Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Luận văn: Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.27 KB, 38 trang )


1


Luận văn
Phát triển khu vực kinh tế tư
nhân trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế

2
LỜI MỞ ĐẦU

Trong nền kinh tế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế như hiện nay thì nó
cũng đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với nước ta. Để có thể thúc đẩy và
phát triển kinh tế-xã hội nước ta, thực hiện chủ chương đường lối CNH-HĐH
của Đảng và Nhà nước thì đòi hỏi lỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước, các
thành phần kinh tế và toàn dân. Trong đó phải kể đến vai trò của khu vực kinh tế
tư nhân, nó là một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống nền kinh tế nước
ta. Những đóng góp của khu vực này cho nền kinh tế là không nhỏ trong những
năm qua. Khu vực kinh tế tư nhân không chỉ đóng góp lớn vào GDP của cả nước
mà nó còn giúp giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động.
Nhưng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì khu vực kinh tế
tư nhân cũng gặp không ít khó khăn, thách thức và cơ hội. Nguyên nhân một
phần là do xuất phát điểm của nước ta còn thấp, đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó còn do thói quen dựa dẫm ỷ lại, tư
duy cũ của thể chế kế hoạch hoá tập trung và những suy nghĩ không đúng đắn
của một số bộ phận công chức công quyền về khu vực này. Từ đó dẫn đến yêu
cầu cấp thiết là phải có những giải pháp hợp lý để phát triển khu vực kinh tế tư
nhân trước thềm hội nhập đang đến gần. Điều đó đòi hỏi phải có sự phối kết hợp
chặt chẽ giữa các Bộ ngành, phía doanh nghiệp …Từ những vai trò và ý nghĩa
trên chúng em quyết định chọn đề tài: “Phát triển khu vực kinh tế tư nhân


trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”để viết.

3
I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN THỜI
GIAN QUA
1. Những chuyển biến của khu vực kinh tế tư nhân
1.1. Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện
1.1.1. cải cách thủ tục hành chính tiếp tục được cải thiện
Trong năm 2004 vấn đề cải cách thủ tục hành chính liên quan đến khu vực
kinh tế tư nhân đã được cộng đồng các doanh nghiệp đánh giá cao. Chính sách
thuế và các vấn đề liên quan đến thuế là một trong những vấn đề bức xúc nhất
của cộng đồng doanh nghiệp nói riêng và khu vực kinh tế tư nhân nói chung
trong nhiều năm qua. Trong năm 2004, chính sách thuế tiếp tục được cải thiện
nhằm tạo “sân chơi” bình đẳng, xoá dần những bất hợp lý, khuyến khích phát
triển kinh tế tư nhân. Quyết định 197/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
có hiệu lực từ ngày 1/1/2004 thí điểm về tự kê khai, tự tính, tự nộp thuế, bỏ cơ
chế thông báo , áp đặt hoặc tính thuế thay doanh nghiệp. Cơ chế tự tính, tự kê
khai, tự nộp thuế năm 2004 được áp dụng thí điểm ở khoảng 300 doanh nghiệp
tại Thành phố Hồ Chí Minh và Quảng Ninh. Kết quả thử nghiệm này sẽ được
xem xét vào năm 2005 và sau đó sẽ mở rộng cho các doanh nhiệp ở các địa
phương khác. Đây là một bước tiến xây dựng một hệ thống tự đánh giá theo
chuẩn mực quốc tế trong việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp .
các quy định về thuế suất ,quy định miễn giảm thuế trong năm 2004 đã có
sự điều chỉnh theo hướng tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế . Mức
thuế thu nhập doanh nghiệp đã được điều chỉnh : mức thuế suất phổ thông đã
được giảm xuống còn 28%, thuế suất ưu đãi là 20%, 15%, và 10% (mức thuế
suất cũ là 32% , 25%, 20% và 15% ); bỏ thuế thu nhập bổ sung đối với doanh
nghiệp trong nước, mở rộng diện thuế ưu đãi, mở rộng diện thuế áp dụng thuế
suất 0% đối với thuế giá trị gia tăng. Đến nay, hầu hết các chính sách thuế đã
được xây dựng trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế,

bảo đảm bình đẳng giữa các đối tượng nộp. Chính sách ưu đãi thuế được áp
dụng chung cho các thành phần kinh tế. Bất kì doanh nghiệp nào, nếu có đủ điều

