Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Tiểu luận Vấn đề đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.37 KB, 33 trang )










Tiểu luận

Vấn đề đào tạo và sử
dụng nguồn nhân lực

A. lời mở đầu

Tổng bí thư ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam - Lê Khả Phiêu phát biểu tại hội thảo quốc tế Việt Nam trong
thế kỷ 20 đã từng nói: "Dân tộc chúng tôi hiểu đầy đủ rằng: dân tộc
mình là một dân tộc nghèo, một đất nước đang phát triển ở mức
thấp… Chúng tôi hiểu rõ khoảng cách giữa nền kinh tế của chúng
tôi và nền kinh tế của những nước phát triển trên thế giới. Chúng tôi
hiểu rõ khoa học công nghệ trong thế kỷ 21 sẽ có những bước tiến
khổng lồ. Thực hiện tư tưởng vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lấy
sức ta mà giải phóng cho ta chúng tôi phải tri thức hóa Đảng, tri
thức hóa dân tộc tiếp tục tri thức hóa công nông, cả nước là một xã
hội học tập, phát huy truyền thống những ngày mới giành độc lập 45
cả nước học chữ, cả nước diệt giặc dốt, cả nước diệt giặc đói. Phải
nắm lấy ngọn cờ khoa học như đã nắm lấy ngọn cờ dân tộc". Một
dân tộc dốt, một dân tộc đói nghèo là một dân tộc yếu. Chúng ta đã
từng chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thắng lợi đó là


thắng lợi của lực lượng trí tuệ Việt Nam đối với lực lượng sắt thép
và đô la khổng lồ của Mỹ. Con người Việt Nam đã làm được những
điều tưởng như không làm được, và tôn tin rằng con người Việt
Nam trong giai đoạn mới với những thử thách mới vẫn sẽ làm được
những điều kỳ diệu như thế với lực lượng lao động dồi dào, ngày
càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đất nước Việt Nam sẽ
sánh vai được với các cường quốc năm châu cho dù hiện nay chúng
ta gặp rất nhiều khó khăn, rất nhiều sự đối đầu. Chính vì vậy tôi đã
chọn đề tài: "Vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực con người trong
sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước" cho đề án
kinh tế chính trị của mình.
B. Nội dung

I. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa
1. Thế nào là công nghiệp hóa - hiện đại hóa
a. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của công nghiệp hóa
- hiện đại hóa
Những nước quá độ tuần tự hay còn gọi là những nước quá độ
từ Chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù chưa có được cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhưng ít ra cũng có tiền
đề vật chất là nền đại công nghiệp cơ khí do Chủ nghĩa tư bản để
lại. Vì vậy để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cách mạng khoa học,
kỹ thuật và công nghệ, ứng dụng những thành tựu của nó vào sản
xuất, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản
xuất, phân bố và phát triển sản xuất một cách đồng đều trong cả
nước. Thực chất của quá trình này biến những tiền đề vật chất do
chủ nghĩa tư bản đẻ lại thành cơ sở vật chất kinh tế cho chủ nghĩa xã
hội ở trình độ cao hơn.
Những nước quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ

nghĩa tư bản như nước ta, sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất -kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội được thực hiện bằng con đường công
nghiệp hóa - hiện đại hóa. Có thể hiểu một cách ngắn gọn công
nghiệp hóa là một nước công nghiệp hiện đại. Như vậy giữa công
nghiệp hóa và việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH có
quan hệ mất thiết với nhau nhưng lại không phải là một CNH con
đường để xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH đối với những nước
kém phát triển như nước ta. Nhưng CNH chỉ mang tính giai đoạn,
khi mà nền công nghiệp hiện đại chưa được xác lập, còn việc xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CHXH vẫn được tiếp tục mãi.
b. Tác dụng của công nghiệp hóa.
Một là, phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động,
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, khắc phục nguy cơ tụt
hậu ngày càng xa hơn về kinh tế giữa nước ta với các nước trong
khu vực và trên thế giới, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của
nhân dân.
Hai là, củng cố và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước;
nâng cao năng lực tích lũy, tạo công ăn việc làm, khuyến khích sự
phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân.
Ba là, tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố an ninh - quốc
phòng.
Bốn là, tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân
công và hợp tác quốc tế.
Chính vì do vị trí, tầm quan trọng và các tác dụng nói trên của
công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, nên qua tất cả
các kỳ đại hội Đảng ta luôn xác định: Công nghiệp hóa là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta".
c. Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở
nước ta

