Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận cao học công tác quản lý của nhà nước đối với báo chí trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.51 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Ngày nay, thể chế kinh tế thị trường không những chỉ chiếm lĩnh đời
sống kinh tế của các nước tư bản, các nước phát triển mà nó đang len lỏi vào
từng ngõ ngách của nền kinh tế ở các nước xã hội chủ nghĩa, các nước đang
phát triển. Nước ta là một trong những ví dụ điển hình nhất. Tất nhiên, thể chế
kinh tế thị trường ở nước ta có điểm khác so với kinh tế thị trường ở các nước
tư bản chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.Nhưng điều đó khơng có nghĩa là khơng có sự thay đổi trong nền kinh
tế của nước ta. Kinh tế bao giờ cũng là xương sống, là tiền đề của mọi sự phát
triển.Lẽ dĩ nhiên, sự thay đổi trong kinh tế sẽ tác động rất lớn tới tất cả các
lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Kinh tế thị trường cũng có tính chất hai mặt của nó. Do vậy, những tác
động của nó tới nền báo chí nước ta khơng phải lúc nào cũng tốt. Ngay cả báo
chí nước ta, một số lượng không nhỏ các tờ báo cũng không biết "gạn đục
khơi trong" mà lại chạy theo những cái lợi trước mắt của kinh tế thị trường,
bỏ qua những giá trị đích thực.
Vì tất cả những thực trạng trên, việc nghiên cứu vấn đề này đã trở nên
cấp thiết hơn bao giờ hết. Phát triển phải đi đôi với quản lý tốt, mà quản lý ở
đây trước hết là định hướng của Đảng và Nhà nước. Báo chí phải hướng tới
việc thực hiện mục tiêu của sự phát triển đất nước, dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh.Phải đảm bảo báo chí thật sự là một phương tiện
hoạt động trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng theo định hướng của nhà nước ta
chứ không phải là một sản phẩm thương mại. Chất lượng của báo chí, nhất là
chất lượng chính trị phải được đo bằng hiệu quả xã hội việc thực hiện chức
năng thông tin, giáo dục, chỉ đạo. Ngồi ra, chất lượng cịn được đánh giá
thơng qua hình thức của báo chí. Báo chí cần đẹp, hấp dẫn bạn đọc, nhưng
hấp dẫn là để thu hút người đọc hướng tới mục tiêu, chứ không thể thay thế
được chất lượng nội dung. Chính vì lẽ đó nên em chọn đề tài “Công tác quản
lý của nhà nước đối với báo chí trong nền kinh tế thị trường” làm đề tài
nghiên cứu của mình
1




Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ QUẢN LÝ BÁO
CHÍ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Khái niệm về kinh tế thị trường
Có thể nói, kinh tế thị trường là kinh tế tiền tệ và sự vận động, lưu
thơng của tiền tệ chính là sự vận động và lưu thơng tồn bộ của kinh tế trong
kinh tế thị trường. Trong kinh tế thị trường, ai nắm được tiền tệ và sự vận
động, lưu thông của tiền tệ, người đó là người quyết định. Quy luật giá trị là
quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường. Hai phạm trù chủ yếu của thị
trường là cung và cầu. Cung và cầu là hai phạm trù xuất phát từ hai phạn trù
hàng hoá và tiền tệ, sản xuất và tiêu dùng. Đây đồng thời là hai lực lượng kinh
tế, chúng tương tác với nhau và đi tới xác định giá cả thị trường, là giá cả của
một hàng hoá được xác định bởi cung và cầu trên thị trường. Đây là nội dung
cốt lõi của kinh tế thị trường: sự tương tác giữa hàng hoá và tiền tệ, giữa sản
xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu về một hàng hoá.
Như vậy, trong kinh tế thị trường, "cầu" là một yếu tố hết sức quan
trọng và nó được quyết định bởi người tiêu dùng. Nếu một mặt hàng khơng
được khách hàng đón nhận thì người bán sản phẩm sẽ phải chịu thiệt hại
không nhỏ. Mặt hàng phải đáp ứng được nhu cầu cả về hình thức lẫn chất
lượng.
Qua quá trình lịch sử, mỗi xã hội đều đối diện với một vấn đề kinh tế
cơ bản là quyết định sản xuất sản phẩm nào và cho ai với những nguồn tài
nguyên giới hạn. Trong thế kỷ XX, hai hệ thống kinh tế, một cách tổng quát
có thể nói là cạnh tranh nhau, đã đưa ra hai câu trả lời khác nhau: những nền
kinh tế chỉ huy điều khiển bởi chính quyền trung ương và những nền kinh tế
thị trường dựa trên những công ty tư nhân. Cuối thế kỷ XX thì người dân trên
tồn thế giới đã thấy rõ ràng nền kinh tế trung ương chỉ huy đã không làm
phát triển được nền kinh tế, không đạt đến mức thịnh vượng hay ngay cả