4
kiện ưu đãi đều có thể được hưởng các ưu đãi theo quy định. Chẳng hạn, tiền sử
dụng đất, các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh tế đều được hưởng các ưu
đãi về khoản thu về đất theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có giá trị sản lượng hàng
xuất khẩu trên 30% giá trị hàng hoá, dịch vụ sản xuất, kinh doanh cũng được
giảm tiền sử dụng đất hoặc miễn tiền thuê đất trong một số năm ; miễn giảm
thuế sử dụng đất với cơ sở sản xuất, kinh doanh được nhà nước giao đất để thực
hiện dự án thuộc ưu đãi đầu tư. Mức ưu đãi tuỳ thuộc vào mức độ đáp ứng các
điều kiện ưu đãi của dự án, không phân biệt loại hình hay thành phần kinh tế .
Ngày5/4/2004, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 53/2004/QĐ-TTg về
một số chính sách khuyến khích đầu tư tại khu công nghệ cao, theo đó nhà đầu
tư sẽ được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập ở mức cao nhất (10% trong suốt
thời gian thực hiện dự án; miễn bốn năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm
50% trong chín năm tiếp theo ) ; ưu đãi về sử dụng đất; cho phép vay vốn tín
dụng trung hạn, dài hạn với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh vốn, hỗ trợ lãi suất sau đầu
tư .v.v
Các hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ đã được hưởng các chính sách ưu
đãi ở mức cao hơn bình thường như: Kinh tế trang trại, làng nghề .v.v Nghành
thuế cũng đã áp dụng phương thức thu thuế hoặc hoàn thuế phù hợp với năng
lực quản lý của các hộ kinh doanh cá thể. Nhiều chính sách tài chính khuyến
khích phát triển kinh tế tư nhân và thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn đã
được sửa đổi, bổ sung như : chính sách khuyến khích nghành nghề nông thôn,
chính sách khuyến tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng, khuyến
khích phát triển các loại hình kinh tế trang trại, dịch vụ nông thôn .
Công tác kiểm tra của hải quan được chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu
kiểm”, thực hiện kiểm tra có trọng điểm, mở rộng diện miễn kiểm tra hoặc kiểm

tra xác suất, giảm bớt các loại giấy tờ trong hồ sơ, thủ tục hải quan.
Các thủ tục hành chính về đăng kí kinh doanh và chế độ báo cáo của
doanh nghiệp tiếp tục được đơn giản hoá, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh

5
nghiệp. Nghị định 109/2004/NĐ-CP ngày 2/4/2004 về đăng ký kinh doanh thay
thế Nghị định 02/NĐ-CP năm 2000, đã đưa ra một số quy định mới thuận lợi
hơn cho đăng ký kinh doanh. Trình tự, thủ tục và hồ sơ thành lập doanh nghiệp
được rút ngắn. Thời gian thành lập doanh nghiệp đã được giảm từ khoảng hơn
90 ngày trước đây, xuống còn 7 ngày, kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ (ở nhiều
địa phương thời gian đăng ký kinh doanh chỉ còn 2-4 ngày ). Thành phố Hồ Chí
Minh đã thử nghiệm đăng ký kinh doanh qua mạng, rút ngắn thời gian đăng ký
kinh doanh còn 1 giờ, chí phí kinh doanh giảm đáng kể .
Theo đánh giá của Ban Chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp, các cơ quan thuế,
hải quan, kho bạc đã bước đầu thực hiện kết nối thông tin với nhau nên đã làm
giảm được khoảng 50% số chi tiêu mà doanh nghiệp cần báo cáo và giúp cho
thủ tục kê khai nộp thuê, hoàn thuế nhanh chóng hơn. Thời gian làm thủ tục
đăng ký mã số thuế và hải quan ở một số địa phương đã giảm xuống còn 10
ngày. Thủ tục mua hoá đơn tài chính cũng đơn giản hơn và khuyến khích doanh
nghiệp tự phát hành hoá đơn. Việc đơn giản hơn các thủ hành chính là một trong
những nhân tố quan trọng làm cho số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và bổ
sung ngành, nghề kinh doanh tăng nhanh trong năm 2004.
1.1.2. Môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế tư nhân cũng tiếp tục
đựơc đổi mới. Cơ sở pháp lý phân định rõ quyền của Nhà nước, của cán bộ,
công chức với quyền của người đầu tư và doanh nghiệp đã được xác định rõ
hơn, từng bước xoá bỏ thói quen ôm đồm, làm thay và gây phiền hà, khó khăn
cho doanh nghiệp từ phía cơ quan Nhà nước. Lần đầu tiên, thẩm quyền cấm hay
hạn chế kinh doanh đựoc giới hạn vào 3 cơ quan thẩm quyền cao nhất (Quốc
hội, Uỷ ban thưòng vụ Quốc hội và Chính phủ ). Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng cho việc bãi bỏ 116 giấy phép, chuyển 46 giấy phép sang điều kiện kinh

doanh không cần giấy phép hoặc sang quản lý theo phương thức khác .
Để tạo môi trường kinh doanh thật sự bình đẳng cho các thành phần kinh
tế, Luật Doanh nghiệp sửa đổi theo hướng thống nhất các loại hình doanh
nghiệp đang được soạn thảo; Luật Đầu tư thống nhất cũng đang được nghiên

6
cứu sửa đổi chuẩn bị nhằm điều chỉnh chung cho cho hoạt động đầu tư cả trong
nước và quốc tế. Dự kiến, năm 2005 sẽ ban hành Luật Đầu tư và Luật Doanh
nghiệp thống nhất .
1.1.3. Công tác quản lý đất đai cũng được cải tiến và phân cấp cụ thể hơn.
Các khâu trung gian và thời gian làm các thủ tục hành chính trong việc giao đất,
thuê đất làm mặt bằng kinh doanh được rút ngắn. Các doanh nghiệp được phép
tự thoả thuận với người có đất trong việc sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất,
kinh doanh thông qua việc nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận
góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Nhiều địa phương đã ban hành các quy định
thông thoáng, minh bạch, đơn giản hơn về quy trình, thủ tục giao đất, cho thuê
đất và quy trình thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng .
Trong năm 2004, Chính phủ đã ban hành 5 Nghị định quy định chi tiết
việc thi hành Luật Đất đai: Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi
hành Luật Đất đai; Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày
16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất; Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP ngày 13/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 về
thu tiền sử dụng đất. Các nghị định này đã tạo điều kiện thuân lợi hơn cho doanh
nghiệp trong việc tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh. Tuy chưa phát
huy tác dụng trong năm 2004, những nghị định trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho các năm tiếp theo trong việc giải quyết các vấn đề bức xúc tồn tại nhiều năm
nay.
Để thực sự tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với

