Tải bản đầy đủ (.doc) (204 trang)

CHUYÊN sâu đoạn văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (969.61 KB, 204 trang )

MỤC LỤC

STT

Tên bài học

Số đoạn văn

1.
2.
3.
4.
5.
6.

Tuyên ngôn độc lập …….……………………………………(3 đoạn)
Người lái đị sơng Đà…………………………………………(5 đoạn)
Ai đã đặt tên cho dịng sơng?……………………….………… (6 đoạn)
Vợ chồng A Phủ………………………………………………(6 đoạn)
Vợ nhặt…………………………………………………………(6 đoạn)
Rừng xà nu……………………………………………………(3 đoạn)

7.
8.

Những đứa con trong gia đình
Chiếc thuyền ngồi xa…………………………………..……(5 đoạn)
Hồn Trương Ba, da hàng thịt…………………………………(5 đoạn)

Tổng số trang khổ A4: 207 trang


TUN NGƠN ĐỘC LẬP
- Hồ Chí MinhI. MỞ BÀI CHUNG
1

Trang

2
10
38
63
95
126
143
169
198


“Những ai muốn biết thế nào là một con người thực sự, vẻ đẹp của thế giới ở
đâu, sự chiến thắng của chân lý trên trái đất ở nơi nào, mùa xuân ở đâu, xin mời đến
thăm cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh, sự hiện diện mẫu mực của một con người
anh hùng của thời đại…”. Đó là nhận xét rất xác đáng của tác giả Rơ-nê Đê Pêstre,
người Cu-ba về chủ tịch Hồ Chí Minh. Người khơng chỉ là một lãnh tụ tài ba, người anh
hùng đã giải phóng dân tộc, đất nước Việt Nam thốt khỏi xiềng xích của nơ lệ mà Người
cịn là một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc với nhiều tác phẩm đặc sắc trên nhiều thế
loại khác nhau. Đặc biệt, bản “Tuyên ngôn độc lập” ra đời vào năm 1945 là một trong số
những tác phẩm xuất sắc nhất, tiêu biểu cho phong cách văn chính luận của Người. Tác
phẩm có giọng văn hùng hồn thống thiết, có lập luận chặt chẽ sắc bén, có sức thuyết phục
cao đối với người đọc và người nghe. Bản “Tuyên ngôn Độc lập” là kết quả của bao
nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu người đã hi sinh, bao nhiêu người bị tù đày... “là kết quả của
bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”

(Trần Dân Tiên).
II. PHÂN TÍCH ĐOẠN VĂN
Đề số 1:
Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc“.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng
ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng
nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải ln ln được tự do và
bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
(Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh,
Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr39-40)
Phân tích phần mở đầu bản "Tun ngơn Độc lập" để làm nổi bật giá trị nội
dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

2


- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích mở đầu của Bản tuyên ngôn: “Hỡi đồng bào…
chối cãi được” đã làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của chủ tích
Hồ Chí Minh.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát

Sau gần 100 năm bị áp bức nô lệ, nhân dân ta đứng lên đấu tranh và được độc lập
tự do. Mùa thu năm 1945, cả nước ta tưng bừng, hân hoan chiến thắng. Cách mạng tháng
Tám thành công đã rũ bỏ khỏi vai người dân Việt Nam những xiềng xích nơ lệ và áp bức,
đưa dân tộc ta qua ngưỡng cửa tối tăm bước tới vùng sáng độc lập tự do. Sáng ngày 2/9,
một buổi sáng trời trong với nắng vàng ấm áp, trước hàng triệu nhân dân trên quảng
trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tun ngơn độc lập, chính thức khai
sinh một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam tự do, độc lập và dân chủ. Bản tuyên
ngôn được Người viết ra bằng tất cả tâm hồn và trí tuệ, bằng những xúc cảm mãnh liệt.
Người đã truyền đến hàng triệu trái tim người Việt Nam yêu nước những rung động sâu
xa và thấm thía, đồng thời tuyên bố một cách vững chắc và hào hùng với thế giới về sự
tồn tại độc lập có chủ quyền của nước ta.
Tồn văn bản tun ngơn khơng dài, chỉ gói trọn trong khoảng chưa đầy một ngàn
chữ nhưng vô cùng chặt chẽ và súc tích. Bản tun ngơn có bố cục 3 phần, cụ thể gồm:
cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn và lời tuyên bố độc lập. Sức thuyết phục của “Tuyên ngôn
độc lập” được tạo nên chủ yếu từ hai yếu tố là lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng
chứng xác thực và sức lay động lịng người. Điều đó được thể hiện ngay từ đoạn mở đầu.
2. Giá trị nội dung của phần mở đầu bản tun ngơn:
2.1. Mở đầu bản Tun ngơn bằng trích dẫn Tuyên ngôn của Pháp và Mĩ
Phần mở đầu nêu nguyên lí chung làm cơ sở tư tưởng cho bản tun ngơn. Trong
đó, Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776
và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791. Cả hai bản tuyên ngôn
đều thể hiện tư tưởng rất tiến bộ, được nhân loại biết đến và thừa nhận. Trong đó, Tun
ngơn độc lập của Mỹ năm 1776 nêu rõ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền
ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền
lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
2.2. Tác dụng của việc trích dẫn
Việc trích dẫn hai văn bản này có tác dụng rất lớn. Đầu tiên, nó thể hiện sự tơn
trọng những giá trị, tư tưởng tiến bộ của nhân loại, đó là khẳng định các quyền lợi cơ bản,

chính đáng của con người: Quyền sống, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Mặt khác, “Tuyên ngôn độc lập” ra đời giữa lúc tình thế đất nước vẫn đang trong
thời kì nguy ngập. Chính quyền mới ra đời, đất nước vẫn đang nằm giữa bốn bề hùm sói,
hai đầu đất nước đều có kẻ thù ngoại bang đe dọa. Ở biên giới phía Bắc là 20 vạn quân
Tưởng đang ngấp nghé ở cửa biên giới, chuẩn bị kéo vào miền Bắc nước ta. Phía sau đội
qn này là sự nhịm ngó muốn can thiệp vào Đơng Dương của đế quốc Mỹ. Ở phía Nam,
3


thực dân Anh được giao nhiệm vụ của phe đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, đằng
sau quân Anh là quân Pháp đang lăm le muốn quay trở lại xâm lược đất nước ta. Nhà cầm
quyền Pháp lúc này tuyên bố: Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị quân Nhật chiếm,
đương nhiên Đông Dương phải thuộc quyền bảo hộ của người Pháp. Sử dụng trích dẫn
trong hai bản tun ngơn có giá trị, được thế giới cơng nhận làm cơ sở pháp lý cũng là
cách Hồ Chí Minh nhắc nhở dã tâm và hành động xâm lược của bọn đế quốc, thực dân;
phê phán, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ- những kẻ xâm lược đã chà đạp lên chân lí, chà
đạp lên lương tâm và lý tưởng của cha ơng chúng. Chính phủ và chính phủ Mĩ phụng sự
cho tinh thần của “Tuyên ngôn nhân quyền” đầy lẽ phải kia hóa ra lại đang thi hành
những hành động trái ngược hẳn. Dùng lí lẽ của chính Pháp và Mĩ để nhắc nhở, ngăn
chặn, bác bỏ mọi luận điệu và hành động phi nghĩa của chúng, chiêu thức này trong dân
gian được gọi là “gậy ông đập lưng ông”. Với chiêu thức này, Hồ Chí Minh thực sự đã
nắm được và phát huy sức mạnh của văn học “Văn chương phải là thế trận đuổi nghìn
quân giặc.” (Trần Thái Tơng).
Hồ Chí Minh dẫn hai câu danh ngơn, một câu trong bản Tuyên ngôn độc lập và
một câu trong Tun ngơn nhân quyền và Dân quyền cịn là để khẳng định cách mạng
Việt Nam cùng một lúc làm được hai nhiệm vụ: Nhiệm vụ thứ nhất là đánh đuổi thực dân,
phát xít xâm lược giành độc lập tự chủ và nhiệm vụ thứ hai là lật đổ chế độ phong kiến
giành quyền sống cho con người. Cũng như ở đoạn sau của bản Tuyên ngôn, Người viết
“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân
gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế

độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.”
Đồng thời bằng cách này, Bác đã đặt tuyên ngôn của Việt Nam sánh vai với tuyên
ngôn Pháp và Mỹ, thể hiện lịng tự tơn dân tộc. Đặt ba bản tun ngôn ngàng hàng nhau,
ba cuộc cách mạng ngang bằng nhau, Người muốn khẳng định mục đích cao cả của cách
mạng Việt Nam, của cách mạng Mĩ và Pháp đều là vì hạnh phúc của con người. Chúng ta
chiến đấu vì hạnh phúc của con người. Niềm tự hào dân tộc ấy cùng một cảm hứng với
“Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi, bởi ở thời phong kiến Nguyễn Trãi cũng đặt vị thế
dân tộc ta ngang hàng với phong kiến phương Bắc hùng mạnh:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Nhưng đóng góp lớn nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh ở đây là Người đã vận dụng
sáng tạo hai đoạn trích dẫn của hai bản tuyên ngôn. Từ quyền của con người được nhắc
đến trong hai câu danh ngôn ấy, Người nâng lên quyền của cả dân tộc. Tầm nhìn sâu rộng
của Bác đã tạo nên một lời khẳng định đanh thép: "Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất
cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do". Như vậy, bằng lập luận chặt chẽ, sáng tạo Người
khẳng định các dân tộc trên thế giới đều có quyền độc lập, tự do. Đây chính là cơ sở cho
hệ thống lập luận trong toàn tác phẩm. Phép suy rộng ra ấy khơng chỉ có ý nghĩa khẳng
định quyền độc lập tự do, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam mà cịn có ý nghĩa khơi
dậy, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
4


Khép lại phần mở đầu là câu văn chắc nịch, đanh thép. Người khẳng định mọi
quyền lí lẽ chính đáng của con người, dân tộc là những “lẽ phải không ai chối cãi được”.
Đây chính là bức tường pháp lí sừng sững, là tiền đề triển khai toàn bộ nội dung bản
“Tuyên ngôn Độc lập” ở phần tiếp theo. Câu văn này cũng thể hiện tính luận chiến quyết
liệt của ngịi bút Hồ Chí Minh.
3. Nghệ thuật lập luận:
Cách mở đầu bản Tuyên ngôn cho thấy lập luận của Hồ Chí Minh vừa ngắn gọn,

súc tích, vừa khéo léo vừa kiên quyết, lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo và đầy sức
thuyết phục. Đầy khéo léo bởi Hồ Chí Minh tỏ ra trân trọng những tư tưởng tiến bộ,
những danh ngôn bất hủ của người Mĩ, người Pháp... nhưng rất kiên quyết vì một mặt Hồ
Chí Minh khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam dựa trên những chân lí
mà người Mĩ và người Pháp đã đưa ra, đồng thời cảnh báo nếu thực dân Pháp tiến quân
xâm lược Việt Nam một lần nữa thì chính họ đã phản bội lại tổ tiên của mình, làm nhơ
bẩn lá cờ nhân đạo, thiêng liêng mà những cuộc cách mạng vĩ đại của cha ông họ đã dành
được. Đặc biệt, lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo nhất là: lời suy rộng ra của Người
mang tư tưởng lớn của nhà cách mạng. Người đã phát triển quyền lợi của con người lên
(thành) quyền tự quyết, quyền bình đẳng của các dân tộc trên thế giới. Phép suy rộng ra
ấy là sự sáng tạo đầy bản lĩnh, trí tuệ, thể hiện tư duy lí luận sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Đây là một đóng góp riêng của Hồ Chí Minh và cũng là của dân tộc ta vào một
trong những trào lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế, vừa mang ý nghĩa nhân
đạo của nhân loại trong thế kỉ XX.
4. Đánh giá
Với nội dung là nêu nguyên lí chung, phần mở đầu của tác phẩm còn thể hiện rõ tài năng
của tác giả trên địa hạt văn chương. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn đã tạo nên một dẫn
chứng xác thực góp phần củng cố lí lẽ, luận điểm đanh thép của tác phẩm.Tất cả đã tạo
nên một lập luận chặt chẽ và giàu sức thuyết phục, vừa khôn khéo vừa kiên quyết để tạo
nên nền tảng pháp lí vững vàng để tác giả tố cáo tội ác của bọn thực dân. Phần mở đầu
"Tuyên ngôn Độc lập", không chỉ thể hiện nội dung tư tưởng cao đẹp mà ta cịn thấy văn
phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, súc tích, thấm thìa, rung động lịng người,
"Tun ngơn Độc lập" thực sự là một tuyệt đỉnh nghệ thuật văn chương và lịch sử.
Đoạn 2:

“Thế mà hơn 80 năm nay…..”

a. Tố cáo tội ác của TD Pháp
- Cách chuyển ý: Giữa phần cơ sở pháp lí và cơ sở thực tiễn, Bác dùng hai từ “thế mà” vừa có
tác dụng chuyển ý, vừa làm nổi bật sự tương phản đối lập giữa lời tuyên ngôn và hành động thực

tiễn của TD Pháp.
5


- Khi kể tội td Pháp, B dùng lối viết đi từ khái quát đến chi tiết, cụ thể. Chỉ bằng một câu văn,
Bác đã lật tẩy bộ mặt xảo trá nhân danh “khai hóa văn minh” của bọn thực dân tham lam, tàn
bạo: “Thế mà… chính nghĩa”.
- Tiếp đó, Bác đã kể tội thực dân Pháp chi tiết trên mọi mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại
giao…
+ Về chính trị: “chúng tuyệt đối….nào”, “chúng thi hành… Bắc”), “chúng lập ra..học”, “thi
hành chính sách ngu dân”, “chúng dùng thuốc phiện và…suy nhược” ….
+ Về kinh tế: “chúng bóc lột dân ta đến xương tủy”, “chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vơ lí”
(liên hệ Tắt đèn thuế đinh)…
+ Về quân sự, ngoại giao: “Td Pháp quỳ gối đầu hàng mở cửa nước ta rước Nhật”, “chúng thẳng
tay khủng bố Việt Minh”, “ Thậm chí đến khi thua chạy chúng nhẫn tâm giết nốt số đơng tù
chính trị của ta ở Yên Bái và Cao Bằng”.
=> Bản tuyên ngôn đã lật tẩy âm mưu thâm độc và thủ đoạn tàn bạo của thực dân Pháp.
- Cách lập luận:
+ Bằng phương pháp liệt kê, B đã tố cáo đanh thép những tội ác ko thể kể hết của td Pháp hơn
80 năm đô hộ nc ta. Bản TNĐL đã đưa thực dân P ra trước vành móng ngựa, đã lật tẩy bộ mặt
giả tạo và những âm mưu thâm độc của chúng.
“Hỡi anh chị em lao khổ
Nông nỗi này ai tỏ chăng ai
Đã non tám chục năm rồi
Làm thân trâu ngựa cho loài khuyển dương”
(Bài ca cách mạng)

+ Đại từ “chúng” lặp lại nhiều lần kết hợp với những câu văn điệp cấu trúc liên tiếp đã tố cáo tội
ác của td P là ko sao kể hết.


6


+ Bác dùng những hình ảnh so sánh giàu sức biểu cảm: “chúng lập ra nhà tù …học”. B còn dùng
cách diễn đạt gây ấn tượng mạnh, sử dụng những câu văn giàu hình ảnh: “Chúng tắm… bể
máu”.
+ Để lật tẩy chiêu bài “bảo hộ” của td Pháp, B đã chọn cách viết đầy thuyết phục bằng những số
từ, danh từ địa danh để miêu tả một cách chi tiết cụ thể tạo bằng chứng xác đáng ko thể chối cãi:
. Cụ thể về thời gian : “mùa thu năm 1940”, “ ngày 9 tháng 3 năm nay”, “ trước ngày 9 tháng
3”, “Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3”
. Cụ thể về mặt ko gian, địa điểm: “từ Quảng Trị đến Bắc Kì”, “ở Yên Bái và Cao Bằng”.
. Chính xác, chi tiết về cả số lượng, sự kiện: “hơn hai triệu đồng bào ta chết đói”, “trong 5 năm,
chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”.
Đoạn văn ngắn nhưng gây xúc động hàng triệu con tim, khơi dậy lòng căm thù giặc sâu sắc của
nhân dân ta, tạo sự phẫn nộ cho nhân dân toàn thế giới.
+ Giọng điệu: giọng văn khi hùng hồn, đanh thép tố cáo tội ác của kẻ thù, khi thống thiết bi
thương thấm thía nỗi nỗi xót xa, cay đắng, tủi nhục của người dân mất nước.
=> Với một hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ bằng chứng xác đáng, giọng điệu hùng hồn, TNĐL
đã vạch trần những luận điệu xuyên tạc, lừa bịp của td Pháp. Tội ác của chúng là ko thể dung
thứ.