không cung cấp được sự an sinh kinh tế cho người dân. Mặc dù sự thành công
2


của kinh tế thị trường đã được thể hịên ở nhiều xã hội khác biệt nhau, nhưng
những nguyên tắc căn bản và cơ cấu của nó vẫn cịn chưa quen thuộc hay bị
hiểu lầm bởi nhiều người. Bản chất tiên quyết của nền kinh tế thị trường là
phân quyền, uyển chuyển, thực tiễn và thay đổi được. Yếu tố trung tâm của
những nền kinh tế thị trường là ở chỗ nó khơng có trung tâm.
Những nền kinh tế thị trường dựa trên nguyên tắc căn bản là quyền tự
do cá nhân: khách hàng tự do lựa chọn trong số những sản phẩm hay dịch vụ
cạnh tranh nhau; nhà sản xuất tự do khai lập hay mở mang cơ sở kinh doanh
và chấp nhận những điều may rủi hay thành công; công nhân viên tự do lựa
chọn nghề nghiệp, gia nhập cơng đồn lao động hay đổi qua các xưởng khác.
Chính những sự khẳng định của tự do, may rủi và cơ hội này đã kết hợp
những nền kinh tế thị trường và nền chính trị dân chủ lại với nhau. Như vậy,
nền kinh tế thị trường không đối lập với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường lấy khu vực kinh tế tư nhân làm chủ đạo. Những
quyết định kinh tế được thực hiện một cách phi tập trung bởi các cá nhân
người tiêu dùng và công ty. Ưu điểm của kinh tế thị trường là bốn vấn đề sản
xuất cái gì, ai sản xuất, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai được giải
quyết rất hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng càu hàng hố cao
hơn lượng cung, thì giá cả hàng hố sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng
khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế
sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng
quy mô sản xuất, và do đó các nguồn sản xuất sẽ chảy về phía những người
sản xuất hiẹu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ
có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh
tranh kém sẽ bị đào thải.
1.2. Kinh tế thị trường trong điều kiện định hướng xã hội chủ

nghĩa ở nước ta
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hệ thống kinh tế
được Đảng cộng sản Việt Nam sáng tạo và chủ trương triển khai tại Việt Nam
3


từ thập niên 90 của thế kỷ XX. Đó là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Hệ thống này là hồn tồn mới, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử.
Hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc
trưng sau:
Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị
trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền
kinh tế thị trường được tôn trọng. Các thông lệ quốc tế trong quản lý và điều
hành kinh tế được vận dụng một cách hợp lý. Nền kinh tế chịu sự chi phối của
các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc
sở hữu toàn dân.
Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội
nhập kinh tế thành công.
Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối
lại theo phúc lợi xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo
hướng nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa các địa phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã
hội; công bằng xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính sách phát triển.
1.3. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với báo chí

Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống
xã hội, là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân lao động. Báo chí khơng chỉ làm nhiệm
vụ thơng tin mà cịn thực hiện cơng tác tuyên truyền làm cho các hoạt động xã
hội phát triển theo định hướng của nhà cầm quyền và bình ổn xã hội. Như vậy
báo chí cũng là hình thức hoạt động cần sự quản lý của Nhà nước.
4


Nói đến quản lý Nhà nước đối với báo chí là nói đến những hoạt động
của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động báo chí được ổn định và
phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. Với vai trò là thiết chế trung
tâm trong hệ thống chính trị, Nhà nước đại diện cho nhân dân, đảm bảo cho
công dân được thực hiện các quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền về tự
do ngơn luận, tự do báo chí. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước
đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc đấu tranh chống các thế lực thù
địch lợi dụng chính sách tự do ngơn luận, tự do báo chí để đưa ra các luận
điệu sai trái, thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình” gây mất an ninh chính
trị và trật tự trong nước.
Qua việc khái quát trên chúng ta có thể hiểu “Quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực báo chí cũng như bất kỳ một dạng quản lý xã hội nào khác, là dạng
quản lý công vụ quốc gia của bộ máy Nhà nước - là cơng việc của bộ máy
hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và được điều chỉnh bằng pháp luật,
trên cơ sở quyền lực Nhà nước đối với các q trình xã hội và hoạt động báo
chí do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ Trung ương
đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát
triển các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu cầu tự do báo chí của cơng dân”.
-

