia đình, nhưng khi một trong hai bên cùng nhập tài sản
riêng vào khối tài sản chung mà không lập văn bản, có trường hợp không
cùng đứng tên trong giấy chứng nhận QSDĐ. Cần phải có các quy định cụ thể
hóa để khi vợ, chồng xảy ra tranh chấp mới xử lý thống nhất và công bằng.
* Quyền sử dụng đất còn là tài sản chung vợ chồng được đặt ra theo quy
định tại khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000: "Trong trường hợp không
có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang tranh chấp là tài sản riêng
của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung" [25]. Như vậy, tài sản chung của
vợ chồng còn được xác định trên nguyên tắc suy đoán bởi trong thực tế thì có
nhiều trường hợp người sở hữu tài sản đó không đưa ra được chứng cứ chứng

minh đó là tài sản thuộc quyền sở hữu của mình thì đó là tài sản chung.
1.1.2.2. Nội dung quyền của vợ chồng đối với tài sản chung là quyền
sử dụng đất
* Quyền sở hữu của vợ chồng đối với QSDĐ
Điều 164 BLDS năm 2005 quy định: "Quyền sở hữu bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy


24
định của pháp luật" [29]. Vợ chồng thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản
chung là QSDĐ qua ba quyền năng: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt QSDĐ
phù hợp với quy định của pháp luật.
Quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên của quyền sở hữu, là quyền năng
của vợ chồng tự mình nắm giữ, quản lý tài sản (quy định tại Điều 182 BLDS
2005). Vợ chồng có quyền kiểm soát, làm chủ và chi phối tài sản theo ý chí
của mình trên cơ sở pháp luật. Trong một số trường hợp vợ chồng được phép
chuyển giao việc chiếm hữu này cho người khác thông qua một hợp đồng dân
sự như: cho thuê đất, cho mượn đất thì vợ chồng vẫn thực quyền chiếm hữu
đối QSDĐ, mà không bị hạn chế, gián đoạn về thời gian dù vợ chồng lúc đó
không trực tiếp nắm giữ và chi phối QSDĐ.
Quyền chiếm hữu của vợ, chồng chỉ chấm dứt hoàn toàn khi vợ, chồng
từ bỏ quyền sở hữu của mình, như quyết định bán, trao đổi, tặng cho QSDĐ.
Quyền sử dụng là quyền năng tiếp theo của vợ chồng, theo đó vợ
chồng có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, những
lợi ích vật chất của tài sản trong phạm vi pháp luật cho phép như để thỏa mãn
nhu cầu trong sản xuất, kinh doanh hoặc trong sinh hoạt, ăn ở hàng ngày.
Trong trường hợp chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản thuộc
sở hữu của mình thì chủ sở hữu được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi
tức từ tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm
ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp

pháp của người khác [29]. Tại Điều 105 Luật Đất đai năm 2003 cũng quy
định rõ về quyền của người sử dụng đất được "hưởng thành quả lao động, kết
quả đầu tư trên đất " [27].
Quyền định đoạt là một quyền năng quan trọng của chủ sở hữu khi
quyết định về "số phận" pháp lý của QSDĐ. Vợ chồng từ bỏ quyền sở hữu đối
với QSDĐ như chuyển giao quyền sử dụng đối với QSDĐ từ vợ chồng sang
người khác. Khi định đoạt về số phận pháp lý của QSDĐ vợ chồng phải thông


25
qua các giao dịch dân sự phù hợp với ý chí của vợ chồng như: bán, trao đổi,
tặng cho, để thừa kế Điều 106 Luật Đất đai năm 2003 cũng đã quy định
quyền của người sử dụng đất như sau: "Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp,
bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; quyền được bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất" [27].
Thông qua việc định đoạt QSDĐ mà vợ chồng có thể: chuyển quyền
chiếm hữu tạm thời; chuyển quyền chiếm hữu và quyền sử dụng đối với
QSDĐ trong một khoảng thời hạn (hợp đồng cho thuê, cho mượn) hoặc vợ
chồng chuyển giao QSDĐ cho người khác bằng hợp đồng chuyển nhượng,
chuyển đổi, tặng cho…
Việc vợ chồng thực hiện quyền định đoạt đối với QSDĐ sẽ làm chấm
dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó, như khi vợ
chồng chuyển nhượng quyền sử đất sẽ làm chấm dứt QSDĐ của vợ chồng
nhưng lại làm phát sinh quyền "sở hữu" QSDĐ đối với người được chuyển
nhượng. Việc vợ chồng thực hiện quyền định đoạt đối với QSDĐ phải được
thực hiện theo quy định của pháp luật.
Để tạo điều kiện cho vợ chồng khi định đoạt QSDĐ, BLDS đã quy
định việc ủy quyền định đoạt. Vợ chồng có thể ủy quyền cho người khác định
đoạt đối với QSDĐ của mình bằng hợp đồng ủy quyền, người được ủy quyền

phải thực hiện việc định đoạt theo phương pháp, cách thức phù hợp với ý chí
và lợi ích của vợ chồng.
Ngoài ra trong quá trình quản lý, sử dụng QSDĐ là tài sản chung vợ
chồng còn có quyền thỏa thuận chia tài sản chung, nếu không thỏa thuận được
thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Cả ba quyền năng cụ thể trên tạo thành một thể thống nhất trong nội
dung quyền "sở hữu" của vợ chồng đối với tài sản chung là QSDĐ. Giữa
chúng có mối liên quan mật thiết với nhau tạo tiền đề cho nhau. Quyền chiếm

×