Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

tiểu luận kinh điển Nhà nước và cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.08 KB, 16 trang )

1

TÁC PHẨM “NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG” VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
Tác phẩm được V.I.Lênin viết vào khoảng tháng 8, tháng 9 năm 1917, trong
thời kỳ hoạt động bí mật ở Ra dơ líp trên biên giới Nga- Phần Lan. Năm 1918
tác phẩm được xuất bản lần đầu với 30700 cuốn năm 1919 được xuất bản lần thứ
hai và từ năm 1918 đến năm 1961 cuốn sách được xuất bản 190 lần, với số lượng
lớn 6592000 bản bằng 46 thứ tiếng dân tộc ở Liên-Xơ cũ và 35 thứ tiếng nước
ngồi. Hiện nay tác phẩm được in chọn vẹn trong V.I.Lênin toàn tập tập 33.
Nxb, Tiến bộ, Mátxcơva, 1976. Đây là tác phẩm có giá trị lớn về lý luận cũng
như thực tiễn đối với giai cấp vô sản và những người lao động trên toàn thế giới
trong sự nghiệp cách mạng giải phóng giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Vào đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa
đế quốc. Bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa đế quốc là một bước
làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn kinh tế-xã hội mà giai cấp tư sản không
thể nào giải quyết được. Đấu tranh giai cấp ngày càng trở nên quyết liệt. Có thể
nói cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản với giai cấp tư sản diễn ra hết sức
sôi nổi cả bề rộng lẫn chiều sâu ngay từ những năm cuối của thế kỷ XIX. Chủ
nghĩa đế quốc đã gây ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1814-1818) làm
cho những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản vốn đã gay gắt càng trở nên
gay gắt và trầm trọng thêm. “Những thảm hoạ và những tai hoạ chưa từng thấy
của cuộc chiến tranh dai dẳng làm cho đời sống của quần chúng khốn khổ không
thể chịu được và làm cho họ càng thêm căm phẫn” 1. Tình hình đó nói lên rằng
:Cách mạng vơ sản quốc tế đang chín muồi rõ rệt. Thời cơ giai cấp vơ sản giành
lấy chính quyền cuả giai cấp tư sản đã chín muồi, vấn đề quan hệ giữa cách
mạng vô sản với nhà nước đã được đặt lên chương trình nghị sự, việc giai cấp vơ
1 V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976, tr3



2

sản tiến hành cách mạng bạo lực để giành lấy chính quyền đã trở thành hành
động thực tế trước mắt. Tuy nhiên vào thời điểm này, giai cấp vô sản cần phải
gạt bỏ những quan niệm sai trái, lệch lạc, về vấn đề nhà nước, xác định phương
pháp giành lấy chính quyền và kế họach thực hiện nhiệm vụ trong nền chun
chính vơ sản.
Trong khi giai cấp vơ sản và nhân dân lao động cần phải có một lý luận cách
mạng, khoa học về nhà nước để thực hiện nhiệm vụ giành chính quyền thì những
thủ lĩnh cơ hội chủ nghĩa của quốc tế hai, tiêu biểu là E.Béts tanh, Cauxky, lại
tìm mọi cách chống lại các nguyên lý của chủ nghĩa Mác về nhà nước và cách
mạng. Bọn theo chủ nghĩ vơ chính phủ cũng đưa ra nhiều luận điểm chống chủ
nghĩa Mác về vấn đề này. Trên thực tế, sự tuyên truyền đó đã ảnh hưởng khá
nặng nề trong phong trào cơng nhân. Vì thế “ Khơng đấu tranh chống những
thiên kiến cơ hội chủ nghĩa về vấn đề “nhà nước” thì khơng thể đấu tranh giải
phóng quần chúng cần lao khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản đế quốc chủ nghĩa
nói riêng được”2. Mặt khác cuộc cách mạng tháng hai nổ ra và giành thắng lợi.
Nhưng cách mạng phát triển đến tháng bảy, tháng tám thì kết thúc, cách mạng
chuyển vào thời kỳ hồ bình ( hai chính quyền song song tồn tại). Sự kết thúc
này hồn tồn có lợi cho giai cấp tư sản, cịn Xô viết do đảng xã hội do Đảng xã
hội cách lãnh đạo thì trở thành vật phụ thuộc vào chính phủ lâm thời. Khi thời kỳ
cách mạng phát triển hoà bình kết thúc, vấn đề súng gươm đã được đặt lên
chương trình nghị sự, thì nhiệm vụ lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang lật đổ chính
quyền của giai cấp tư sản trở thành nhiệm vụ trực tiếp. Để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ đó, theo V.I. Lênin, nhiệm vụ cấp thiết lúc này là phải đấu tranh gạt bỏ
những quan niệm sai lầm bảo vệ chủ nghĩa Mác, vũ trang cho Đảng của giai cấp
công nhân, cho quần chúng cách mạng đang đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội lý luận khoa học về nhà nước.
Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” gồm 7 chương