* Quan niệm về công nghiệp hóa
Trước đây chúng ta cho rằng, công nghiệp hóa là quá trình
trang bị kỹ thuật hiện đại cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thay thế
lao động thủ công bằng lao động cơ khí hóa, biến một nước kém
phát triển thành một nước có cơ cấu công nông nghiệp hiện đại,
khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Theo quan niệm của liên hiệp quốc, công nghiệp là một quá
trình phát triển kinh tế trong đó có một bộ phận nguồn lực quốc gia
ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều
ngành với công nghiệp hiện đại về chế tạo ra tư liệu sản xuất, hàng
tiêu dùng, có khả năng bảo đảm một nhịp độ tưang trưởng cao trong
toàn bộ nền kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ kinh tế và xã hội.
Kết hợp quan niệm truyền thống và quan niệm hiện đại, và
vận dụng vào điều kiện cụ thể hóa Việt Nam, hội nghị lần thứ VII
ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã đưa ra quan niệm mới
về công nghiệp hóa - hiện đại hóa: công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ,
tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
* Nội dung cơ bản của cô ng nghiệp hóa - hiện đại hóa ở
nước ta
Trước đây một thời gian dài với quan niệm truyền thống về
công nghiệp hóa, chúng ta thường xác định nội quy của công nghiệp
hóa theo trình tự:
1. Tiến hành cách mạng khoa học - kỹ thuật để xây dựng cơ sở
vật chất -kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
2. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động

xã hội. Trong điều kiện giao lưu kinh tế giữa các nước chưa được
mở rộng quá trình chuyển giao công nghệ giữa các nước chưa phát
triển mạnh mẽ, thì phải "tự lực, cánh sinh là chính" đó chính là một
trình tự hợp lý để tiến hành công nghiệp hóa.
Sự phát triển của một quốc gia không thể tách rời sự phát triển
của cộng đồng thế giới nói chung và khu vực nói riêng. Điều này
cho phép một nước đi sau không nhất thiết phải làm tất cả những
công việc mà các nước đi trước đã trải qua thực tế cho thấy những
thành tựu về khoa học - công nghệ, về quản lý… của các nước đi
trước chỉ có thể chuyển giao một cách có hiệu quả cho các nước đi
sau khi mà các nước đi sau đã có sự chuẩn bị kỹ càng để đón nhận.
Vấn đề đặt ra là các nước đi sau cần phải làm những gì để tiếp nhận
một cách có hiệu quả những thành tựu mà các nước đi trước đã đạt
được. Bài học thành công trong quá trình công nghiệp hóa các nước
NIC
3
đã chỉ ra rằng: việc xây dựng một cơ cấu kinh tế theo hướng
mở cửa với bên ngoài nhằm tiếp nhận một cách có chọn lọc những
thành tựu của các nước đi trước kết hợp với việc đẩy mạnh cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đó chính là con đường
ngắn nhất có hiệu quả nhất, có hiệu quả nhất quyết định sự thành
công của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đối với một nước
lạc hậu,nội dung của công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta cần
được sắp xếp theo một trình tự mới như sau:
a.Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý bao giờ cũng phải dựa
trên tiền đề là phân công lại lao động xã hội.
Một là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm
dần; tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày một tăng
lên.

Hai là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động trí tuệ ngày một tăng
và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã
hội.
Ba là, tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật
chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ lao động trong các ngành sản
xuất vật chất.
Song song với phân phối lại thu nhập là vấn đề chuyển dịch cơ
cấu kinh tế bao gồm:
Cơ cấu ngành kinh tế: Trong những năm trước mắt cơ cấu
ngành ở nước ta sẽ được xác định là cơ cấu công - nông nghiệp -
dịch vụ.
Cơ cấu vùng kinh tế: phải tạo điều kiện cho tất cả các vùng
đều phát triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng của mỗi
vùng, liên kết giữa các vùng, làm cho mỗi vùng đều có cơ cấu kinh
tế hợp lý và đều có chuyển biến tiến bộ góp phần vào sự phát triển
kinh tế - xã hội đất nước.
Cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn, thành phố và đô thị tùy điều
kiện từng nơi, tất cả các thị xã, thị trấn đều được phát triển trên cơ
sở đẩy mạnh công nghiệp, dịch vụ mang ý nghĩa tiểu vùng. Hình
thành các thị tứ làm trung tâm kinh tế, văn hóa cho mỗi xã hoặc
cụm xã.
Cơ cấu thành phần kinh tế lấy việc giải phóng sức sản xuất,
động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại
hóa.
b. Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại đi đôi với tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước
ngoài. Đó là:
Cách mạng về phương pháp sản xuất đó là tự động hóa.
Cách mạng về năng lượng

