Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.06 KB, 48 trang )

Thông tư liên tịch 03/2005/TTLT-VKSNDTC_TANDTC Hướng dẫn thi hành một số
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng dân sự và sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết
các vụ việc dân sự.
Để thi hành đúng và thống nhất một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS) về kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự (bao
gồm các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động), bảo đảm tốt mối quan hệ phối hợp giữa Viện
kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
điểm như sau:
i. về những vấn đề chung
1. Thông báo về việc thụ lý vụ việc dân sự
1.1. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý, Toà án thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp về
việc Toà án đã thụ lý vụ việc dân sự. Trong trường hợp thụ lý nhiều vụ việc dân sự, Toà án có thể thông báo trong một văn bản về
các vụ việc dân sự mà Toà án đã thụ lý. Văn bản thông báo phải có đầy đủ các nội dung chính quy định tại khoản 2 Điều 174
BLTTDS.
1.2. Sau khi thụ lý vụ việc dân sự, nếu xét thấy vụ việc dân sự đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, thì Toà án
đã thụ lý vụ việc dân sự ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc cho Toà án có thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 37
BLTTDS, đồng thời gửi ngay quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
2. Chuyển hồ sơ vụ việc dân sự
2.1. Chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để tham gia phiên toà, phiên họp
Toà án phải chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp trong các trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia
phiên toà, phiên họp theo quy định của BLTTDS, trừ các trường hợp sau đây:
- Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án cấp phúc thẩm đã kháng nghị phúc thẩm;
- Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc theo thủ tục tái thẩm.
Việc chuyển hồ sơ vụ việc dân sự được thực hiện như sau:
a. Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS và được hướng
dẫn tại mục 1 Phần II của Thông tư này, Toà án cấp sơ thẩm gửi hồ sơ vụ án dân sự cùng với quyết định đưa vụ án ra xét xử cho
Viện kiểm sát ngay sau khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ,
Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Toà án theo quy định tại khoản 2 Điều 195 BLTTDS.
b. Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 264 BLTTDS và được


hướng dẫn tại mục 2 Phần II của Thông tư này, Toà án cấp phúc thẩm gửi hồ sơ vụ án dân sự cùng với quyết định đưa vụ án ra xét
xử cho Viện kiểm sát ngay sau khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được
hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Toà án theo quy định tại khoản 2 Điều 262 BLTTDS.
c. Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự, Toà án gửi hồ sơ
vụ việc dân sự cùng với quyết định kháng nghị cho Viện kiểm sát ngay sau khi Toà án ra quyết định kháng nghị. Trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ việc cho Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm,
tái thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 290 và Điều 310 BLTTDS.
d. Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm giải quyết việc dân sự, Toà án gửi hồ sơ việc
dân sự cùng với quyết định mở phiên họp cho Viện kiểm sát ngay sau khi Toà án ra quyết định mở phiên họp. Trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ cho Toà án để mở phiên họp theo quy định tại khoản 1 Điều
313 BLTTDS.
đ. Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên họp phúc thẩm đối với các quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp phúc thẩm gửi hồ sơ vụ án cùng với quyết
định mở phiên họp cho Viện kiểm sát ngay sau khi Toà án quyết định mở phiên họp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày
nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ cho Toà án để mở phiên họp.
2.2. Chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát để xem xét kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
a. Sau khi nhận được bản án, quyết định của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật mà Viện kiểm sát cùng cấp (trong trường
hợp Viện kiểm sát không tham gia phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự) hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xét thấy cần phải nghiên
cứu hồ sơ vụ việc dân sự để xem xét việc kháng nghị phúc thẩm, thì Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu Toà án chuyển hồ sơ vụ
việc cho Viện kiểm sát.
b. Ngay sau khi nhận được yêu cầu của Viện kiểm sát, Toà án chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát có văn bản
yêu cầu.
c. Chậm nhất là ngay sau khi hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm quy định tại Điều 252 và khoản 2 Điều 317 BLTTDS,
Viện kiểm sát phải trả hồ sơ vụ việc dân sự cho Toà án đã xét xử hoặc giải quyết sơ thẩm cùng với quyết định kháng nghị (nếu
Viện kiểm sát có kháng nghị).
2.3. Chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ
tục tái thẩm
a. Khi Viện kiểm sát xét thấy cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự để xem xét, báo cáo Viện trưởng Viện kiểm
sát kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm, thì Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu Toà án đã ra bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật chuyển hồ sơ vụ việc dân sự đó cho Viện kiểm sát.

1
b. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu chuyển hồ sơ, Toà án chuyển hồ sơ vụ việc cho Viện
kiểm sát có văn bản yêu cầu.
c. Trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc dân sự, nếu Viện kiểm sát không kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm, thì Viện kiểm sát phải chuyển trả lại hồ sơ vụ việc cho Toà án đã ra bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật. Nếu Viện kiểm sát có kháng nghị giám đốc thẩm hoặc kháng nghị tái thẩm, thì Viện kiểm sát chuyển hồ sơ
vụ việc dân sự cùng với quyết định kháng nghị cho Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định tại Điều
290 và Điều 310 BLTTDS.
d. Trong trường hợp Viện kiểm sát và Toà án cùng có văn bản yêu cầu Toà án đã ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm, thì Toà án
chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho cơ quan có văn bản yêu cầu trước và thông báo bằng văn bản cho cơ quan kia biết về việc đã
chuyển hồ sơ đó.
Trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc dân sự, nếu cơ quan đã được nhận hồ sơ vụ việc dân sự không
có kháng nghị, thì thông báo cho cơ quan đã có yêu cầu mà chưa được nhận hồ sơ biết. Nếu cơ quan đó vẫn có đề nghị chuyển hồ
sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, thì cơ quan đã được nhận hồ sơ mà không có kháng nghị phải chuyển hồ sơ cho cơ quan đã có
yêu cầu chuyển hồ sơ mà chưa được nhận hồ sơ.
Trong trường hợp cơ quan chưa được nhận hồ sơ không có đề nghị chuyển hồ sơ nữa, thì cơ quan đã nhận hồ sơ chuyển trả
hồ sơ vụ việc dân sự cho Toà án đã gửi hồ sơ cho mình.
2.4. Thủ tục chuyển hồ sơ vụ việc dân sự
a. Tất cả tài liệu có trong hồ sơ vụ việc dân sự phải được đánh số thứ tự và có bản kê danh mục các tài liệu. Trước khi
chuyển hồ sơ vụ việc từ Toà án sang Viện kiểm sát hoặc ngược lại, cần kiểm tra đầy đủ tài liệu trong hồ sơ vụ việc dân sự đó.
Người nhận hồ sơ vụ việc dân sự phải đối chiếu bản kê danh mục tài liệu với tài liệu đã được đánh số thứ tự trong hồ sơ vụ việc.
Việc bàn giao phải được lập biên bản, có ký nhận của hai bên. Trong trường hợp gửi hồ sơ theo đường bưu điện, thì cán bộ nhận
hồ sơ vụ việc đầu tiên phải kiểm tra đầy đủ tài liệu có trong hồ sơ, nếu phát hiện trong hồ sơ thiếu tài liệu nào thì phải lập biên bản
ghi rõ tài liệu thiếu và thông báo ngay cho cơ quan gửi hồ sơ biết.
b. Các hồ sơ, tài liệu, vật chứng mà đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp cho Viện kiểm sát theo yêu cầu của Viện
kiểm sát theo quy định tại khoản 3 Điều 85 BLTTDS phải được chuyển cho Toà án để đưa vào hồ sơ vụ việc và bảo quản tại Toà
án theo quy định tại khoản 1 Điều 95 BLTTDS. Thủ tục giao nhận hồ sơ được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.4
mục 2 Phần I của Thông tư này.
3. Thông báo Kiểm sát viên tham gia phiên toà, phiên họp và thay đổi Kiểm sát viên

3.1. Thông báo Kiểm sát viên tham gia phiên toà, phiên họp
Đối với các trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà, phiên họp dân sự, thì Viện trưởng Viện kiểm sát phân công
Kiểm sát viên tham gia phiên toà, phiên họp. Trong trường hợp vụ việc dân sự có tình tiết phức tạp, phiên toà có thể phải kéo dài
nhiều ngày và xét thấy cần thiết thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thể phân công Kiểm sát viên dự khuyết. Viện kiểm sát gửi thông
báo bằng văn bản về việc phân công Kiểm sát viên, Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có) cho Toà án. Trong văn bản thông báo phải
nêu rõ họ, tên của Kiểm sát viên và Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có) được Viện trưởng phân công tham gia phiên toà, phiên họp.
3.2. Thông báo thay đổi Kiểm sát viên tham gia phiên toà, phiên họp
a. Sau khi thông báo cho Toà án biết việc phân công Kiểm sát viên, Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có) tham gia phiên toà,
phiên họp, nếu thay đổi Kiểm sát viên đó, thì Viện kiểm sát thông báo bằng văn bản cho Toà án biết. Trong văn bản thông báo ghi
đầy đủ họ, tên của Kiểm sát viên thay thế.
b. Trước khi mở phiên toà, phiên họp, nếu Toà án nhận được đơn yêu cầu thay đổi Kiểm sát viên, thì Toà án chuyển ngay
đơn yêu cầu đó cho Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy định tại khoản 1 Điều 51 BLTTDS.
Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thay đổi Kiểm sát viên, Viện kiểm sát phải thông báo bằng
văn bản cho Toà án biết việc thay đổi hay không thay đổi Kiểm sát viên đó. Nếu thay đổi Kiểm sát viên, thì Viện kiểm sát thông
báo họ, tên của Kiểm sát viên thay thế.
c. Nếu tại phiên toà, Hội đồng xét xử ra quyết định thay đổi Kiểm sát viên theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLTTDS và
được hướng dẫn tại mục 4 Phần II của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS, thì Toà án gửi ngay
quyết định đó cho Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLTTDS.
Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định của Hội đồng xét xử, Viện trưởng Viện kiểm sát có
thẩm quyền quyết định phân công Kiểm sát viên khác thay thế và thông báo bằng văn bản cho Toà án để Toà án tiếp tục giải quyết
vụ việc dân sự theo thủ tục chung.
d. Tại phiên họp giải quyết việc dân sự thuộc trường hợp do tập thể gồm ba Thẩm phán giải quyết hoặc tại phiên họp phúc
thẩm đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án dân sự của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, thì việc
thay đổi Kiểm sát viên được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 3.2 mục 3 Phần I của Thông tư này.
đ. Trường hợp phiên họp giải quyết việc dân sự chỉ do một Thẩm phán giải quyết, nếu tại phiên họp có yêu cầu thay đổi
Kiểm sát viên và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ, thì Thẩm phán ra quyết định hoãn phiên họp và chuyển yêu cầu thay đổi Kiểm
sát viên cho Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét quyết định theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLTTDS. Việc thay
đổi Kiểm sát viên và thông báo thay đổi Kiểm sát viên trong trường hợp này được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm b tiểu mục
3.2 mục 3 Phần I của Thông tư này.

4. Hoãn phiên toà, phiên họp do Kiểm sát viên vắng mặt
4.1. Đối với các trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp dân sự theo quy định của BLTTDS và hướng dẫn
của Thông tư này, Kiểm sát viên được phân công có trách nhiệm phải tham gia phiên toà, phiên họp.
4.2. Toà án hoãn phiên toà, phiên họp do không có Kiểm sát viên trong trường hợp Kiểm sát viên được phân công không
thể tham gia phiên toà, phiên họp do gặp trở ngại khách quan mà Viện kiểm sát chưa cử được Kiểm sát viên khác thay thế, hoặc
2
tại phiên toà, phiên họp Kiểm sát viên được phân công không thể tiếp tục tham gia phiên toà, phiên họp được và không có Kiểm
sát viên dự khuyết để thay thế ngay.
Toà án phải thông báo ngay việc hoãn phiên toà, phiên họp cho Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp biết.
5. Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 44, Điều 250 và Điều 316 BLTTDS thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp
trên trực tiếp có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự của Toà án cấp sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, đối với các vụ việc dân sự do Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, thì Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc
thẩm được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định
giải quyết vụ việc dân sự của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
6. Trách nhiệm của Viện kiểm sát trong trường hợp Toà án khởi tố vụ án hình sự
6.1. Chuyển quyết định khởi tố vụ án hình sự cho Viện kiểm sát
Trong trường hợp Toà án khởi tố vụ án hình sự khi có các căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 385 và khoản 3 Điều 387
BLTTDS thì trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố, Toà án phải căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự và
Bộ luật tố tụng hình sự để chuyển quyết định khởi tố vụ án và tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội cho Viện kiểm sát
có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp cần phải chuyển tài liệu cho Viện kiểm sát mà bản chính tài liệu đó phải lưu
trong hồ sơ vụ án dân sự, thì Toà án gửi bản sao tài liệu đó (có đóng dấu xác nhận của Toà án) cho Viện kiểm sát.
6.2. Trách nhiệm của Viện kiểm sát
Viện kiêm sát phải xem xét việc khởi tố, truy tố bị can trong thời hạn do Bộ luật tố tụng hình sự quy định; nếu Viện kiểm
sát không quyết định khởi tố, truy tố bị can thì Viện kiểm sát thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do của việc không khởi tố, truy tố
bị can cho Toà án đã ra quyết định khởi tố vụ án biết theo quy định tại khoản 2 Điều 388 BLTTDS.
ii. về việc Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp
1. Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS, đối với những vụ án dân sự do Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có

khiếu nại về việc thu thập chứng cứ đó của Toà án, thì Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà sơ thẩm.
1.1. Những vụ án dân sự đương sự có khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của Toà án bao gồm:
a. Những vụ án do Toà án thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS;
b. Những vụ án không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS, nhưng Toà án tự mình tiến hành một hoặc
một số biện pháp để thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 87, khoản 1 Điều 88 và điểm b khoản 1 Điều 92 BLTTDS.
1.2. Khiếu nại của đương sự về việc thu thập chứng cứ của Toà án là khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Toà án
trong việc thu thập chứng cứ mà đương sự có căn cứ cho rằng quyết định đó hoặc hành vi đó là không đúng pháp luật, bao
gồm các trường hợp sau:
a. Trong vụ án dân sự mà đương sự có yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS,
nhưng Thẩm phán không tiến hành thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự và đương sự khiếu nại;
b. Trong vụ án dân sự mà đương sự có yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS,
nhưng Thẩm phán đã tiến hành biện pháp để thu thập chứng cứ không đúng với biện pháp mà đương sự yêu cầu và đương sự
khiếu nại;
c. Trong vụ án dân sự mà đương sự có yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS và
Thẩm phán tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ theo đúng yêu cầu của đương sự nhưng không đầy đủ hoặc không đúng quy
định của BLTTDS về việc tiến hành biện pháp đó và đương sự khiếu nại;
d. Trong vụ án dân sự mà đương sự khiếu nại về việc Toà án thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự khác;
đ. Trong vụ án dân sự mà không có đương sự nào có yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ, nhưng Toà án vẫn tiến hành một
hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS và đương sự khiếu nại;
e. Trong vụ án dân sự mà đương sự khiếu nại về việc Toà án tự thu thập chứng cứ không đúng với quy định tại khoản 1
Điều 87, khoản 1 Điều 88 và điểm b khoản 1 Điều 92 BLTTDS.
1.3. Việc giải quyết đơn khiếu nại của đương sự và việc Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm
a. Đương sự khiếu nại về việc Toà án thu thập chứng cứ phải làm đơn khiếu nại. Đơn khiếu nại của đương sự phải có các
nội dung chính sau đây:
- Ngày, tháng, năm viết đơn;
- Tên của Toà án hoặc Viện kiểm sát nhận đơn khiếu nại;
- Tên, địa chỉ của người khiếu nại;
- Tóm tắt nội dung vụ việc;
- Những quyết định, hành vi cụ thể của Toà án trong việc thu thập chứng cứ mà đương sự khiếu nại và những yêu cầu cụ
thể;