2V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr4


3

Chương 1: xã hội có giai cấp và nhà nước
Chương 2: Nhà nước và cách mạng, kinh nghiệm 1848- 1851
Chương 3: Nhà nước và cách mạng, kinh nghiệm công xã Pa-ri 1871, sự Phát
triển của Các Mác
Chương 4: Tiếp theo những lời giải thích bổ sung của Ph.Ăng-ghen
Chương 5: Cơ sở kinh tế để nhà nước tiêu vong
Chương 6: Bọn cơ hội chủ nghĩa tầm thường hoá chủ nghĩa Mác
Chương 7: nhà nước và cách mạng 1905- 1917
Tuy nhiên trong quá trình viết tác phẩm V.I.Lênin bận vào việc chuẩn bị cho
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền do đó chương 7 và phần kết luận chưa
được viết.
II. Một số nội dung cơ bản của tác phẩm
Sau khi C.Mác và Ph. Ăng-ghen qua đời giai cấp tư sản và bọn cơ hội chủ
nghĩa chúng lãng qn, xố nhồ chúng xun tạc học thuyết chủ nghĩa Mác về
nhà nước vì vậy đòi hỏi V.I.Lênin cần phải bảo vệ và phát triển quan điểm chủ
nghĩa Mác về nguồn gốc, bản chất , đặc trưng của nhà nước….
1. V.I. Lênin bảo vệ và phát triển quan điểm chủ nghĩa Mác về vấn đề
nguồn gốc, bản chất , đặc trưng nhà nước.
Các nhà kinh điển đã chứng minh rằng không phải khi nào xã hội cũng có nhà
nước. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ khơng có nhà nước. Phù hợp với tình
trạng kinh tế cịn thấp kém, chưa có sự phân hố giai cấp . Theo Lênin vấn đề
nguồn gốc, đặc trưng, bản chất của nhà nước và ý nghĩa lịch sử của nhà nước,
luôn luôn đã và sẽ là đối tượng của cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt giữa các
quan điểm đối lập trong lịch sử. Trước tình hình chống phá của chủ nghĩa tư bản
và các thế lực thù địch xuyên tạc về vấn đề nhà nước Lênin đã chỉ ra hai khuynh

hướng chủ yếu đó là :
Thứ nhất: Khi buộc phải thừa nhận ở đâu có mâu thuẫn giai cấp và đấu
tranh giai cấp thì ở đó có nhà nước, thì họ lại cho rằng nhà nước là cơ quan điều


4

hoà giai cấp đồng nhất việc nhà nước sử dụng lực lượng, biện pháp để “làm dịu
xung đột giai cấp” vì lợi ích của giai cấp thống trị với điều hồ giai cấp
Thứ hai: Khi khơng thể chối cãi được nhà nước là một cơ quan thống trị
giai cấp, thì họ lại “bỏ quên” hoặc “phản đối” việc tiến hành cuộc cách mạng bạo
lực để thủ tiêu bộ máy chính quyền nhà nước do giai cấp thống tri dựng nên.
Từ những vấn đề đó Lê nin cho rằng chúng ta trước hết là phải khơi phục học
thuyết chân chính và người đã khẳng định chỉ có chỉ có chủ nghĩa Mác mới đưa
ra được câu trả lời khoa học và đúng đắn cho câu hỏi thế nào là nhà nước, tại
sao trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, nhà nước lại có những hình thức và vai
trị khác nhau.
* Về nguồn gốc của nhà nước: Lênin chỉ rõ “ Nhà nước là sản phẩm và
biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hồ được. Bất cứ ở đâu,
hễ ở lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan những mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hồ được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại : sự tồn tại của
nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là khơng thể điều hồ được”3.
Từ quá trình nghiên cứu thấy rằng thể chế xã hội trong thời kỳ cộng sản nguyên
thuỷ là thể chế tự quản của nhân dân, lúc này nhà nước chưa xuất hiện. Do sự
phát triển của lực lượng sản xuất, sự ra đời của chế độ tư hữu và phân chia xã hội
thành giai cấp, chế độ cộng sản tan rã, các nhà kinh điển đã chỉ ra có các nguồn
gốc đó là: Có các cách tiếp cận khác nhau như xét ở góc độ kinh tế.
Một là : Sự phát triển của lực lượng sản xuất trước hết là công cụ lao
động, đã cho phép có thể tiến hành sản xuất tương đối độc lập theo nhóm nhỏ
hay dơn vị gia đình. Sở hữu chung trở thành vật cản đối với sự phát triển sản

xuất. Từ công cụ được cải tiến người ta có thể sản xuất ra một lượng sản phẩm
tiêu dùng nhiều hơn so với nhu cầu tối thiểu cho sự tồn tại của mình. Đây là cơ
sở khách quan làm nảy sinh ở những người có chức có quyền chiếm đoạt những
sản phẩm dư thừa đó.
3V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr9