các nguồn vốn vay, Chính phủ đã ban hành một số quyết định mở rộng đôí
tượng được uỷ thác thực hiện tác nghiệp của Quỹ bảo lãnh cho Quỹ hỗ trợ phát
triển; giao hoặc uỷ thác cho quỹ đầu tư tài chính địa phương. Ngân hàng nhà
nước và các ngân hàng thương mại cũng đã có các quy định thông thoáng hơn,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh cá thể, chủ trang trại tiếp

7
cận thuận lợi hơn với các nguồn vốn tín dụng. Vì vậy, số lượng các doanh
nghiệp, hộ kinh doanh cá thể tiếp cận được với các nguồn vốn tín dụng chính
thức đã tăng lên đáng kể.
Trong những năm gần đây và năm 2004, Chính phủ, các bộ ngành và một
số địa phương đã có nhiều biện pháp góp phần giúp cho doanh nghiệp giảm chi
phí sản xuất, nâng cao hơn hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tính đến cuối năm
2004, đã bãi bỏ 343 loại phí và lệ phí, đã thống nhất áp dụng mức thu và giảm
thu đối với hàng chục loại phí và lệ phí với mức giảm bình quân chung là 20%,
giãn cách các mức phí, cải tiến quy trình thu phí, giảm giá cước và các dịch vụ
viễn thông đến mức thấp hơn hoặc tương đương với mức bình quân khu vực,
bình ổn giá xăng, xi măng.
Trong năm 2004, hệ thống tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp tiếp tục được hình
thành, phát huy tác dụng tích cực đối với các doanh nghiệp. Hình thành nhiều tổ
chức hỗ trợ gồm các quỹ, các trương trình hỗ trợ, các câu lạc bộ, các trung tâm
hỗ trợ cung cấp thông, hỗ trợ tư vấn đào tạo …Nhiều bộ, ngành đã thành lập
các tổ chức hỗ trợ phát triển doanh nghiệp như: Cục xúc tiến thương mại (Bộ
thương mại ), Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp (Bộ tư pháp), Trung tâm thông
tin doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Để đáp ứng kịp thời yêu cầu của doanh nghiệp, trong năm 2004, Chính
phủ đã giao trách nhiệm cho các cơ quan hữu quan tập hợp và đề xuất cách giải
quyết các kiến nghị của doanh nghiệp về thể chế, chính sách, đồng thời lập các
nhóm công tác gồm cán bộ có trách nhiệm của một số ngành, đặc biệt là thuế hải
quan, quản lý đất đai, ngân hàng trực tiếp đến các địa phương giải quyết tại chỗ

các vướng mắc của doanh nghiệp. Ở nhiều địa phương như Hà Nội, Hải Dương,
Hải Phòng, Nghệ An, Thành phố Hồ Chí Minh v.v , lãnh đạo các tỉnh, thành
phố cũng đã định kỳ tổ chức gặp các doanh nghiệp, không phải hàng năm mà
hàng quý, hàng tháng và đã có các biện pháp rất cụ thể để giải quyết kịp thời các
vướng mắc của doanh nghiệp.
Về cơ cấu loại hình doanh nghiệp

8
Tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đăng ký giảm
từ 64% trong giai đoạn 1991-1999 xuống còn 34% giai đoạn 2000-2004. Trong
khi đó, cùng với khoảng thời gian trên, tỷ trọng công ty trách nhiệm hữu hạn và
công ty cổ phần tăng từ 36% lên 66%. Trong hơn 4 năm qua, có khoảng 7.165
công ty cổ phần đăng ký thành lập, gấp 10 lần so với giai đoạn 1991-1999. Sự
thay đổi về tỷ lệ loại hình doanh nghiệp mới cho thấy các nhà đầu tư trong nước
đã nhận thức được những điểm lợi và bất lợi của từng loại hình doanh nghiệp;
có xu hướng lựa chọn loại hình doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để doanh
nghiệp ổn định, phát triển không hạn chế về quy mô và thời hạn hoạt động với
quản trị nội bộ ngày càng chính quy và minh bạch hơn. Thực tế nói trên phần
nào chứng tỏ các nhà đầu tư đã tin tưởng vào đường lối, luật pháp và cơ chế
chính sách, có xu hướng đầu tư dài hạn hơn, công khai hơn và quy mô lớn hơn.