- Các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khiếu nại là có căn cứ.
Trường hợp đơn khiếu nại của đương sự không đầy đủ các nội dung trên thì Viện kiểm sát hoặc Toà án nhận đơn hướng
dẫn cho đương sự sửa đổi, bổ sung.
Trong trường hợp đương sự không biết chữ và trực tiếp đến Toà án hoặc Viện kiểm sát để khiếu nại, thì Toà án hoặc Viện
kiểm sát phải lập biên bản ghi lại nội dung khiếu nại của đương sự.
b. Trong trường hợp Toà án nhận được đơn khiếu nại của đương sự thì trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận
đơn, Toà án chuyển bản sao đơn khiếu nại (có đóng dấu xác nhận của Toà án) cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát thực
hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật và xem xét việc tham gia phiên toà.
c. Trong trường hợp Viện kiểm sát nhận được đơn khiếu nại của đương sự thì trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày
nhận đơn, Viện kiểm sát chuyển bản sao đơn khiếu nại (có đóng dấu xác nhận của Viện kiểm sát) cho Toà án để Toà án giải quyết
theo thẩm quyền và có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Toà án biết về việc tham gia phiên toà của Viện kiểm sát.
3
d. Viện kiểm sát nhận được đơn khiếu nại do đương sự gửi đến hoặc do Toà án chuyển đến phải vào sổ nhận đơn. Nếu
Viện kiểm sát xét thấy cần yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ trên cơ sở khiếu nại của đương sự thì Viện kiểm sát phải
có văn bản yêu cầu. Toà án phải tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ theo văn bản yêu cầu của Viện kiểm sát và thông báo kết
quả bằng văn bản cho đương sự và Viện kiểm sát biết. Sau khi xem xét kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của Toà án, Viện
kiểm sát thông báo bằng văn bản cho Toà án biết về việc tham gia phiên toà. Trong trường hợp Viện kiểm sát đã có văn bản yêu
cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ trên cơ sở khiếu nại của đương sự, nhưng đến ngày hết thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
theo quy định tại khoản 3 Điều 179 BLTTDS, mà Viện kiểm sát vẫn không nhận được văn bản thông báo về kết quả xác minh, thu
thập chứng cứ của Toà án, thì Viện kiểm sát vẫn phải tham gia phiên toà.
đ. Trong trường hợp đương sự rút đơn khiếu nại hoặc sau khi Toà án đã giải quyết mà đương sự không tiếp tục khiếu nại về
việc thu thập chứng cứ của Toà án nữa, thì Toà án thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát biết để Viện kiểm sát quyết định
không tham gia phiên toà. Trường hợp đương sự tiếp tục có đơn khiếu nại, thì Viện kiểm sát thông báo bằng văn bản cho Toà án
biết về việc tham gia phiên toà.
e. Trong trường hợp Viện kiểm sát có văn bản thông báo tham gia phiên toà trước khi Toà án có quyết định đưa vụ án ra
xét xử, thì sau khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử và hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát
nghiên cứu theo quy định tại khoản 2 Điều 195 BLTTDS.
g. Trong trường hợp Viện kiểm sát có văn bản thông báo tham gia phiên toà sau khi Toà án có quyết định đưa vụ án ra xét
xử thì cần phân biệt như sau:
g.1. Trường hợp kể từ ngày nhận được văn bản thông báo của Viện kiểm sát về việc tham gia phiên toà đến ngày mở phiên

toà được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử còn trên mười lăm ngày, thì Toà án chuyển ngay hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát
nghiên cứu theo quy định tại khoản 2 Điều 195 BLTTDS.
g.2. Trường hợp kể từ ngày nhận được văn bản thông báo của Viện kiểm sát về việc tham gia phiên toà đến ngày mở phiên
toà được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử còn từ mười lăm ngày trở xuống, nếu Viện kiểm sát có yêu cầu, thì Toà án
chuyển ngay hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu. Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ cho Toà án chậm nhất vào ngày trước
ngày mở phiên toà.
2. Viện kiểm sát tham gia phiên toà phúc thẩm
2.1. Theo quy định tại khoản 2 Điều 264 BLTTDS, thì Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án cấp phúc thẩm phải tham gia
phiên toà phúc thẩm trong các trường hợp sau:
a. Khi Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án cấp sơ thẩm đã tham gia phiên toà sơ thẩm;
b. Khi Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án cấp sơ thẩm không tham gia phiên toà sơ thẩm nhưng có kháng nghị hoặc Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp có kháng nghị bản án sơ thẩm.
2.2. Trong trường hợp đương sự có khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của Toà án cấp phúc thẩm, thì việc chuyển đơn
khiếu nại của đương sự được thực hiện theo hướng dẫn tại các điểm b và c tiểu mục 1.3 mục 1 Phần II của Thông tư này. Trường
hợp xét thấy cần thiết phải tham gia phiên toà phúc thẩm thì Viện kiểm sát thông báo bằng văn bản cho Toà án cấp phúc thẩm
biết. Toà án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử và hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp. Trường hợp Kiểm
sát viên vắng mặt tại phiên toà phúc thẩm, thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành phiên toà theo thủ tục chung.
2.3. Trong trường hợp được hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 Phần II của Thông tư này, nếu trước khi khai mạc
phiên toà phúc thẩm, Viện kiểm sát đã rút kháng nghị, thì Viện kiểm sát không tham gia phiên toà phúc thẩm. Nếu sau khi khai
mạc phiên toà phúc thẩm, Viện kiểm sát mới rút kháng nghị, thì Kiểm sát viên vẫn tiếp tục tham gia phiên toà và phát biểu ý kiến
của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 234 BLTTDS.
3. Viện kiểm sát tham gia phiên toà giám đốc thẩm, phiên toà tái thẩm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 292 và Điều 310 BLTTDS, Viện kiểm sát phải tham gia tất cả các phiên toà giám đốc
thẩm, phiên toà tái thẩm. Việc chuyển hồ sơ vụ án và quyết định kháng nghị được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục
2.1 mục 2 Phần I của Thông tư này.
4. Viện kiểm sát tham gia phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 21, khoản 2 Điều 280, Điều 311, khoản 2 Điều 313 và Điều 318 BLTTDS, thì Viện kiểm
sát phải tham gia tất cả các phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm giải quyết việc dân sự; phiên họp phúc thẩm đối với quyết định tạm
đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; phiên họp giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm quyết định đã có hiệu lực pháp luật về việc dân sự.

Việc chuyển hồ sơ vụ việc dân sự được thực hiện theo hướng dẫn tại các điểm c, d và đ tiểu mục 2.1 mục 2 Phần I của
Thông tư này.
iii. về kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
Khi thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự quy định tại
Điều 404 BLTTDS, Viện kiểm sát có các quyền sau đây:
1. Quyền yêu cầu của Viện kiểm sát đối với Toà án
1.1. Viện kiểm sát yêu cầu Toà án cùng cấp và Toà án cấp dưới ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định tại
Chương XXXIII BLTTDS khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:
a. Viện kiểm sát nhận được đơn khiếu nại, tố cáo về việc Toà án, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo không
ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời hạn quy định;
b. Viện kiểm sát có căn cứ xác định việc Toà án, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo không ra văn bản giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong thời hạn quy định.
Toà án được yêu cầu có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được yêu
cầu. Trường hợp vụ việc phức tạp, cần có thêm thời gian, thì Toà án phải có văn bản thông báo lý do cho Viện kiểm sát biết và trả
lời cho Viện kiểm sát trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
1.2. Viện kiểm sát yêu cầu Toà án cùng cấp kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Toà án cấp mình và Toà án cấp
dưới khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:
4
a. Viện kiểm sát nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền;
b. Viện kiểm sát nhận được đơn khiếu nại, tố cáo về việc Toà án, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo vi phạm
pháp luật trong khi giải quyết;
c. Viện kiểm sát có căn cứ xác định việc Toà án, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo có dấu hiệu vi phạm
pháp luật trong khi giải quyết.
Toà án được yêu cầu có trách nhiệm thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp vụ việc phức tạp cần có thêm thời gian, thì Toà án phải có văn bản thông báo lý do cho Viện
kiểm sát biết và trả lời cho Viện kiểm sát trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
1.3. Trong trường hợp Viện kiểm sát đã yêu cầu Toà án thực hiện các biện pháp được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1 và
1.2 mục 1 Phần III của Thông tư này mà không được Toà án thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, thì Viện kiểm sát có quyền
yêu cầu Toà án cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Viện kiểm sát.
Toà án được yêu cầu có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được

yêu cầu.
2. Quyền kiến nghị của Viện kiểm sát đối với Toà án
2.1. Trường hợp qua nghiên cứu hồ sơ, tài liệu được Toà án cung cấp và xác minh thấy việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
Toà án, người có thẩm quyền là thiếu căn cứ, không đúng quy định của pháp luật, thì Viện kiểm sát kiến nghị với Toà án cùng cấp
và Toà án cấp dưới khắc phục vi phạm pháp luật.
2.2. Trường hợp Viện kiểm sát có yêu cầu (theo quy định tại mục 1 Phần III của Thông tư này) hoặc có kiến nghị khắc
phục vi phạm pháp luật (theo quy định tại điểm 2.1 mục 2 Phần III của Thông tư này) đối với Toà án mà Toà án được yêu cầu,
kiến nghị không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát, thì Viện kiểm sát kiến nghị với Toà
án cấp trên.
iv. hiệu lực thi hành của thông tư
1. Thông tư này có hiệu lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Những hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao trước đây về những vấn đề được hướng dẫn
trong Thông tư này hết hiệu lực thi hành.
2. áp dụng hướng dẫn của Thông tư này đối với những vụ việc dân sự đã được thụ lý, giải quyết trước ngày Thông tư này
có hiệu lực thi hành như sau:
2.1. Đối với những vụ việc dân sự đã được Toà án thụ lý giải quyết và bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, thì không áp dụng hướng dẫn tại Thông tư này để kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, trừ trường hợp bản án, quyết định của Toà án bị kháng nghị theo các căn cứ khác.
2.2. Đối với những vụ án dân sự đã được Toà án thụ lý trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành và Toà án đã chuyển
hồ sơ vụ án dân sự đó cho Viện kiểm sát nghiên cứu, tham gia phiên toà, nhưng kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành mới
xét xử sơ thẩm, thì Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án thuộc trường hợp được hướng dẫn tại mục 1
Phần II của Thông tư này.
2.3. Đối với những vụ án dân sự đã được xét xử sơ thẩm trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, mà Viện kiểm sát
không tham gia phiên toà sơ thẩm, nhưng kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành mới xét xử phúc thẩm, thì Viện kiểm sát
chỉ tham gia phiên toà phúc thẩm đối với những vụ án thuộc trường hợp được hướng dẫn tại mục 2 Phần II của Thông tư này.
2.4. Đối với những vụ án dân sự đã được xét xử sơ thẩm trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành mà Viện kiểm sát đã
tham gia phiên toà sơ thẩm, nhưng kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành mới xét xử phúc thẩm, thì việc Viện kiểm sát
tham gia phiên toà phúc thẩm cần phân biệt như sau:
a. Nếu Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS và được hướng
dẫn tại mục 1 Phần II của Thông tư này, thì Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà phúc thẩm;

b. Nếu Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS và được
hướng dẫn tại mục 1 Phần II của Thông tư này, thì không bắt buộc Viện kiểm sát tham gia phiên toà phúc thẩm. Trong trường hợp
Viện kiểm sát có thông báo tham gia phiên toà phúc thẩm, nhưng tại phiên toà phúc thẩm Kiểm sát viên vắng mặt, thì Toà án vẫn
tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung.
2.5. Đối với vụ án dân sự được xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, nhưng kể từ
ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
tuyên huỷ để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm, thì việc Viện kiểm sát tham gia phiên toà được thực hiện theo hướng
dẫn của Thông tư này.
3. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc cần được giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung, thì báo cáo cho Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao để giải thích, hướng dẫn bổ sung.

Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ
nhất "Những quy định chung" của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
Căn cứ vào Luật tổ chức Toà án nhân dân;
Để thi hành đúng và thống nhất Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sau đây viết
tắt là BLTTDS);
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
quyết nghị
I. thẩm quyền của toà án
1. Về nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các vụ việc dân sự
5
1.1. Căn cứ vào Luật Tổ chức Toà án nhân dân và Chương III Phần thứ nhất của BLTTDS, nhiệm vụ, quyền hạn của Toà
dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong tố tụng dân sự được thực hiện
như sau:
a. Toà dân sự có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định
tại các điều 25, 26, 27 và 28 của BLTTDS;
b. Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại
Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh,
nhưng đều có mục đích lợi nhuận;
c. Toà lao động có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về lao động quy định tại Điều 31 và Điều

32 của BLTTDS;
d. Trong trường hợp căn cứ vào hướng dẫn tại các điểm a, b và c tiểu mục 1.1 này mà khó xác định được tranh chấp hoặc
yêu cầu đó thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Toà chuyên trách nào, thì Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương quyết định phân công cho một Toà chuyên trách giải quyết theo thủ tục chung. Trường hợp sau khi thụ lý vụ việc dân sự
mới phát hiện được vụ việc dân sự thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Toà chuyên trách khác, thì Toà chuyên trách đã thụ lý tiếp tục
giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục chung, nhưng cần ghi số, ký hiệu và trích yếu trong bản án, quyết định theo đúng hướng dẫn
tại mục 2 Phần I của Nghị quyết này.
1.2. Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ việc tương ứng được
hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp
tỉnh bị kháng nghị.
2. Về cách ghi số, ký hiệu và trích yếu trong bản án, quyết định dân sự
Ngoài việc ghi số và năm ban hành bản án, quyết định thì ký hiệu và trích yếu trong bản án, quyết định giải quyết các tranh
chấp và các yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được ghi như sau:
2.1. Đối với bản án, quyết định giải quyết tranh chấp về dân sự
a. Về việc ghi ký hiệu:
- Đối với bản án sơ thẩm, thì ghi ký hiệu: DS-ST
Ví dụ: Số: 20/2005/DS-ST
- Đối với bản án phúc thẩm, thì ghi ký hiệu: DS-PT
Ví dụ: Số: 10/2005/DS-PT
- Đối với quyết định giám đốc thẩm, thì ghi ký hiệu: DS-GĐT
Ví dụ: Số: 05/2005/DS-GĐT
- Đối với quyết định tái thẩm, thì ghi ký hiệu: DS-TT
Ví dụ: Số: 01/2005/DS-TT
b. Về việc ghi trích yếu:
- Cần xác định tranh chấp mà Toà án thụ lý giải quyết được quy định tại khoản nào tương ứng của Điều 25 của BLTTDS,
để ghi vào phần trích yếu của bản án, quyết định.
Ví dụ: Tranh chấp mà Toà án thụ lý giải quyết là tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam được quy
định tương ứng tại khoản 1 Điều 25 của BLTTDS thì ghi: “V/v tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam”.
- Trong trường hợp tại khoản tương ứng của Điều 25 của BLTTDS quy định nhóm tranh chấp thì cần ghi cụ thể tranh chấp
được giải quyết.

Ví dụ: Tranh chấp mà Toà án thụ lý giải quyết là tranh chấp về hợp đồng dân sự được quy định tương ứng tại khoản 3 Điều
25 của BLTTDS, thì cần ghi cụ thể tranh chấp về hợp đồng dân sự gì; nếu là hợp đồng thuê nhà ở thì ghi: “V/v tranh chấp về hợp
đồng dân sự thuê nhà ở”; nếu là hợp đồng vận chuyển hành khách thì ghi: “V/v tranh chấp về hợp đồng dân sự vận chuyển hành
khách”.
2.2. Đối với quyết định giải quyết việc dân sự
a. Về việc ghi ký hiệu:
- Đối với quyết định sơ thẩm, thì ghi ký hiệu: QĐDS-ST
Ví dụ: Số: 01/2005/QĐDS-ST
- Đối với quyết định phúc thẩm, thì ghi ký hiệu: QĐDS-PT
Ví dụ: Số: 10/2005/QĐDS-PT
- Đối với quyết định giám đốc thẩm, thì ghi ký hiệu: QĐDS-GĐT
Ví dụ: Số: 15/2005/QĐDS-GĐT
- Đối với quyết định tái thẩm, thì ghi ký hiệu: QĐDS-TT
Ví dụ: Số: 10/2005/QĐDS-TT
b. Về việc ghi trích yếu:
- Cần xác định yêu cầu cụ thể mà Toà án thụ lý giải quyết được quy định tại khoản nào tương ứng của Điều 26 của
BLTTDS, để ghi vào phần trích yếu của quyết định.
Ví dụ: Yêu cầu mà Toà án thụ lý giải quyết là yêu cầu tuyên bố một người mất tích được quy định tương ứng tại khoản 3
Điều 26 của BLTTDS, thì ghi: “V/v yêu cầu tuyên bố một người mất tích”.
2.3. Đối với bản án, quyết định giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động, thì việc ghi ký hiệu và trích yếu được thực hiện tương tự như việc ghi ký hiệu và trích yếu đối với bản án, quyết định
giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về dân sự, nhưng thay ký hiệu “DS” bằng ký hiệu tranh chấp hoặc yêu cầu tương ứng:
“HNGĐ”; “KDTM”; “LĐ”.
Ví dụ:
- Đối với bản án sơ thẩm giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại thì ghi: Số: 09/2005/KDTM-ST.
- Đối với quyết định sơ thẩm giải quyết yêu cầu về lao động thì ghi: QĐLĐ-ST.
6
3. Về quy định tại Điều 29 của BLTTDS
3.1. Cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh là cá nhân, tổ chức đã được các cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật; cụ thể như sau:

a. Cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác (theo Nghị định và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Chính phủ về đăng ký
kinh doanh);
b. Doanh nghiệp (theo Luật Doanh nghiệp và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp)
c. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam);
d. Doanh nghiệp nhà nước (theo Luật Doanh nghiệp nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật
Doanh nghiệp nhà nước);
đ. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (theo Luật Hợp tác xã và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Hợp
tác xã);
e. Cá nhân, tổ chức khác theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh.
3.2. Mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh doanh, thương mại là mong muốn của cá nhân, tổ chức
đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại đó.
3.3. Hoạt động kinh doanh, thương mại là việc thực hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại. Hoạt động kinh doanh,
thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ
thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh thương mại.
Ví dụ: Công ty trách nhiệm hữu hạn A được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực may mặc. Hoạt động
của Công ty A không chỉ giới hạn ở việc may sản phẩm là hàng dệt may để phục vụ thị trường mà còn bao gồm cả hành vi mua
nguyên vật liệu về để sản xuất, xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị, thuê xe ô tô để đưa công nhân đi làm, đi nghỉ hàng
năm theo chế độ hoặc mua một số ti vi để cho công nhân giải trí sau giờ làm việc
3.4. Đối với các tranh chấp quy định tại khoản 2 Điều 29 của BLTTDS thì không nhất thiết đòi hỏi cá nhân, tổ chức phải có
đăng ký kinh doanh mà chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ chức đều có mục đích lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại; nếu chỉ có
một bên có mục đích lợi nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi nhuận, thì tranh chấp đó là tranh chấp về dân sự quy định tại
khoản 4 Điều 25 của BLTTDS.
3.5. Về các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến
việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty quy định tại khoản 3
Điều 29 của BLTTDS cần phân biệt như sau:
a. Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty là các tranh chấp về phần vốn góp của mỗi thành viên đối với
công ty (thông thường phần vốn góp đó được tính bằng tiền, nhưng cũng có thể bằng hiện vật hoặc bằng giá trị quyền sở hữu công
nghiệp); về mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với mỗi công ty cổ phần; về quyền sở hữu một phần tài sản của công
ty tương ứng với phần vốn góp vào công ty; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp

vào công ty; về yêu cầu công ty đổi các khoản nợ hoặc thanh toán các khoản nợ của công ty, thanh lý tài sản và thanh lý các hợp
đồng mà công ty đã ký kết khi giải thể công ty; về các vấn đề khác liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
b. Các tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau là các tranh chấp giữa các thành viên của công ty về việc trị giá
phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công ty; về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên
của công ty hoặc về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty của thành viên công ty đó cho người khác không phải là thành
viên của công ty; về việc chuyển nhượng cổ phiếu không ghi tên và cổ phiếu có ghi tên; về mệnh giá cổ phiếu, số cổ phiếu phát
hành và trái phiếu của công ty cổ phần hoặc về quyền sở hữu tài sản tương ứng với số cổ phiếu của thành viên công ty; về quyền
được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ, thanh toán nợ của công ty; về việc thanh lý tài sản, phân chia nợ giữa các thành viên
của công ty trong trường hợp công ty bị giải thể, về các vấn đề khác giữa các thành viên của công ty liên quan đến việc thành lập,
hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
c. Khi thực hiện hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 3.5 này, nếu giữa công ty với các thành viên của công ty hoặc
giữa các thành viên của công ty có tranh chấp với nhau, nhưng tranh chấp đó không liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty mà chỉ liên quan đến các quan hệ khác như quan hệ
lao động, quan hệ dân sự (ví dụ: Tranh chấp về bảo hiểm xã hội, về trợ cấp cho người lao động, về hợp đồng lao động, về hợp
đồng vay, mượn tài sản ) thì tranh chấp đó không phải là tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 3 Điều 29 của
BLTTDS. Tuỳ từng trường hợp cụ thể để xác định đó là tranh chấp về dân sự hay tranh chấp về lao động.
4. Về khoản 3 Điều 33 của BLTTDS
4.1. Đương sự ở nước ngoài bao gồm:
a. Đương sự là cá nhân không phân biệt là người nước ngoài hay người Việt Nam mà không có mặt tại Việt Nam vào thời
điểm Toà án thụ lý vụ việc dân sự; đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở nước ngoài hoặc người nước
ngoài không ở Việt Nam có mặt tại Việt Nam để nộp đơn khởi kiện vụ án dân sự hoặc đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Toà
án.
Đối với yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng,
cha, mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân
của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, thì theo quy định tại khoản 3 Điều 102 của Luật hôn nhân và
gia đình là thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi cư trú của công dân
Việt Nam.
b. Cơ quan, tổ chức không phân biệt là cơ quan, tổ chức nước ngoài hay cơ quan, tổ chức Việt Nam mà không có trụ sở,
chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam vào thời điểm Toà án thụ lý vụ việc dân sự.

4.2. Tài sản ở nước ngoài
7
Tài sản ở nước ngoài là tài sản được xác định theo quy định của Bộ luật dân sự ở ngoài biên giới lãnh thổ của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại thời điểm Toà án thụ lý vụ việc dân sự.
4.3. Cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài.
Cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài là trường hợp trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự cần phải tiến hành một hoặc một số hoạt động tố tụng dân sự ở nước ngoài mà Toà án Việt Nam
không thể thực hiện được, cần phải yêu cầu cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài thực hiện hoặc đề nghị Toà án nước
ngoài thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
4.4. Không thay đổi thẩm quyền giải quyết của Toà án
a. Đối với vụ việc dân sự không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33 của BLTTDS và được
hướng dẫn tại các tiểu mục 4.1, 4.2 và 4.3 mục 4 này và được Toà án nhân dân cấp huyện thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu
trong quá trình giải quyết mới có sự thay đổi, như có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ
quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài thì theo quy định tại Điều 412 của BLTTDS, Toà án nhân dân
cấp huyện đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự đó.
b. Đối với vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33 của BLTTDS và được hướng
dẫn tại các tiểu mục 4.1, 4.2 và 4.3 mục 4 này và được Toà án nhân dân cấp tỉnh thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá
trình giải quyết có sự thay đổi không còn đương sự, tài sản ở nước ngoài và không cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự
của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài thì theo quy định tại Điều 412 của BLTTDS, Toà án nhân dân cấp tỉnh đã thụ
lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự đó.
5. Về quy định tại Điều 36 của BLTTDS
5.1. Khi xem xét yêu cầu của nguyên đơn lựa chọn Toà án giải quyết vụ việc dân sự thì ngoài việc phải thực hiện đúng quy
định tại Điều 33 và Điều 34 của BLTTDS về thẩm quyền của các cấp Toà án, cần phân biệt như sau:
a. Đối với trường hợp mà Điều 36 của BLTTDS quy định yêu cầu lựa chọn Toà án giải quyết vụ việc dân sự phải có điều
kiện, thì Toà án chỉ chấp nhận yêu cầu khi điều kiện đó xảy ra.
Ví dụ: Điểm a khoản 1 Điều 36 của BLTTDS quy định: “Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết”. Như vậy, chỉ
trong trường hợp không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn, thì nguyên đơn mới có thể yêu cầu Toà án nơi bị đơn cư trú,
làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết.
b. Đối với trường hợp mà Điều 36 của BLTTDS quy định yêu cầu lựa chọn Toà án giải quyết vụ việc dân sự không cần bất

cứ điều kiện nào, thì Toà án chấp nhận yêu cầu đó.
Ví dụ: Điểm d khoản 1 Điều 36 của VLTTDS quy định: “Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì
nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết”. Như vậy,
trong trường hợp này việc yêu cầu lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp dân sự không đòi phải có bất kỳ điều kiện nào, nên
nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết và Toà án chấp
nhận yêu cầu đó.
5.2. Trong trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu được quyền lựa chọn nhiều Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân
sự (ví dụ: Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản - điểm a khoản 1 Điều 36 của
BLTTDS), thì khi nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, Toà án phải giải thích cho họ biết là chỉ có một Toà án trong các Toà án được
Điều luật quy định mới có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự để họ lựa chọn. Toà án do họ lựa chọn yêu cầu người khởi kiện,
người yêu cầu phải cam kết trong đơn khởi kiện không khởi kiện hoặc trong đơn yêu cầu không yêu cầu tại các Toà án khác.
Trong trường hợp khởi kiện, người yêu cầu nộp đơn khởi kiện, nộp đơn yêu cầu tại nhiều Toà án khác nhau được Điều luật
quy định, thì Toà án đã thụ lý đầu tiên theo thời gian có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Các Toà án khác, nếu chưa thụ lý
thì căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 168 của BLTTDS trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; nếu đã thụ lý thì căn cứ điểm e khoản 1
Điều 168 và khoản 2 Điều 192 của BLTTDS ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự, xoá tên vụ việc dân sự đó trong sổ
thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự.
Nếu đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án căn cứ vào khoản 3 Điều 193 của BLTTDS trả lại tiền tạm ứng án phí
cho người đã nộp.
6. Về quy định tại khoản 1 Điều 37 của BLTTDS
Khi xét thấy vụ việc dân sự đã được thụ lý không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình mà thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án nhân dân địa phương khác cùng cấp hoặc khác cấp, thì Toà án đã thụ lý vụ việc dân sự ra quyết định chuyển hồ sơ vụ
việc dân sự cho Toà án có thẩm quyền và xóa sổ thụ lý. Trong trường hợp đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án chuyển
hồ sơ vụ việc dân sự không phải trả lại tiền tạm ứng án phí cho đương sự mà tiền tạm ứng án phí đã nộp được xử lý khi Toà án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc
dân sự ký tên và đóng dấu của Toà án. Quyết định này phải được gửi ngay cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Toà án có thẩm quyền sau khi nhận được quyết định chuyển vụ việc dân sự và hồ sơ vụ việc dân sự phải vào sổ thụ lý và tiếp tục
giải quyết vụ việc đó theo quy định chung.
7. Quyết định của Toà án trong một số trường hợp cụ thể
7.1. Trường hợp có tranh chấp và có đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết, nếu sau khi Toà án thụ lý vụ án và trong thời
hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm các đương sự tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án, thì Toà án phải lập biên

bản về sự thoả thuận đó và ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 187 của BLTTDS.
7.2. Trường hợp các bên yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; yêu cầu công nhận sự thoả
thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 28 của BLTTDS, nhưng sau
khi Toà án thụ lý và trong quá trình giải quyết việc dân sự các bên có sự thay đổi về thoả thuận, thì cần phân biệt như sau:
a. Nếu các bên thay đổi sự thoả thuận (một phần hoặc toàn bộ) bằng một thoả thuận mới thì Toà án tiếp tục giải quyết việc
dân sự theo thủ tục chung;
8
b. Nếu một hoặc các bên thay đổi sự thoả thuận (một phần hoặc toàn bộ), nhưng không thoả thuận được về vấn đề đã được
thoả thuận trước đó và có tranh chấp, thì được coi như đương sự rút đơn yêu cầu. Toà án căn cứ vào Điều 311 và điểm c khoản 1
điều 192 của BLTTDS ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự. Trong trường hợp này Toà án cần giải thích cho đương sự
biết nếu họ vẫn có yêu cầu Toà án giải quyết, thì phải khởi kiện vụ án theo thủ tục chung.
II. người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng
1. Về quy định tại Điều 43 của BLTTDS
“Thư ký Toà án” quy định tại Điều 43 của BLTTDS là người tiến hành tố tụng dân sự bao gồm những người được xếp
ngạch công chức “Thư ký Toà án” và những người được xếp ngạch công chức “Chuyên viên pháp lý”, “Thẩm tra viên” được
Chánh án Toà án phân công tiến hành tố tụng đối với vụ việc dân sự và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 43
của BLTTDS.
2. Về quy định tại Điều 46 của BLTTDS
2.1. Theo quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLTTDS thì người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay
đổi, nếu họ là người thân thích của đương sự (bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) trong vụ án
dân sự.
2.2. Người thân thích của đương sự là người có quan hệ sau đây với đương sự:
a. Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của đương sự;
b. Là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của đương sự;
c. Là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của đương sự;
d. Là cháu ruột của đương sự, mà đương sự là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì
ruột.
2.3. Có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ là ngoài các trường hợp được quy định tại
khoản 1, khoản 2 Điều 46 của BLTTDS thì trong các trường hợp khác (như trong quan hệ tình cảm, quan hệ thông gia, quan hệ
công tác, quan hệ kinh tế ) có căn cứ rõ ràng để có thể khẳng định là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký Toà

án không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Ví dụ: Hội thẩm nhân dân là anh em kết nghĩa của nguyên đơn; Thẩm phán là con rể của
bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Thủ trưởng cơ quan nơi vợ của Thẩm phán làm việc mà có căn cứ rõ ràng
chứng minh là trong cuộc sống giữa họ có mối quan hệ tình cảm thân thiết với nhau, có mối quan hệ về kinh tế
Cũng được coi là có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ nếu trong cùng một phiên
toà xét xử vụ án dân sự Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Toà án là người thân thích với nhau hoặc nếu
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên được phân công xét xử phúc thẩm vụ án dân sự có người thân thích là Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên đã tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án đó.
3. Về quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 47 của BLTTDS
3.1. Theo quy định tại khoản 2 Điều 47 của BLTTDS thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng
hoặc bị thay đổi nếu họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau. Tuy nhiên, khi có hai người trong Hội
đồng xét xử thân thích với nhau, thì chỉ có một người phải từ chối hoặc bị thay đổi. Việc thay đổi ai trước khi mở phiên toà do
Chánh Toà án quyết định, tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định. Việc xác định Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong cùng
một Hội đồng xét xử là người thân thích với nhau được thực hiện tương tự theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.2 mục 2 Phần II của
Nghị quyết này.
3.2. Theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của BLTTDS, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc
bị thay đổi nếu họ “Đã tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trong vụ án đó”. Đã tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trong vụ
án đó là đã tham gia giải quyết vụ án và đã ra bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm hoặc quyết định công nhận sự thoả thuận của các
đương sự, quyết định đình chỉ vụ án.
4. Về quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLTTDS
4.1. Tại phiên toà người yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng phải trình bày rõ lý do và căn cứ của việc xin thay đổi
người tiến hành tố tụng.
Hội đồng xét xử nghe người bị yêu cầu thay đổi trình bày ý kiến của họ về yêu cầu xin thay đổi người tiến hành tố tụng.
Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng và lời trình bày của người có yêu cầu, của người bị yêu cầu thay đổi phải được
ghi đầy đủ vào biên bản phiên toà. Hội đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án và căn cứ vào quy định tại các điều 46, 47, 48 và
49 của BLTTDS và hướng dẫn tại các mục 1, 2 và 3 Phần II của Nghị quyết này quyết định theo đa số thay đổi hoặc không thay
đổi người tiến hành tố tụng.
Trường hợp quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng thì trong quyết định phải ghi rõ việc hoãn phiên toà và đề nghị
người có thẩm quyền cử người khác thay thế người tiến hành tố tụng đã bị thay đổi trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được
quyết định và thời hạn hoãn phiên toà.
4.2. Quyết định thay đổi hoặc không thay đổi người tiến hành tố tụng phải được Hội đồng xét xử công bố công khai tại

phiên toà. Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng phải được gửi ngay cho những người có thẩm quyền quy định tại khoản 2
Điều 51 của BLTTDS.
III. người tham gia tố tụng
1. Về quy định tại khoản 3 Điều 57 của BLTTDS
Theo quy định tại khoản 3 Điều 57 của BLTTDS thì “Đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy
định khác”. Như vậy, ngoài việc trừ người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, nếu trong
trường hợp pháp luật có quy định khác, thì người chưa đủ mười tám tuổi vẫn có thể có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự
hoặc ngược lại người từ đủ mười tám tuổi trở lên vẫn có thể không có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Do đó, để xác định
đúng năng lực hành vi tố tụng dân sự của một người cụ thể, ngoài quy định của BLTTDS Toà án phải xem xét có văn bản quy
phạm pháp luật nào quy định khác về năng lực hành vi tố tụng dân sự hay không.
9
Ví dụ 1: Về trường hợp người chưa đủ mười tám tuổi nhưng có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Điều 9 của Luật
hôn nhân và gia đình quy định nữ từ mười tám tuổi trở lên được kết hôn và theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP
ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 (điểm a mục 1) thì nữ đã bước sang tuổi mười tám mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về tuổi kết hôn; do đó,
khi có yêu cầu Toà án giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình thì họ có quyền tự mình tham gia tố tụng dân sự.
Ví dụ 2: Về trường hợp người từ đủ mười tám tuổi trở lên nhưng không có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Theo
quy định tại Điều 41 của Luật hôn nhân và gia đình, thì cha, mẹ có thể bị Toà án ra quyết định không cho trông nom, chăm sóc,
giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật của con; do đó, trong thời hạn bị Toà án cấm là người đại
diện theo pháp luật của con, thì cha mẹ không được tham gia tố tụng dân sự với tư cách là người đại diện theo pháp luật cho con
trong vụ việc dân sự.
2. Về quy định tại điểm d khoản 2 Điều 58 của BLTTDS
2.1. Đương sự chỉ được yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án trước khi Toà án mở phiên toà
xét xử vụ án. Khi có yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ, thì họ phải làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền. Nếu họ trực
tiếp đến Toà án trình bày yêu cầu được ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ, thì họ cũng phải thể hiện bằng văn bản nộp cho Toà
án. Nếu đương sự là người không biết chữ, thì Toà án lập biên bản ghi rõ yêu cầu của họ. Biên bản phải được đọc lại cho người có
yêu cầu nghe, ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận.
Đơn hoặc văn bản yêu cầu phải ghi cụ thể các tên tài liệu, chứng cứ mà mình cần ghi chép, sao chụp.
2.2. Trên cơ sở đề nghị của đương sự, Toà án tạo điều kiện cho họ được ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ mà họ có thể

yêu cầu. Tuy nhiên, theo quy định về chế độ bảo quản hồ sơ vụ án, về trách nhiệm của cán bộ, công chức của các cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc bảo quản hồ sơ vụ án, thì Toà án yêu cầu đương sự thực hiện quyền ghi chép, sao chụp các tài liệu, chứng
cứ trong hồ sơ vụ án như sau:
a. Toà án cung cấp cho đương sự những tài liệu, chứng cứ cần ghi chép, sao chụp theo yêu cầu của họ, để thực hiện việc
ghi chép, sao chụp bằng máy ảnh hoặc phương tiện kỹ thuật khác của họ. Các tài liệu chứng cứ đó phải liên quan đến vụ án,
không liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư. Nếu không cung cấp tài liệu nào theo
đề nghị của đương sự thì cần nêu rõ lý do.
b. Trong trường hợp đương sự không có máy ảnh hoặc phương tiện kỹ thuật khác để tự mình thực hiện việc sao chụp và
nhờ Toà án sao chụp giúp, thì tuỳ theo các điều kiện cụ thể, lực lượng cán bộ của Toà án mà có thể sao chụp giúp được thì đương
sự phải trả chi phí sao chụp theo quy định chung. Việc sao chụp có thể được thực hiện ngay hoặc có thể trong một thời hạn hợp lý
do Toà án ấn định.
c. Việc ghi chép, sao chụp phải được thực hiện tại trụ sở của Toà án dưới sự giám sát của cán bộ Toà án và phải tuân thủ
các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư.
3. Về quy định tại Điều 63 của BLTTDS
3.1 Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người được đương sự nhờ làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
phải xuất trình cho Toà án các giấy tờ, tài liệu sau đây:
a. Đối với Luật sư thì phải xuất trình cho Toà án giấy giới thiệu của Văn phòng Luật sư nơi họ là thành viên hoặc có hợp
đồng làm việc cử họ tham gia tố tụng tại Toà án và thẻ Luật sư;
b. Đối với người khác thì phải xuất trình cho Toà án văn bản có nội dung thể hiện ý chí của đương sự nhờ bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho đương sự; văn bản của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú hoặc của cơ quan, tổ chức nơi họ
làm việc xác nhận họ không có tiền án, không đang bị khởi tố về hình sự, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử
lý hành chính, đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục và quản chế hành chính, không phải là cán bộ, công chức trong các ngành
Toà án, Kiểm sát, Công an; một trong các loại giấy tờ tuỳ thân (như chứng minh thư nhân dân, hộ chiếu, sổ hộ khẩu ).
3.2. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ giấy tờ, tài liệu, Thẩm phán được phân công giải quyết
vụ án phải xem xét giải quyết. Nếu họ có đầy đủ các điều kiện thì cấp giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự để họ tham gia tố tụng. Nếu họ không có đầy đủ các điều kiện thì không chấp nhận và thông báo bằng văn bản cho
đương sự và người bị từ chối biết trong đó cần nói rõ lý do của việc không chấp nhận.
3.3. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có một trong các hành vi
quy định tại Điều 385 của BLTTDS, thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án lập biên bản về việc vi phạm của người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Biên bản phải có chữ ký của người tiến hành lập biên bản, người vi phạm, người làm