Cách mạng về vật liệu mới.
Cách mạng về công nghệ sinh học
Cách mạng về điện tử và tin học
2. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
a. Vai trò thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta
Thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một quy luật
khách hang, một đòi hỏi tất yếu của nước ta. Đặc biệt trong tình
hình hiệ n nay, chúng ta đang thực cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết quản lý của Nhà nước thì
công nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong những chính sách, đường lối về công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước, Đảng ta luôn chủ trương lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững của nền kinh tế đất nước. Để đẩy mạnh, nhanh quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, chúng ta phải có một nguồn lực có đầy đủ
sức mạnh cả về thể lực lẫn trí lực. Nguồn nhân lực là yếu tố, điều
kiện đầu vào quyết định nhất vì nguồn nhân lực quyết định phương
hướng, đầu tư, nội dung, bước đi và biện pháp thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Do đó cần phải chú trọng tới việc
phát triển nguồn nhân lực - con người cả về số lượng và chất lượng,
năng lực và trình độ. Đây chính là vấn đề cấp bách, lâu đài và cơ
bản trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nêu
rõ: Cùng với khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là động lực thúc đẩy. Như vậy, giáo dục là một dạng đầu
tư cho sự phát triển vì nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự
nghiệp giáo dục đao tạo có tính xã hội hóa cao. Nền giáo dục và đào
tạo tốt sẽ cho chúng ta nguồn nhân lực với đủ sức mạnh, đáp ứng

yêu cầu trước mắt và lâu dài. Do vậy sự nghiệp giáo dục phải là sự
nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, đồng thời phải tranh thủ sự hợp tác,
ủng hộ của các nước trên thế giới thông qua việc hợp tác giáo dục.
Mặc dù nền giáo dục của nước ta được sự quan tâm sâu sắc
của Đảng và Nhà nước, nhưng nó vẫn chưa phát triển tương xứng
với tiềm năng và vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao.
* Số lượng
Theo điều tra lao động và việc làm tháng 7 năm 2000, dân số
trong độ tuổi lao động (nam từ 15 - 60, nữ 15 - 55 tuổi) ở Việt Nam
là 46,2 triệu người, chiếm 59% tổng số dân (1989 chỉ là 55%).
Trong thập kỷ qua, Việt Nam đang chuyển dần từ giai đoạn cấu trúc
dân số trẻ sang "cơ cấu dân số vàng" - dư lợi dân số", đó là thời kỳ
tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động ở mức cao trong khi tỷ lệ dân số
phụ thuộc giảm (số trẻ em giảm dần và tỷ lệ người già chưa tăng
cao). Dự báo dân số Việt Nam hai thập kỷ đầu thế kỷ 21 sẽ duy trì
"cơ cấu dân số vàng" với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tiếp tục
tăng cao và đạt đỉnh cao nhất là gần 70% vào năm 2009 (56 triệu
người). Trong 10 năm (1999 - 2009), mỗi năm có thêm 1,8 triệu
người bước vào độ tuổi lao động (từ 15 tuổi trở lên), trong khi đó số
người ra khỏi độ tuổi lao động (60 tuổi trở lên), chỉ có 0,35 triệu
người. Dự tính trong 10 năm tới, mức tăng dân số trong độ tuổi lao
động bình quân là 2,5% gấp hơn hai lần tăng nguồn nhân lực cao
nhất từ trước đến nay trong lịch sử dân số Việt Nam. Đó vừa là tiềm
năng, cơ hội lớn về nguồn nhân lực và là thách thức rất lớn đối với
vấn đề giải quyết việc làm.
Với số lượng người bước vào độ tuổi lao động đạt mức kỷ lục
như hiện nay, cùng với hàng chục vạn lao động dôi dư từ các cơ
quan, doanh nghiệp Nhà nước, 2 thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 sẽ
tạo ra áp lực rất lớn về việc làm và nguồn vốn đang căng thẳng với
tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao (một số lao động thất nghiệp rơi vào

nhóm lao động trẻ được đào tạo, gây ra nhiều hậu quả cả về kinh tế
xã hội. Bên cạnh đó còn có hàng triệu người già tuy tuổi cao nhưng
vẫn còn khả năng và mong muốn được làm việc.
Trên phạm vi cả nước, cấu trúc dân số biến đổi tạo cơ hội
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, tuy nhiên do hoàn cảnh địa lý và
tình hình kinh tế - xã hội khác nhau giữa các vùng miền, nên ở các
tỉnh đồng bằng do mức sinh sống thấp trong nhiều năm qua và "cơ
cấu dân số vàng" đã bắt đầu phát huy tác dụng, tạo ra nhiều thách
thức lớn về việc làm cho địa phương vốn đất chật người đông. Tại
các tỉnh vùng Tây Nguyên, miền núi Tây Bắc, do mức sinh ở những
vùng này vẫn còn cao nên cấu trúc dân số còn trẻ. Luồng di cư tự
phát rất lớn đổ từ các vùng nông thôn, miền núi đến các thành phố,
Tây Nguyên và vùng Đông Nam Bộ. Trong một số doanh nghiệp ở
các vùng này, số lao động ngoại tỉnh chiếm đến 80%.
* Chất lượng
Mặc dù là quốc gia đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu
gạo, trên 90% dân số biết chữ, song hiện tại ở nước ta, cứ 3 trẻ em
(dưới 5 tuổi) thì có một cháu bị suy dinh dưỡng, cứ 3 bà mẹ mang
thai thì 1 người bị thiếu máu, thậm chí ở những vùng khó khăn và
đặc biệt khó khăn, cứ 2 trẻ em thì có 1 chú bị suy dinh dưỡng. Tuy
chưa có số liệu chung về cả nước song các nghiên cứu cho thấy thể
lực của thanh niên Việt Nam tiến bộ rất chậm trong nhiều năm qua.
Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam cuối thập kỷ 80 chỉ
là 161 - 162 cm (so với 160 cm và 1930. Như vậy sau 50 năm, chiều
cao của thanh niên Việt Nam hầu như không thay đổi). Trong khi đó
xu hướng chung ở các nước phát triển là chiều cao trung bình của
nam thanh niên cứ sau 10 năm sẽ tăng 1 cm và nặng thêm 1 kg.Tại
khu vực thành thị như Hà Nội, dù tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đã hạ
thấp, song lại xuất hiện hiện tượng thừa dinh dưỡng (béo phì) đang
có xu hướng tăng. Nghiên cứu chọn mẫu ở một số trường Đại học ở

Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ học sinh béo phì
2-4%.
Tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS tiếp tục có xu hướng gia tăng
và lây lan trong cộng đồng. Trong số hơn 26.000 người bị nhiễm
HIV/AIDS có khoảng 50% ở độ tuổi thanh niên (dưới 30 tuổi), đặc
biệt 1,2/1000 phụ nữ mang thai bị nhiễm HIV. Đối với tệ nạn ma
túy, gần 70% trong số 100.000 người nghiện ma túy ở nhóm tuổi
dưới 30.
Số lượng người lao động tuy tăng và dư thừa, nhưng lại yếu về
sức khỏe, trình độ tay nghề hạn chế lao động khu vực thành thị ở Hà
Nội thừa khoảng 7,5% và ở thành phố Hồ Chí Minh là 6,5% (đó là
chưa kể hàng chục van lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp
Nhà nước). Tại khu vực nông thôn còn dư thừa 26% quỹ thời gian
lao động, tương đương khoảng 9 triệu người, nhưng 95,5% lao động
không có tay nghề. Theo tổng điều tra dân số (4/1999) trong số
những người từ 13 tuổi trở lên 92,4% là không có trình độ chuyên
môn. Mặc dù thời điểm hiện tại, mỗi năm có thêm khoảng 1,6 triệu
người bước vào độ tuổi lao động, nhưng theo dự báo trong 10 năm
tới, số lượng này sẽ tăng lên mức cao nhất là 1,8 triệu người, do đó
việc đào tạo, nâng cao tay nghề và tạo việc làm cho số lao động hiện
tại cũng như cho số thanh niên mới bước vào độ tuổi lao động sẽ
thách thức vô cùng lớn.
Cơ cấu nguồn lao động được đào tạo trong những năm qua
còn rất bất hợp lý. Nếu năm 1979 cứ 1 cán bộ Đại học , cao đẳng có
2,2 cán bộ trung học chuyên nghiệp và 7,1 công nhân kỹ thuật thì
đến năm 1997, cơ cấu này là 1-1,5-1,7 và 1999 là hợp lý, cứ 4 cán
bộ đại học mới có 1 công nhân kỹ thuật cao. Đây chính là tình trạng
"thầy nhiều hơn thợ". Tại các nước phát triển thì cứ 1 thầy có 10
thợ, nhưng ở nước ta, bình quân một thầy chỉ có 0,95 thợ. Trong khi
số sinh viên đại học tăng nhanh thì số công nhân kỹ thuật giảm dần

(1979 chiếm 70% , đến năm 1999 giảm xuống còn 30,3% trong tổng
số lực lượng lao động kỹ thuật). Trong các năm 1996 - 1998, bình
quân công nhân kỹ thuật tăng 6,3%/năm nhưng số sinh viên đại học,
cao đẳng tăng 27,5%. Một thực tế đáng lo ngại như tại các khu công
nghiệp ở Đồng Nai, từ nay đến 2010, mỗi năm cần khoảng 20 ngàn
lao động kỹ thuật, nhưng khả năng đào tạo nghề cũng cung ứng
12.000 người/năm. Năm 1997 khu chế xuất Tân Thuận cần tuyển
15.000 lao động kỹ thuật nhưng chỉ tuyển được 3000 người đủ tiêu
chuẩn.
Hiện nay nhu cầu tuyển lao động kỹ thuật hầu như không
được đáp ứng đầy đủ, trong khi lao động phổ thông lại dư thừa quá
nhiều.
Tỷ lệ lao động kỹ thuật đã thấp lại phân bổ không đồng đều
giữa các ngành và các thành phần kinh tế. Rất nhiều lao động kỹ
thuật tập trung ở các cơ quan trung ương. Các ngành nông - lâm -
ngư nghiệp, các thành phần kinh tế tập thể , tư nhân, cá thể còn
thiếu nhiều lao động kỹ thuật. ở khu vực nông thôn, số lao động đã
qua đào tạo chiếm tỷ lệ càng thấp (chỉ khoảng 4%). Đặ c biệt vùng
miền núi, hải đảo, đang thiếu lao động kỹ thuật và trí thức trầm
trọng, trong khi số tri thức dư thừa giả tạo ở thành phố ngày càng
nhiều. Không những vậy, có những lao động sau khi được đào tạo
đã không làm đúng ngành nghề, thậm chí còn làm công việc của lao
động giản đơn.
b. Những nguyên nhân dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực
Việt Nam còn yếu kèm.
Một là lực lượng và cơ sở trang thiết bị quá thiếu thốn, y tế cơ
sở không đảm bảo chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, đặc biệt là
miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tình trạng bệnh tật vẫn còn nặng nền.
Hơn nữa những kiến thức cơ bản về chăm sóc sức khỏe cho nhân
dân còn thấp, vệ sinh môi trường còn rất kém, ô nhiễm, môi trường