5

Hai là: Một bộ phận có quyền lực khát vọng muốn chiếm, tước đoạt sản
phẩm dư thừa, làm xuất hiện giai cấp, xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất.
Xét ở góc độ thứ hai : về chính trị nhà nước ra đời từ mâu thuẫn và đối kháng
giai cấp
* Về bản chất của nhà nước: Theo V.I.Lênin nhà nước là cơ quan thống trị
giai cấp, là cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với các giai cấp trong xã
hội. Trong chế độ cũ nhà nước là một lực lượng đặc biệt để trấn áp giai cấp bị áp
bức, cho nên “Nhà nước nào cũng là một lực lượng đặc biệt để trấn áp”giai cấp
bị áp bức. Cho nên, bất kỳ nhà nước nào cũng đều khơng tự do, đều khơng có
tính nhân dân”4. Bản chất nhà nước chỉ có một, nhưng những hình thức nhà nước
thì phong phú. Song hình thức nào cũng chỉ là nền chuyên chính của một giai
cấp, là tổ chức bạo lực dùng để trấn áp các giai cấp khác. Sự khác nhau về bản
chất của nhà nước được thể hiện tập trung ở chỗ nhà nước đó trấn áp ai, phục vụ
và bảo vệ lợi ích cho ai. Lênin viết “ Những người lao động cần có nhà nước là
chỉ để trấn áp sự phản kháng của bọn bóc lột mà lãnh đạo việc trấn áp ấy, thực
hành việc trấn áp ấy, thì chỉ có giai cấp vơ sản mới có thể làm được…các giai
cấp bóc lột cần đến quyền thống trị để duy trì sự bóc lột, nghĩa là để bảo vệ
quyền lợi ích kỷ của một thiểu số rất nhỏ bé, chống lại tuyệt đại đa số nhân dân.
Các giai cấp bị bóc lột cần đến quyền thống trị chính trị để thủ tiêu hồn tồn sự
bóc lột, nghĩa là để bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân chống lại thiểu số rất

nhỏ những chủ nô hiện đại, tức là bọn địa chủ và bọn tư bản” 5. V.I.Lê nin tiếp tục
tư tưởng của Mác và Ph.Ăng-ghen và cho rằng nhà nước chính là bộ máy bạo lực
có hệ thống, là cơng cụ chun chính của một giai cấp. Lê nin đã dùng lịch sử để
chứng minh khơng có nhà nước của nhiều giai cấp, nhà nước phi giai cấp mà nhà
nước chỉ là của một giai cấp nhất định, đó là giai cấp có thế lực mạnh nhất về
4V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr25
5V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr31


6

kinh tế, chính trị trong xã hội. Lê nin đã nhấn mạnh tư tưởng của Ph. Ăng –ghen
“Theo một quy luật chung, nó là nhà nước của giai cấp mạnh nhất, giữa địa vị
thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước, giai cấp này cũng trở thành giai cấp
thống trị về mặt chính trị và do có thêm được những phương tiện mới để trấn áp
và bóc lột giai cấp bị áp bức” 6. Tuy nhiên V.I. Lê nin cũng chỉ rõ những trường
hợp ngoại lệ nhà nước “tựa hồ” như một bên trung gian đứng giữa các giai cấp
đang đấu tranh ở thế “cân bằng” lực lượng tạm thời. Chẳng hạn như chế độ quân
chủ chuyên chế vào thế kỷ XVII và XVIII như : chế độ Bô na pác tơ của chế độ
thứ nhất và thứ hai ở pháp, chế độ Bixmác ở Đức. Nhà nước là một tổ chức
quyền lực đặc biệt, nó là tổ chức bạo lực dùng để trấn áp một giai cấp nào đó,
các giai cấp bóc lột cần đến quyền thống trị chính trị để duy trì sự bóc lột, nghĩa
là để bảo vệ quyền lợi ích kỷ của một thiểu số rất nhỏ bé, chống lại tuyệt đại đa
số nhân dân. Các giai cấp bị bóc lột cần đến quyền thống trị chính trị để thủ tiêu
hồn tồn mọi sự bóc lột, nghĩa là để bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân chống
lại thiểu số rất nhỏ những chủ nô hiện đại, tức là bọn địa chủ và bọn tư bản. Bọn
dân chủ tiểu tư sản, tức là bọn giả danh xã hội chủ nghĩa, vẫn lấy mộng tưởng
thoả hiệp giai cấp để thay cho đấu tranh giai cấp, họ hình dung ngay cả việc cải
tạo xã hội chủ nghĩa cũng theo cách mộng tưởng, không phải dưới hình thức lật
đổ nền thống trị của giai cấp bóc lột, mà là dưới hình thức số ít êm ái phục tùng

số đơng đã có ý thức về nhiệm vụ của mình. Thực tế lịch sử mang lại nhiều bằng
chứng nói nên rằng , dù được che giấu dưới hình thức tinh vi như thế nào, dù có
bị khúc xạ qua những năng kính phức tạp ra sao, nhà nước trong mọi xã hội có
giai cấp đối kháng cũng chỉ là cơng cụ bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp thống
trị, cũng chỉ là một bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối vơí một giai cấp
khác.
* Về đặc trưng cơ bản của nhà nước: Kế thừa tư tưởng của Ph.Ăng-ghen
V.I.Lê nin khẳng định nhà nước có hai đặc trưng cơ bản:
6V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr16