Đoạn số 3:
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không
phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi
dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay
Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. dân ta đã đánh đổ các xiềng xích
thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại
đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.

7


Bởi thế cho nên, chúng tơi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu
cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết
những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp
trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực
dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã cơng nhận những ngun tắc dân tộc
bình đẳng ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận
quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nơ lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một
dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải
được tự do! dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tơi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự
do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Phân tích lời tuyên bố độc lập trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về phong
cách văn chính luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Sự thật là…độc lập ấy” nằm ở phần cuối của
bản tun ngơn và góp phần thể hiện rõ phong cách văn chính luận của Hồ Chí Minh.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
Sau gần 100 năm bị áp bức nô lệ, nhân dân ta đứng lên đấu tranh và được độc lập
tự do. Mùa thu năm 1945, cả nước ta tưng bừng, hân hoan chiến thắng. Cách mạng tháng

Tám thành công đã rũ bỏ khỏi vai người dân Việt Nam những xiềng xích nơ lệ và áp bức,
đưa dân tộc ta qua ngưỡng cửa tối tăm bước tới vùng sáng độc lập tự do. Sáng ngày 2/9,
một buổi sáng trời trong với nắng vàng ấm áp, trước hàng triệu nhân dân trên quảng
trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tun ngơn độc lập, chính thức khai
sinh một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam tự do, độc lập và dân chủ. Bản tuyên
ngôn được Người viết ra bằng tất cả tâm hồn và trí tuệ, bằng những xúc cảm mãnh liệt.
Người đã truyền đến hàng triệu trái tim người Việt Nam yêu nước những rung động sâu
xa và thấm thía, đồng thời tuyên bố một cách vững chắc và hào hùng với thế giới về sự
tồn tại độc lập có chủ quyền của nước ta.
Tồn văn bản tun ngơn khơng dài, chỉ gói trọn trong khoảng chưa đầy một ngàn
chữ nhưng vô cùng chặt chẽ và súc tích. Bản tun ngơn có bố cục 3 phần, cụ thể gồm:
cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn và lời tuyên bố độc lập. Sức thuyết phục của “Tuyên ngôn
8


độc lập” được tạo nên chủ yếu từ hai yếu tố là lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng
chứng xác thực và sức lay động lòng người.
2. Lời tuyên bố độc lập trong đoạn trích
2.1. Nêu rõ quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta:
“Tuyên ngơn độc lập” ra đời giữa lúc tình thế đất nước vẫn đang trong thời kì nguy
ngập. Tuy đã giành được độc lập nhưng chính quyền thì mới ra đời, đất nước vẫn đang
nằm giữa bốn bề hùm sói, hai đầu đất nước đều có kẻ thù ngoại bang đe dọa. Đặc biệt, để
hợp thức hóa việc quay trở lại xâm lược nước ta, nhà cầm quyền Pháp lúc này tuyên bố:
Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị quân Nhật chiếm. Nay phát xít Nhật thua trận,
đương nhiên Pháp có quyền quay trở lại bảo hộ Đơng Dương.
Trong đoạn văn này Hồ Chí Minh đã nêu rõ q trình đấu tranh giành độc lập của
nhân dân ta, vạch trần và bác bỏ hoàn toàn luận điệu xảo trá của Pháp. Người nêu rõ sự
thật là từ năm 1940 nước ta là thuộc địa của Nhật chứ khơng cịn là thuộc đọa của Pháp.
Khi Nhật thua chạy thì nhân dân ta đã nổi dậy cướp chính quyền từ tay Nhật. Nhân dân ta
cùng lúc phá tan ba tầng xiềng xích khiến Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị để

lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Định ngữ “Sự thật là” được nhắc đi nhắc lại
càng có ý nghĩa khẳng định một cách chắc chắn thực tiễn lịch sử đó.
Chính phủ nước Việt Nam mới đã ra đời, thực sự là chính quyền của nhân dân Việt
Nam và dân tộc Việt Nam khơng cịn là thuộc địa của Pháp nên Người tun bố thốt li
hồn tồn mối quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết các hiệp ước Pháp đã kí hết với Việt
Nam, xóa hết mọi đặc quyền đặc lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Tiếp đó, Người
cịn khẳng định đanh thép “Tồn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại
âm mưu của bọn thực dân Pháp”.
Đây chính là những bằng chứng thực tiễn xác thực, thể hiện một cuộc tranh luận
ngầm với những lời lẽ giả dối, sai sự thật của thực dân Pháp, khẳng định khơng có thế
lực nào có quyền xâm phạm nền độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam kể cả thực dân
Pháp. “Cách lập luận của Hồ Chí Minh về phía ta như một trái táo cịn về phía kẻ thù
nó giống như một trái lựu đạn nhét vào cổ họng chúng. Nuốt không vô mà khạc cũng
không ra”. (Chế Lan Viên)
2.2. Khẳng định cuộc đấu tranh của nhân dân ta là chính nghĩa
Trước khi tuyên bố độc lập, Hồ Chí Minh đã khẳng định sâu sắc cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc của ta là chính nghĩa. Bởi vì dân tộc ta là một dân tộc gan góc, có
truyền thống kiên cường bất khuất bảo vệ đất nước. Bằng chứng là nhân dân ta gan góc
chống ách nơ lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm, gan góc đứng về phía Đồng minh chống
phát xít suốt mấy năm để rồi lấy lại đất nước từ tay Nhật. Trước đó, trong bản Tun
ngơn Người cũng nêu rõ dân tộc ta là dân tộc luôn nêu cao tinh thần nhân đạo: Khi Pháp
thua chạy cịn giết nốt số đơng tù chính trị ở n Bái, Cao Bằng. Nhưng khi chúng thua
chạy ta lại giữa thái độ khoan hồng, nhân đạo giúp người Pháp chạy qua biên thùy, bảo vệ
tính mạng và tài sản cho họ. Tinh thần nhân đạo ấy có lẽ được kế thừa từ truyền thống
dân tộc, từng được thể hiện trong “Bình Ngơ đại cáo”:
“Thần vũ chẳng giết hại, thể lịng trời ta mở đường hiếu sinh.
9


Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể mà hồn bay phách

lạc;
Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước vẫn tim đập, chân
run”.
Lập trường chính nghĩa của dân tộc ta cịn được thể hiện rõ khi nó rất phù hợp với
các điều khoản quy định về nguyên tắc dân tộc bình đẳng tại hội nghị Tê-hê-răng và Cựu
Kim Sơn “Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân
tộc bình đẳng ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công
nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã rất khôn khéo khi viện
dẫn các nguyên tắc dân tộc bình đẳng. Bởi vì, nó khơng chỉ để khẳng định quyền độc lập
tự chủ của dân tộc ta mà cịn có ý nghĩa kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc
lập tự do của dân tộc Việt Nam.
2.3. Tuyên bố độc lập
Sau khi đã khẳng định một cách sâu sắc quyền độc lập dân tộc, Hồ Chủ tịch đã sử
dụng những lời lẽ hùng hồn, đanh thép, trịnh trọng, kết cấu trùng lặp, liên tục nhấn mạnh
và xốy sâu vào hai vấn đề chính là “độc lập” và “tự do” để tuyên bố nền độc lập của dân
tộc: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự
do độc lập”. Trong lời tuyên bố ấy, Người khẳng định dân tộc Việt Nam về lí lẽ có quyền
được hưởng tự do độc lập và trong thực tiễn đã giành được tự do, độc lập, cũng hoàn toàn
xứng đáng trở thành một nước tự do, độc lập.
Lời tuyên bố độc lập của Hồ Chí Minh xuất phát từ trái tim của một con người có
lịng u nước, u dân, u chuộng hịa bình sâu sắc; là những khát khao cháy bỏng
khơng chỉ của riêng mình Bác mà cịn chính là thay lời muốn nói của tồn thể dân tộc
Việt Nam, muốn tuyên bố với cả thế giới rằng nước Việt Nam là một quốc gia độc lập, có
chủ quyền lãnh thổ.
2.4. Ý chí bảo vệ chủ quyền dân tộc
Tun ngơn độc lập của Hồ Chí Minh khơng chỉ để tun bố nền độc lập, tự do của
dân tộc mà còn có ý nghĩa cảnh cáo âm mưu xâm lược của bọn thực dân, đế quốc. Người
viết “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”. Toàn dân Việt Nam nhận thức rõ âm mưu
của kẻ thù xâm lược nên nhắc nhở chúng rằng: Nếu chúng còn dã tâm xâm lược, nhân