ngày càng nghiêm trọng. Đặc biệt là cung cấp nước sạch và xử lý
chất thải các loại có tác động bất lực đến sức khỏe nhân dân.
Hai là, cơ cấu giáo dục đào tạo giữa các bậc học, các ngành
học, khối ngành học trong cả nước nói chung và ở từng khu vực nói
riêng còn bất hợp lý. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do
sự điều tiết của Nhà nước về giáo dục đào tạo chưa hiệu quả thể
hiện:
Việc điều tiết, quản lý, giám sát thực hiện các chỉ tiêu tuyển
sinh ở các bậc học, ngành học, khối học còn nhiều bất hợp lý. Các
trường, các ngành học,… mở rộng hoặc thu hút chỉ tiêu tuyển sinh
tùy ý, dẫn tới tình trạng có những ngành đã thừa lại càng thừa trong
khi các chuyên ngành đã thiếu lại càng thiếu.
Các chính sách, biện pháp khuyến khích theo học những
ngành học, khối ngành học mà xã hội cần nhưng bản thân đối tượng
không muốn học là chưa hiệu quả.
Việc mở rộng tràn lan các loại hình đào tạo là một nguyên
nhân gây ra tình trạng này.
Một số chế độ, chính sách đã ban hành đến nay có những điểm
không còn phù hợp hoặc thiếu những văn bản cụ thể nên chưa
khuyến khích cán bộ, công nhân viên trong các cơ sở sản xuất cũng
như các cơ quan Nhà nước, trong các tầng lớp xã hội… bồi dưỡng
nâng cao trình độ văn hóa.
Ba là, kinh phí giáo dục đào tạo. Do khu vực tư nhân ở Việt
Nam chưa phát triển và Nhà nước cũng chưa có chính sách chia sẻ
gánh nặng này cho khu vực tư nhân nên phần chủ yếu là từ ngân
sách Nhà nước như vậy mức chi ngân sách Nhà nước như vậy mức
chi ngân sách cho giáo dục đào tạo đã có sự gia tăng chút ít nhưng
chưa đáp ứng được yêu cầu cũng như chưa phản ánh sự ưu tiên và
chưa tương xứng với khả năng, còn vào loại rất thấp so với nhiều
nước trong khu vực và thế giới.

Bốn là, mục tiêu, nội dung, chương trình hình thức, phương
thức và phương pháp đào tạo chậm đổi mới. Trong những năm gần
đây, ngành giáo dục và đào tạo đã có những nỗ lực lớn nhằm đổi
mới các nội dung đó. Bước đầu đã thu được những kết quả nhất
định song còn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu đặt ra.
Năm là, đội ngũ giáo viên ở các trường còn yếu, thiếu về số
lượng năng lực giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Ngoài ra chính
sách đãi ngộ chưa thỏa đáng nên không phát huy được tiềm năng và
nhiệt huyết của họ.
Sáu là, mạng lưới trường và trung tâm đào tạo bố trí còn phân
tán, hiệu quả đầu tư sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật kém, lãng phí,
chồng chéo.
Bảy là, một bộ phận nhỏ công nhân chưa nhận thức đầy đủ về
sự cần thiết phải nâng cao trình độ văn hóa, tay nghề nên còn thờ ơ,
chưa thực sự cố gắng hoặc tận dụng những điều kiện đã có để tự học
tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ của bản thân.
II. Một số giải pháp nhằm giải quyết hợp lý vấn đề về nguồn
nhân lực
Nhìn rõ được thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta để
chúng ta phát huy những điểm mạnh, khắc phục và hạn chế những
điểm yếu đồng thời đưa ra những yêu cầu đối với giáo dục và đào
tạo nguồn nhân lực.
Để đảm bảo chất lượng về mặt thể lực cho nguồn nhân lực
trong tương lai, các chương trình bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em,
đặc biệt chương trình bảo vệ sức khỏe phụ nữ, phòng chống suy
dinh dưỡng theo hướng ngăn ngừa cần được tiếp tục đầu tư từ quan
tâm và sẽ phải đặc b iệt chú ý đến các vùng miền núi, vùng sâu,
vùng xa để giảm dần sự cách biệt giữa các vùng.
Các chương trình tuyên truyền giáo dục càn được tăng cường
để ngăn ngừa từ xa các tệ nạn lạm dụng ma túy, đặc biệt trong thanh