Chủ thể của hoạt động quản lý: Nhà nước mà chủ yếu đó là các cơ


quan Nhà nước trong bộ máy Nhà nước hay các cá nhân quản lý chuyên
ngành về hoạt động báo chí được Nhà nước trao quyền về quản lý Nhà nước
đối với báo chí.
-

Khách thể của việc quản lý: Đó là trật tự quản lý trong quá trình

truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa
con người với con người.
-

Đối tượng của hoạt động quản lý: Tất cả những tổ chức, cá nhân

v.v... thực hiện những hoạt động liên quan đến báo chí.
-

Mục đích của hoạt động quản lý: Phát huy mọi nguồn lực tạo ra một

cơ chế hợp lý cho hoạt động báo chí và đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do
ngơn luận trên báo chí của cơng dân.
5


Chương 2
CƠNG TÁC QUẢN LÝ BÁO CHÍ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Các nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với báo chí
Các hoạt động của báo chí xét trên hình diện chung có ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống xã hội. Vì vậy, muốn đảm bảo được các hoạt động này đi

vào khuôn khổ đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật, chúng ta cần có những
nguyên tắc quản lý phù hợp. Sau đây là những nguyên tắc cơ bản trong quản
lý Nhà nước đối với báo chí.
* Ngun tắc tơn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận của cơng
dân
Tơn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí là một
nguyên tắc hiến định. Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992, đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày
25/12/2001 của Quốc hội khóa X (sau đây gọi là Hiến pháp năm 1992) quy
định cơng dân có quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, có quyền được thơng
tin . Quy định này đã được cụ thể hố bằng Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung
năm 1999. Cụ thể Điều 2, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 quy định:
“Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để cơng dân thực hiện quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngơn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trị của
mình”. Và Điều 4 luật này cụ thể hóa như các quyền tự do báo chí, tự do ngơn
luận như sau: “Được thơng tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước
và thế giới; tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi
tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà khơng chịu sự kiểm duyệt của
tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông
tin; phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây
dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối
6


với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên
của các tổ chức đó”.
Để đảm bảo nguyên tắc này, Nhà nước cần phải luôn tạo ra những cơ
chế pháp lý phù hợp với các loại hình hoạt động báo chí nhằm phục vụ tốt
nhất nhu cầu của đông đảo quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, Nhà nước

cũng cần đề ra một phương thức hướng các hoạt động báo chí tuân thủ pháp
luật, nhằm tạo điều kiện tốt để các cơ quan chức năng Nhà nước thuận lợi hơn
trong việc quản lý.
* Nguyên tắc đảm bảo quyền thụ hưởng thành quả hoạt động báo chí
một cách bình đẳng của tất cả cơng dân
Ở nước ta, pháp luật trong quản lý Nhà nước đối với báo chí là cơng cụ
khá quan trọng nhằm bảo tồn, phát triển nền văn hóa dân tộc hiện đại, nhân
văn; tiếp thu tinh hoa văn hóa và tiến bộ về khoa học, công nghệ của nhân
loại, đảm bảo cho q trình hội nhập mơi trường thơng tin, báo chí tồn cầu
được nhanh chóng và thành cơng. Tất cả thành quả này của báo chí cần được
phổ cập đến tồn thể các đối tượng thụ hưởng khác nhau trong xã hội. Đây
được xem như một nguyên tắc biểu hiện tính nhân văn sâu sắc với mục tiêu
nâng cao chất lượng dân trí.
Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 đã quy định: “Nhà nước có
chính sách hỗ trợ ngân sách, tạo điều kiện cho xuất bản, phát hành báo chí
đến với nhân dân các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đến với cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngồi”. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách để người dân được
dễ dàng tiếp cận các ấn phẩm của các loại hình báo chí. Huy động các nguồn
lực khác nhau để bảo đảm sự hoạt động của các cơ quan báo chí với nhiều tơn
chỉ mục đích khác nhau nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu về thông tin và phát
triển dân trí của các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Cần có chính sách đẩy
mạnh sự phát triển và khả năng sẵn sàng phục vụ của các cơ quan báo chí đối
với các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
7


* Kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng việc tôn trọng tự do báo chí, tự
do ngơn luận làm trái pháp luật
Từ khi ra đời cho đến ngày nay, báo chí ln có những ảnh hưởng nhất

định đến tình hình an ninh chính trị của một quốc gia và cả quốc tế bởi tính
quần chúng của nó. Nhất là ngày nay, vấn đề tơn trọng quyền tự do báo chí, tự
do ngơn luận trên báo chí ln được đặt ra và xem như quyền cơ bản của con
người mà các thể chế chính trị và hình thức nhà nước buộc phải tôn trọng. Ý
thức được vấn đề này, các thế lực thù địch và ngoại bang ln tìm cách lợi
dụng báo chí và các diễn đàn nhân dân làm cơ sở cho việc chống phá Nhà
nước ta, chống phá công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, chống phá sự
nghiệp đại đoàn kết nhân dân. Đây là những hành vi vô cùng nguy hiểm làm
thiệt hại đến lợi ích cả một quốc gia dân tộc Nhà nước ta luôn luôn đề ra kim
chỉ nam cho hoạt động của mình trước tình hình lợi dụng đó là kiên quyết đấu
tranh và đấu tranh đến cùng để chống lại các hành vi đầy mưu đồ này. Vì vậy,
trên cơ sở cụ thể hóa Hiến pháp 1992, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm
1999 một mặt khẳng định sự tôn trọng quyền tự do báo chí của cơng dân, mặt
khác đã tạo ra hành lang pháp lý ngăn chặn triệt để những âm mưu này khi
quy định: “Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được
Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo
chí, nhà báo hoạt động. Khơng ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền
tự do ngơn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và
cơng dân”. Đây được xem như quan điểm chung nhất nhằm nghiêm cấm việc
lợi dụng quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí để phá hoại hồ
bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích động bạo lực và tuyên truyền chiến
tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc; gây rối trật tự công cộng, xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cơng dân, hoạt
động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Mọi hành vi
vi phạm đều được xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
8


2.2 Cơ sở pháp lý của quản lý Nhà nước đối với báo chí

Cách mạng Tháng 8 thành cơng, Đảng và Nhà nước ta đã chăm lo xây
dựng hệ thống văn bản pháp lý tạo cơ sở cho việc quản lý Nhà nước đối với
báo chí. Ngày 10-10-1945, Hồ Chủ tịch đã ra sắc lệnh về việc duy trì tạm thời
các luật lệ hiện hành, nhưng nêu rõ: “Những điều khoản trong các luật cũ
được tạm thời giữ lại do sắc lệnh này, chỉ thi hành khi nào không trái với
nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính phủ dân chủ cộng hòa”.
Và cũng từ thời điểm này, vấn đề hoạt động báo chí, ngơn luận rất được
Nhà nước ta quan tâm. Vì vậy, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà được thành lập, Hiến pháp đầu tiên 1946 ra đời đã ghi nhận quyền tự do
báo chí, tự do ngơn luận của cơng dân. Đến Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980,
Hiến pháp 1992 đều quy định về tự do báo chí, ngơn luận; khơng ai được xâm
phạm đến quyền này của nhân dân và cũng nghiêm cấm việc lợi dụng quyền
tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và cơng dân.
Tính đến nay đã có hơn 40 văn bản được Nhà nước ta ban hành liên
quan đến báo chí như: Sắc lệnh 41 ngày 29-3-1946 về chế độ kiểm duyệt báo
chí; Sắc lệnh số 282 ngày 14-12-1956 về chế độ báo chí, Luật số 100/SL-L002 ngày 20-5-1957 quy định chế độ báo chí (Luật Báo chí 1957); Nghị định
số 197/TTg ngày 9-7-1957 quy định chế độ và quyền lợi của người làm báo
chuyên nghiệp và Nghị định số 298/TTg ngày 9-7-1957 quy định chi tiết thi
hành Luật Báo chí năm 1957; Nghi định số 133/HĐBT ngày 20-4-1992 của
Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí về các mặt; Chỉ
thị 63/CT-TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác báo chíxuất bản; Nghị định số 384/HĐBT về tăng cường công tác quản lý báo chíxuất bản; Thơng tư số 131/TT-VP ngày 20-11-1990 của Bộ Văn hóa - Thơng
tin hướng dẫn thi hành Nghị định 384/HĐBT và có điều chỉnh một số tiêu
chuẩn nghiệp vụ của chức danh viên chức báo chí, Bộ luật Hình sự 1999, Bộ
luật Dân sự 1995… Mặc dù các văn bản này không đồng bộ và mang tính phổ
quát, thể hiện các quan điểm khác nhau của Nhà nước ta đối với báo chí trong
9