dân Việt Nam quyết hy sinh tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bảo vệ
nền độc lập thiêng liêng, cao quý ấy.
3. Đánh giá
3.1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn văn
Đoạn trích cũng như bản “Tun ngơn độc lập” mang giá trị văn chương to lớn bởi
cho thấy tài năng bậc thầy trong ngịi bút chính luận của Hồ Chí Minh. Đó là một áng văn
chính luận mẫu mực nhất, thuyết phục và có sức hấp dẫn nhất với lập luận, chặt chẽ, lí lẽ
sắc bén, đanh thép, luận cứ được hun đúc từ thực tế khách quan; Kết cấu, bố cục khá chặt
chẽ với mỗi phần một ý nghĩa và liên hệ chặt chẽ với nhau; Ngôn ngữ ngắn gọn, chính
xác, súc tích; lời văn vừa sống động, gây xúc động lòng người tác động mạnh vào nhận
10


thức và tình cảm và có sức lay động sâu xa; Các biện pháp tu từ như điệp từ, điệp ngữ…
được sử dụng được sử dụng linh hoạt hiệu quả làm cho lý lẽ thêm sinh động rõ ràng. Bản
“Tuyên ngôn độc lập” trở thành một áng văn nghị luận mẫu mực khơng chỉ bởi lập luận
chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực mà còn lay động hàng triệu trái tim người
Việt Nam yêu nước bởi tình cảm thiết tha của tác giả. Những tình cảm thiết tha đó được
biểu lộ thơng qua những giọng điệu khác nhau, khi nồng nàn tha thiết, khi xót xa thương
cảm, khi hừng hực căm thù, khi hào sảng khích lệ...
“Tuyên ngôn độc lập” là áng văn chương yêu nước của thời đại, kết tinh khát vọng
cháy bỏng của cả dân tộc về độc lập, tự do. Bản tuyên ngôn đã tố cáo rõ tội ác thực dân,
khẳng định quyền tự do độc lập và sự thật nước Việt Nam đã thành nước tự do, độc lập.
Hơn nữa, đoạn trích cũng như tác phẩm còn nêu cao truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta là
truyền thống yêu nước, kiên cường chống giặc ngoại xâm; thể hiện tâm huyết và hội tụ vẻ
đẹp của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
3.2. Nhận xét về phong cách văn chính luận Hồ Chí Minh
- Ngắn gọn, giản dị, súc tích; cách dùng từ, đặt câu hết sức linh hoạt: Cả một nội
dung lớn diễn ra trong thời gian gắn một thế kỉ, nhưng tác giả đã cô đọng lại trong vài ba
trang giấy. Từ ngữ mà Người sử dụng đọc lên là hiểu ngay. Đối với những câu dài, có cấu

trúc phức tạp, Người vẫn tìm cách diễn đạt thật ngắn gọn. Có câu rất ngắn nhưng giàu ý
tứ.
- Văn phong trong sáng: Trong sáng ở việc dùng từ đặt câu, tuân thủ các nguyên
tắc và chuẩn mực của tiếng Việt. Trong sáng về tư tưởng tình cảm, ở thái độ rõ ràng, yêu
ghét phân minh trên lập trường chính nghĩa.
- Tính chiến đấu và trí tuệ: Đanh thép, sắc sảo là biểu hiện tính chiến đấu khơng
khoan nhượng, thái độ dứt khốt thể hiện một bản lĩnh vững vàng, phi thường, sắc sảo ở
trí tuệ, lối lập luận chặt chẽ, sắc bén.
- Ngòi bút chính luận vừa chặt chẽ, thuyết phục vừa trữ tình, có sức lay động lịng
người: Bản tun ngơn được viết với cách lập luận chặt chẽ. Người đưa ra những lí lẽ
đanh thép, những bằng chứng hùng hồn khơng ai chối cãi được. Ngịi bút chính luận vừa
hùng hồn vừa trữ tình; Văn chính luận mà vẫn thấm đượm tình cảm, giàu hình ảnh, giọng
điệu đa dạng.
III. KẾT LUẬN CHUNG
“Tuyên ngơn Độc lập” của Hồ Chí Minh đã đánh dấu mốc son trong lịch sử dân
tộc, mãi mãi là áng thiên cổ hùng văn ngang tầm với “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn
Trãi, là niềm tự hào của những người Việt Nam yêu nước. Với phong cách nghệ thuật độc
đáo và riêng biệt, Hồ Chí Minh đã để lại tên tuổi của mình và làm rạng rỡ nền văn học
Việt Nam. Tấm lòng yêu nước, thương dân, tâm huyết và khát vọng cháy bỏng của Hồ
Chí Minh về độc lập tự do của dân tộc thực sự đã trở thành một ngọn lửa thần tạo nên tài
năng văn chương của Người, đúng như nhận định của Raxun Gazatôp: Giống như ngọn
lửa thần bốc lên từ trong cành khô, tài năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ
nhất của con người.”
11


NGƯỜI LÁI ĐỊ SƠNG ĐÀ
-Nguyễn TnA. MỞ BÀI CHUNG
- MB1: Pautopxki từng nói “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của
12



người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”. Hơn ai hết, Nguyễn Tn chính là nhà văn như
thế. Ơng là người theo chủ nghĩa duy mĩ với quan niệm cuộc đời là một cuộc hành trình
đi tìm cái đẹp và “Suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp”. Mỗi tác phẩm của ông là một
bài ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với tình cảm, sự gắn bó sâu nặng với quê
hương, đất nước. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật
rất riêng và rất độc đáo mà phong cách ấy được gắn với chữ “ngông” và sự tài hoa, uyên
bác. Nếu như trước cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người bởi vẻ
đẹp tài hoa của những con người "một thời vang bóng" như Huấn Cao thì sau cách mạng,
ơng khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét đẹp
gân guốc nhưng gần gũi, bình dị của thiên nhiên và đời sống con người. “Người lái đị
sơng Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng.
- MB2: Từ Vang bóng một thời (1940) đến Sông Đà (1960), con đường sáng tạo
văn chương cùa Nguyễn Tuân đã trải qua 20 năm tròn. Tùy bút Sông Đà làm cho chân
dung văn học của Nguyễn Tuân thêm tươi sáng, rạng rỡ. Với 15 tùy bút và một bài thơ
phác thảo, Sông Đà đã khẳng định vị trí vẻ vang của Nguyễn Tuân trong lịch sử văn học
Việt Nam hiện đại, tô đậm một phong cách nghệ thuật uyên bác, độc đáo và tài hoa để ta
thêm u mến tự hào.
Người lái đị Sơng Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà thể hiện cá tính sáng tạo của
Nguyễn Tuân trên một tầm cao phát triển mới. Là nhà văn của những tính cách phi
thường, Nguyễn Tuân phát hiện, miêu tả con người Tây Bắc mang bao phẩm chất tuyệt
đẹp mà ơng gọi đó là “chất vàng mười” của tâm hồn. Là một con người u thiên nhiên
tha thiết, ơng nói về cảnh sắc sơng Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về
núi và sông, về cây cỏ trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng
B. PHÂN TÍCH MỘT SỐ ĐOẠN VĂN TRONG TÁC PHẨM
Đoạn số 1:
Hùng vĩ của sơng Đà khơng phải chỉ có thác đá. Mà nó cịn là những cảnh đá bờ
sơng, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá
thành chẹt lịng Sơng Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hịn đá qua