chứng. Nếu người vi phạm từ chối ký vào biên bản, thì Thẩm phán phải ghi rõ vào biên bản việc từ chối đó. Trong trường hợp xét
thấy việc để người vi phạm đó tiếp tục tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là
không khách quan cho việc giải quyết vụ án, thì Toà án không chấp nhận người vi phạm đó tiếp tục tham gia tố tụng với tư cách là
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời thông báo bằng văn bản cho đương sự và người đó biết.
3.4. Tại phiên toà đương sự mới nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, thì Hội đồng xét xử chấp nhận,
nếu người được đương sự nhờ làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đáp ứng các điều kiện được hướng dẫn
tại tiểu mục 3.1 mục 3 này và việc chấp nhận đó không gây cản trở cho Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.
Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của đương sự hoãn phiên toà để đương sự nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự.
4. Về quy định tại khoản 2 Điều 64 của BLTTDS
Về quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có
trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, được thực hiện tương tự như hướng dẫn tại
mục 2 Phần III của Nghị quyết này.
5. Về quy định tại các khoản 3, 8 và 9 Điều 66 của BLTTDS
5.1. Về khoản 3 Điều 66 của BLTTDS
10
a. Liên quan đến bí mật nhà nước là liên quan đến những vấn đề (thông tin, tin tức, nội dung ) trong các văn bản quy
phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được pháp luật quy định là có các mức độ: “Tuyệt mật”, “Tối mật” hoặc
“Mật”.
b. Liên quan đến bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư là liên quan đến bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh
doanh, bí mật đời tư được pháp luật bảo vệ của chính người làm chứng.
c. Có ảnh hưởng xấu, bất lợi cho đương sự trong vụ án và là người có quan hệ thân thích với người làm chứng.
c.1. Việc xác định người thân thích của người làm chứng được thực hiện tương tự như hướng dẫn tại tiểu mục 2.2 mục 2
Phần II của Nghị quyết này;
c.2. ảnh hưởng xấu cho đương sự là trường hợp nếu người làm chứng khai ra những điều mình biết thì ảnh hưởng xấu đến
hạnh phúc, danh dự, nhân phẩm, uy tín hoặc ảnh hưởng xấu khác trong cuộc sống, công tác, sản xuất, kinh doanh của đương sự là
người có quan hệ thân thích với người làm chứng;
d. Nếu người làm chứng từ chối khai báo vì các lý do được hướng dẫn tại các điểm a, b và c tiểu mục 5.1 mục 5 này, thì
Thẩm phán phải giải thích cho họ biết nếu việc từ chối khai báo không có căn cứ, thì họ phải chịu trách nhiệm theo quy định của
pháp luật.

5.2. Về khoản 8 Điều 66 của BLTTDS
a. Hội đồng xét xử chỉ có thể ra quyết định dẫn giải người làm chứng đến phiên toà khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
a.1. Người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ;
a.2. Người làm chứng không đến phiên toà mà không có lý do chính đáng;
a.3. Việc vắng mặt của người làm chứng tại phiên toà gây trở ngại cho việc xét xử vụ án;
a.4. Việc dẫn giải người làm chứng đến phiên toà có thể thực hiện được trước khi Hội đồng xét xử vào Phòng nghị án để
nghị án.
b. Quyết định dẫn giải người làm chứng phải được giao ngay cho lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Công
an nhân dân có thẩm quyền để thực hiện theo quy định tại Thông tư số 15/2003/TT-BCA (V19) ngày 10/9/2003 của Bộ Công an
“hướng dẫn hoạt động hỗ trợ tư pháp của lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân”.
5.3. Về khoản 9 Điều 66 của BLTTDS
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử tại phiên toà xét xử vụ án, Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử yêu cầu người làm chứng
phải cam đoan trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ, trừ người làm chứng là người chưa thành niên. Lời cam
đoan của người làm chứng phải có các nội dung sau:
a. Cam đoan đã được Toà án giải thích rõ về quyền, nghĩa vụ của người làm chứng;
b. Cam đoan khai báo trung thực trước Toà án;
c. Cam đoan xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về lời khai của mình.
Trong gia đoạn chuẩn bị xét xử lời cam đoan của người làm chứng được ghi vào biên bản lấy lời khai của người làm
chứng. Tại phiên toà lời cam đoan của người làm chứng được ghi vào biên bản phiên toà.
6. Về quy định tại Điều 73 của BLTTDS
Theo quy định tại khoản 2 Điều 73 của BLTTDS, thì cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác cũng là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người được bảo vệ. Trong trường hợp này cơ quan, tổ chức
khởi kiện tham gia tố tụng được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo uỷ quyền của cơ
quan, tổ chức đó.
7. Về quy định tại Điều 75 của BLTTDS
7.1. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 75 của BLTTDS người đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân
sự cho một đương sự, thì không được làm người đại diện theo pháp luật cho một đương sự khác trong cùng một vụ án mà quyền
và lợi ích hợp pháp của các đương sự đó đối lập với nhau. Trong trường hợp này họ chỉ được làm người đại diện theo pháp luật
cho đương sự mà chính họ đang là người đại diện theo pháp luật của đương sự trong vụ án đó.
Ví dụ: Anh B đang là người đại diện theo pháp luật cho người vợ bị mất năng lực hành vi dân sự, thì không được làm

người đại diện theo pháp luật cho người em ruột của mình là người chưa thành niên trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích
hợp pháp của người vợ và người em đối lập nhau. Trong trường hợp này anh B chỉ có thể là người đại diện theo pháp luật của
người vợ trong tố tụng dân sự.
7.2. Theo quy định tại khoản 3 Điều 75 của BLTTDS, thì cán bộ, công chức trong ngành Toà án, Kiểm sát, Công an chỉ
được làm người đại diện trong tố tụng dân sự khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a. Khi họ là người đại diện theo pháp luật cho cơ quan của họ hoặc là người đại diện được cơ quan của họ uỷ quyền;
b. Khi họ là người đại diện theo pháp luật của đương sự (không phải là cơ quan của họ) trong vụ án.
IV. án phí, lệ phí và thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu
1. Về án phí, lệ phí
án phí, lệ phí được thực hiện theo quy định tại Chương IX Phần thứ nhất của BLTTDS. Tuy nhiên, đối với các vấn đề chưa
được quy định tại Chương IX của BLTTDS, thì trong thời gian chưa có quy định cụ thể của cơ quan có thẩm quyền, các vấn đề đó
về án phí, lệ phí vẫn được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Toà án.
Khi quyết định án phí, lệ phí cần phân biệt một số trường hợp cụ thể sau đây:
1.1. Đối với các việc dân sự mà theo quy định của pháp luật tố tụng trước đây được coi như vụ án dân sự, thì áp dụng theo
mức án phí tương ứng được quy định tại Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ.
1.2. Đối với các loại việc dân sự khác mà các văn bản quy phạm pháp luật có quy định mức lệ phí, thì thực hiện theo các
quy định đó.
Ví dụ: Điều 14 Nghị định số 25/2004/NĐ-CP ngày 15/01/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh Trọng tài thương mại quy định mức lệ phí toà án liên quan đến trọng tài. Khi giải quyết các yêu cầu cụ thể như: yêu cầu
Toà án chỉ định Trọng tài viên, thay đổi Trọng tài viên, yêu cầu Toà án huỷ quyết định trọng tài thì Toà án áp dụng mức lệ phí
được quy định tại Nghị định này.
11
2. Về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 159 củaBLTTDS
2.1. Việc xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu Toà án giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện như sau:
a. Đối với vụ việc dân sự mà trong văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, thì
áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
Ví dụ 1: Đối với tranh chấp về hợp đồng kinh doanh bảo hiểm thì theo quy định tại Điều 30 của Luật kinh doanh bảo hiểm,
thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp.
Ví dụ 2: Đối với các tranh chấp về lao động thì thời hiệu khởi kiện các tranh chấp được quy định tương ứng tại Điều 167
của Bộ luật lao động.

Ví dụ 3: Đối với yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại
Việt Nam, thì thời hiệu yêu cầu được quy định tại Điều 360 của BLTTDS.
Ví dụ 4: Đối với các tranh chấp và yêu cầu tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu, thì thời hiệu yêu cầu được quy định tại Điều
145 của BLDS.
b. Đối với vụ việc dân sự mà trong văn bản quy phạm pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, thì
áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 159 của BLTTDS về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. Tuy nhiên, cần phân biệt như sau:
b.1. Nếu tranh chấp phát sinh trước ngày 01/01/2005, thì thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2005;
b.2. Nếu tranh chấp phát sinh từ ngày 01/01/2005, thì thời hạn hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm;
b.3. Nếu quyền yêu cầu phát sinh trước ngày 01/01/2005, thì thời hạn một năm, kể từ ngày 01/01/2005;
b.4. Nếu quyền yêu cầu phát sinh từ ngày 01/01/2005, thì thời hạn một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu.
2.2. Thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện:
a. Thời điểm bắt đầu khởi kiện được tính kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm và được xác định như sau:
a.1. Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định thời hạn thực hiện, nếu hết thời hạn đó
mà bên có nghĩa vụ không thực hiện, thì ngày hết hạn thực hiện nghĩa vụ là ngày xảy ra vi phạm;
a.2. Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên không thoả thuận hoặc pháp luật không quy định thời hạn thực hiện, nhưng theo
quy định của pháp luật các bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo
cho nhau biết trước trong một thời gian hợp lý, nếu hết thời hạn đã được thông báo đó bên có nghĩa vụ không thực hiện, thì ngày
hết thời hạn đã được thông báo là ngày xảy ra vi phạm;
a.3. Trường hợp khi hết hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự, các bên có thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ đó, thì
việc xác định ngày vi phạm căn cứ vào ngày chấm dứt thoả thuận của các bên và được thực hiện như hướng dẫn tại điểm a1 và
điểm a2 tiểu mục 2.2 này;
a.4. Trong quá trình thực hiện hợp đồng mà có vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, thì ngày vi phạm nghĩa vụ là ngày xảy ra
vi phạm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Nếu một bên đơn phương đình chỉ hợp đồng thì ngày đơn phương đình chỉ
hợp đồng là ngày vi phạm.
a.5. Đối với trường hợp đòi bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tài sản, sức khoẻ, tính mạng , thì ngày xảy ra hành
vi xâm phạm tài sản, sức khoẻ, tính mạng là ngày vi phạm.
a.6. Trong một quan hệ pháp luật hoặc trong một giao dịch dân sự, nếu hành vi xâm phạm xảy ra ở nhiều thời điểm khác
nhau, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm cuối cùng.

a.7. Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a1, a2, a3, a4, a5 và a6 tiểu mục 2.2 này nếu các bên có thoả thuận
khác về thời hiệu, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính theo thoả thuận của các bên.
b. Theo quy định tại Điều 160 của BLTTDS thì các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng
dân sự; do đó, việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện, bắt đầu lại thời hiệu khởi
kiện được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự.
V. Về một số mẫu văn bản tố tụng
Ban hành kèm theo Nghị quyết này các mẫu văn bản tố tụng sau đây:
1. Bản án dân sự sơ thẩm;
2. Giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
VI. Hiệu lực thi hành của nghị quyết
1. Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 31 tháng 3 năm 2005 và có hiệu
lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo.
Những hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao được ban hành trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực về các vấn đề được
hướng dẫn trong Nghị quyết này đều bãi bỏ.
2. Đối với những vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động mà Toà án đã thụ lý nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét
xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết này để giải quyết.
3. Đối với các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành thì
không áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, trừ trường hợp có những
căn cứ kháng nghị khác.
Nghị quyết sô 02/2005/NQ-HĐTPTANDTC Hướng dẫn thi hành một số quy định tại
Chương VIII "Các biện pháp khẩn cấp tạm thời" của Bộ luật tố tụng dân sự
Căn cứ vào Luật tổ chức Toà án nhân dân;
12
Để thi hành đúng và thống nhất các quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” (sau đây viết tắt là
BPKCTT) của Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS);
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
Quyết nghị
1. Về quy định tại khoản 1 Điều 99 của BLTTDS
1.1. Trong quá trình giải quyết vụ án (kể từ thời điểm Toà án thụ lý vụ án) chỉ có những cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây
mới có quyền yêu cầu Toà án áp dụng một hoặc nhiều BPKCTT quy định tại Điều 102 của BLTTDS:

a. Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự;
b. Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp
do Luật hôn nhân và gia đình quy định;
c. Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của tập thể người lao động do Bộ luật lao động và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan quy định.
1.2. Chỉ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây, cá nhân, cơ quan, tổ chức được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 mục 1 này
mới có quyền yêu cầu Toà án áp dụng một hoặc nhiều BPKCTT quy định tại Điều 102 của BLTTDS:
a. Để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự có liên quan trực tiếp đến vụ án đang được Toà án giải quyết và
cần phải được giải quyết ngay, nếu không được giải quyết sẽ ảnh hưởng xấu đến đời sống, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm của đương sự;
b. Để bảo vệ chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu
thập được;
c. Để bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, tức là bảo toàn mối quan hệ, đối tượng hiện
có liên quan đến vụ án đang được Toà án giải quyết;
d. Để bảo đảm việc thi hành án tức là làm cho chắc chắn các điều kiện để khi bản án, quyết định của Toà án được thi hành
thì có đầy đủ điều kiện để thi hành án.
2. Về quy định tại khoản 2 Điều 99 của BLTTDS
2.1. Chỉ khi có đầy đủ các điều kiện sau đây, đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện (đơn khởi kiện phải được làm theo đúng
quy định tại Điều 164 của BLTTDS), thì cá nhân, cơ quan, tổ chức mới có quyền yêu cầu Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp
dụng BPKCTT quy định tại Điều 102 của BLTTDS:
a. Do tình thế khẩn cấp, tức là cần phải được giải quyết ngay, không chậm trễ;
b. Cần phải bảo vệ ngay bằng chứng trong trường hợp nguồn chứng cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau
này khó có thể thu thập được;
c. Ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra (có thể là hậu quả về vật chất hoặc phi vật chất).
2.2. Trong trường hợp đơn khởi kiện đã có các nội dung để xác định việc thụ lý đơn khởi kiện và giải quyết vụ án là thuộc
thẩm quyền của mình, nhưng cần phải sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác, thì Toà án thụ lý giải quyết đơn yêu cầu áp dụng
BPKCTT ngay theo quy định tại khoản 3 Điều 117 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 6 Nghị quyết này. Việc yêu cầu sửa đổi,
bổ sung đơn khởi kiện và thụ lý vụ án được thực hiện theo quy định tại Điều 169 và Điều 171 của BLTTDS.
2.3. Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT là Toà án có thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện và giải quyết vụ
án theo quy định tại các điều 33, 34, 35 và 36 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 1 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP

ngày 31-3-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất
“Những quy định chung” của BLTTDS.
3. Về quy định tại khoản 3 Điều 99 của BLTTDS
3.1. Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng một hoặc nhiều BPKCTT quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 102 của
BLTTDS trong trường hợp đương sự không có yêu cầu áp dụng BPKCTT.
3.2. Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng một BPKCTT cụ thể khi có đầy đủ các điều kiện do BLTTDS quy định đối
với BPKCTT đó.
Ví dụ: Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT “Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng” quy định
tại Điều 104 của BLTTDS khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu cấp dưỡng;
- Xét thấy yêu cầu cấp dưỡng đó là có căn cứ;
- Nếu không buộc thực hiện trước ngay một phần nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ, đời sống của người được
cấp dưỡng;
- Đương sự, người thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự chưa có điều kiện thực hiện được quyền yêu
cầu Toà án áp dụng BPKCTT.
3.3. Khi tự mình ra quyết định áp dụng một BPKCTT cụ thể, ngoài việc phải thực hiện đúng quy định tại điều luật tương
ứng của BLTTDS, Toà án cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật liên quan để có quyết định đúng.
Ví dụ: Khi tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT “Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục”, ngoài việc phải thực hiện đúng quy định tại Điều 103 của BLTTDS, Toà án phải căn cứ vào quy
định liên quan của Bộ luật dân sự về giám hộ để có quyết định đúng; cụ thể thực hiện như sau:
- Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT này, nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến người chưa thành
niên chưa có người giám hộ. “Chưa có người giám hộ” là trường hợp không có người giám hộ đương nhiên, nhưng những người
thân thích của người chưa thành niên chưa cử được ai trong số họ hoặc một người khác làm người giám hộ và Uỷ ban nhân dân
xã, phường, thị trấn cùng các tổ chức xã hội tại cơ sở cũng chưa cử được người hoặc tổ chức từ thiện đảm nhận việc giám hộ;
- Trong trường hợp có cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện giám hộ do pháp luật quy định tự nguyện đảm nhận việc giám hộ,
thì Toà án ra quyết định áp dụng BPKCTT giao người chưa thành niên cho cá nhân, tổ chức đó trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục;
13
- Trong trường hợp không có cá nhân, tổ chức nào tự nguyện đảm nhận việc giám hộ, thì Toà án ra quyết định áp dụng
BPKCTT giao người chưa thành niên cho một người trong số những người thân thích của người chưa thành niên có đủ điều kiện