thiếu niên.
Trong trình tự giải quyết phải đi tuần tự từ tiếp tục xóa mù
chữ, phổ cập tiểu học, đang bị những kiến thức cơ bản, đào tạo nghề
từ sơ cấp đến các bậc cao hơn những phải tạo ra một bộ phận người
lao động có chất lượng cao, đặc biệt phải chú trọng đào tạo lao động
kỹ thuật, nhằm đáp ứng nhu cầu của những ngành công nghệ mới,
các khu công nghiệp và các khu kinh tế mở.
Việc mở rộng quy mô giáo dục đào tạo là rất cần thiết. Nhưng
cố gắng mở rộng quy mô giáo dục đào tạo của nước ta vẫn không
theo kịp tốc độ gia tăng dân số. Quy mô mọi ngành, bậc học hiện
nay đều chưa đáp ứng được yêu cầu theo học của mọi lứa tuổi. Nhìn
chung số học sinh và số trường lớp ở mọi ngành học từ mẫu giáo,
các cấp phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, đều
tăng các hệ thống trung tâm xúc tiến việc làm, các trung tâm kỹ
thuật tổng hợp, hướng nghiệp và nhiều cơ sở dạy nghề bán công,
dân lập, tư thục được thành lập. Quy mô đào tạo có chuyển biến là
nhờ tăng cường hình thức đào tạo ngắn hạn. Riêng đối với quy mô
của hệ thống đào tạo nghề ngày càng bị thu hẹp. Đảng và Nhà nước
cần có chính sách khuyến khích mở rộng và hỗ trợ cho các trường
dạy nghề nhằm thu hút học sinh, sinh viên, khắc phục sự mất cân
đối trong cơ cấu ngành học, bậc học của giáo dục và đào tạo. Giáo
dục mầm non có tầm quan trọng đặc biệt đứng từ góc độ chuẩn bị
nền tảng về thể thực và trí lực cho nguồn nhân lực. Giáo dục đào tạo
chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật, ngoài ý nghĩa với tăng trưởng kinh
tế còn đặc biệt quan trọng trong việc phát triển giảm nguy cơ tụt
hậu. Tuy nhiên, những bất hợp cập giữa các ngành đào tạo, giữa các
bậc học đã gây khó khăn không ít cho sự phát triển của nền kinh tế.
Một số ngành được học sinh, sinh viên theo học như một phong
trào, một số ngành thì rất ít người theo học. Nếu không có sự điều
chỉnh kịp thời, Việt Nam sẽ nhanh chóng gặp khó khăn về đội ngũ

kỹ sư, công nhân kỹ thuật như ở nhiều nước Asea, nhất là Thái Lan.
Giáo dục đào tạo ở thành phố, đồng bằng có điều kiện phát
triển hơn ở nông thôn,vùng núi, vùng sâu, vùng xa rất khó khăn. Để
nâng cao chất lượn g nguồn nhân lực ở vùng nông thôn, vùng sâu
vùng xa miền núi, Nhà nước đã chó chính sách cấp học bổng, giảm
học phí, ưu tiên các học sinh nghèo vượt khó.Từ đó giúp họ có điều
kiện học tập tìm kiếm việc làm, nâng cao mức sống. Chính nhờ
những chủ trương đúng đắn này mà những bất hợp lý trong cơ cấu
vùng, miền của giáo dục đào tạo nguồn nhân lực được điều chỉnh
phần nào.
Yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng nguồn nhân lực
là việc đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp
giáo dục đào tạo. Việc hội nhập và cạnh tranh kinh tế đòi hỏi hàng
hóa phải đạt tiêu chuẩn quốc tế để tăng khả năng cạnh tranh trên thị
trường thế giới, từ đó phải đòi hỏi có trình độ công nghệ cao và khả
năng sử dụng tương ứng các công nghệ đó. Ngoài giáo dục đào tạo
chuyên môn, nghiệp vụ về mặt lý thuyết cần chú ý điều kiện thực
hành, ứng dụng, giáo dục kỹ thuật, tác phong lao động công nghiệp,
rèn luyện kỹ năng và những khả năng thích ứng của người lao động
với những đặc điểm của nền kinh tế thị trường. Song song với vấn
đề giáo dục đào tạo con người, chúng ta phải quan tâm đến vấn đề
dân số, sức khỏe, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm sức
ép đối với quy mô và chất lượng giáo dục.
Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, yêu cầu đa dạng hóa
các loại hình giáo dục đào tạo rất cần thiết để bổ sung cải thiện hiện
trạng nguồn nhân lực nhằm khắc phục những bất hợp lý về việc
phân bổ nguồn nhân lực, đồng thời nâng cao hiệu quả của đầu tư
cho giáo dục và đào tạo để phục vụ cho nhu cầu phát triển. Trong
lĩnh vực giáo dục hướng nghiệp chúng ta cần phải kết hợp một cách
khoa học với kế hoạch phát triển toàn diện với chính sách sử dụng