Hình 1. Số lưọng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
thời kỳ 1992-2004



Nguồn: cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2004

Điều đáng quan tâm là số lượng vốn huy động được qua đăng ký thành lập
mới và mở rộng quy mô tăng mạnh mẽ. Trong 4 năm các doanh nghiệp đã đầu

tư (gồm cả đăng ký mới và đăng ký bổ sung) đạt trên 182.175 tỷ đồng (tương
đương khoảng 12,1 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong

9
cùng thời kỳ); trong đó năm 2000 là 1,3 tỷ USD, năm 2001 là 2,3 tỷ USD, năm
2002 là gần 3 tỷ USD, năm 2003 khoảng 3,6 tỷ USD và hết tháng 5-2004
khoảng 1,8 tỷ USD. Riêng số vốn mới đăng ký giai đoạn 2000-2003 đã cao gấp
hơn 4 lần so với 9 năm trước đây (1991-1999). Vốn đăng ký mới ở tất cả các
tỉnh thành phố từ năm 2000 đến tháng 7-2003 đều cao hơn số vốn đăng ký thời
kì 1991-1999. Trong đó, có 33 tỉnh, thành phố đạt tốc tăng cao gấp hơn 4 lần; có
11 tỉnh đạt tốc độ tăng cao hơn 10 lần; thậm chí có những tỉnh như: Quảng Ninh,
Vĩnh Phúc, Hưng Yên …đạt tốc độ hơn 20 lần. Xét về tỷ lệ gia tăng, vốn đăng
ký mới ở các tỉnh, thành phố phía bắc tăng nhanh và cao hơn nhiều so với các
tỉnh khác, nhất là các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung.
Hình 2. Số vốn đăng ký hàng năm của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
thời kỳ 1998-2004

Đơn vị: tỷ đồng

Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2004

Kết quả là tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong tổng đầu toàn
xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 25,3% năm 2002; và
năm 2003 trên 27%. Tỷ trọng đầu của các doanh nghiệp tư nhân trong nước liên
tục tăng và đã vượt lên hơn hẳn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước
(DDNN), gần bằng tổng vốn đầu tư của DDNN và tín dụng nhà nước. Vốn đầu
tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là
nguồng vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương. Ví dụ, đầu tư
10


của các doanh nghiệp dân doanh năm 2002 ở thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm
38% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của DDNN và
ngân sách nhà nước gộp lại (36,5%).
Quy mô doanh nghiệp ngày càng tăng. Thời kỳ 1991-1999 vốn đăng ký
bình quân/doanh nghiệp là gần 0,57 tỷ đồng, năm 2000 là 0,96 tỷ đồng, năm
2001 là 1,3 tỷ đồng, năm 2002 là 1,8 tỷ đồng: 7 tháng đầu năm 2003 là 2,12 tỷ
đồng. Doanh nghiệp đăng ký vốn thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là 200 tỷ
đồng (hơn 13 triệu USD). Nhìn chung, số vốn đăng ký cao nhất phổ biến ở các
địa phương là 10 tỷ đồng. Ở Quảng Nam, mức vốn đăng ký bình quân/doanh
nghiệp thấp nhất (422 triệu đồng ), tiếp đó là Nam Định 544 triệu đồng, mức
vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp cao nhất là ở Hưng Yên, gần 3 tỷ đồng;
tiếp đó là Quảng Ninh và Bình Dương gần 2,5 tỷ đồng; mức vốn đăng ký bình
quân/doanh nghiệp ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng 1,25 tỷ
đồng .
Vốn đầu tư thực tế. Đây là một vấn đề khó xác định chính xác, nhưng qua
phản ánh từ nhiều nguồn thông tin đều cho thấy số vốn thực tế cao hơn nhiều so
với số vốn đăng ký. Đánh giá này có thể được khẳng định qua khảo sát thực tế ở
một số tỉnh. Ví dụ, ở tỉnh Nam Định số vốn đăng ký của các doanh nghiệp năm
2002 là 84,5 tỷ đồng, thì số vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp tại khu
công nghiệp Hoà Xá đã lên tới gần 700 tỷ trong cùng thời kỳ; ở tỉnh Lào Cai,
trong khi vốn đăng ký kinh doanh năm 2002 chỉ khoảng 93 tỷ, thì vốn đầu tư
thực hiện của các doanh nghiệp là 422 tỷ, trong đó phần quan trọng là của khuc
vực kinh tế tư nhân. Tình hình cũng tương tự ở Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Bình
và một số nơi khác.
Bảng 2. Vốn đăng ký trung bình của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thời
kỳ 1991-2004

Đơn vị tính: triệu đồng
Lo
ại h

ình doanh
1991
-
1999

2000

2001

2002

2003

2004

11

nghiệp 1998
Doanh nghiệp tư
nhân
Công ty TNHH
Công ty cổ phần
Công ty hợp danh

197

1.006
11.832
-
400


1.360
5.136
-
439

1.091
4.223
550
546

1.276
4.923
88
629

1.513
6.473
-
665

1.577
6.675
300
621

1.603
5.783
981
Tổng 570 1.099 960 1.300 1.800 2.120 2.015



Thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (KKĐTTN), theo thống
kê chưa đầy đủ, sau 9 năm thực hiện (1996-2003), cả nước đã có 12.638 dự án
được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, với tổng số vốn đầu tư thực hiện trên
192.484 tỷ đồng (tương đương 12,8 tỷ USD). Trong đó, giai đoạn 1996-1997 là
trên 1,2 tỷ USD, năm 2000 là 1,7 tỷ USD, năm 2002 là 2,8 tỷ USD. Đến nay, tỷ
trọng của doanh nghiệp dân doanh liên tục tăng và đã vượt lên hẳn tỷ trọng đầu
tư của DNNN tương đương là 62,3% và 37,7% . Các dự án đầu tư theo Luật
KKĐTTN đã thu hút và tạo việc làm cho 1.516.456 lao động. Tính bình quân
mỗi dự án có số vốn đầu tư khoảng 15,2 tỷ đồng và thu hút khoảng 120 lao
động. Một điểm đáng ghi nhận nữa là sự hưởng ứng của các nhà đầu tư Việt
Kiều với Luật này và cơ chế, chính sách tạo diều kiện đầu tư về nước: tính đến
tháng 12-2003, trên cả nước có 1.200 dự án với lượng vốn đầu tư khoảng 2.500
tỷ đồng.