7

Một là : Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Trong
tác phẩm Lê nin viết “ Đặc trưng thứ nhất của nhà nước là ở chỗ nó phân chia
thần dân trong quốc gia theo sự phân chia theo lãnh thổ” 7. Cách phân chia ấy
chúng ta tháy tựa hồ như là tự nhiên, nhưng nó đã phải trải qua một cuộc đấu
tranh lâu dài với tổ chức cổ xưa theo tông tộc. Đây là đặc trưng làm rõ sự khác
biệt của nhà nước với các hình thức tổ chức thị tộc bộ lạc. Các tổ chức thị tộc bộ
lạc được hình thành trên cơ sở những quan hệ huyết thống, cịn nhà nước được
hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo địa bàn.
Hai là : Có một hệ thống cơ quan quyền lực chun nghiệp, hình thành hệ
thống thuế khố. Lê nin đã kế thừa tư tưởng của Ph. Ăng ghen đó là “Sự thiết lập
một quyền lực xã hội, quyền lực này khơng cịn trực tiếp là dân cư tự tổ chức
thành lực lượng vũ trang nữa. Quyền lực xã hội đặc biệt đó là cần thiết vì từ khi
có sự phân chia xã hội thành giai cấp thì khơng thể có tổ chức vũ trang tự động
của dân cư được nữa…quyền lực xã hội đó tồn tại ở mọi quốc gia. Muốn duy trì
quyền lực xã hội đặc biệt, đặt lên trên xã hội, thì phải có thuế và quốc trái. Nhà
nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thúe khoá, bộ máy cai trị của giai cấp
thống trị sở dĩ tồn tại được là do sống bám vào những thần dân mà nó thống trị.

Chính vì vậy Lênin đã đưa ra tư tưởng của Ph. Ăng-ghen “Nắm được quyền lực
xã hội và quyền thu thuế, bọn quan lại với tư cách là những cơ quan của xã hội
được đặt lên trên xã hội. Lịng tơn kính tự do, tự nguyện trước kia của người ta
đối với các cơ quan của xã hội thị tộc (bộ tộc), thì nay đối với bọn quan lại
khơng cịn đủ nữa, ngay cả trong trường hợp nếu họ có thể tranh thủ được sự tơn
kính đó”8.
2. Tư tưởng của V.I. Lênin về chun chính vơ và nhà nước chun
chính vơ sản.

7V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr11
8 V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr15


8

Từ việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác về các vấn đề giai cấp
và đấu tranh giai cấp, về nhà nước, V.I.Lênin cho rằng cái chủ yếu trong học
thuyết của Mác không phải là đấu tranh giai cấp “ Đóng khung chủ nghĩa Mác
trong học thuyết đấu tranh giai cấp là cắt xén, xuyên tạc chủ nghĩa Mác, thu nó
lại thành cái mà giai cấp tư sản có thể tiếp nhận được. Chỉ người nào mở rộng
việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vơ sản thì
mới là người mác xít”9. Lênin khẳng định chun chính vơ sản là vấn đề trọng
tâm cơ bản mà Mác và Ph.Ăng-ghen đề cập trong học thuyết cách mạng của
mình. Và chỉ ra thực chất của chuyên chính vơ sản, chun chính vơ sản là sự
thống trị chính trị của giai cấp cơng nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản
sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội. Chun chính vơ
sản là phương thức, là phương tiện, là hình thức để bảo vệ sự thống trị về chính
trị của giai cấp cơng nhân. V.I.Lênin cho rằng chưa bao giờ có một giai cấp bị áp
bức nào đạt được địa vị thống trị mà lại không trải qua một thời kỳ chun chính,
nghĩa là lại khơng giành chính quyền và khơng dùng bạo lực để đè bẹp sự kháng

cự tuyệt vọng nhất, chẳng từ bất cứ một tội ác nào, một sự kháng cự mà bọn bóc
lột ln ln tiến hành. Người cũng chỉ ra tiêu chuẩn để phânbiệt dánh giá người
mác xít với người phi mác xít, cơ hội khơng phải chủ yếu ở chỗ thừa nhận hay
không thừa nhận đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản. Theo
Mác đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chun vơ sản và chun chính vơ sản là
bước quá độ để đi đến thủ tiêu giai cấp. Chỉ có thừa nhận tư tưởng quan trọng,
mới mẻ này của Mác mới là người mác xít. Những người theo chủ nghĩa cơ hội
đã không thừa nhận trên thực tế tư tưởng này của Mác. Lênincho rằng chun
chính vơ sản xét về phương diện giai cấp thì đó là “giai cấp vô sản được được tổ
chức thành giai cấp thống trị” và về mặt nhà nước thì đây là nhà nước kiểu mới,
nhà nước quá độ, nhà nước không nguyên nghiã, hay nhà nước nửa nhà nước.
Bởi lẽ nhà nước theo đúng nghĩa của từ này thì đó là tổ chức của giai cấp thống
9 V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr25