giám hộ do pháp luật quy định trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Nếu không có người thân thích hoặc không có ai trong
số người thân thích có đủ điều kiện giám hộ, thì Toà án ra quyết định áp dụng BPKCTT giao người chưa thành niên cho một
người khác có đủ điều kiện giám hộ do pháp luật quy định hoặc một tổ chức từ thiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
4. Về quy định tại khoản 2 Điều 101 của BLTTDS
Để bảo đảm việc áp dụng BPKCTT đúng pháp luật, tránh việc gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc người thứ
ba do Toà án áp dụng BPKCTT không đúng, cần phải thực hiện như sau:
4.1. Khi tự mình áp dụng BPKCTT phải thực hiện đúng hướng dẫn tại mục 3 của Nghị quyết này.
4.2. Khi có cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT, thì Toà án yêu cầu họ phải làm đơn yêu cầu
theo đúng quy định tại Điều 117 của BLTTDS. Toà án chỉ xem xét để quyết định áp dụng hay không áp dụng BPKCTT cụ thể
được ghi trong đơn. Nếu xét thấy yêu cầu áp dụng BPKCTT đó là có căn cứ thì ra quyết định áp dụng BPKCTT đó; nếu không
chấp nhận thì thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết. Trong trường hợp họ có thay đổi yêu cầu áp dụng
BPKCTT khác, thì Toà án yêu cầu họ phải làm đơn yêu cầu mới theo đúng quy định tại Điều 117 của BLTTDS.
Ví dụ: Anh A có đơn yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT kê biên tài sản đang tranh chấp, thì Toà án chỉ có quyền xem xét
để chấp nhận hoặc không chấp nhận mà không được áp dụng BPKCTT phong toả tài sản ở nơi giữ.
4.3. Khi xem xét để quyết định áp dụng một BPKCTT cụ thể, Toà án chỉ có quyền chấp nhận toàn bộ, một phần hoặc
không chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT cụ thể đó của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tuyệt đối không được áp dụng BPKCTT
vượt quá yêu cầu áp dụng BPKCTT của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Trong trường hợp họ có thay đổi yêu cầu vượt quá yêu cầu ban
đầu, thì Toà án yêu cầu họ phải làm đơn yêu cầu bổ sung theo đúng quy định tại Điều 117 của BLTTDS.
Ví dụ: Công ty A có đơn yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT phong toả tài khoản năm trăm triệu đồng tại ngân hàng Z của
Công ty B, thì Toà án chỉ có quyền chấp nhận phong toả tài khoản của Công ty B tại ngân hàng Z từ năm trăm triệu đồng trở
xuống hoặc không chấp nhận yêu cầu phong toả tài khoản.
5. Về quy định tại khoản 2 Điều 117 của BLTTDS
5.1. Trong quá trình giải quyết vụ án (kể từ thời điểm Toà án thụ lý vụ án) mà nhận được đơn yêu cầu Toà án áp dụng
BPKCTT, thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án (sau đây gọi tắt là Thẩm phán) phải xem xét người yêu cầu có thuộc
một trong các đối tượng được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và lý do yêu cầu có thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại
tiểu mục 1.2 mục 1 Nghị quyết này hay không. Nếu không đúng đối tượng hoặc không đúng lý do yêu cầu, thì Thẩm phán trả lại
đơn yêu cầu cho họ. Nếu đúng đối tượng, đúng lý do yêu cầu, thì Thẩm phán tiếp tục xem xét, giải quyết.
5.2. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, Thẩm phán phải xem xét đơn và các chứng
cứ kèm theo chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng BPKCTT đó. Nếu đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT chưa làm đúng quy định
tại khoản 1 Điều 117 của BLTTDS, thì Thẩm phán yêu cầu họ phải sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu. Nếu chứng cứ chưa đủ thì đề

nghị người yêu cầu cung cấp bổ sung chứng cứ. Thẩm phán cũng có thể hỏi thêm ý kiến của họ. Trong trường hợp có thể hỏi được
ý kiến của người bị áp dụng BPKCTT và việc hỏi ý kiến đó không làm ảnh hưởng đến việc thi hành quyết định áp dụng BPKCTT,
nhưng lại bảo đảm cho việc ra quyết định áp dụng BPKCTT đúng đắn, thì Thẩm phán hỏi ý kiến của người bị áp dụng BPKCTT
trước khi ra quyết định áp dụng BPKCTT.
5.3. Sau khi xem xét và nghe ý kiến, nếu chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 9, 12 và
13 Điều 102 của BLTTDS, thì Thẩm phán ra ngay quyết định áp dụng BPKCTT. Nếu chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT quy
định tại các khoản 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 102 của BLTTDS, thì Thẩm phán buộc người yêu cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm.
Ngay sau khi người đó xuất trình chứng cứ đã thực hiện biện pháp bảo đảm, thì Thẩm phán ra ngay quyết định áp dụng BPKCTT.
5.4. Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT, thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ
lý do cho người yêu cầu biết.
5.5. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận được đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, thì Hội đồng xét xử phải xem xét đơn và các
chứng cứ kèm theo, hỏi ý kiến của người yêu cầu và người bị yêu cầu áp dụng BPKCTT, thảo luận và thông qua tại phòng xử án
như sau:
a. Trong trường hợp chấp nhận mà người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm, thì Hội đồng xét xử ra ngay
quyết định áp dụng BPKCTT;
b. Trong trường hợp chấp nhận mà người yêu cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm, thì Hội đồng xét xử ra ngay quyết
định áp dụng BPKCTT khi họ xuất trình chứng cứ đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm;
c. Trong trường hợp không chấp nhận, thì Hội đồng xét xử không phải ra quyết định, nhưng phải thông báo công khai tại
phiên toà việc không chấp nhận, nêu rõ lý do và phải ghi vào biên bản phiên toà.
6. Về quy định tại khoản 3 Điều 117 của BLTTDS
6.1. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy
ra mà cá nhân, cơ quan, tổ chức cùng với việc nộp đơn khởi kiện cho Toà án, nộp đơn yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT, thì
Chánh án Toà án đó chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Nếu nhận được đơn ngoài giờ làm việc (kể cả
trong ngày nghỉ), thì người tiếp nhận đơn phải báo cáo ngay với Chánh án Toà án. Chánh án Toà án chỉ định ngay một Thẩm phán
thụ lý giải quyết đơn.
6.2. Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi
kiện và chứng cứ kèm theo để xác định đơn khởi kiện có thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Toà án mà họ yêu cầu áp dụng
BPKCTT hay không. Nếu không thuộc thẩm quyền thì trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT và các chứng cứ kèm
theo cho họ. Nếu thuộc thẩm quyền thì tiếp tục xem xét giải quyết đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT theo hướng dẫn tại các tiểu mục
5.2, 5.3 và 5.4 mục 5 Nghị quyết này.

7. Về quy định tại khoản 4 Điều 117 của BLTTDS
Khi áp dụng BPKCTT quy định tại Điều 112 và Điều 113 của BLTTDS cần phân biệt như sau:
14
7.1. Trong trường hợp người yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT yêu cầu phong toả tài khoản, tài sản có giá trị thấp hơn
nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ thực hiện, thì Toà án chỉ được phong toả tài khoản, tài sản có giá trị từ
mức yêu cầu trở xuống.
7.2. Trong trường hợp người yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT yêu cầu phong toả tài khoản, tài sản để bảo đảm nghĩa vụ
tài sản mà người bị áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ phải thực hiện theo đơn khởi kiện, thì Toà án chỉ được phong toả tài khoản, tài
sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản đó trở xuống.
7.3. Trong trường hợp tài sản bị yêu cầu phong toả là tài sản không thể phân chia được (không thể phong toả một phần tài
sản đó) có giá trị cao hơn nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ phải thực hiện theo đơn khởi kiện, thì Toà
án giải thích cho người yêu cầu biết để họ làm đơn yêu cầu áp dụng phong toả tài sản khác hoặc áp dụng BPKCTT khác. Nếu họ
vẫn giữ nguyên đơn yêu cầu, thì Toà án căn cứ vào khoản 4 Điều 117 của BLTTDS không chấp nhận đơn yêu cầu áp dụng
BPKCTT của họ.
8. Về quy định tại khoản 1 Điều 120 của BLTTDS
8.1. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu áp dụng một trong các BPKCTT quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10 và 11
Điều 102 của BLTTDS, thì Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử (nếu tại phiên toà) buộc người yêu cầu phải gửi một khoản tiền, kim
khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử ấn định, nhưng phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà
người có nghĩa vụ phải thực hiện.
a. “Nghĩa vụ tài sản” là nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại thực tế có thể xảy ra cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho
người thứ ba do việc yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng gây ra.
b. “Người có nghĩa vụ phải thực hiện” là người có yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng. Trong trường hợp người yêu
cầu áp dụng BPKCTT là người đại diện theo uỷ quyền của đương sự thì người có nghĩa vụ phải thực hiện là đương sự. Trong
trường hợp người yêu cầu áp dụng BPKCTT là người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức, thì người có nghĩa
vụ phải thực hiện là cơ quan, tổ chức.
8.2. Vì thiệt hại thực tế do việc áp dụng BPKCTT không đúng gây ra chưa xảy ra, cho nên để ấn định một khoản tiền, kim
khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá tương đương với nghĩa vụ tài sản, thì Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử phải dự kiến và tạm
tính có tính chất tương đối thiệt hại thực tế có thể xảy ra.
8.3. Việc dự kiến và tạm tính thiệt hại thực tế có thể xảy ra tuỳ thuộc vào từng BPKCTT cụ thể, từng trường hợp cụ thể và
được thực hiện như sau:

a. Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử đề nghị người yêu cầu áp dụng BPKCTT dự kiến và tạm tính thiệt hại thực tế có thể
xảy ra. Trong trường hợp có hỏi ý kiến của người bị áp dụng BPKCTT được hướng dẫn tại tiểu mục 5.2 và tiểu mục 5.5 mục 5
Nghị quyết này, thì đề nghị họ dự kiến và tạm tính thiệt hại thực tế có thể xảy ra.
b. Dự kiến và tạm tính thiệt hại thực tế có thể xảy ra phải được làm thành văn bản, trong đó cần nêu rõ các khoản thiệt hại
và mức thiệt hại có thể xảy ra, các căn cứ, cơ sở của việc dự kiến và tạm tính đó; nếu tại phiên toà thì không phải làm thành văn
bản, nhưng phải ghi vào biên bản phiên toà.
c. Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử xem xét các dự kiến và tạm tính thiệt hại thực tế có thể xảy ra, căn cứ vào các quy định
của các văn bản quy phạm pháp luật liên quan để ấn định một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá và buộc người
yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện biện pháp bảo đảm.
Ví dụ: Anh A đang chiếm giữ một chiếc xe ô tô tải. Anh B cho rằng chiếc xe đó thuộc sở hữu của anh hoặc sở hữu chung
của hai người và có tranh chấp. Anh B cho rằng anh A có ý định bán chiếc xe ô tô đó, nên đề nghị Toà án áp dụng BPKCTT kê
biên tài sản đang tranh chấp là chiếc xe ô tô tải. Sau khi anh A dự kiến, tạm tính thiệt hại thực tế có thể xảy ra do áp dụng
BPKCTT không đúng (nếu sau này Toà án quyết định chiếc xe ô tô đó thuộc quyền sở hữu của anh A) việc ấn định một khoản
tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá phải tuỳ từng trường hợp cụ thể như sau:
- Trong trường hợp anh B có căn cứ cho rằng anh A bán chiếc xe ô tô đó (có bản sao hợp đồng mua bán) thì căn cứ vào
hợp đồng mua bán, các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán để ấn định. Giả sử trong hợp đồng có tiền đặt cọc mà quá
hạn không giao ô tô thì bên mua không mua, bên bán phải trả cho bên mua tiền đặt cọc và một khoản tiền bằng tiền đặt cọc; nếu ô
tô bị kê biên vẫn giao cho anh A quản lý, sử dụng, thì thiệt hại thực tế có thể xảy ra chỉ là khoản tiền bằng tiền đặt cọc; nếu ô tô bị
kê biên được giao cho người thứ ba bảo quản, thì thiệt hại thực tế có thể xảy ra còn bao gồm tiền trả thù lao, thanh toán chi phí
bảo quản cho người bảo quản và thiệt hại do không khai thác công dụng ô tô.
- Trong trường hợp anh B chỉ có các thông tin là anh A đang muốn bán ô tô và ô tô bị kê biên được giao cho người thứ ba
quản lý, thì thiệt hại thực tế có thể xảy ra bao gồm tiền trả thù lao, thanh toán chi phí bảo quản cho người bảo quản và thiệt hại do
không khai thác công dụng ô tô; nếu ô tô bị kê biên vẫn giao cho anh A quản lý, sử dụng thì có thể không có thiệt hại thực tế xảy
ra.
9. Về khoản 2 Điều 120 của BLTTDS
9.1. Về nguyên tắc chung khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá phải được gửi vào tài khoản phong toả tại
ngân hàng nơi có trụ sở của Toà án quyết định áp dụng BPKCTT. Trong trường hợp nơi có trụ sở của Toà án quyết định áp dụng
BPKCTT có nhiều ngân hàng, thì người phải thực hiện biện pháp bảo đảm được lựa chọn một ngân hàng trong số các ngân hàng
đó và thông báo tên, địa chỉ của ngân hàng mà mình lựa chọn cho Toà án biết để ra quyết định thực hiện biện pháp bảo đảm.
Trong trường hợp người phải thực hiện biện pháp bảo đảm có tài khoản hoặc có tiền, kim khí quý, đá quý, giấy tờ có giá

gửi tại ngân hàng nơi có trụ sở của Toà án quyết định áp dụng BPKCTT mà họ đề nghị Toà án phong toả một phần tài khoản hoặc
một phần tiền, kim khí quý, đá quý, giấy tờ có giá gửi tại ngân hàng đó tương đương với nghĩa vụ tài sản của họ, thì Toà án chấp
nhận.
9.2. Thời hạn thực hiện biện pháp bảo đảm được phân biệt như sau:
a. Đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 99 của BLTTDS, nếu trong giai đoạn từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi
mở phiên toà, thì thời hạn thực hiện biện pháp bảo đảm là hai ngày làm việc, kể từ thời điểm Toà án ra quyết định buộc thực hiện
biện pháp bảo đảm. Trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn đó có thể dài hơn, nhưng trong mọi trường hợp phải được thực
hiện trước ngày Toà án mở phiên toà.
15
Nếu tại phiên toà thì việc thực hiện biện pháp bảo đảm được bắt đầu từ thời điểm Hội đồng xét xử ra quyết định buộc thực
hiện biện pháp bảo đảm, nhưng phải xuất trình chứng cứ đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm trước khi Hội đồng xét xử vào
Phòng nghị án để nghị án.
b. Đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 99 của BLTTDS, thì thời hạn thực hiện biện pháp bảo đảm không được
quá 48 giờ, kể từ thời điểm nộp đơn yêu cầu và được Toà án chấp nhận.
9.3. Trong trường hợp thực hiện biện pháp bảo đảm vào ngày lễ hoặc ngày nghỉ, thì Toà án chỉ nhận tiền đồng Việt Nam
(NVĐ) và tiến hành như sau:
a. Thẩm phán yêu cầu thủ quỹ Toà án đến trụ sở Toà án và mời thêm người làm chứng.
b. Người gửi tiền cùng thủ quỹ Toà án giao nhận từng loại tiền. Thẩm phán lập biên bản giao nhận và niêm phong, trong đó
cần ghi đầy đủ cụ thể và mô tả đúng thực trạng vào biên bản.
c. Gói, niêm phong tiền và phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo quản trong thời gian gửi giữ tại Toà án.
Thẩm phán yêu cầu người gửi, thủ quỹ Toà án, người làm chứng phải có mặt vào ngày làm việc tiếp theo sau khi kết thúc
ngày lễ hoặc ngày nghỉ để mở niêm phong và giao nhận lại tiền.
d. Ngày làm việc tiếp theo sau khi kết thúc ngày lễ hoặc ngày nghỉ, những người có mặt khi niêm phong cùng chứng kiến
mở niêm phong. Thủ quỹ cùng người gửi giao nhận lại từng loại tiền theo biên bản giao nhận và niêm phong. Thẩm phán phải lập
biên bản mở niêm phong và giao nhận lại.
đ. Người phải thực hiện biện pháp bảo đảm mang khoản tiền đó đến gửi vào tài khoản phong toả tại ngân hàng dưới sự
giám sát của thủ quỹ Toà án. Thủ quỹ Toà án yêu cầu ngân hàng giao cho mình chứng từ về việc nhận khoản tiền vào tài khoản
phong toả tại ngân hàng và nộp cho Thẩm phán lưu vào hồ sơ vụ án.
Trong trường hợp người phải thực hiện biện pháp bảo đảm không đến Toà án, thì Thẩm phán mời thêm người làm chứng
(có thể là Hội thẩm nhân dân) đến Toà án chứng kiến việc mở niêm phong và giao trách nhiệm cho thủ quỹ Toà án thực hiện việc