Bảng 3: Số lượng dự án được hưởng ưu đãi đầu tư theo ngành nghề, địa bàn (1996-
6/2004)

D
ự án
ưu đ
ãi
theo ngành nghề
và địa bàn
S
ố dự án

V
ốn đầu t

ư (t

đồng)
Lao đ
ộng(ng
ư
ời)

12

Số dự án ưu đãi theo
ngành nghề
Số dự án được ưu
đãi theo địa bàn :
- Địa bàn kinh
tế xã hội khó khăn
- Địa bàn kinh
tế xã hội đặc biệt
khó khăn
6.496



1.863


550
63.135




8.350


1.720
789.069



165.080


76.540

Nguồn: Viện nghiên cứu QLKTTƯ tổng hợp qua báo cáo của các tỉnh/thành phố
1.3. Tạo nhiều công ăn việc làm mới
Nước ta hàng năm có thêm khoảng 1,4-1,5 triệu người đến tuổi tham gia
thị trường lao động. Ngoài ra, số lao động nông nghiệp có nhu cầu chuyển sang
làm việc trong các ngành phi nông nghiệp cũng không nhỏ. Nhu cầu hàng năm
phải tạo thêm được hàng triệu việc làm đang là một áp lực xã hội mạnh đối với
chính phủ và các cấp chính quyền địa phương
Thực tế ở địa phương cho thấy, 1 ha trồng lúa chỉ giải quyết dược 5 lao
động (gồm 2 thường xuyên và 3 thời vụ) và có doanh thu từ 20-30 triệu đồng,
hàng năm 1 ha trồng cây lâu năm cho doanh thu từ 40-50 triệu đồng .Trong khi
1 ha đất phục vụ phát triển công nghiệp có thể sử dụng hàng chục hàng trăm lao
động mỗi năm với thu nhập bình quân mỗi năm gần 10 triệu đồng. Theo điều
tra gần đây của Viện nghiên cứu Trung ương, các doanh nghiệp kinh tế tư nhân
đầu tư trung bình từ 70-100 triệu đồng là đã tạo ra một chỗ việc làm, trong khi
đó với doanh nghiệp nhà nước, thì doanh số từ 210 đến 280 triệu đồng (cao gấp
3 lần), Với suất đầu tư cho một chỗ làm bình quân như vậy, trong 4 năm qua khu

vực kinh tế tư nhân thu hút được phần lớn nhân công lao động (khoảng từ 1,6
đến 2 triệu chỗ làm việc mới).
Kết quả sơ bộ tình hình thực hiện luật KKĐT cho thấy , trong 9 năm
thực hiện đã có trên 1,5 triệu lao động được làm trong các dự án thực hiện theo
13

Luật. Riêng khu vực kinh tế dân doanh đã tạo ra hơn 1 triệu việc làm trực tiếp và
hàng nghìn lao động gián tiếp, đưa tổng số lao động gián tiếp làm trong các
doanh nghiệp dân doanh xấp xỉ bằng tổng các doanh nghiệp nhà nước; và đưa
tổng số lao động làm trong các doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân lên
hơn 7 triệu người. Đây là sự đóng góp tích cực vào ổn định chính trị xã hội, xoá
đói giảm nghèo, nâng cao nhận thức của lao động nông thôn
1.4. Góp phần cân bằng ngoại tệ thông qua xuất khẩu
Nhiều sản phẩm xuất khẩu của nước ta hiện nay đều do khu vực kinh
tế tư nhân sản xuất, như: hàng may mặc, giầy dép, đồ da, hàng thuỷ hải sản, cà
phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, v.v Theo đánh giá của Bộ Thương mại, khu vực
kinh tế tư nhân, mà chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm và thành phố trực
thuộc trung ương, đóng góp gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước
trong các năm qua. Với xu thế phát triển này, kinh tế tư nhân sẽ là khu vực tạo
nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước trong tương lai.
Tuy vậy, xuất khẩu của các doanh nghiệp khu vục kinh tế tư nhân ở nhiều
địa phương còn nhỏ và có tỷ lệ chênh lệch giữa các vùng và các tỉnh. Doanh
nghiệp ở các tỉnh phía Nam đóng góp nhiều hơn vào kim ngạch xuất khẩu ở địa
phương trong lúc đó ở các tỉnh phía Bắc nhìn chung còn chưa đáng kể. Các
doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Hà Nội chỉ chiếm khoảng 25% tổng kim
ngạch xuất khẩu của thành phố, khoảng hơn 7% tổng giá trị xuất khẩu của cả
nước (ở Tp.Hồ Chí Minh là 12,5%). Nhìn chung, tỷ lệ này ở địa phương là rất
thấp, dưới 10%; tuy nhiên cũng có một số cá biệt như; Hà Giang chiếm 60%
xuất khẩu của địa phương, Quảng Ngãi 34%, Bình Thuận 45%.
1.5. Đóng góp vào nguồn thu ngân sách

Đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân vào nguồn
ngân sách nhà nước đang có xu hướng tăng lên trong mấy năm gần đây, từ
khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7,4% năm 2002 (tỷ lệ tương ứng của doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 5,2% và 6%, của DNNN là
21,6% và 23,4% ). Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh
14

năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Năm 2003, số thu
từ doanh nghiệp dân doanh chiếm 15% tổng số thu tăng 29,5% so với cùng kỳ
các năm trước.
So với ngân sách trung ương, đóng góp của các doanh nghiệp dân doanh
trong nguồn thu của ngân sách địa phương lớn hơn nhiều. Ví dụ, Thành phố Hồ
Chí Minh đóng góp của doanh nghiệp dân doanh trong tổng thu của ngân sách
địa phương là 15%, Tiền Giang 24%, Đồng Tháp 16%, Gia Lai 22%, Ninh Bình
19%, Yên Bái 16%, Thái Nguyên 17%, Quảng Nam 22%, Bình Định 33% v.v
Nhìn chung đóng góp trực tiếp vào nguồn ngân sách nhà nước của các
doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể theo Luật Doanh nghiệp trong mấy năm qua
là chưa tương xứng với tốc độ phát triển của khu vực kinh tế này. Ngoài đóng
góp vào ngân sách, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp còn tích cực tham gia
đóng góp xây dựng các công trình văn hoá, trường học, đường giao thông nông
thôn, nhà tình nghĩa và những đóng góp phúc lợi xã hội khác ở các địa phương
trong cả nước.
1.6. Góp phần phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Từ năm 2000 đến nay, thực hiện Luật Doanh nghiệp, Luật KKĐTTN và
các cơ chế, chính sách của Nhà nước hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế mũi
nhọn, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng, vốn đầu tư đến
quy mô hoạt động, đã đóng góp phần không nhỏ vào phục hồi và thúc dẩy tăng
trưởng kinh tế. Tác động tích cực này được chuyển tải thông qua tăng thêm vốn
đầu tư, thu hút thêm lao động, phát huy được trí tuệ và sức sáng tạo của người
dân, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng cầu thị trường nội địa, tăng hiệu quả nền

kinh tế nhờ tăng thêm tính cạnh tranh trên thị trường v.v…
Về sản xuất công nghiệp, giá trị sản xuất của doanh nghiệp khu vực kinh
tế tư nhân tăng một cách đột biến, từ 11% năm 1999 lên 18,3% năm 2000 và
tiếp tục duy trì ở mức cao 20,3% năm 2001, 19,3% năm 2002, 8 tháng đầu năm
2003 là 18,4% (so với cùng kỳ năm 2002). Trong 8 tháng đầu năm 2004, giá trị
sản xuất ở một số địa phương tăng với mức cao như Hà Nội: 25,8%, Hải Phòng:
15

23%, Hà Tây: 38,4%, Hải Dương: 25,2%, Vĩnh Phúc 27,2%, Bình Dương:
25,6% và cần thơ: 50,3%. Doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm một phần
không nhỏ trong hầu hết các ngành công nghiệp chủ yếu: chiếm 50% giá trị
công nghiệp chế biến thuỷ sản, công nghiệp giấy bìa, 30% công nghiệp may mặc
v.v Đến nay, tỷ trọng giá trị sản xuất của doanh nghiệp tư nhân trong công
nghiệp chiếm 26,5% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, tăng 1,85 điểm phần
trăm so với thực hiện ở thời điểm cuối tháng 12 năm 2004, và 4 điểm phần trăm
so với kết quả đạt được vào cuối năm 2000, năm đầu tiên thực hiện Luật Doanh
nghiệp.
1.7. Góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ
Trong những năm gần đây, đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh
nghiệp đã có dấu hiệu gia tăng, chủ yếu do xuất hiện của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài vào việt Nam mang theo những công
nghệ và kỹ năng quản lý mới, đồng thời tạo ra sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp
trong nước ứng dụng tiến bộ công nghệ tiên tiến để duy trì thị phần của mình
trên thị trường. Năm 2002, ước tính cả nước có khoảng 200 hợp đồng chuyển
giao công nghệ, trong đó khoảng 90% số hợp đồng là của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Như vậy, mức độ đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh
nghiệp Việt Nam còn rất thấp so với yêu cầu phát triển. Cho đến nay, mới chỉ có
một số DNNN quy mô lớn (chủ yếu là các tổng công ty 90, 91) có cơ sở hoạt
động nghiên cứu và phát triển công nghệ. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư cho
nghiên cứu, triển khai của khối DNNN ở Việt Nam cũng còn ở mức thấp,

khoảng 0,2% doanh thu, qúa thấp so với tỷ trọng 5-10% của doanh nghiệp các
nước phát triển. Trong khi đó, khu vực kinh tế tư nhân hầu như chưa tham gia
hoạt động nghiên cứu và triển khai. Trong ba giai đoạn phát triển công nghệ là
tiếp thu, làm chủ công nghệ và sáng tạo công nghệ, hầu hết doanh nghiệp Việt
Nam chỉ dừng ở giai đoạn tiếp thu công nghệ một cách thụ động thông qua nhập
khẩu máy móc và thiết bị. Trong công nghệ nhập khẩu, tỷ trọng giá trị phần
mềm công nghệ chỉ chiếm khoảng 17% tổng giá trị nhập khẩu, còn lại chủ yếu
16