bên kia vách. Có qng con nai con hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè
một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vửa
tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Lng, dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ sóng,
sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ
người lái đị Sơng Đà nào tóm được qua đấy. Qng này mà khinh suất tay lái thì cũng
dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sơng bỗng có những cái hút
nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây
thở và kêu như cửa sống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ
những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào
13


qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua
một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phòng
qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như rót dầu sơi vào. Những bè gỗ
rừng đi nghênh ngang vơ ý là những cái giếng hút ấy nó lơi tụt xuống. Có những thuyền
đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và
đi ngầm dưới lịng sơng đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ
hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán
giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả
máy quay xuống đáy hút Sơng Đà-từ đây cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông
chênh nhautới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những
thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plonggée lên một cái mặt giếng
mà thành giếng xây tồn bằng nước sơng xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối
pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái
phim ảnh thu được trong lịng giếng xốt tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí
sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt

vào một cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
(Người lái đị sơng Đà, Nguyễn Tn)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sơng Đà ở đoạn trích trên đây. Từ
đó, nhận xét về cách nhìn mang tính phát hiện về dịng sơng Đà và cái Tôi của nhà
văn Nguyễn Tuân.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung
- Đoạn trích sau đây trong “Người lái đị Sơng Đà” thể hiện rõ cách nhìn mang tính
phát hiện của nhà văn Nguyễn Tn về dịng sơng Đà: “Hùng vĩ… đánh phèn”.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đị Sơng Đà được in trong tập tùy bút Sơng Đà
(1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong
thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của
nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm
1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và
đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà
văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Nội dung: Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình
yêu nước ấy cũng được biểu hiện trước hết ở tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về
sơng Đà – dịng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông
trong tùy bút “Người lái đị sơng Đà”. Chỉ có Nguyễn Tn mới khơng nhọc cơng dị đến
ngọn nguồn lạch sơng, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sơng Đà, để biết chỗ phát
ngun của nó thuộc huyện Cảnh Đơng và thoạt kì thủy, dịng sơng mang những cái tên
Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước
14


Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải
sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ.

- Lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn
Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dịng sơng. Sơng Đà khác hẳn
các dịng sơng khác bởi nếu tất cả các dịng sơng khác đều chảy về hướng đơng thì riêng
Sơng Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sơng đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối
tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tn, nó được tác giả tìm đến để thể
hiện cá tính nghệ thuật của mình. Ở lời đề từ “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dịng sơng”
tác giả lại thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dịng sơng và con người gắn bó
với dịng sơng, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con
người Tây Bắc.
- Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như
các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác
cho các giác quan. Ơng khơng thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng
mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp
và tài năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm
của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng
nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sơng Đà thành một hình
tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vơ tri vơ giác thành một sinh thể có sức sống, có
tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó
thành Sơng Đà. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là
hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại
trong một hình tượng nghệ thuật. Sơng Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con
người nhưng cũng là một cơng trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa
thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm
trong phần miêu tả tính cách hung bạo của Đà giang.
2. Hình tượng con Sơng Đà qua đoạn trích
Nhận xét đầu tiên của nhà văn về dịng sơng Đà ở đây là “Hùng vĩ của sơng Đà
khơng phải chỉ có những thác đá”. Câu văn đã khẳng định sơng Đà là dịng sơng hùng vĩ
và hẳn là vẻ hùng vĩ ấy được thể hiện rõ nhất ở những thác đá trên sông. Nhưng hùng vĩ
của sông Đà khơng chỉ có thế mà cịn thể hiện rõ qua cảnh đá bờ sông dựng vách thành,
những ghềnh sông, hút nước được miêu tả trong đoạn trích.

2.1. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành
Sông Đà ở quãng này chảy qua vùng rừng núi Tây Bắc và hình ảnh “vách thành”
đã phần nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của những
vách núi bên bờ sông Đà. Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên
nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá. Chẳng hạn,
mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Những vách đá dựng đứng khiến ánh
sáng mặt trời ở đây chỉ có vào lúc giữa trưa, tức là khi mặt trời chiếu sáng theo phương
15


thẳng đứng mới có thể lọt xuống dịng sơng. Hoặc cách so sánh vách đá thành chẹt lịng
sơng Đà như một cái yết hầu – động từ “chẹt” cùng với việc đứng bên này bờ nhẹ tay
ném hòn đá qua bên kia vách hoặc Có quãng con nai con hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang
bờ kia đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lịng sơng với lưu tốc
nước chảy mạnh khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở. Nguyễn Tuân là nhà văn của những
cảm giác mạnh và ông thường miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác. Bằng cảm giác
của xúc giác nhà văn miêu tả ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng
thấy lạnh. Ấn tượng của thị giác được thể hiện khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy
nhà cao gợi tả vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột
ngột khi con thuyền đi từ ngồi vào khúc sơng có đá hun hút dựng vách thành qua hình
ảnh so sánh về một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
2.2. Mặt ghềnh Hát Lng
Dịng sơng Đà lắm thác nhiều ghềnh vốn đã từng được nhắc đến trong ca dao:
Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh
Nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm có thể kể vanh vách hơn bảy mươi cái thác
trên sông Đà. Đáng chú ý, ở qng Hát Lng có những ghềnh sơng mà cảnh tượng của
nó rất dữ dội Lại như quãng mặt ghềnh Hát Lng, dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ
sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… Thông qua sự miêu tả của
Nguyễn Tuân, những ghềnh sơng ấy khơng chỉ dữ dội mà cịn đầy nguy hiểm. Cách nhà

văn sử dụng toàn câu ngắn, nhịp nhanh xô nhau, dồn dập, chồng chất lên nhau kết hợp
với các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã
tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió,
và đá sơng Đà. Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc
sóng gió trên mặt ghềnh Hát Lng lúc nào cũng địi nợ xt bất cứ người lái đị sơng Đà
nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm và cuồng bạo của dịng
sơng. Qua từ “nợ xt”, nhà văn đóng góp thêm vào Từ điển tiếng Việt một từ mới mẻ,
độc đáo vì nợ khơng có vẫn địi, khơng địi bằng tiền, bằng tình mà địi bằng mạng sống
của con người. Những người lái qua đó sơ xuất tay lái thì sẽ bị lật ngửa bụng thuyền ra.
2.3. Hút nước trên sơng Đà
Trên Sơng Đà cịn có những hút nước rất nguy hiểm. Những cái hút nước xốy tít
đáy ấy được tác giả miêu tả qua một loạt những so sánh sống động, đặc sắc. Nó giống
như những cái giếng bê tông được người ta thả xuống sông để chuẩn bị xây móng cầu,
với âm thanh thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, trong âm thanh như nước bị rót dầu sơi.
Các từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng biện pháp nhân
hóa khi miêu tả nước thở và kêu, bị sặc… Tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm
thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ.
Sự nguy hiểm của những hút nước sông Đà được nhà văn miêu tả qua kiến thức về
giao thơng, giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền
men gần hút nước đáng sợ ấy. Thuyền bè đi ngang qua đó phải đi nhanh, y như là ô tô
sang số ấn ga cho nhanh để thoát khỏi quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Nguy
16


hiểm hơn nữa là thuyền bè đi nghênh ngang là sẽ bị nó “lơi tuột xuống” đáy hút nước.
Khi bị hút vào đó, lập tức thuyền trồng cây chuối, bị dìm sống đi ngầm dưới lịng sơng,
mươi phút sau lại thấy xuất hiện nhưng đã tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Dường như miêu tả bằng hình ảnh, âm thanh chưa đủ, Nguyễn Tuân còn dùng
những kiến thức về điện ảnh, những liên tưởng phong phú và đặc biệt là cảm giác mạnh
để miêu tả những nước trên Sông Đà. Nhà văn liên tưởng đến việc có một anh quay phim