9

trị, bóc lột dùng để thống trị các giai cấp khác trong xã hội. Lênin viết “Chỉ
những người đã hiểu rằng chun chính của một giai cấp tất yếu khơng những
cho mị xã hội có giai cấp nói chung, khơng những cho giai cấp vô sản sau khi đã
lật đổ giai cấp tư sản, mà còn cho suốt cả thời kỳ lịch sử từ chế độ tư bản chủ
nghĩa đến “xã hội khơng có giai cấp”, đến chế độ cộng sản chủ nghiã, chỉ những
người đó mới thấm nhuần được thực chất của học thuyết Mác về nhà nước” 10.
Trên cơ sở phân tích sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước tư sản Lênin đã
dự báo thiên tài về tính phong phú của các hình thức nhà nước chun chính vơ
sản. trong tác phẩm viết “Những hình thức của các nhà nước tư sản thì hết sức
khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả những nhà nước
ấy, vơ luậnthế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản. Bước chuyển
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghiã cộng sản, cố nhiên khơng thể khơng đem lại rát
nhiều hình thức chính trị khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức ấy tất

nhiên sẽ chỉ là một, tức là chun chính vơ sản” 11. Dự báo về tính phong phú của
các hình thức nhà nước chun chính vơ sản của Lênin có ý nghĩa hết sức to lớn
trong tổ chức xây dựng nhà nước của giai cấp vô sản. Nó là cơ sở lý lận cho giai
cấp vơ sản trong tổ chức nhà nước của mình cho phù hợp với tình hình của mỗi
nước. Mặt khác Lê nin cũng chỉ ra sự khác nhau căn bản giữa nhà nước của giai
cấp tư sản và nhà nước của giai cấp thống trị bóc lột nói chung với nhà nước
chun chính vơ sản trên một số nội dung đó là :
Một là: Nhà nước chun chính vơ sản là nhà nước do nhân dân lao động
xây dựng nên, dưới sự lãnh đạo của đội tiền phong của giai cấp vô sản. nó là
cơng cụ sắc bén của nhân dân thực hiện nhiệm trấn áp và tổ chức xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Hai là :Nhà nước chun chính vơ sản là nhà nước kiểu mới, thực hiện
dân chủ theo lối mới và chun chính theo lối mới. Theo Lênin nhà nước vơ sản
10V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr43-44
11V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr44


10

vẫn phải thực hiện chức năng trấn áp, nhưng chức năng trấn áp của nhà nước vô
sản khác với trấn áp của nhà nước của các giai cấp thống trị bóc lột. Lê nin chỉ ra
“Nhà nước dưới chế độ tư bản chủ nghĩa là nhà nước theo đúng nghĩa của nó, là
một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác, hơn nữa lại là
tiểu số đối với đa số. Một thiểu số người bóc lột người muốn tiến hành có kết
quả việc trấn áp thường xuyên một đa số người bị bóc lột thì đương nhiên phải
hung ác, tàn bạo đến cực độ trong sự trấn áp, phải gây ra hành bể máu mà nhân
loại đã từng trải qua dưới chế độ nô lệ, chế độ nông nô và chế độ lao động làm
thuê”12. Người chỉ ra trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng
sản, sự trấn áp vẫn cịn tất yếu nhưng nó đã là trấn áp của đa số bị bóc lột đối với
thiểu số bóc lột. Vì vậy sự trấn áp ấy “dễ dàng” ít tốn máu hơn…sự trấn áp ấy có