là phần cứng và máy móc, thiết bị. Các doanh nghiệp hiện chưa có động lực
nghiên cứu đổi mới công nghệ để tiếp cận dần tới khả năng sáng tạo công nghệ.
Hàm lượng công nghệ cao và chât xám trong hàng hoá của doanh nghiệp Việt
Nam còn thấp, sản phẩm được làm ra chủ yếu mới dựa vào vốn và lao động.
Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Ngoài nguyên nhân khách
quan là do nền kinh tế Việt Nam có quy mô sản xuất nhỏ và manh mún, trình độ
chuyên môn hoá chưa cao, nguồn vốn tài chính và vốn nhân lực hạn chế, còn có
những nguyên nhân khác như môi trường kinh doanh hiện tại chưa tạo áp lực
đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư đổi mới công nghệ. Chính sách bảo hộ bất hợp
lý, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế cơ chế
bao cấp, nhiều đặc quyền còn tồn tại với một bộ phận doanh nghiệp, sự bất ổn
định trong cơ chế chính sách là những yếu tố làm cho các doanh nghiệpViệt
Nam có xu hướng muốn tìm kiếm những lợi ích đặc quyền chính có được lợi ích
ngắn hạn hơn là xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn,v.v
2. Những hạn chế trong phát triển kinh tế tư nhân
2.1. Những mặt hạn chế
Có thể nói, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam còn yếu kém về đầu tư vốn,
trình độ công nghệ, tay nghề của công nhân, năng lực quản lý và những yếu tố
khác, cũng như còn gặp khó khăn trong việc duy trì lợi nhuận và đảm bảo sức
cạnh tranh cần thiết.
Nhìn chung, tuy các doanh nghiệp tư nhân còn đang chiếm tỷ trọng lớn

trong nền kinh tế, song quy mô còn quá nhỏ bé, quá yếu ớt để có thể cạnh tranh
để có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Trình độ và kỹ năng quản lý còn yếu kém, khó ứng phó trước những tác
động bên ngoài, hạn chế về khả năng ngoại ngữ, thiếu thông tin về thị trường.
Khả năng tài chính còn hạn chế, dẫn đến quy mô kinh doanh nhỏ bé,
không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Kém hiểu biết về luật pháp.
2.2. Những vấn đề bức xúc cần giải quyết
17

2.2.1. Vấn đề đất đai
Luật Đất đai năm 2003 và các nghị định hướng dẫn thi hành Luật được
ban hành trong năm 2004 là khung pháp luật rất quan trọng, mang tính đột phá,
dỡ bỏ nhiều rào cản, vướng mắc cho các doanh nghiệp, tạo sự bình đẳng giữa
các doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân về
quyền có mặt bằng sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn rất
nhiều tồn tại cần phải khắc phục, trong đó có ba nhóm vấn đề bức xúc nhất:
Thứ nhất, cơ chế quản lý nhà nước về đất đai. Hiện tại, vẫn còn nhiều đầu
mối trong việc quản lý đất đai dẫn đến khó khăn khi xác định vai trò, trách
nhiệm của cơ quan quản lý khác nhau. Thực tế là ở cấp địa phương, doanh
nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn khi phải tiếp cận với nhiều cơ quan chức năng
khác nhau để giải quyết vấn đề đất đai, mặt bằng sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, vấn đề quy hoặch đất. Nhiều doanh nghiệp rất bức xúc trước tình
trạng nhiều thông tin không rõ ràng, không đầy đủ về quy hoạch cũng như kế
hoạch sử dụng đất của địa phương. Tình trạng các địa phương không làm tốt
công tác quy hoạch đất đai và tình trạng quản lý nhà nước về đất đai yếu kém
đang là hiện tượng phổ biến ở các địa phương. Điều này gây khó khăn cho nhiều
doanh nghiệp trong việc tìm kiếm mặt bằng sản xuất, bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và
đầu tư mở rộng sản xuất. Cho đến năm 2004, tỷ lệ doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế tư nhân tiếp cận đất đai cho kinh doanh vẫn còn rất thấp. Thủ tục để

doanh nghiệp sử dụng đất trong các KCN còn rất phức tạp, mất nhiều thời gian;
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn còn rất chậm khiến doanh
nghiệp không yên tấm sản xuất, hạn chế quyền thế chấp để vay vốn. Nhiều
doanh nghiệp cho rằng, các chính sách tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất, kinh
doanh hiện nay dường như mới chỉ phục vụ cho một nhom đối tượng doanh
nghiệp có quy mô lớn, trong khi đó ở nước ta hiện nay, có tới 96% doanh nghiệp
là quy mô vừa và nhỏ. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể vào
được các khu công nghiệp do giá thuê đất qúa cao.
18