gửi tiền vào tài khoản phong toả tại ngân hàng. Thẩm phán phải lập biên bản mở niêm phong vắng mặt người phải thực hiện biện
pháp bảo đảm và giao trách nhiệm cho thủ quỹ Toà án thực hiện việc gửi tiền. Người phải thực hiện biện pháp bảo đảm phải chịu
trách nhiệm do hành vi không thực hiện yêu cầu của Toà án.
e. Việc niêm phong, mở niêm phong phải được tiến hành theo quy định của pháp luật. Biên bản giao nhận và niêm phong,
biên bản mở niêm phong và giao nhận lại phải được lập thành hai bản có chữ ký của Thẩm phán, người gửi, thủ quỹ Toà án và
người làm chứng. Một bản được giao cho người gửi và một bản lưu vào hồ sơ vụ án.
10. Về quy định tại Điều 121 của BLTTDS
10.1. Trong trường hợp người yêu cầu áp dụng BPKCTT có đơn yêu cầu Toà án thay đổi hoặc áp dụng bổ sung BPKCTT
khác, thì thủ tục thay đổi, áp dụng BPKCTT khác được thực hiện theo quy định tại Điều 117 của BLTTDS và hướng dẫn tại các
mục 5, 6 và 7 Nghị quyết này.
10.2. Trong trường hợp thay đổi BPKCTT mà người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc phải thực hiện
biện pháp bảo đảm ít hơn biện pháp bảo đảm mà họ đã thực hiện, thì Toà án xem xét quyết định cho họ được nhận lại toàn bộ
hoặc một phần khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá mà họ đã gửi trong tài khoản phong toả tại ngân hàng theo
quyết định của Toà án, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 101 của BLTTDS.
11. Về quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 125 của BLTTDS
11.1. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại của đương sự, kiến nghị của Viện kiểm sát về quyết
định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ BPKCTT hoặc về việc Thẩm phán không ra quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ BPKCTT, Chánh
án Toà án phải xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị và ra một trong các quyết định sau đây:
a. Không chấp nhận đơn khiếu nại của đương sự, kiến nghị của Viện kiểm sát, nếu khiếu nại, kiến nghị không có căn cứ;
b. Chấp nhận đơn khiếu nại của đương sự, kiến nghị của Viện kiểm sát, nếu khiếu nại, kiến nghị có căn cứ. Tuỳ vào từng
trường hợp cụ thể mà Chánh án Toà án giao cho Thẩm phán đã ra quyết định bị khiếu nại, kiến nghị ra quyết định thay đổi, áp
dụng bổ sung BPKCTT; huỷ bỏ BPKCTT đã được áp dụng hoặc ra quyết định áp dụng BPKCTT.
11.2. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án là quyết định cuối cùng và phải được cấp hoặc gửi ngay theo
quy định tại khoản 2 Điều 123 của BLTTDS.
12. Về quy định tại khoản 3 Điều 125 của BLTTDS
12.1. Trong trường hợp trước khi mở phiên toà Thẩm phán ra quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ BPKCTT hoặc không
áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ BPKCTT mà đương sự có khiếu nại, Viện kiểm sát có kiến nghị, thì theo quy định tại Điều 124 của
BLTTDS, chỉ có Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án mới có thẩm quyền xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị đó. Nếu tại
phiên toà đương sự, Viện kiểm sát có yêu cầu giải quyết khiếu nại, kiến nghị đó, thì Hội đồng xét xử không chấp nhận và giải
thích cho đương sự biết là họ có quyền yêu cầu Hội đồng xét xử thay đổi, áp dụng bổ sung BPKCTT; huỷ bỏ BPKCTT đã được

áp dụng hoặc ra quyết định áp dụng BPKCTT theo quy định chung của BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết này.
12.2. Nếu đương sự có khiếu nại, Viện kiểm sát có kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ BPKCTT của Hội
đồng xét xử hoặc việc Hội đồng xét xử không ra quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ BPKCTT tại phiên toà, thì Hội đồng xét xử
xem xét, thảo luận và thông qua tại phòng xử án.
12.3. Trong trường hợp Hội đồng xét xử không chấp nhận khiếu nại, kiến nghị, thì không phải ra quyết định bằng văn bản,
nhưng phải thông báo công khai tại phiên toà việc không chấp nhận, nêu rõ lý do và phải ghi vào biên bản phiên toà. Trong trường
hợp Hội đồng xét xử chấp nhận khiếu nại, kiến nghị, thì phải ra quyết định bằng văn bản. Toà án phải cấp hoặc gửi quyết định này
theo quy định tại khoản 2 Điều 123 của BLTTDS. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Hội đồng xét xử là quyết định
cuối cùng.
13. Về quy định tại Điều 261 của BLTTDS
13.1. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm hoặc tại phiên toà phúc thẩm nếu có yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm áp
dụng, thay đổi, huỷ bỏ BPKCTT, thì việc xem xét, giải quyết được thực hiện theo quy định tại các điều tương ứng của Chương
VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết này.
16
13.2. Trong trường hợp đương sự kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm mà trong đơn kháng cáo hoặc kèm theo đơn kháng
cáo, đương sự khiếu nại quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ BPKCTT của Toà án cấp sơ thẩm, thì Toà án cấp phúc thẩm
thông báo ngay cho họ biết là Toà án cấp phúc thẩm không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và giải thích cho họ biết họ có
quyền yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm thay đổi, áp dụng bổ sung BPKCTT; huỷ bỏ BPKCTT đã được áp dụng hoặc ra quyết định
áp dụng BPKCTT theo quy định chung của BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết này.
14. Về một số mẫu văn bản tố tụng liên quan đến việc áp dụng BPKCTT
Ban hành kèm theo Nghị quyết này các mẫu văn bản tố tụng sau đây:
14.1. Các mẫu văn bản tố tụng dùng cho Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm, chuẩn bị xét xử phúc thẩm hoặc được phân công thụ lý giải quyết đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT:
a. Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm (mẫu số 01a);
b. Quyết định áp dụng BPKCTT (mẫu số 01b);
c. Quyết định thay đổi BPKCTT (mẫu số 01c);
d. Quyết định huỷ bỏ BPKCTT (mẫu số 01d).
14.2. Các mẫu văn bản tố tụng dùng cho Hội đồng xét xử sơ thẩm và Hội đồng xét xử phúc thẩm:
a. Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm (mẫu số 02a);
b. Quyết định áp dụng BPKCTT (mẫu số 02b);

c. Quyết định thay đổi BPKCTT (mẫu số 02c);
d. Quyết định huỷ bỏ BPKCTT (mẫu số 02d).
15. Hiệu lực thi hành của Nghị quyết
Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 27 tháng 4 năm 2005 và có hiệu lực
thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Những hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao được ban hành trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực về các vấn đề được
hướng dẫn trong Nghị quyết này đều bãi bỏ.
NGHỊ QUYẾT 02/2006/NQ-HĐTPTANDTC HƯỚNG DẪN THI HÀNH CÁC QUY
ĐỊNH TRONG PHẦN THỨ HAI “THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN TẠI TOÀ ÁN
CẤP SƠ THẨM” CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật tổ chức Toà án nhân dân;
Để thi hành đúng và thống nhất các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm” của Bộ luật
tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS);
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
QUYẾT NGHỊ:
I. VỀ CHƯƠNG XII “KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN” CỦA BLTTDS
1. Về Điều 161 của BLTTDS
Khi xét thấy cần khởi kiện vụ án tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, thì cá nhân, cơ
quan, tổ chức phải làm đơn khởi kiện theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 164 của BLTTDS và cần phân biệt như sau:
1.1. Đối với cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ
án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của cá nhân đó. Đồng thời ở phần cuối đơn, cá nhân
đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
1.2. Đối với cá nhân là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình, thì
có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án về tranh chấp có liên quan đến hợp đồng lao động hoặc giao dịch
dân sự đó. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của cá nhân đó. Đồng thời ở phần cuối đơn,
cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
1.3. Đối với cá nhân là người chưa thành niên (trừ trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 này), người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì người đại diện hợp pháp của họ (đại diện theo pháp luật) có thể tự

mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ
của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó. Đồng thời ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
1.4. Đối với cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn
khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ tên, chức vụ của người
đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó. Đồng thời ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên
và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó.
1.5. Khi xét thấy có đủ điều kiện để thụ lý vụ án, thì việc xác định tư cách nguyên đơn trong vụ án được thực hiện như sau:
a. Đối với trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này, thì nguyên đơn trong vụ án chính là người khởi
kiện;
b. Đối với trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này, thì nguyên đơn là người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Do những người này không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, nên
người đại diện hợp pháp của họ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn tại Toà án;
17
c. Đối với cơ quan, tổ chức được hướng dẫn tại tiểu mục 1.4 mục 1 này, thì cơ quan, tổ chức khởi kiện là nguyên đơn trong vụ án.
Người đại diện theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền tham gia tố tụng, thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức là
nguyên đơn đó.
2. Về Điều 162 của BLTTDS
2.1. Cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước quy định tại
khoản 3 Điều 162 của BLTTDS khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
a. Cơ quan, tổ chức đó có những nhiệm vụ, quyền hạn trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội về một
lĩnh vực nhất định;
b. Lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước cần yêu cầu Toà án bảo vệ phải thuộc lĩnh vực do cơ quan, tổ chức đó phụ trách.
Ví dụ 1: Cơ quan Tài nguyên và Môi trường có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức
có hành vi gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố gây ô nhiễm môi trường công cộng.
Ví dụ 2: Cơ quan Văn hoá - Thông tin có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành
vi xâm phạm di sản văn hoá thuộc sở hữu toàn dân phải bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra.
2.2. Khi xét thấy có đủ điều kiện để thụ lý vụ án do cơ quan, tổ chức khởi kiện theo quy định tại Điều 162 của BLTTDS, thì việc
xác định tư cách nguyên đơn trong vụ án được thực hiện như sau:
a. Đối với trường hợp cơ quan về dân số-gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình thì
nguyên đơn là:

a.1. Người được cơ quan về dân số - gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện vụ án để yêu cầu Toà án buộc người không
tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó theo quy định tại khoản 3 Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia
đình;
a.2. Người con được cơ quan về dân số- gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện vụ án để yêu cầu Toà án xác định cha,
mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân và Gia
đình;
a.3. Cha, mẹ được cơ quan về dân số - gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện vụ án để yêu cầu Toà án xác định con cho
cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình.
b. Đối với trường hợp công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở khởi kiện vụ án về tranh chấp lao động để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của tập thể người lao động, thì nguyên đơn là tập thể người lao động có quyền, lợi ích hợp pháp được bảo vệ;
c. Đối với trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, thì nguyên đơn
chính là cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án.
3. Về Điều 163 của BLTTDS
Được coi là “nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau” để giải quyết trong cùng một vụ án khi thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
a. Việc giải quyết quan hệ pháp luật này đòi hỏi phải giải quyết đồng thời quan hệ pháp luật khác;
Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả lại quyền sử dụng đất. Đồng thời A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc C phải tháo
dỡ công trình mà C đã xây dựng trên đất đó.
b. Việc giải quyết các quan hệ pháp luật có cùng đương sự và về cùng loại tranh chấp quy định trong một điều luật tương ứng tại
một trong các điều 25, 27, 29 và 31 của BLTTDS.
Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả nợ 100 triệu đồng. Đồng thời A còn khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả
lại chiếc xe ôtô mà B thuê của A do đã hết thời hạn cho thuê.
4. Về Điều 164 của BLTTDS
Để bảo đảm cho việc làm đơn khởi kiện đúng và thống nhất, Toà án yêu cầu người khởi kiện làm đơn khởi kiện theo đúng mẫu và
ghi đầy đủ nội dung theo hướng dẫn sử dụng mẫu đơn khởi kiện được ban hành kèm theo Nghị quyết này. Toà án phải niêm yết
công khai tại trụ sở Toà án mẫu đơn khởi kiện và hướng dẫn sử dụng mẫu đơn khởi kiện.
5. Về Điều 165 của BLTTDS
Về nguyên tắc khi gửi đơn khởi kiện cho Toà án, người khởi kiện phải gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ để chứng minh họ là người
có quyền khởi kiện và những yêu cầu của họ là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên trong trường hợp vì lý do khách quan nên họ
không thể nộp ngay đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, thì họ phải nộp các tài liệu, chứng cứ ban đầu chứng minh cho việc khởi kiện là

có căn cứ. Các tài liệu, chứng cứ khác người khởi kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ sung theo yêu cầu của Toà án trong quá trình
giải quyết vụ án.
Ví dụ 1: Khi gửi đơn khởi kiện cho Toà án yêu cầu giải quyết ly hôn (có đăng ký kết hôn hợp pháp), nuôi con, chia tài sản, thì về
nguyên tắc người khởi kiện phải gửi kèm theo đầy đủ các tài liệu, chứng cứ về quan hệ hôn nhân, con, tài sản chung của vợ
chồng; nếu họ chưa có thể gửi đầy đủ các tài liệu, chứng cứ này, thì cùng với đơn khởi kiện họ phải gửi bản sao giấy đăng ký kết
hôn, bản sao giấy khai sinh của con (nếu có tranh chấp về nuôi con).
Ví dụ 2: Khi gửi đơn khởi kiện cho Toà án yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng, thì người khởi kiện phải gửi kèm theo bản sao hợp
đồng có tranh chấp, hoá đơn thanh toán tiền, nhận tài sản, biên bản thanh lý…; nếu họ chưa có thể gửi đủ các tài liệu, chứng cứ này, thì
cùng với đơn khởi kiện họ phải gửi bản sao hợp đồng.
6. Về Điều 167 của BLTTDS
18
6.1. Toà án phải có sổ nhận đơn để ghi ngày tháng năm nhận đơn của đương sự làm căn cứ xác định ngày khởi kiện.
6.2. Toà án thực hiện thủ tục nhận đơn của người khởi kiện như sau:
a. Trường hợp người khởi kiện trực tiếp nộp đơn tại Toà án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 166 của BLTTDS, thì Toà án ghi ngày,
tháng, năm người khởi kiện nộp đơn vào sổ nhận đơn. Ngày khởi kiện được xác định là ngày nộp đơn.
b. Trường hợp đương sự gửi đơn đến Toà án qua bưu điện theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 166 của BLTTDS, thì Toà án
ghi ngày, tháng, năm nhận đơn do bưu điện chuyển đến vào sổ nhận đơn và ngày, tháng, năm đương sự gửi đơn theo ngày,
tháng, năm có dấu bưu điện nơi gửi đơn. Phong bì có dấu bưu điện phải được đính kèm đơn khởi kiện. Ngày khởi kiện được
xác định là ngày có dấu bưu điện nơi gửi. Trường hợp không xác định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện trên phong bì,
thì Toà án phải ghi chú trong sổ nhận đơn là “không xác định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện”. Trong trường hợp
này ngày khởi kiện được xác định là ngày Toà án nhận được đơn do bưu điện chuyển đến.
c. Toà án phải ghi (hoặc đóng dấu nhận đơn có ghi) ngày, tháng, năm nhận đơn vào góc trên bên trái của đơn khởi kiện.
d. Việc giao nhận chứng cứ do đương sự nộp hoặc gửi kèm theo đơn khởi kiện được thực hiện theo hướng dẫn tại Phần III Nghị
quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy
định của BLTTDS về “Chứng minh và chứng cứ”.
đ. Sau khi nhận đơn khởi kiện, Toà án phải cấp giấy báo nhận đơn khởi kiện cho người khởi kiện; nếu Toà án nhận đơn khởi kiện
gửi qua bưu điện, thì Toà án gửi giấy báo nhận đơn khởi kiện để thông báo cho người khởi kiện biết.
6.3. Ngay sau khi nhận được đơn khởi kiện, việc phân công người xem xét đơn khởi kiện được thực hiện như sau:
a. Đối với Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà án cấp huyện), thì Chánh án hoặc
Phó Chánh án được Chánh án uỷ nhiệm phân công cho một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện;

b. Đối với Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Toà án cấp tỉnh), thì Chánh án hoặc Phó
Chánh án được Chánh án uỷ nhiệm, Chánh Toà hoặc Phó Chánh toà được Chánh án uỷ quyền phân công cho một Thẩm phán xem
xét đơn khởi kiện.
6.4. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện
phải có một trong các quyết định sau đây:
a. Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình theo quy định tại Điều 171 của BLTTDS và
hướng dẫn tại mục 9 Phần I của Nghị quyết này;
b. Chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và thông báo bằng văn bản cho người khởi kiện biết. Thủ tục chuyển đơn
khởi kiện được thực hiện theo quy định tại Điều 37 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 6 Phần I của Nghị quyết số 01/2005/NQ-
HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ
nhất “Những quy định chung” của BLTTDS;
c. Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 168 của BLTTDS và hướng
dẫn tại tiểu mục 7.1 mục 7 Phần I của Nghị quyết này và thông báo bằng văn bản cho người khởi kiện biết.
7. Về Điều 168 của BLTTDS
7.1. Để xác định thời hiệu khởi kiện đã hết hay chưa, thì Toà án phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện đối
với quan hệ pháp luật cụ thể đó. Trường hợp pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện, thì việc xác định thời hiệu khởi kiện
phải căn cứ vào quy định tại Điều 159 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 2 Phần IV của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày
31-3-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những
quy định chung” của BLTTDS.
7.2. Người khởi kiện không có quyền khởi kiện là người không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 161 và Điều 162
của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 1 và mục 2 Phần I của Nghị quyết này.
7.3. Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp các đương sự có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định về các điều kiện để khởi
kiện (kể cả quy định về hình thức, nội dung đơn kiện), nhưng đương sự đã khởi kiện khi còn thiếu một trong các điều kiện đó.
7.4. Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án là trường hợp không thuộc một trong các tranh chấp quy định tại các
điều 25, 27, 29 và 31 của BLTTDS.
7.5. Việc trả lại đơn khởi kiện phải được Toà án thông báo bằng văn bản cho người khởi kiện biết; trong đó cần ghi rõ lý do trả lại
đơn khởi kiện thuộc trường hợp nào quy định tại khoản 1 Điều 168 của BLTTDS. Thông báo này có thể được giao trực tiếp hoặc
gửi cho người khởi kiện qua bưu điện. Việc giao hoặc gửi thông báo này phải có sổ theo dõi.
8. Về Điều 169 của BLTTDS
8.1. Khi nhận đơn khởi kiện hoặc sau khi nhận đơn khởi kiện, xét thấy đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại khoản