thể dung hợp với việc mở rộng chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân.
Lênin chỉ rõ “xã hội tư bản chủ nghĩa,xét trong những điều kiện phát triển thuận
lợi nhất của nó đem lại cho ta một chế độ dân chủ ít nhiều đâyd đủ trong chế độ
cộng hoà dân chủ. Nhưng chế độ dân chủ ấy bao giờ cũng bị bó trong khn khổ
chật hẹp của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa và do đó, thực ra nó ln ln là một chế
độ dân chủ đối với một thiểu số, vẫn chỉ là một chế độ dân chủ đối với riêng những
giai cấp của nó…đa số nhân dân bị gạt ra ngồi sinh hoạt chính trị xã hội”13.
Ba là : Nhà nước chun chính vơ sản là nhà nước tự tiêu vong. Lê nin
cho rằng sau khi giành được chính quyền về tay giai cấp vơ sản thì việc trấn áp
vẫn rất cần thiết nhưng lực lượng trấn áp là đa số nhân dân lao động đi trấn áp
những kẻ đi áp mình. Do đó “khơng cần phải có lực lượng đặc biệt” để trấn áp
nữa. Theo nghĩa đó, nhà nước bắt đầu tiêu vong. Phát triển luận điểm của Mác và
Ph.Ăng ghen về sự tiêu vong của nhà nước chun chính vơ sản, V.I.Lênin đã chỉ
ra cơ sở kinh tế xã hội cho sự tiêu vong.

12V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr110-111
13V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr107


11

* Về mặt kinh tế xã hội: Để nhà nước chun chính vơ sản tiêu vong hồn
tịan: khi nhà nước chun chính vơ sản đã trở nên thừa và hồn tồn khơng cần
thiết nữa, khi sự phản kháng của các thế lực thù đich đã hoàn toàn bị đập tan, khi
bọn tư bản đã hoàn toàn bị đập tan, khi đó xã hội khơng cịn giai cấp khi đó mọi
người trong xã hội tô trọng những qui tắc chung của cộng đồng, các qui tắc ấy đã
rẻơ thành phong tục tập qn. Lúc đó mọi người tự giác tơn trọng các qui tắc
không cần phải cưỡng bức không cần phải bắt buộc. V.I.Lênin đã viết “Chỉ có
chủ nghĩa cộng sản mới làm cho nhà nước trở nên hồn tồn khơng cần thiết, vì
lúc bấy giờ khơng cịn ai trấn áp, chữ “ai” hiểu theo nghĩa là giai cấp, khơng cịn

phải đấu tranh có hệ thống chống một bộ phận dân cư nhất định nào đó” 14. Về cơ
sở kinh tế để nhà nước vơ sản tiêu vong hồn tồn đó là Chủ nghĩa cộng sản đạt
tới một trình độ phát triển cao, khiến cho mọi sự đối lập giữa lao động trí óc và
lao động chân tay khơng cịn nữa. Khi, đối với mọi người, lao động đã trở thành
nhu cầu bậc nhất của cuộc sống, khi của cải đã tuôn ra dồi dào và xã hội thực
hiện theo nguyên tắc làm hết năng lực hưởng theo nhu cầu V.I.Lênin viết “ Cơ sở
kinh tế làm cho nhà nước tiêu vong hoàn toàn là chủ nghĩa cộng sản đạt tới một
trình độ phát triển cao khiến mọi sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động
chân tay khơng cịn nữa, và do đó cũng khơng cịn một trong những nguồn gốc
chủ yếu của sự bất bình đẳng xã hội hiện nay, nguồn gốc này, nếu chỉ xã hội hố
tư liệu sản xuất,chỉ tước đoạt bọn tư bả thì không thể nào tiêu tan được ngay” 15.
Để giai cấp vô sản và quần chúng hiểu đúng đắn vấn đè tiêu vong của nhà nước
chun chính vơ sản, V.I.Lênin cịn chỉ ra thời gian và tính chất của q trình tự
tiêu vong, Người khẳng định “Không thể nào ấn định được lúc nào nhà nước sẽ
“tiêu vong” nhất là vì sự tiêu vong ấy lại rõ ràng là một quá trình lâu dài” 16. Quá
trình ấy bắt đầu từ khi chun chính vơ sản được thiết lập và kết thúc xây dựng
thành công chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi tồn thế giới. Q trình ấy diễn ra
14V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr111
15V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr118
16 V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr103


12

như thế nào, chậm chạp hay nhanh chóng phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ phát
trển của công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự tiêu vong của nhà nước
cũng có nghĩa là “chế độ dân chủ tiêu vong” và đó cũng chính là mục đích cuối
cùng mà chúng ta theo đuổi”. V. I. Lênin cho rằng trong giai đoạn đầu của chủ
nghĩa cộng sản đó là giai đoạn thấp hay gọi là chủ nghĩa xã hội, thì nhà nước lúc
này vẫn chưa tiêu vong hẳn. Sở dĩ nhà nước trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa

cộng sản chưa tiêu vong hẳn. Vì vẫn cịn duy trì pháp quyền tư sản, bởi nó chưa
bị xố bỏ hồn tồn mà mới bị xoá bỏ một phần, chỉ bị xoá bỏ với mức độ phù
hợp với cuộc cách mạng kinh tế đã hoàn toàn, nghĩa là chỉ trong phạm vi tư liệu
sản xuất thôi. Đến giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản thì nhà nước tiêu vong,
quá trình tiêu vong của nhà nước diễn ra theo tuần tự, tan dần, mất dần, lịm dần
đi cùng với sự phát triển của tiền đề kinh tế chính trị xã hội, hai giai đoạn này có
sự khác nhau rất lớn về mặt chính trị.
3. Quan điểm của V.I. Lênin về nhà nước của giai cấp tư sản hiện nay
và tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trước sự thay đổi của tình hình kinh tế thế giới đầu thế kỷ XX, kẻ thù của
chủ nghĩa Mác đã có những luận điệu phản động nhằm biện hộ cho sự tồn tại của
nhà nước tư sản, chúng cho rằng nhà nước tư sản hiện nay đã thay đổi bản chất,
nó khơng phải là nhà nước bóc lột, mà đó là nhà nước “phúc lợi chung”, “nhà
nước phi giai cấp”, chúng ra sức tuyên truyền cho nhân dân tư tưởng sai lầm để
chống lại những lý luận chủ nghĩa Mác về cách mạng xã hội. Để đập tan những
quan điểm phản động đó, đáp ứng yêu cầu cấp bách của cách mạng V.I. Lênin đã
vạch trần bản chất của nhà nướcc tư sản “Những hình thức của các nhà nước tư
sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một : chung quy lại thì tất cả
nhà nước ấy, vơ luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản” 17.
Bản chất của nhà nước tư sản không phải là cái trừu tượng, phi hiện thực mà bản
chất dó được bộc lộ ra qua nhiều hiện tượng, trong đó ở cả việc thực hiện chế độ
17V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr44


13

cộng hoà dân chủ tư sản. C.Mác đã từng chỉ rõ, chế độ cộng hồ dân chủ khơng
hề mảy may xoá bỏ sự áp bức của quần chúng và đấu tranh giai cấp, nên tất
nhiên nó sẽ khiến cho cuộc đấu tranh mở rộng và phát triển. Vì vậy “chế độ cộng
hoà dân chủ là con đường ngắn nhất đưa dến chun vơ sản” 18. Kế thừa tư tưởng

đó V.I.Lênin đã yêu cầu chúng ta “ủng hộ chế độ cọng hồ dân chủvì nó là hình
thức nhà nước tốt nhất cho giai cấp vô sản dưới chế độ tư bản chủ nghĩa”19. Đồng
thời Lênin cũng chỉ ra dân chủ tư sản cũng chính là cơng cụ thống trị của giai
cấp tư sản mà thôi, Người viết “Xã hội tư bản chủ nghĩa, xét trong điều kiện phát
triển thuận lợi nhất của nó, đem lại ch ta một ché độ dân chủ ít nhiều trong chế
độ cộng hồ dân chủ. Nhưng chế độ dân chủ ấy bao giờ cũng bị bó trong khn
khổ trật hẹp của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa và do đó, thực ra, nó ln là một chế
độ dân chủ đối với một thiểu số, vẫn chỉ là một chế đọ dân chủ đối với riêng
những giai cấp có của, đối với riêng bọn giàu có mà thôi. trong xã hội tư bản chủ
nghĩa…đa số nhân dân bị gạt ra ngồi sinh hoạt chính trị-xã hội” 20. Thực tế đã và
đang chứng minh rõ bản chất của nhà nước tư sản không thay đổi theo sự thay
đổi về hình thức tổ chức và những giai đoạn phát triển nhất định và vào sự điều
chỉnh thích nghi của nó. Nhà nước vơ sản vẫn là lực lượng đặc biệt để trấn áp
của giai cấp tư sản đối với giai cấp vo sản và quần chúng nhân dân lao động. Vì
vậy chúng ta khơng được qn rằng cảnh nô lệ làm thuê là số phận của nhân dân
trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Để giải phóng giai cấp và quần chúng nhân lao
động thoát khỏi cảnh làm thuê đố, tất yếu phải thay thế nhà nước tư sản bằng nhà
nước của giai cấp vô sản. Nhưng sự thay thế đó khơng thể dùng sắc lệnh hay
bằng đấu tranh trên nghị trường, hay tự tiêu vong được mà đó phải thơng qua
bạo lực cách mạng. Người viết “Nhà nước tư sản bị thay thế bởi nhà nước vô
sản(chuyên chính vơ sản) khơng thể bằng con đường “tiêu vong” được, mà chỉ có

18V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr87
19V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976,tr25
20 V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976, tr106-107