sau đào tạo hợp lý để giảm lãng phí về chi phí về giáo dục đào tạo
của xã hội và của gia đình. Người lao động đào tạo ra được làm việc
đúng ngành, đúng nghề, đúng khả năng và sở trường của mình.
Ngoài ra, giáo dục hướng nghiệp cũng đòi hỏi phải công tác dự báo
nghề để xác định được xu hướng phát triển và nhu cầu về lao động
trong từng giai đoạn. Giáo dục đào tạo chính quy, dài hạn là cơ sở
để hình thành nên bộ phận người lao động có trình độ chuyên môn,
kỹ thuật cao, có kỹ năng tiếp cận với khoa học, công nghệ mới hiện
đại. Ngoài ra, cần mở rộng các loại hình đào tạo ngắn hạn để cải
thiện hiện trạng nguồn nhân lực hiện nay và nhanh chóng nâng cao
số lao động đã qua đào tạo của ta lên. Hình thức giáo dục tại chức
và từ xa cần chú ý hơn đến chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Chính sách xã hội hóa giải quyết việc làm cần được tiếp tục
phát huy, khôi phục các làng nghề, phố nghề để huy động tổng hợp
các nguồn lực và sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế,
các tổ chức xã hội mọi người dân. Kinh tế hộ gia đình, cơ sở doanh
nghiệp ngành nghề ở nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành
phố là những cơ sở có thể thu hút nhiều lao động, cần được tạo điều
kiện phát triển chất lượng.
Các chính sách phụ cấp, tiền lương cũng nên được điều chỉnh
lại để thu hút người lao động về công tác tại cơ sở, các vùng khó
khăn, tham gia xây dựng các công trình trọng điểm nhằm động viên
thanh niên vào học các trường dạy nghề và làm đúng nghề đã đào
tạo, đóng góp sức mình vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước.
Tóm lại, giáo dục đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước là một tất yếu khách quan,
một nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước.
Mặc dù nền giáo dục đào tạo đã đạt được nhiều hành tựu to lớn
(Việt Nam có chỉ số HDI tương đối cao, được xếp vào các nước có

trình độ phát triển trung bình) nhưng so với yêu cầu phát triển kinh
tế xã hội, nền giáo dục đào tạo của ta vẫn chưa đáp ứng được. Do đó
càn có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích và những đường lối
đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp giáo dục
C. ý kiến cá nhân

I.Việc làm của người lao động và vấn đề đổi mới chính sách tiền
lương
1. Việc làm của người lao động
Nói đến việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống của người
lao động lao động nói đến vấn đề bức thiết và mục đích của sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Việc giáo dục và đào tạo nguồn
nhân lực phải đi đôi với việc giải quyết việc làm cho người lao động
có tạo cho người lao động việc làm ổn định và mức thu nhập tương
xứng thì mới tạo được động lực phát triển kinh tế.
Việc làm là hoạt động tạo ra giá trị, của cải vật chất. Mác
Anghen đã khẳng định: "Lao động là nguồn gốc của mọi của cải vật
chất, là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người".
Lao động là nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước. Giải quyết
việc làm cho người lao động xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển. Bên cạnh việc kết hợp các giải pháp khuyến khích
phát triển sản xuất, thực hiện các chương trình các kinh tế xã hội
lớn, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Nhà nước đã thực
hiện các giải pháp hỗ trợ, tác động vào những người chưa có việc
làm hoặc thất nghiệp, thiếu việc làm để họ có thêm cơ hội việc làm.
Các mô hình kinh tế hợp lý, như mô hình V-A-C, hình thức giao đất
giao rừng, được nhân rộng ở nhiều nơi. Bên cạnh đó Nhà nước còn
có chính sách khuyến khích người dân tự làm giàu cho chính mình,
cho gia đình và cho xã hội. Luật doanh nghiệp ra đời năm 1999
đánh dấu một bước phát triển mới, một bước ngoặt thuận lợi cho