2 Điều 164 của BLTTDS, thì tuỳ theo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện mà Toà án yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung
đơn khởi kiện trong một thời hạn do Toà án ấn định, nhưng không quá ba mươi ngày, kể từ ngày người khởi kiện nhận được văn
bản của Toà án yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Trong trường hợp đặc biệt, Toà án có thể gia hạn thêm, nhưng không quá
mười lăm ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn do Toà án ấn định nêu trên.
8.2. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện phải được làm bằng văn bản, trong đó phải nêu rõ những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung
cho người khởi kiện biết để họ thực hiện. Văn bản này có thể được giao trực tiếp hoặc gửi cho người khởi kiện qua bưu điện. Việc
giao hoặc gửi này phải có sổ theo dõi.
8.3. Thời gian thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện không tính vào thời hiệu khởi kiện. Ngày khởi kiện vẫn được xác
định là ngày nộp đơn khởi kiện, nếu người khởi kiện nộp trực tiếp tại Toà án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi, nếu đơn khởi
kiện được gửi qua bưu điện.
8.4. Sau khi người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Toà án, thì Toà án tiếp tục việc thụ lý vụ án theo
thủ tục chung quy định tại Điều 171 của BLTTDS. Nếu hết thời hạn do Toà án ấn định mà người khởi kiện không sửa đổi, bổ
sung theo yêu cầu của Toà án, thì Toà án căn cứ vào khoản 2 Điều 169 của BLTTDS trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo cho họ.
19
8.5. Trường hợp trong đơn khởi kiện không ghi đầy đủ cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện; tên, địa chỉ của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thì Toà án yêu cầu người khởi kiện ghi đầy đủ và đúng tên, địa chỉ của người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu người khởi kiện không thực hiện, thì Toà án căn cứ vào khoản 2 Điều 169 của
BLTTDS trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ mà không được thụ lý vụ án. Việc Toà án thụ lý vụ án để sau
đó ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án với lý do “chưa tìm được địa chỉ của bị đơn” là không đúng quy định của BLTTDS,
vì đây không phải là một trong những trường hợp Toà án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 189 của
BLTTDS. Toà án cũng không được tự mình tiến hành thông báo tìm người bị kiện, vì đây là nghĩa vụ của đương sự.
8.6. Đối với trường hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện có ghi đầy đủ cụ thể và đúng địa chỉ của người bị kiện, của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú mà không thông báo địa chỉ
mới cho người khởi kiện, cho Toà án, nhằm mục đích dấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện, thì được coi là
trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình dấu địa chỉ. Toà án tiến hành thụ lý giải quyết vụ án theo
thủ tục chung.
8.7. Nếu người khởi kiện không biết hoặc ghi không đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để ghi
trong đơn khởi kiện, thì họ phải thực hiện việc thông báo tìm tin tức, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan.

9. Về Điều 171 của BLTTDS
9.1. Trong trường hợp người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí trong thời hạn mười lăm ngày theo quy định tại khoản 2
Điều 171 của BLTTDS vì trở ngại khách quan, thì theo quy định tại khoản 1 Điều 161 của Bộ luật dân sự năm 2005, thời gian
có trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí.
9.2. Toà án phải ấn định cho người khởi kiện trong thời hạn bảy ngày, sau khi hết thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được
giấy báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Hết
thời hạn này người khởi kiện mới nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, thì giải quyết như sau:
a. Trường hợp chưa trả lại đơn khởi kiện, thì Thẩm phán tiến hành thụ lý vụ án;
b. Trường hợp đã trả lại đơn khởi kiện mà người khởi kiện chứng minh được là họ đã nộp tiền tạm ứng án phí đúng thời hạn quy
định, nhưng vì trở ngại khách quan nên họ nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Toà án không đúng hạn, thì Thẩm phán yêu
cầu họ nộp lại đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ kèm theo và tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
c. Trường hợp sau khi Toà án trả lại đơn khởi kiện người khởi kiện mới nộp tiền tạm ứng án phí và nộp biên lai nộp tiền tạm ứng
án phí cho Toà án, nếu không vì trở ngại khách quan, thì được coi là nộp đơn khởi kiện lại. Toà án tiếp tục thụ lý vụ án, nếu còn
thời hiệu khởi kiện. Trong trường hợp đã hết thời hiệu khởi kiện, thì Toà án trả lại đơn khởi kiện cho họ theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 168 của BLTTDS và hướng dẫn tại tiểu mục 7.1 mục 7 Phần I của Nghị quyết này.
9.3. Hết thời hạn được hướng dẫn tại tiểu mục 9.2 mục 9 này mà người khởi kiện không nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng
án phí, thì Toà án thông báo cho họ biết về việc không thụ lý vụ án với lý do là họ không nộp tiền tạm ứng án phí.
10. Về Điều 172 của BLTTDS
10.1. Chánh án Toà án cấp huyện có thể tự mình hoặc uỷ nhiệm cho một Phó Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết vụ án.
Chánh án Toà án cấp tỉnh có thể uỷ nhiệm cho một Phó Chánh án hoặc uỷ quyền cho Chánh toà hoặc Phó Chánh toà phân công
Thẩm phán giải quyết vụ án.
10.2. Khi phân công Thẩm phán giải quyết vụ án, thì cần tiếp tục phân công Thẩm phán đã thực hiện việc xem xét đơn khởi kiện
và thụ lý vụ án. Việc phân công này không phải ra quyết định.
10.3. Đối với vụ án phức tạp, việc giải quyết có thể phải kéo dài, thì cần phân công thêm Thẩm phán dự khuyết để bảo đảm xét xử
liên tục.
11. Về Điều 176 của BLTTDS
11.1. Được coi là yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, nếu yêu cầu đó độc lập, không cùng về yêu cầu mà nguyên đơn
yêu cầu Toà án giải quyết. Trường hợp bị đơn có yêu cầu cùng về yêu cầu của nguyên đơn (như yêu cầu Toà án không chấp nhận
yêu cầu của nguyên đơn hoặc chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn), thì đây là ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của
nguyên đơn.

Ví dụ 1: Nguyên đơn A có đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn B phải trả lại tiền thuê nhà còn nợ của năm 2005 là 05 triệu đồng. Bị đơn
B có yêu cầu đòi nguyên đơn A phải thanh toán cho mình tiền sửa chữa nhà bị hư hỏng và tiền thuế sử dụng đất mà bị đơn đã nộp
thay cho nguyên đơn là 03 triệu đồng. Trường hợp này yêu cầu của bị đơn B được coi là yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn đơn
A.
Ví dụ 2: Nguyên đơn C có đơn khởi kiện yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu đối với một xe ô tô và buộc bị đơn D trả lại cho
mình xe ôtô đó. Bị đơn D có yêu cầu Toà án không công nhận xe ôtô này thuộc sở hữu của C hoặc công nhận xe ôtô này thuộc sở
hữu chung của C và D. Trường hợp này yêu cầu của bị đơn D không được coi là yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn C.
11.2. Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn là trường hợp bị đơn có nghĩa vụ đối với nguyên đơn và
nguyên đơn cũng có nghĩa vụ đối với bị đơn; do đó, bị đơn có yêu cầu Toà án giải quyết để bù trừ nghĩa vụ mà họ phải thực hiện
theo yêu cầu của nguyên đơn.
Ví dụ: Xem ví dụ 1 tiểu mục 11.1 mục 11 này.
11.3. Yêu cầu phản tố của bị đơn dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là trường hợp bị
đơn có yêu cầu phản tố lại đối với nguyên đơn và nếu yêu cầu đó được chấp nhận, thì loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn
bộ yêu cầu của nguyên đơn vì không có căn cứ.
Ví dụ: A có chiếc xe ôtô thuộc sở hữu riêng đã bán cho C, nhưng nói với con (B) là cho C thuê mỗi tháng 05 triệu đồng. Sau đó A
chết, B khởi kiện yêu cầu C phải thanh toán tiền thuê xe trong một năm qua là 60 triệu đồng. C có yêu cầu phản tố yêu cầu Toà án
20
công nhận quyền sở hữu xe ôtô và có tranh chấp. Nếu Toà án chấp nhận yêu cầu phản tố của C thì dẫn đến không chấp nhận toàn
bộ yêu cầu của B đòi C thanh toán tiền thuê xe ôtô.
11.4. Có sự liên quan giữa yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu của nguyên đơn là trường hợp hai yêu cầu này có mối quan hệ
với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án, thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh chóng hơn.
Ví dụ: Chị M khởi kiện yêu cầu anh N phải trợ cấp nuôi con (P) một tháng 300 ngàn đồng. Anh N có yêu cầu phản tố yêu cầu Toà
án xác định (P) không phải là con của anh.
12. Về Điều 178 của BLTTDS
12.1. Thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập được thực hiện như thủ tục khởi kiện của nguyên đơn quy định tại các điều
164, 165, 166, 167, 168, 169 và 170 của BLTTDS và hướng dẫn tại các mục 4, 5, 6, 7 và 8 Phần I của Nghị quyết này.
12.2. Trong trường hợp Toà án nhận được đơn về yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan để giải quyết trong cùng một vụ án, thì ngày thụ lý vụ án để tính thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án đó được xác định như
sau:
a. Trường hợp bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, thì

ngày thụ lý vụ án là ngày Toà án nhận được đơn về yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo.
b. Trường hợp bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp tiền tạm ứng án phí, thì ngày thụ lý vụ án là ngày bị
đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
Ví dụ: Ngày 15 tháng 3 năm 2006 Toà án thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện vụ án của nguyên đơn A. Toà án thông báo về việc thụ
lý vụ án cho bị đơn B biết. Sau khi nhận được thông báo, ngày 31 tháng 3 năm 2006, bị đơn B có đơn yêu cầu phản tố đối với
nguyên đơn A. Toà án tiến hành thủ tục xem xét đơn yêu cầu phản tố. Ngày 15 tháng 4 năm 2006 bị đơn B nộp cho Toà án biên
lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trong trường hợp này ngày Toà án thụ lý vụ án được xác định lại là ngày 15 tháng 4 năm 2006. Trong
trường hợp bị đơn B không phải nộp tiền tạm ứng án phí, thì ngày thụ lý vụ án được xác định lại là ngày 31 tháng 3 năm 2006.
c. Trường hợp có nhiều bị đơn có yêu cầu phản tố hoặc có nhiều người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, thì
ngày thụ lý vụ án được xác định như sau:
c.1. Là ngày Toà án nhận được đơn về yêu cầu phản tố hoặc đơn về yêu cầu độc lập cuối cùng, nếu họ đều thuộc trường hợp được
miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí;
c.2. Là ngày người nộp cuối cùng cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, nếu họ thuộc trường hợp phải nộp tiền tạm ứng án
phí.
II. VỀ CHƯƠNG XIII “HOÀ GIẢI VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ” CỦA BLTTDS
1. Về Điều 179 của BLTTDS
Điều 179 của BLTTDS quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử; do đó, các thời hạn quy định trong Điều này đều được tính trong
thời hạn chuẩn bị xét xử. Tuỳ từng trường hợp cụ thể thời hạn chuẩn bị xét xử được tính như sau:
1.1. Trường hợp có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
a. Nếu không phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, thì thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày Toà án thụ lý vụ án tối đa là:
- Bốn tháng đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của BLTTDS;
- Hai tháng đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của BLTTDS.
b. Nếu phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, thì thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày Toà án thụ lý vụ án tối đa là:
- Sáu tháng đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của BLTTDS;
- Ba tháng đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31của BLTTDS.
c. Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và b tiểu mục 1.1. mục 1 này mà phiên toà không được mở trong thời hạn
một tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử vì có lý do chính đáng, thì thời hạn chuẩn bị xét xử đối với từng trường
hợp được cộng thêm tối đa là một tháng nữa.
1.2. Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

Trong trường hợp có quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, thì thời hạn chuẩn bị xét xử kết thúc vào ngày ra quyết định
tạm đình chỉ. Thời hạn chuẩn bị xét xử được bắt đầu tính lại, kể từ ngày Toà án tiếp tục giải quyết vụ án khi lý do tạm đình chỉ
không còn nữa.
1.3. Về việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử.
Đối với những vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 179 của
BLTTDS mà thời hạn gần hết (thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại không quá 5 ngày) mà Thẩm phán được phân công giải quyết vụ
án thấy rằng vụ án phức tạp nên chưa thể ra được một trong những quyết định quy định tại khoản 2 Điều 179 của BLTTDS, thì
cần phải báo ngay với Chánh án Toà án để ra quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử
không được quá thời hạn quy định tại đoạn cuối khoản 1 Điều 179 của BLTTDS và hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần II
của Nghị quyết này. Hết thời hạn được gia hạn, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra một trong những quyết định
quy định tại khoản 2 Điều 179 của BLTTDS.
a. “Những vụ án có tính chất phức tạp” là những vụ án có nhiều đương sự, có liên quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu,
có các chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc tham
khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần phải giám định kỹ thuật phức tạp; những vụ án mà đương sự là người nước
21
ngoài đang ở nước ngoài hoặc người Việt Nam đang cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài, tài sản ở nước ngoài cần phải có thời
gian uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự, ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài…Tuy nhiên, đối với
trường hợp cần phải chờ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, cần phải chờ kết quả giám định kỹ thuật phức tạp hoặc cần phải chờ
kết quả uỷ thác tư pháp mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử (kể cả thời gian gia hạn), thì Thẩm phán căn cứ vào khoản 4 Điều
189 của BLTTDS ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
b. “Trở ngại khách quan” là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động như: thiên tai, địch hoạ, nhu cầu chiến đấu, phục vụ
chiến đấu… làm cho Toà án không thể giải quyết được vụ án trong thời hạn quy định.
Ví dụ: Toà án nhân dân huyện X, tỉnh H ở miền núi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử trong đó đã ấn định ngày mở phiên toà.
Tuy nhiên, còn hai ngày nữa là tiến hành mở phiên toà, thì xảy ra lũ quét. Trụ sở của Toà án nhân dân huyện X bị hư hỏng. Do
phải khắc phục hậu quả của lũ quét, sửa chữa lại trụ sở, nên Toà án nhân dân huyện X không thể tiến hành phiên toà trong thời
hạn quy định.
c. “Lý do chính đáng” quy định tại khoản 3 Điều 179 của BLTTDS được hiểu là các sự kiện xảy ra một cách khách quan, không
lường trước được như: cần phải có sự thay đổi, phân công lại người tiến hành tố tụng có tên trong quyết định đưa vụ án ra xét xử
mà người có thẩm quyền chưa cử được người khác thay thế; vụ án có tính chất phức tạp đã được xét xử nhiều lần ở nhiều cấp Toà
án khác nhau, nên không còn đủ Thẩm phán để tiến hành xét xử vụ án đó mà phải chuyển vụ án cho Toà án cấp trên xét xử hoặc

phải chờ biệt phái Thẩm phán từ Toà án khác đến… nên cản trở Toà án tiến hành phiên toà trong thời hạn quy định.
2. Về Điều 181 của BLTTDS
2.1. “Tài sản của Nhà nước” được hiểu là tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước quy định tại Điều 200 của Bộ luật dân sự năm
2005 và được điều chỉnh theo các quy định tại mục 1 Chương XIII của Bộ luật dân sự năm 2005.
“Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của Nhà nước” là trường hợp tài sản của Nhà nước bị thiệt hại do hành vi trái pháp
luật, do hợp đồng vô hiệu, do vi phạm nghĩa vụ dân sự gây ra và người được giao chủ sở hữu đối với tài sản Nhà nước đó có yêu
cầu đòi bồi thường.
Khi thi hành quy định tại khoản 1 Điều 181 của BLTTDS cần phân biệt:
a. Trường hợp tài sản của Nhà nước được giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang quản lý, sử dụng hoặc đầu tư vào doanh
nghiệp nhà nước do Nhà nước thực hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có thẩm quyền, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt
hại đến loại tài sản này, Toà án không được hoà giải để các bên đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
b. Trường hợp tài sản của Nhà nước được Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên
doanh có vốn đầu tư của các chủ sở hữu khác theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà
doanh nghiệp được quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản và chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với tài sản đó
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản đó, Toà án tiến hành hoà giải để các
bên đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
2.2. Toà án không được hoà giải vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật (giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật)
hoặc trái đạo đức xã hội, nếu việc hoà giải nhằm mục đích để các bên tiếp tục thực hiện các giao dịch đó. Trường hợp các bên chỉ
có tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu do trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, thì Toà án vẫn phải tiến
hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu đó.
3. Về khoản 1 Điều 182 của BLTTDS
Trong trường hợp bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, thì Toà án lập biên bản về việc
không tiến hành hoà giải được do bị đơn vắng mặt và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung. Trong trường hợp tại
phiên toà bị đơn có yêu cầu Toà án hoãn phiên toà để tiến hành hoà giải, thì Toà án không chấp nhận, nhưng cần tạo điều kiện cho
các bên thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
4. Về khoản 3 Điều 184 của BLTTDS.
Toà án phải triệu tập tất cả những người có liên quan đến việc giải quyết vụ án tham dự phiên hoà giải.
Nếu việc hoà giải vụ án có liên quan đến tất cả các đương sự trong vụ án mà có đương sự vắng mặt, thì Thẩm phán phải hoãn
phiên hoà giải để mở lại phiên hoà giải khác có mặt tất cả các đương sự.
Nếu trong vụ án có nhiều quan hệ pháp luật mà quan hệ pháp luật này liên quan đến đương sự này, quan hệ pháp luật kia liên quan