14

thể, theo quy luật chung, bằng một cuộc cách mạng bạo lực thơi” 21. Lênin khẳng

địnhk khơng có cách mạng bạo lực thì khơng thể thay nhà nước tư sản bằng nhà nước
vô sản được. Tuy nhiên cần phải thấy rằng Lênin không bao giờ xác định phương
pháp cách mạng bạo lực là phương pháp duy nhất và cũng không phải khẳng định
học thuyết của chủ nghĩa Mác chỉ có bàn về tư tưởng cách mạng bạo lực.
III. ý nghĩa của tác phẩm và tính tất yếu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nướcc ta hiện nay.
Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” ra đời có giá trị cả về lịch sử và thực
tiễn hiện nay. Nó đã đáp ứng được địi hỏi cấp bách của tình hình thực tiễn cách
mạng, trang bị cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động những nhận thức đầy đủ
sâu sắc về vấn đề nhà nước và sự cần thiết phải làm cách mạng để thiết lập nhà
nước do nhân dân làm chủ, mang bản chất của giai cấp vô sản. Qua tác phẩm
chúng ta thấy lần đầu tiên lý luận vè nhà nước được trình bày một cách có hệ
thống và đầy đủ nhất, và những vấn đề đó được giải thích một cách khoa học và
hồn thiện nhất có chiều sâu và mẫu mực thể hiện tính Đảng chống kẻ thù, chống
lại bọn cơ hội xét lại. Hiện nay tác phẩm vẫn còn giữ nguyên giá trị và có tính
thời sự của nó, những tư tưởng cơ bản trongh tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị
khoa học và cách mạng của nó. Trong tình hình hiện nay chỉ có nắm vững thực
chất và vận đúng những tư tưởng của Lênin trong tác phẩm mới có cơ sở vững
chắc để xem xét vấn đề nhà nước đương đại một cách đúng đắn và mới xây dựng
và phát triển hoàn thiện được nàh nước xã hội chủ nghĩa. Đổi mới và hoàn nhà
nước theo hớng xây dựng nhà nước pháp quyền nhằm đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay đã trở thành vấn đề có ý nghĩa thời sự cấp bách.
Với sự kế thừa những quan điểm lý luận chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta ln xác định xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước vững
mạnh, trong sạch, có hiệu lực, hiệu quả bài trừ tệ quan liêu, tham nhũng, luôn
giữ vững và phát huy bản bản chất cách mạng của một nhà nước của dân do dân.
21V.I.Lênin, tập 33, Nxb, tiến bộ, Mácxcơ va, 1976, tr27


15


Trong tình hình hiện nay trước sự biến động to lớn về mặt chính trị và kinh tế xã
hội của thế giới và tronh nước. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên xô và các nước
ở Đông Âu đang lâm vào thối trào, vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản khơng
giữ vị trí chgủ đạo. Chủ nghĩa đế quốc ln tìm mọi cách chống phá các nước đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa, đạc biệt nam chúng ta là một trọng điểm,
chúng chống phá trên nhiều phương diện cả về kinh tề, chính trị-xã hội, văn hố
đạo đức lối sống, an ninh trật tự, chia rẽ mối đoàn kết toàn dân tộc…đặc biệt vấn
đề nhà nước về cách mạng con đường đi lên chủ ghĩa xã hội. Vì vậy địi hỏi cần
phải xây dựng nhà nước thực sự trong sạch, có trình độ đáp ứng được u cầu
tình hình mới, thời kỳ cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước.
KẾT LUẬN
Việc đổi mới và hồn thiện nhà nước ta theo định hướng xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã trở thành trọng tâm của q trình đổi mới
hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Xây dựng nhà nước pháp quyền là nhằm
giữ vững ổn định chính trị đối với sự phát triển của đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, là nhằm giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, gắn độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, nước độc lập dân mới được hạnh phục ấm no,
thực hiện người dân được làm chủ thực sự chống dân chủ hình thức, và mọi
quyền lợi bị xâm phạm. Ngày càng phải củng cố và hoàn thiện để nhà nước hồn
thành sứ mệnh của mình mà nhân dân giao phó. Trong giai đoạn hiện nay để nhà
nước ta thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân,một nhà nước trong sạch,
vững mạnh, có hiệu lực và có hiệu quả, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các
nhiệm vụ đó là cần đỏi mới, nâng cao chất lượng cong tác lập pháp và giám tối
cao của quốc họi đói với toàn bộ hoạt dộng của nhà nước, cải cách nền hành
chính nhà nước, bao gồm cải cách thể chế hànhchính tổ chức bộ máy và kiện
tồn đội ngũ cán bộ công chức, cải cáh tổ chức và hoạt động tư pháp. Đồng thời
chúng ta phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng trong



16

bộ máy nhà nước, thấy rõ đâylà một nguy cơ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống
cịn của hệ thóng chính trị nói chung và đối với nhà nước nói riêng. Mặt khác
cũng cần phải kết hợp những biện pháp cấp bách với những giải pháp chiến lược
nhằm vừa hồn thiện cơ chế chính sách, kiện tồn tổ chức, chấn chỉnh công tác
quản lý, khắc phục sơ hở, vừa sử lý nghiêm, kịp thời sử lý mọi hành vi tội phạm,
kiên quyết đấu tranh chống phá của kẻ thù và chiến lược diễn biến hồ bình bạo
loạn lật đổ của các thế lực thù địch.



×