các doanh nhân Việt Nam; làm giàu chính đáng là tiêu chí của nhiều
cuộc hội thảo, là mục đích của nhiều chủ trương, chính sách, là
động lực của nhiều người dân Việt Nam cần cù, thông minh.
Với nền kinh tế vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đảng và Nhà nước luôn đặt hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế lên
hàng đầu. Hiệu quả kinh tế phải đi đôi với hiệu quả xã hội, trong đó
việc tạo công ăn việc làm, nâng cao mức sống người dân được chú
trọng nhất; Dự án xây dựng khu công nghiệp Dung Quất ở miền
Trung khắc nghiệt, dự án mở đường mòn Hồ Chí Minh là những
chính sách, biện pháp hợp lý đã lấy hiệu quả xã hội đặt lên hàng
đầu.
Giải quyết việc làm là kết quả tổng hợp của sự phát triển sản
xuất, của việc thực hiện các chương trình kinh tế, xã hội và các giải
pháp hỗ trợ trong đó việc phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế là
tiền đề, điều kiện cơ bản nhất là từ những kết quả bước đầu về giải
quyết việc làm cho người lao động xã hội trong thời gian quả là rất
đáng khích lệ. Tuy nhiên, thực tiễn khách quan cũng cho thấy điều
kiện tạo ra việc làm chưa vững chắc, nhiều yếu tố khác nảy sinh làm
cho thực trạng lao động việc làm thêm khó khăn phức tạp. Tỷ lệ
thất nghiệp ở các đô thị nước ta vào loại cao so với các nước trong
khu vực và có xu hướng tăng. Chất lượng lao động thấp, chỉ có 19%
lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ t huật. Cơ cấu lao động kỹ
thuật bất hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế và càng
bất cập trước yêu cầu lao động kỹ thuật cao cho sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Việc phân bố lao động theo
ngành còn nhiều bất hợp lý. Tốc độ ch uyển dịch cơ cấu lao động
diễn ra thấp. Lực lượng lao động phân bố không đồng đều chưa
tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển của các vùng. Và
một điều quan trọng hơn nữa đó là công tác quản lý lao động theo
ngành và theo lãnh thổ bất cập so với yê u cầu, chưa giám sát được

sự vận động của thị trường lao động. Hiện nay ở thủ đô Hà Nội
cũng như nhiều thành phố khác, các chợ lao động với nguồn nhân
lực chủ yếu là những nông dân ở những vùng nông thôn, đang là
vấn đề nan giải. Chúng ta cần phải sáng tạo ra nhiều hình thức kinh
tế làm ăn có hiệu quả nhằm tăng thêm thu nhập cho người lao động
tận dụng được quỹ thời gian những ngày nông nhàn.
2. Vấn đề đổi mới chính sách tiền lương
Tiền lương về thực chất là khoản thù lao Nhà nước trả cho cán
bộ, công chức tương xứng với lao động và trình độ nghiệp vụ, chức
trách để thực hiện những công việc mà Nhà nước ủy quyền cho họ.
Để xác định đúng tiền lương tối thiểu chung cho cán bộ, công
chức, trước hết quan niệm đúng đắn về giá trị sức lao động. Đó là
toàn bộ những chi phí cần thiết về ăn mặc, ở đi lại… bù đắp cho
một lượng nhất định về cơ bắp, trí tuệ đã hao phí để duy trì cuộc
sống của bản thân người lao động trong trạng thái bình thường đồng
thời tái sản xuất ra sức lao động cả về số lượng và chất lượng trong
những điều kiện kinh tế xã hội ổn định. Do đó, khi đồng tiền mất
giá, chỉ số giá cả sinh hoạt cao thì tiền lương danh nghĩa phải được
điều chỉnh thích ứng và kịp thời để đảm bảo tiền lương thực tế cho
người lao động.
Chúng ta cần sử a đổi, hoàn thiện thang, bảng lương cho cán
bộ công chức Nhà nước và chế độ phụ cấp đồng thời sắp xếp, hoàn
thiện tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ công chức đảm bảo các yêu
cầu tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả giảm bớt tổng số cán bộ, công chức
hưởng lương Nhà nước. Trên cơ sở đó cần từng bước nâng cao dân
lương tối thiểu cho cán bộ, công chức Nhà nước. Trước mắt cần có
sự đột phá, khắc phục sự lạc hậu và bất hợp lý của chính sách tiền
lương tối thiểu hiện hành.
Hiện nay trong giới sinh viên đang có tình trạng đổ xô đi làm
cho các công ty nước ngoài, lý do chủ yếu là vì mức lương ở các

công ty này rất cao, nhưng một lý do nữa cũng không kém phần
quan trọng đó là do những sinh viên giỏi không có khả năng kinh tế
để xin vào các công ty Nhà nước. Có nhiều nguyên nhân giải quyết
cho vấn đề này. Thứ nhất là vì hiện nay đang có chính sách giảm
biên chế, xây dựng bộ máy Nhà nước gọn nhẹ nhưng hiệu quả và
năng động thứ hai là do hiện nay tình trạng tham nhũng, ăn hối lộ
khiến cho việc thi tuyển công chức rất không công bằng. Họ không
chọn năng lực thật sự mà chỉ chọn những gia đình thanh thế và
nhiều tiền hoặc có quyền cao chức trọng, có tiếng nói quan trọng
trong một công ty, một số, một bộ phận nào đó. Vì vậy đã từ lâu
hình thành trong nếp nghĩ của người Việt Nam nói chung và sinh
viên nói riêng một quan niệm: Vào được những công ty Nhà nước
"danh giá" là một giấc mơ xa xỉ đối với những sinh viên nghèo

×