từng giai đoạn lịch sử khác nhau nhưng phần nào đã đặt ra một cơ sở pháp lý
để các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý

Nhà nước đối với báo chí của mình.
Ngày 28-12-1989, Quốc hội thơng qua Luật Báo chí và ngày 2-1-1990,
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố Luật Báo chí nước Cộng hịa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thay thế Luật Báo chí năm 1957. Đến ngày 12-61999, Quốc hội khóa X đã thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Báo chí và có hiệu lực đến ngày nay.
Luật Báo chí năm 1990 vừa kế thừa những nguyên tắc đúng đắn của
Luật Báo chí năm 1957, vừa bổ sung và hồn thiện một bước luật pháp của
Nhà nước ta về báo chí. Luật Báo chí năm 1990 cũng phản ánh những thay
đổi to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của nước ta trong sự nghiệp đổi mới
do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
Song song đó, Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 51/2002/NĐ-CP
ngày 26-4-2002 quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí; Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Báo chí. Trong nghị định này, đã đi sâu vào quy định
một số điểm mới của Luật Báo chí hiện hành.
Nhìn chung, hai văn bản pháp luật hiện hành này đã khắc phục được
một số nhược điểm của các văn bản trước, định hình cho chức năng quản lý
báo chí bằng các cơ sở pháp lý rất cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ.
2.3. Nội dung quản lý Nhà nước đối với báo chí
Trên cơ sở quy định của pháp luật, để đảm bảo cho hoạt động báo chí
được diễn ra thơng suốt, đáp ứng nhu cầu về thông tin của quần chúng nhân
dân, Nhà nước luôn xây dựng nội dung quản lý Nhà nước đối với báo chí trên
cơ sở phù hợp với thẩm quyền pháp lý của từng chủ thể quản lý nhất định
theo các điều kiện lịch sử trong từng giai đoạn. Các nội dung quản lý Nhà
nước đối với báo chí cũng được xác định và xây dựng nhằm mục tiêu một mặt
quá trình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về báo chí

10


một cách nhanh chóng, chính xác, mặt khác chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn

của thế lực thù địch lợi dụng tự do ngơn luận, tự do báo chí để chống phá ta.
Các nội dung quản lý Nhà nước đối với báo chí đề cập ở đây xuất phát
từ các quy định hiện hành của Đảng và Nhà nước ta gồm Luật Báo chí sửa
đổi, bổ sung năm 1999 và Nghị định 51/2002/NĐ-CP ngày 26-4-2002. Theo
đó, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 quy định các nội dung quản lý
Nhà nước đối với báo chí bao gồm:
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển sự nghiệp báo chí;
Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo
chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí;
Tổ chức thơng tin cho báo chí; quản lý thơng tin của báo chí;
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức
nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí;
Tổ chức, quản lý hoạt động khoa học, cơng nghệ trong lĩnh vực báo
chí;
Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của báo chí Việt
Nam liên quan đến nước ngồi và hoạt động báo chí nước ngồi tại Việt Nam;
Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách, quy
hoạch, kế hoạch phát triển báo chí và việc chấp hành pháp luật về báo chí; thi
hành các biện pháp ngăn chặn hoạt động báo chí trái pháp luật; giải quyết
khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí".
Tóm lại, Nhà nước quản lý tồn bộ xã hội, hoạt động báo chí liên quan
đến nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau nên cần được Nhà nước quản lý. Mục
đích quản lý Nhà nước đối với báo chí nhằm bảo đảm cho hoạt động báo chí
diễn ra trong khn khổ của pháp luật vì lợi ích chung cho toàn xã hội.
2.4. Ý nghĩa của việc quản lý Nhà nước đối với báo chí
Quản lý Nhà nước đối với báo chí là một chức năng thật sự cần thiết
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Nó đáp ứng nguyện vọng của đông đảo
11