đến đương sự khác và việc giải quyết quan hệ pháp luật đó chỉ liên quan đến các đương sự có mặt không liên quan đến các đương
sự vắng mặt, thì Thẩm phán tiến hành hoà giải những vấn đề có liên quan đến các đương sự có mặt.
5. Về điều 185 của BLTTDS.
5.1. Toà án xem xét các yêu cầu cụ thể của đương sự trong vụ án phải giải quyết để tiến hành hoà giải từng yêu cầu theo thứ tự
hợp lý.
Ví dụ: Trong vụ án ly hôn, có cả tranh chấp về nuôi con, chia tài sản thì Toà án cần hoà giải về quan hệ hôn nhân trước, nếu hoà
giải đoàn tụ không thành thì tiếp tục tiến hành hoà giải việc nuôi con và sau đó hoà giải việc chia tài sản.
5.2. Khi tiến hành hoà giải, ngoài việc tuân thủ nguyên tắc quy định tại Điều 184 của BLTTDS, tuỳ theo các quan hệ pháp luật Thẩm
phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền,
nghĩa vụ của mình mà tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành cho các
đương sự biết (như mối quan hệ giữa các đương sự, việc chịu án phí…). Thẩm phán không được nói trước với các đương sự ai sai, ai
đúng ở chỗ nào hoặc nếu các đương sự không thoả thuận được, thì hướng xét xử của Toà án như thế nào…
6. Về điều 186 của BLTTDS
6.1. Thư ký Toà án ghi biên bản hoà giải có đầy đủ nội dung quy định tại khoản 1, có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những
người quy định tại khoản 2 Điều 186 của BLTTDS và theo đúng mẫu biên bản hoà giải ban hành kèm theo Nghị quyết này.
22
6.2. Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án, thì Thẩm phán hoặc Thư ký Toà án lập
biên bản hoà giải thành. Biên bản hoà giải thành phải ghi cụ thể nội dung thoả thuận của các đương sự theo đúng mẫu biên bản
hoà giải thành ban hành kèm theo Nghị quyết này.
Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải ký tên và đóng dấu của Toà án vào biên bản. Các đương sự tham gia phiên hoà giải phải ký tên
hoặc điểm chỉ vào biên bản hoà giải thành. Biên bản hoà giải thành phải được gửi ngay cho các đương sự tham gia hoà giải.
Đối với các đương sự vắng mặt mà việc hoà giải thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 184 của BLTTDS, thì Toà án phải
gửi ngay biên bản hoà giải thành cho các đương sự vắng mặt.
6.3. Trong biên bản hoà giải thành cần ghi: “Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải nếu đương sự nào có thay
đổi ý kiến về sự thoả thuận, thì phải làm thành văn bản gửi cho Toà án”. Trong trường hợp đương sự trực tiếp đến Toà án xin thay
đổi thoả thuận, thì Thẩm phán phải lập biên bản ghi ý kiến thay đổi thoả thuận của họ. Biên bản phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của
đương sự và lưu vào hồ sơ vụ án. Việc thay đổi ý kiến về sự thoả thuận này phải được Toà án thông báo cho các đương sự khác có
liên quan đến thoả thuận đó.
7. Về Điều 187 của BLTTDS
7.1. Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó,

thì về nguyên tắc chung Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Nếu vì trở
ngại khách quan mà Thẩm phán không ra quyết định được, thì Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán khác ra quyết định
công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
7.2. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc
giải quyết toàn bộ vụ án (các quan hệ pháp luật, các yêu cầu của các đương sự trong vụ án) và cả về án phí. Trong trường hợp các
đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nhưng không thoả thuận được với nhau về trách nhiệm phải
chịu án phí hoặc mức án phí, thì Toà án không công nhận sự thoả thuận của các đương sự mà tiến hành mở phiên toà để xét xử vụ
án.
7.3 Trong trường hợp các đương sự chỉ thoả thuận được với nhau về việc giải quyết một phần vụ án, còn phần khác không thoả
thuận được, thì Toà án ghi những vấn đề mà các đương sự thoả thuận được và những vấn đề không thoả thuận được vào biên bản
hoà giải theo quy định tại khoản 1 Điều 186 của BLTTDS và tiến hành ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trừ trường hợp có căn cứ
để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án.
8. Về Điều 189 của BLTTDS
8.1. Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự mà không phụ thuộc có hay không có yêu cầu của đương sự
khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 189 của BLTTDS.
8.2. “Trường hợp cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách mà chưa có cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ
quan, tổ chức đó” là trường hợp đã có quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc sáp nhập, chia, tách cơ quan, tổ
chức đó, nhưng cơ quan, tổ chức mới chưa được thành lập hoặc đã được thành lập nhưng chưa có đầy đủ điều kiện để hoạt động
theo quy định của pháp luật đối với loại hình cơ quan, tổ chức đó.
“Trường hợp cơ quan, tổ chức đã giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức
đó” là trường hợp chưa xác định được cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các điểm a và b
khoản 2, khoản 3 Điều 62 của BLTTDS.
8.3. “Đại diện hợp pháp của đương sự” quy định tại khoản 3 Điều 189 của BLTTDS bao gồm đại diện theo pháp luật và đại diện
theo uỷ quyền. Người đại diện hợp pháp của đương sự được xác định theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 và hướng dẫn tại mục 6
Phần III của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004.
8.4. “Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định” quy định tại khoản 5 Điều 189 của BLTTDS là các trường hợp làm căn cứ
cho Toà án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự mà trong BLTTDS này chưa quy định nhưng đã được quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc sau khi BLTTDS có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

9. Về khoản 3 Điều 190 của BLTTDS
9.1. Khi quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và việc kháng cáo,
kháng nghị là hợp lệ, thì Toà án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị cho Toà án cấp phúc thẩm theo quy định
tại Điều 255 của BLTTDS.
9.2. Trong trường hợp hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mới có khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định tạm đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự, thì cần phân biệt như sau:
a. Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm xét thấy quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là không đúng, thì tiếp tục giải quyết
vụ án bị tạm đình chỉ vì lý do tạm đình chỉ không còn.
b. Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm xét thấy quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là đúng và vẫn giữ nguyên, thì khiếu
nại, kiến nghị đối với quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.
10. Về điểm c và điểm h khoản 1 Điều 192 của BLTTDS
10.1. Khi người khởi kiện rút đơn khởi kiện, thì Toà án cần phải xem xét trong vụ án có yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay không để quyết định như sau:
a. Trong trường hợp không có yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập, thì Toà án chấp nhận việc người khởi kiện rút đơn khởi kiện và
căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 192 của BLTTDS ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
b. Trong trường hợp có yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thì tuỳ trường
hợp mà giải quyết như sau:
23
b.1. Trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình, thì Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đối với yêu cầu của
người khởi kiện đã rút;
b.2. Trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình, thì Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đối với yêu cầu của
người khởi kiện và yêu cầu phản tố của bị đơn đã rút;
b.3. Trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập, nhưng bị
đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình, thì Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đối với yêu cầu của người
khởi kiện và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã rút.
c. Sau khi ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của đương sự đã rút được hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 10.1
mục 10 này, Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung đối với yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định lại địa vị tố tụng của các đương sự theo

đúng quy định tại Điều 219 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 7 Phần III của Nghị quyết này.
d. Trong trường hợp người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập, thì Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết toàn bộ vụ án.
10.2. “Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 192 của BLTTDS là các trường hợp làm
căn cứ cho Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự mà trong BLTTDS này chưa quy định nhưng đã được quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc sau khi BLTTDS có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
11. Về khoản 1 Điều 193 của BLTTDS
Trong trường hợp đã có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, thì cần phân biệt như sau:
11.1. Trường hợp quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định tại các điểm a, b, d và đ khoản 1 Điều 192 của BLTTDS,
thì đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì
khác vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp.
11.2. Trường hợp quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định tại điểm c và điểm e khoản 1 Điều 192 của BLTTDS, thì
đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết lại vụ án dân sự đó theo thủ tục chung, nếu thời hiệu khởi kiện vụ án theo
quy định tại Điều 159 của BLTTDS vẫn còn, mặc dù việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn
và quan hệ pháp luật có tranh chấp.
11.3. Trường hợp quyết định đình chỉ vụ án quy định tại điểm g khoản 1 Điều 192 của BLTTDS và khoản 2 Điều 77 của Luật Phá
sản, nếu sau đó Toà án ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh gửi trả lại hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm
quyền, thì Toà án đó tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
12. Về Điều 195 của BLTTDS
12.1. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 195 của BLTTDS và theo đúng mẫu quyết
định ban hành kèm theo Nghị quyết này.
12.2. Để không phải hoãn phiên toà và bảo đảm đúng quy định của BLTTDS trong trường hợp Hội thẩm nhân dân được phân
công tham gia xét xử không tiếp tục tham gia xét xử được sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì đồng thời với việc phân
công Hội thẩm nhân dân chính thức, cần phân công Hội thẩm dự khuyết và cùng ghi họ tên Hội thẩm dự khuyết vào quyết định
đưa vụ án ra xét xử.
12.3. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho các đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau khi Toà án ra quyết định,
không phân biệt vụ án đó Viện kiểm sát cùng cấp có tham gia phiên toà hay không.
Trong trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên toà, thì Toà án gửi hồ sơ vụ án dân sự cùng với quyết định đưa vụ án ra xét
xử theo hướng dẫn tại mục 2 Phần I Thông tư tiên tịch số 03/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01-9-2005 của Viện kiểm sát

nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao “Hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự”.
III. VỀ CHƯƠNG XIV “PHIÊN TOÀ SƠ THẨM” CỦA BLTTDS
1. Về Điều 202 của BLTTDS.
1.1. Toà án chỉ có thể tiến hành xét xử vụ án khi có đương sự vắng mặt tại phiên toà trong các trường hợp quy định tại Điều 202
của BLTTDS (không phân biệt chỉ có một đương sự, một số đương sự hoặc tất cả các đương sự trong vụ án đều có đơn đề nghị
Toà án xét xử vắng mặt); do đó, khi nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà lần thứ
nhất theo quy định tại khoản 1 Điều 199, khoản 1 Điều 200 và khoản 1 Điều 201 của BLTTDS dù không có lý do chính đáng, thì
Toà án vẫn hoãn phiên toà.
1.2. Đối với những trường hợp đương sự đã nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 195 của
BLTTDS, đã được Toà án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên toà theo quy định tại các điều từ Điều 150 đến
Điều 156 của BLTTDS và đương sự đã chuẩn bị tham dự phiên toà xét xử vụ án, nhưng do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan xảy ra đối với họ ngay vào thời điểm trước ngày Toà án mở phiên toà hoặc ngay trong thời điểm họ đang trên đường
đến Toà án để tham dự phiên toà (do thiên tai, địch hoạ, bị tai nạn, ốm nặng phải đi bệnh viện cấp cứu, người thân bị chết…) nên
họ không thể có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, thì Toà án cũng hoãn phiên toà.
24
Trường hợp do Toà án không nhận được thông báo từ phía đương sự nên vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ, nếu sau khi bản
án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, đương sự có khiếu nại và chứng minh được việc họ vắng mặt tại phiên toà là do
sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, thì khiếu nại cần được xem xét theo thủ tục tái thẩm.
2. Về Điều 203 của BLTTDS.
Trong trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt lần thứ nhất tại phiên toà có lý do chính đáng,
thì Toà án phải hoãn phiên toà. Nếu người này vắng mặt lần thứ nhất mà Toà án có căn cứ xác định được việc vắng mặt là không
có lý do chính đáng, thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án. Toà án phải thông báo cho đương sự biết để họ tự bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
3. Về Điều 208 của BLTTDS.
3.1. Thời hạn hoãn phiên toà sơ thẩm không quá ba mươi ngày, kể từ ngày Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà.
Nếu phiên toà xét xử một vụ án bị hoãn nhiều lần, thì thời hạn của mỗi lần hoãn phiên toà không được quá giới hạn cho phép là ba
mươi ngày, kể từ ngày Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà của lần đó. Thời gian hoãn phiên toà không tính vào thời hạn
chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 179 của BLTTDS và được hướng dẫn tại mục 1 Phần III của Nghị quyết này. Tuy nhiên, để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bảo đảm việc mở lại phiên toà xét xử vụ án theo đúng quy định, thì sau khi hoãn phiên

toà Toà án phải có kế hoạch mở lại phiên toà trong thời gian sớm nhất mà không nhất thiết phải để đến 30 ngày mới mở lại phiên
toà.
3.2. Quyết định hoãn phiên toà phải có các nội dung chính quy định tại khoản 2 Điều 208 của BLTTDS và ghi theo đúng mẫu
quyết định ban hành kèm theo Nghị quyết này.
3.3. Trường hợp đã ấn định được ngày mở lại phiên toà, thì trong quyết định hoãn phiên toà phải ghi thời gian, địa điểm mở lại
phiên toà. Nếu chưa ấn định được ngày mở lại phiên toà, thì trong quyết định ghi về thời gian, địa điểm mở lại phiên toà sẽ được
Toà án thông báo sau.
Chủ toạ phiên toà thay mặt Hội đồng xét xử thông báo công khai quyết định hoãn phiên toà cho những người tham gia tố tụng có
mặt tại phiên toà biết và giao ngay cho họ quyết định này. Đối với người vắng mặt và Viện kiểm sát cùng cấp, thì Toà án gửi ngay
quyết định hoãn phiên toà. Quyết định này được coi như giấy triệu tập mới đối với đương sự, nếu trong quyết định đã ghi thời gian, địa
điểm mở lại phiên toà.
Trong trường hợp có sự thay đổi về thời gian, địa điểm mở lại phiên toà ghi trong quyết định hoãn phiên toà, thì Toà án phải
thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng biết về thời gian, địa điểm mở lại phiên toà.
3.4. Hội đồng xét xử không được hoãn phiên toà vì lý do tại phiên toà đương sự yêu cầu hoãn phiên toà để nhờ người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc để uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng thay mình.
3.5. Nếu tại phiên toà, đương sự xuất trình tài liệu, chứng cứ mới mà có yêu cầu giám định bổ sung đối với tài liệu, chứng cứ đó
hoặc giám định lại (kể cả việc tài sản mới được phát hiện cần phải định giá) và xét thấy việc giám định bổ sung, giám định lại
(định giá) là cần thiết cho việc giải quyết vụ án, thì Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại (định giá) và căn
cứ vào khoản 4 Điều 230 của BLTTDS ra quyết định hoãn phiên toà.
Việc ra quyết định trưng cầu giám định, ra quyết định định giá tài sản được thực hiện theo hướng dẫn tại các mục 6 và 7 Phần IV
của Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một
số quy định của BLTTDS “Về chứng minh và chứng cứ”.
Nếu trước khi sắp hết thời hạn hoãn phiên toà mà chưa có kết quả giám định, kết quả định giá, thì Thẩm phán căn cứ vào khoản 4
Điều 189 của BLTTDS ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
4. Về Điều 211 của BLTTDS
4.1. Biên bản phiên toà phải ghi đầy đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 211 của BLTTDS. Theo quy định tại khoản 1 Điều 211 của
BLTTDS, thì biên bản phiên toà phải ghi mọi diễn biến ở phiên toà từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên toà. Trong biên bản phiên
toà không phải ghi phần quyết định của bản án.
4.2. Sau khi kết thúc phiên toà trước khi trình Chủ toạ phiên toà kiểm tra lại và ký vào biên bản phiên toà, Thư ký Toà án phải tự
mình kiểm tra lại biên bản phiên toà để sửa chữa những điểm không chính xác trong biên bản phiên toà. Chủ toạ phiên toà phải

kiểm tra lại biên bản và cùng với Thư ký Toà án ký vào biên bản đó. Sau khi Chủ toạ phiên toà đã kiểm tra lại và ký vào biên bản
phiên toà, nếu phát hiện được những điểm không chính xác trong biên bản phiên toà cần phải được sửa đổi, thì Thư ký Toà án
không được tự mình sửa đổi mà phải báo cáo với Chủ toạ phiên toà xem xét việc sửa đổi. Khi có một trong những người quy định
tại khoản 4 Điều 211 của BLTTDS có yêu cầu được xem biên bản phiên toà, thì chủ toạ phiên toà phải cho phép họ xem biên bản
phiên toà. Nếu họ có yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên toà, thì Thư ký Toà án phải ghi những sửa đổi, bổ
sung theo yêu cầu của họ. Không được tẩy xoá, sửa chữa trực tiếp vào những vấn đề đã ghi mà ghi những sửa đổi, bổ sung tiếp
vào biên bản phiên toà. Người nào được quy định tại khoản 4 Điều 211 của BLTTDS có yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào
biên bản phiên toà, thì ghi tư cách tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng và họ tên của người đó. Tiếp theo ghi những vấn đề
được ghi trong biên bản phiên toà có yêu cầu sửa đổi, bổ sung và những sửa đổi, bổ sung cụ thể. Nếu có nhiều người yêu cầu, thì
ghi thứ tự từng người một. Sau đó người có yêu cầu phải ký xác nhận.
Ví dụ 1: (trường hợp có một người yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung)
Những sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Văn A:
1. Về vấn đề được ghi tại dòng (các dòng) từ trên xuống (hoặc từ dưới lên) trang của biên bản phiên toà yêu cầu ghi sửa đổi, bổ
sung như sau:
25

×