táo bạo vì muốn truyền cảm giác lạ cho người xem nên đã ngồi vào chiếc thuyền thúng
tròn vành rồi cả thuyền, cả mình, cả máy quay xuống xốy hút Sơng Đà để thu ảnh. Đây
hẳn là một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trị chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy
hút nước xốy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước được miêu tả
bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình
khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của dịng sơng “nước
xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi Cái
thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, khi phải đứng trong lịng một khối
pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người. Những thước
phim ấy truyền cảm lại cho người xem những cảm giác rất mạnh như đang lấy gân ngồi
giữ chặt chiếc ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng vừa bị vứt vào một chiếc cốc pha lê
nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
3. Đánh giá
3.1. Về nghệ thuật
Bằng thể tùy bút phóng túng, vốn kiến thức phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh
vực, tác giả đã khám phá vẻ đẹp của dịng sơng ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn
chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như giao thông, âm nhạc, hội hoạ, điện
ảnh, đầy ấn tượng; Sự quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tài
hoa, điêu luyện giàu chất thơ, chất nhạc, chất tạo hình; Cách sử dụng nghệ thuật khắc họa
hình tượng tự nhiên, những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và
rất thú vị; Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; Câu văn
đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình...
tác giả đã biến con sông đà từ vô tri vô giác thành con sơng có những nét cá tính riêng
biệt mà khơng con sơng nào có.
3.2. Nhận xét những phát hiện về dịng sơng Đà của nhà văn Nguyễn Tn
Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh một dịng sơng
ở miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm nổi bật sông Đà như một biểu tượng
về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ của thiên nhiên, đất nước. Qua cái nhìn
của Nguyễn Tn, Sơng Đà khơng cịn là con sơng vơ tri, vơ giác mà là con sơng có linh
hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ. Sông Đà hiện lên như một

cơng trình kiến trúc tuyệt vời mà tạo hóa dành riêng cho mảnh đất Tây Bắc. Nó cịn như
một sinh thể có hồn, gần gũi, gắn bó với đất và người nơi đây.
Qua hình tượng Sơng Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với
thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vơ song của
tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và
17


lịch lãm. Hình tượng Sơng Đà là trong tác phẩm có vai trị là phơng nền cho sự xuất hiện
và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.
3.3. Cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích:
- “Cái tơi” tài hoa, tinh tế thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ
đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.
- “Cái tơi” un bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở
sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú;
ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chun mơn của các ngành quân sự, điện ảnh,
thể thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác
và ấn tượng những cảm giác về đối tượng.
- “Cái tôi” tài hoa, tinh tế và uyên bác chính là một cách thể hiện tình u q
hương đất nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính. Đồng thời cũng cho thấy
quan niệm của Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng định sự đọc đáo của chính người cầm
bút.
--------------------------------------------Đoạn số 2:
... Cịn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại,
réo to mãi lên. Tiếng thác nghe như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là
khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng
lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sơng
lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai
phục hết trong lịng sơng, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm

ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhơ vào đường ngoặt sơng là một số hịn bèn
nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trơng cũng ngỗ ngược, hịn nào cũng
nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung tít lên như tuyếc-bin
thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sơng trắng xóa càng làm bật rõ lên những hịn những
tảng mới trơng tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá
bé. Nhưng hình như sơng Đà đã giao việc cho mỗi hịn. Mới thấy rằng đây là nó bày
thạch trận trên sơng. Đám tảng đám hịn chia làm ba hàng chặn ngang trên sơng địi ăn
chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc khơng cịn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp
lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hịn canh một cửa đá trơng như là sơ
hở, nhưng chính là hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận
tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà
cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke
chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba là phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên,
phải tiêu diệt thuyền trưởng cùng tất cả thủy thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày
vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá,
những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hịn ấy trơng nghiêng thì y như là đang hất
hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút
và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. ..
18


(Người lái đị sơng Đà, Nguyễn Tn)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sơng Đà ở đoạn trích trên đây. Từ
đó, nhận xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung
- Đoạn trích sau đây trong “Người lái đị Sơng Đà” thể hiện rõ phong cách tài hoa
uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: “Còn xa lắm… tiến gần vào”.
II. THÂN BÀI
1. Khái qt

- Hồn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đị Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà
(1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong
thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của
nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm
1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và
đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà
văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Nội dung: Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình
yêu nước ấy cũng được biểu hiện trước hết ở tình u thiên nhiên tha thiết. Khám phá về
sơng Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông
trong tùy bút “Người lái đị sơng Đà”. Chỉ có Nguyễn Tn mới khơng nhọc cơng dị đến
ngọn nguồn lạch sơng, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sơng Đà, để biết chỗ phát
nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đơng và thoạt kì thủy, dịng sơng mang những cái tên
Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước
Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải
sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ.
- Lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn
Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dịng sơng. Sơng Đà khác hẳn
các dịng sơng khác bởi nếu tất cả các dịng sơng khác đều chảy về hướng đơng thì riêng
Sơng Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sơng đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối
tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tn, nó được tác giả tìm đến để thể
hiện cá tính nghệ thuật của mình. Ở lời đề từ “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”
tác giả lại thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dịng sơng và con người gắn bó
với dịng sơng, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con
người Tây Bắc.
- Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như
các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác
cho các giác quan. Ơng khơng thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng
mà ơng miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp
và tài năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm

19


của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng
nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sơng Đà thành một hình
tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vơ tri vơ giác thành một sinh thể có sức sống, có
tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó
thành Sơng Đà. Con Sơng Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là
hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại
trong một hình tượng nghệ thuật. Sơng Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con
người nhưng cũng là một cơng trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa
thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm
trong phần miêu tả tính cách hung bạo của Đà giang.
2. Hình tượng sơng Đà trong đoạn trích
2.1. Khái quát
Từ trước đến nay, khi viết về các dòng sông các nhà văn nhà thơ thường ca ngợi vẻ
đẹp trữ tình, hiền hịa, thơ mộng. Cũng có một số nhà văn, nhà thơ miêu tả cảnh dữ dội,
hiểm trở, trùng trùng lớp lớp của những khúc đại giang, của những cảnh thác ghềnh dữ
dội như “Bạch đằng giang phú” của Trương Hán Siêu, “Bạch đằng Hải khẩu” của
Nguyễn Trãi... Nhưng có lẽ chỉ đến “Người lái đị sơng Đà” của Nguyễn Tuân thì sự hiểm
trở, hung bạo và dữ dội của con sông mới trở nên sống động và thật khủng khiếp. Trong
đoạn văn này, bậc kì tài về mặt ngôn ngữ Nguyễn Tuân khi miêu tả những thác đá trên
sơng Đà đã làm nổi bật lên hình ảnh con sơng Đà khơng chỉ gập ghềnh, lởm chởm mà
cịn đầy nguy hiểm, sống dậy gào thét làm náo động cả lên, khiến cho người đọc phải
“rùng mình, sởn gáy” (Nguyễn Đăng Mạnh).
2.2. Tiếng nước thác trên Sông Đà:
Sông Đà hung bạo không chỉ ở những cảnh đá bờ dựng vách thành, những ghềnh
sông, hút nước đầy nguy hiểm mà hùng vĩ và dữ dội nhất trên sông Đà là những thác đá.
Những thác đá trên sông Đà được nhà văn miêu tả chi tiết qua âm thanh, cảnh tượng và
sự nguy hiểm đến kinh hồng của nó. Trước tiên nhà văn cảm nhận nó qua âm thanh. Chủ