quần chúng nhân dân trong xã hội. Bới lẽ vấn đề tự do báo chí và tự do ngơn
luận trên báo chí là một nhu cầu có thực của xã hội, nó đánh giá tiêu chuẩn
phát triển về các quyền tự nhiên mang tính nhân bản trong tồn xã hội. Nhu
cầu về tự do báo chí, ngơn luận sẽ vẫn cịn tiếp tục tiếp diễn và có ảnh hưởng
rất lớn đến tình hình trị an, trật tự xã hội của đất nước. Bên cạnh dó, trên bình
diện quốc tế, các thơng tin mà báo chí cung cấp cũng như các hoạt động liên
quan đến báo chí cũng có những ảnh hưởng nhất định đến vấn đề an ninh
chính trị của tồn cầu.
Quản lý Nhà nước đối với báo chí có ý nghĩa to lớn khi vừa đảm bảo
được trật tự an ninh, an toàn xã hội vừa đảm đảm bảo tơn trọng quyền tự do
báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân. Ngồi ra trước tình hình
xuyên tạc của các thế lực thù địch, quản lý Nhà nước đối với báo chí sẽ làm
cho báo chí hoạt động và phát triển theo đúng chủ trương của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, đấu tranh tích cực, làm thất bại các âm mưu sử dụng diễn
đàn của nhân dân cho chiến lược diễn biến hịa bình trên phương diện thơng
tin đại chúng và văn hóa xã hội.

12


KẾT LUẬN
Trong xu thế khách quan của tồn cầu hố, hội nhập kinh tế, các hoạt động
báo chí được mở rộng, tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập văn hoá, đồng thời cũng
đang diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia
và bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã và
đang sử dụng hệ thống báo chí để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng tinh vi và quyết liệt hơn. Chính vì lẽ đó mà
cần đến sự quản lý chặt chẽ và có hiệu quả đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay
với mục tiêu vừa đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của cơng dân, vừa

tạo nên trật tự quản lý góp phần phát triển xã hội, ổn định an ninh trật tự trong nước
và hội nhập quốc tế.
Báo chí là cơng cụ chính trị của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức, đoàn
thể xã hội, là diễn đàn của nhân dân. Vai trị của báo chí trong đời sống chính trị - xã
hội thể hiện rõ trong hai cuộc kháng chiến của nhân dân ta là chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ để giải phóng đất nước. Báo chí thật sự đã trở thành vũ khí sắc bén
trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, mặt khác, nó cũng tạo những điều kiện cần thiết để
cho mọi người dân có thể tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Vì vậy, ý
nghĩa của thơng tin báo chí rất quan trọng. Với nội dung thơng tin có định hướng
đúng đắn, chân thật, có sức thuyết phục, báo chí có khả năng hình thành dư luận xã
hội, dẫn đến hành động xã hội, phù hợp với sự vận động của hiện thực theo những
chiều hướng có chủ định. Báo chí cịn giữ vai trị tun truyền tập thể, cổ động tập
thể, tổ chức tập thể; điều này càng phù hợp với thời đại bùng nổ thông tin hiện nay.
Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thông tin đã tác động sâu sắc đến lĩnh vực báo chí, đưa thế giới từ
kỷ ngun cơng nghiệp sang kỷ ngun thơng tin báo chí và phát triển kinh tế tri
thức. Sự hội tụ giữa thông tin, viễn thông, tin học là một xu hướng quan trọng trong
xu thế phát triển báo chí trên phạm vi tồn cầu, do đó cơng tác quản lý Báo chí càng
có ý nghĩa hơn bao giờ hết nhằm đảm bảo cho sự phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thực sự đem lại cuộc sống tốt đẹp

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo chí- Những vấn đề lý luận và thực tiễn – NXB Giáo dục, 1996
2. Cơ sở lý luận báo chí- tạ Ngọc Tấn
3. Chỉ thị 37/2006 CTTg của Thủ tướng Chính phủ Về việc thực hiện
kết luận của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lí

báo chí.
4. Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới đất nước –
Tạp chí cộng sản – 2006
5. Nghị định 51- NĐ/CP của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí (26/4/2002).
6. Theo dịng thời cuộc – NXB Văn hố – Thơng tin , 1995
7. Luật Báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nxb. Chính trị Quốc gia.
Hà Nội, 2004.

14


MỤC LỤC

15



×