thể miêu tả đang trong quá trình di chuyển đến gần cái thác đá, và âm thanh tiếng nước
thác được miêu tả phù hợp về khoảng cách và cường độ. Ban đầu, có lẽ là nghe từ xa thì
tiếng nước thác Như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo. Rồi khi lại gần, tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng
lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Nguyễn Tuân đã rất ngông khi dùng
lửa để miêu tả nước. Nước và lửa vốn xung khắc với nhau, hủy diệt lẫn nhau nhưng ở đây
nhà văn đã dùng hình ảnh và âm thanh của lửa để miêu tả nước khiến hiện ra trước mắt
người đọc là cả một rừng vầu, tre nứa đang bị đốt cháy, phát ra tiếng nổ. Nhưng âm thanh
đó cịn chưa là gì khi trong khu rừng đang cháy ấy cịn có hàng ngàn con trâu mộng to
khỏe đang bị lửa hun nóng và đốt cháy. Lửa đã bén vào da của đàn trâu khiến chúng rống
lên đầy đau đớn và lồng lộn muốn phá tan rừng lửa để tìm cách thốt thân. Miêu tả từ xa
đến gần nên lúc đầu là tiếng “réo” còn về sau trở thành tiếng “rống”. Đây là cách dùng từ
rất chính xác và bất ngờ, khiến sơng Đà từ một đối tượng vô tri vô giác trở thành một
20


sinh thể có tính cách và tâm lí, như một con người. Các sắc thái khác nhau của âm thanh
tiếng “réo” của nước thác: vừa mới “oán trách” và “van xin” như một kẻ bại trận, biết
mình yếu thế hơn đối thủ; ngay lập tức chuyển sang “khiêu khích” và “chế nhạo” rồi
“rống” lên như một kẻ trên cơ, ra sức giễu cợt, đe dọa đối phương. Bản hợp âm khủng
khiếp và địn tâm lí chiến trở mặt như trở bàn tay ấy cho thấy sự nham hiểm, xảo quyệt
của sơng Đà khi sắp xung trận. Những người lái đị yếu bóng vía và non kinh nghiệm sẽ
cảm thấy mất tinh thần, hồn xiêu phách lạc.
Quả thật, sức mạnh hoang dã của tự nhiên qua tài đối sánh, nhân hóa và trí tưởng
tượng phong phú, độc lạ của Nguyễn Tuân đã cho người đọc một cảm giác mạnh đến tận
độ. Như vậy, chỉ riêng với âm thanh của thác đá sông Đà, Nguyễn Tuân đã gây ấn tượng
trong người đọc về sự dữ dội đến khủng khiếp của những thác đá Sông Đà.
2.3. Những thạch trận đá trên sông Đà
Tiếp theo là những ấn tượng từ sự quan sát trực quan của tác giả khi đã “Tới cái

thác rồi”. Cảnh tượng những thác đá trên Sông Đà cũng thật dữ dội. Ngoặt tới khúc sơng
ấy là cảnh sóng bọt đã trắng cả một chân trời đá. Sóng nước vấp phải đá tung bọt trắng
xóa. Sơng Đà ở đây bao nhiêu là đá với đủ những đá to đá bé, đá hịn đá tảng… mà thằng
đá nào trơng cũng ngỗ ngược, xấc xược, hỗn hào, du côn và mặt cũng nhăn nhúm, méo
mó hơn mặt nước ở qng ấy. Dưới ngịi bút tài hoa của Nguyễn Tn, mỗi hịn đá khơng
chỉ mang những nét chung ấy mà cịn có một gương mặt riêng. Để khắc họa từng gương
mặt riêng của những hịn đá trên thác đá Sơng Đà, Nguyễn Tn đã phải lao động cật lực,
khổ công quan sát và tung ra trường từ vựng hết sức giàu có, phong phú. Phép liên tưởng
và nhân hóa, kết hợp với những động từ, tính từ: chỉ hành động (nhổm cả dậy, vồ lấy,
chặn ngang, dụ, đánh khuýp quật vu hồi, đánh tan, tiêu diệt), chỉ tính cách (ngỗ ngược),
hình sắc (nhăn nhúm, méo mó, to, bé), tư thế (đứng, ngồi, nằm) khiến người đọc cảm
nhận Sông Đà mang gương mặt của dân anh chị, những kẻ cơn đồ chun đi địi nợ thuê
bặm trợn và sẵn máu giang hồ.
Sự nham hiểm quỷ quyệt của Sơng Đà đối với những người lái đị được thể hiện rõ
nhất ở những thế trận mà đá dàn bày. Đội quân đá ấy ngàn năm vẫn mai phục hết trong
lịng sơng. Đá sơng Đà dường như khơng đứng, nằm, ngồi một cách tùy tiện mà Sông Đà
đã giao việc cho mỗi hòn. Mỗi hòn một dáng (đứng, nằm, ngồi), mỗi hòn một nhiệm vụ
(đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông: hàng tiền vệ là hai hịn canh
một cửa đá trơng như là sơ hở giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa; tuyến
giữa sóng nước đánh khuýp quật vu hồi lại, tuyến ba là những boong-ke chìm và pháo đài
đá nổi có nhiệm vụ phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên).
Đá trên sông Đà đã giao việc cho nhau như vậy để dàn bày thành ba thạch trận đá
đầy biến hóa. Mỗi thạch trận đều có rất nhiều cửa tử và chỉ có duy nhất một cửa sinh.
Cửa sinh lúc ở bên tả, lúc ở bên hữu, lúc ở chính giữa. Thạch trận thứ nhất: Sơng Đà bày
ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông.
Thạch trận thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại
bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dịng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá
đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Đến thạch trận thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên
21



trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ
của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh
tan cái thuyền, tiêu diệt cả thủy thủ và thuyền trưởng trên chiếc thuyền ấy.
Có thể nói, bằng vốn kiến thức phong phú, sự tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân đã sử
dụng kiến thức ở nhiều lĩnh vực như giao thông, điện ảnh, quân sự, võ thuật (“mai phục”,
“chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh
giáp lá cà”, “địn tỉa”, “địn âm”)... làm hiện lên hình tượng con Sông Đà dữ dội, hung
bạo đến khủng khiếp. Con Sơng Đà như một lồi thủy qi, hung hăng, bạo ngược, là
một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông
mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản
ứng giận dỗi vơ tội vạ với người lái đị Sơng Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với
câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh:
Núi cao sông hãy cịn dài
Năm năm báo ốn đời đời đánh ghen.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để thi tài với tạo hố. Ơng dùng những câu góc
cạnh, giàu tính tạo hình, những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập; sử dụng
lối nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị; vận dụng
hiểu biết của nhiều ngành khác nhau: địalý,l ịch sử, hội họa, văn chương và những tri
thức về tự nhiên để khắc họa vẻ đẹp của sơng Đà. Cùng với nghệ thuật nhân hóa, liên
tưởng phong phú, ngịi bút miêu tả độc đáo, con sơng Đà từ một đối tượng vô tri vô giác,
khi bước vào trang văn Nguyễn Tuân đã trở thành một sinh thể có tính cách và tâm lí rất
ghê gớm, đáng sợ.
3.2. Nội dung
Đoạn trích là khúc ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, đầy cá tính của sơng Đà, biểu
tượng cho vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Đó chính là sức mạnh của
thiên nhiên mà con người cần chinh phục và cũng là niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc
hùng vĩ, giàu đẹp. Qua đó ta có thể hình dung những vất vả gian lao mà những người lái

đị phải vượt qua, từ đó ta càng khâm phục hơn ý chí kiên cường và tài trí của họ trong
việc chinh phục con sơng, bắt nó phải quy phục và cống hiến cho cuộc sống của con
người.
3.3. Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tn
- Hình ảnh sơng Đà hung dữ ở một mức độ ghê gớm, hơn tất cả mọi con sông đã
được tái hiện trong văn học, là bởi vì cảm quan sáng tác của Nguyễn Tuân chỉ hứng thú
với những vẻ đẹp vượt lên mức bình thường, gây ấn tượng mãnh liệt.
- Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tn: Ơng
khơng chấp nhận sự sáo mịn. Ơng ln tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối
tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, có ấn tượng
với những sự vật gây cảm giác mạnh (Sông Đà là một sinh thể như vậy). Ơng có xu
hướng muốn tơ đậm cái cá tính, phi thường của dịng sơng Đà để gây cảm giác mãnh liệt,
22


dữ dội. Tác giả bộc lộ sự tinh vi trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ
vừa phong phú vừa tinh tế. Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều
lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng sơng Đà. Nét độc đáo kết hợp với sự tài hoa
và uyên bác trong ngịi bút Nguyễn Tn khiến cho hình tượng sơng Đà trở nên đặc sắc
và đáng nhớ.
- Phong cách nghệ thuật đã thể hiện rõ Nguyễn Tuân là nhà văn có ý thức tự
khẳng định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ơng là người có một lịng u q hương
đất nước tha thiết, một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với
nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý
này.
Đoạn số 3:
…Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vơ sở bất
chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đị […]. Mặt sơng trong tích tắc lịa sáng lên như một
cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ơng đị vẫn cố nén
vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng

đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn
chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ
huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng
thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá ln vịng vây thứ hai và đổi ln
chiến thuật. Ơng lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ơng đã thuộc quy
luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa
trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sơng. Vịng thứ hai
này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua
phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác sơng Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác
hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng
luồng rồi, ơng đị ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng mà phóng nhanh vào
cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải
nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lơi vào tập đồn cửa tử. Ơng đị vẫn nhớ mặt
bọn này, đứa thì ơng tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ơng đè sấn lên mà chặt đôi ra để
mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hị của
sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn khơng ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng
đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh
trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Cịn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên
trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ
của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá
cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một
mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là
hết thác….
(Trích Người lái đị sơng Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập một)
23


Phân tích nhân vật ơng lái đị trong đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xét cái
nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
(Có thể hỏi theo cách khác: khám phá về người lao động mới hoặc tìm thấy chất

vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn Tây Bắc)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung
- Đoạn trích sau đây trong “Người lái đị Sơng Đà” đã làm nổi bật vẻ đẹp của nhân
vật ơng lái đị, thể hiện cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn
Tn: “…Sóng thác đã đánh đến miếng địn… Thế là hết thác””.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát (Có thể lược ngắn gọn hơn)
- Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đị Sơng Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà
(1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong
thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của
nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm
1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và
đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà
văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Lời đề từ: Hai câu đề từ của tác phẩm đã không chỉ thể hiện nguồn cảm hứng mà
còn nêu lên được những ý nghĩa chủ đề của tác phẩm. Ngay từ câu để từ đầu tiên trong
tác phẩm nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sơng”. Có ý
kiến cho rằng lời đề từ này là để ca ngợi vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dịng sơng Đà.
Nhưng khơng chỉ vậy, nó cịn gợi liên tưởng về hình ảnh con người lao động trên dịng
sơng. Tiếng hát ở đây là lời ngợi ca con người trong lao động, chinh phục tự nhiên để xây
dựng cuộc sống. Lời đề từ “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dịng sơng” cịn gợi hình ảnh đẹp
về con người trong lao động, sản xuất mà ở đây nhà văn Nguyễn Tn muốn nhắc đến
hình ảnh ơng lái đị trong tác phẩm. Câu đề từ thứ hai nhấn mạnh vẻ đẹp đầy cá tính, dữ
dội của dịng sơng Đà để từ đó ta có thể hình dung những vất vả gian lao mà những người
lái đò phải vượt qua, càng khâm phục hơn ý chí kiên cường và tài trí của họ trong việc
chinh phục con sơng, bắt nó phải quy phục và cống hiến cho cuộc sống của con người.
- Giới thiệu về nhân vật trong tác phẩm: Nhân vật ơng lái đị khơng có tên tuổi, lai
lịch cụ thể mà chỉ được gọi bằng nghề nghiệp. Nhà văn đã làm mờ tên tuổi của nhân vật
để khái quát vẻ đẹp của con người Tây Bắc, vẻ đẹp của những người lao động bình dị mà

phi thường. Nhà văn Nguyễn Tn giới thiệu “Ơng lái đị Lai Châu bạn tơi” khoảng 70
tuổi. Ơng đã làm nghề lái đị trên Sơng Đà được hơn mười năm, đã xi ngược trên dịng
sơng Đà hàng trăm chuyến để trở thành da trâu, xương hổ, cánh kiến về xuôi và ông cũng
đã không lái đị được khoảng 10 năm. Ở tuổi 70, ngoại hình của ơng lái đị được nhà văn
miêu tả: cái đầu bạc quắc thước, đôi tay dài lêu nghêu trông rất trẻ trung, đôi chân
khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng. Nhãn giới vòi vọi như lúc
nào cũng chờ đợi một cái bến tưởng tượng trong sương mù, giọng nói ào ào như nước
24


mặt gềnh… Có thể nói ngoại hình của ơng lái đị là ngoại hình của một người lao động
trên sơng nước. Trên ngực cịn ơng nổi một số “củ nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân rất
ngưỡng mộ gọi là “thứ huân chương lao động siêu hạng”.
Giống như hầu hết các nhân vật của Nguyễn Tuân như Huấn Cao với nét chữ rồng bay
phượng múa, nói lên cái hồi bão tung hoành của cả cuộc đời con người, giống như một
cụ ấm thức dậy từ tờ mờ sáng đã pha trà để nhận ra trong chén trà “có mùi thơ và một
triết lý”… Hình tượng ơng lái đị Tây Bắc cũng là một người nghệ sĩ trong công việc,
nghề nghiệp của mình. Ơng là tay lái ra hoa, là một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt
thác qua ghềnh, Để làm nổi bật tài hoa, trí dũng của ơng lái đị, nhà văn Nguyễn Tuân đã
sáng tạo ra tình huống nghệ thuật ơng lái đị vượt thác Sơng Đà là một một cuộc thủy
chiến có một khơng hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức
mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ơng lái đị tuy dẻo dai, cường tráng nhưng
đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt.
2. Vẻ đẹp của ơng đị trong đoạn trích
2.1. Tái hiện hình ảnh ơng lái đị trong cuộc giao tranh với dịng Sông Đà
Đoạn văn đã tái hiện cuộc giao chiến của ông lái đò với dòng sông Đà một cách
sinh động, đầy gay cấn. Sơng Đà trong đoạn trích hiện ngun hình là một kẻ thù số một
của con người, như một bầy thủy quái rất nham hiểm, chúng bày sẵn những thạch trận đá
đầy biến hóa với mục đích ăn chết cái thuyền, tiêu diệt thủy thủ và thuyền trưởng ở ngay
chân thác.

- Thạch trận thứ nhất: Ở thạch trận thứ nhất, Sông Đà hiện lên là một đối thủ kiên
cường, lắm mưu nhiều kế: nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh
nằm lập lờ phía tả ngạn sơng. Cảnh hỗn chiến ác liệt bởi Sóng thác đã đánh đến miếng
địn hiểm độc nhất rồi lại đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Thác
nước reo hò làm thanh viện Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác,
chúng tạo ra cảnh tượng đầy đe dọa Mặt sơng trong tích tắc lịa sáng lên như một cửa bể
đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Một bên giao chiến nữa là ơng lái
đị. Trước sự tấn cơng đầy dữ dội của dịng sơng, ông lái đò đã bị thương, mặt méo bệch
đi nhưng ông cố nén vết thương, hai tay giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt lấy cuống lái.
Bằng thể chất dẻo dai, cường tráng, sức chịu đựng phi thường và bằng sự bình tĩnh, tự tin
trên chiếc thuyền sáu bơi chèo vẫn vang lên tiếng chỉ huy ngắn gọn, dứt khoát của người
cầm lái ơng lái đị đã vượt qua thạch trận thứ nhất một cách bình tĩnh, chủ động.
- Thạch trận thứ hai: Không được nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò bước vào ngay
thế trận thứ hai. Thế trận này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa
sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn, vẫn chỉ có một cửa sinh cịn lại đều là luồng
chết. Thác nước Sông Đà được so sánh với sức mạnh của hổ báo và chúng tấn cơng
những người lái đị một cách quyết liệt với dịng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên
sông đá. Nhưng bằng nghệ thuật lái đị điêu luyện, ơng lái đị chủ động thế tấn cơng, ơng
cưỡi lên sóng thác sơng Đà như là cưỡi hổ, “Nắm chặt lấy bờm sóng”, “ghì cuống lái”,
“lái biết một đường chéo để phóng nhanh vào cửa sinh”. Hàng loạt động từ được nhà văn
huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu để miêu tả khí thế xung trận của ơng đị:
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×