Thứ ba, vẫn còn tồn tại bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong việc sử dụng đất làm mặt
bằng sản xuất kinh doanh: doanh nghiệp nhà nước được giao đất không thu tiền
sử dụng đất; chủ chương về giá trị tài sản của doanh nghiệp nhà nước phải bao
gồm giá trị quyền sử dụng đất chưa được thực hiện nhất quán.
2.2.2. Vấn đề thuế và hải quan
Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới cơ chế, chính
sách theo hướng thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, nhưng vấn đề bức
xúc nhất hiện nay là việc thực thi chính sách còn yếu kém. Nhiều chính sách về
thuế, hải quan đã được Chính phủ, Bộ Tài chính hứa hẹn giải quyết trong các
cuộc tiếp xúc, đối thoại với doanh nghiệp trước đây, nhưng cho đến cuối năm
2004 vẫn còn rất nhiều vướng mắc. Khuôn khổ pháp lý và chính sách vẫn chưa
thực sự đến với các doanh nghiệp. Kết quả khảo sát của Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam cho thấy mới có khoảng 50% doanh nghiệp hài lòng với
các thủ tục và công chức của ngành thúê. Trong hơn một năm, kể từ Hội nghị
Thủ tướng Chính phủ gặp doanh nghiệp tháng 3 năm 2003 đến Hội nghị tháng
10 năm 2004 đã có trên 1.000 kiến nghị của doanh nghiệp về lĩnh vực thuế và
hải quan. Các vướng mắc của doanh nghiệp trong lĩnh vực thuế và hải quan thể
hiện ở một số vấn đề chủ yếu sau:
Xác định thuế GTGT đầu vào và thủ tục hoàn thuế GTGT là hai vấn đề

bức xúc nhất của doanh nghiệp. Về tính hợp lệ của các khoản thuế GTGT đầu
vào, doanh nghiệp gặp nhiều vướng mắc trong việc xác minh hóa đơn GTGT.
Việc chứng minh các nguồn gốc các khoản chi phí mua ngoài trị giá từ 100.000
đồng trở lên bằng hoá đơn đã gây ra nhiều trở ngại cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Thực tế là nhiều đối tượng cung cấp hàng hóa, dịch vụ
cho doanh nghiệp không có hoặc không đăng ký mua hoá đơn với cơ quan thuế
(như nông dân, các hộ kinh doanh cá thể bán nông sản, dịch vụ). Như vậy, khi
mua hàng hóa, dịch vụ đầu vào của các cơ sở hoặc cá nhân không có hoá đơn
GTGT thì doanh nghiệp không được tính vào chi phí hợp lý và buộc phải chịu
19

thuế, hoặc khi xác minh tính hợp lệ của cơ sở sản xuất hoá đơn, cơ quan thuế
không tìm được vì cơ sở đó đã chấm dứt hoạt động (bỏ trốn) thì cơ quan thuế lại
không cho doanh nghiệp được sử dụng những hoá đơn này để khấu trừ và thậm
chí còn phạt doanh nghiệp mua hàng. Đây là một nghịch lý vì trách nhiệm quản
lý, kiểm tra việc sử dụng và thu hồi hoá đơn của các cơ sở đã chấm dứt hoạt
động là của cơ quan thuế.
Theo quy định, từ lúc doanh nghiệp nộp hồ sơ xin hoàn thuế thì cơ quan
thuế phải giải quyết trong thời hạn không qúa 60 ngày. Trong thực tế, nhiều
doanh nghiệp phải chờ từ 3-6 tháng, cá biệt có một số doanh nghiệp phải chờ từ
2-3 năm.
Thời gian hoàn thuế kéo dài làm cho nhiều doanh nghiệp không thể tận
dụng nguồn tài chính của mình phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhiều doanh nghiệp phải vay vốn ngân hàng, chịu lãi trong khi chờ đợi được
hoàn thuế, hàng tỷ đồng vốn thực có của doanh nghiệp đang bị cơ quan thuế kìm
giữ, làm giảm khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp chỉ được đưa chi phí khoản chi
cho hoạt động quảng cáo, tiếp thị… tối đa là 10% của tổng các chi phí hợp lý.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, quảng cáo và tiếp thị là một phần quan trọng
của chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp mới

thành lập. Thực tế cho thấy, trong thời gian đầu, chi phí quảng cáo tiếp thị có thể
lên tới 30% tổng chi phí của doanh nghiệp. Như vậy, quy định khống chế 10%
đã làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn, do đó, quảng
cáo trên báo, đài chỉ là sân chơi của các doanh nghiệp lớn.
Thuế nhập khẩu của một số loại hàng hóa không hợp lý đang làm cho
nhiều doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh trên thị trường nội địa.
Chính sách thuế không ổn định, việc hướng dẫn thực hiện chưa thực sự
chi tiết, trong khi thực tiễn lại có nhiều hoạt động phát sinh dẫn đến cách hiểu,
cách thực hiện khác nhau, thiếu đồng bộ, chưa thống nhất và doanh nghiệp bị
thiệt thòi. Việc áp mã số hàng hoá, thuế suất hàng hóa trong nước trong nhiều
20

trường hợp còn lúng túng, một số tiêu thức phân biệt chưa rõ ràng đã gây khó
khăn cho doanh nghiệp trong kê khai, khấu trừ thuế. Các quy trình giải quyết
hoàn thuế, thủ tục hải quan, phân loại hàng hoá, áp mã số thuế, giá tính thuế
v.v vẫn còn chậm so với yêu cầu; hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan
thuế, hải quan và các cơ quan chức năng khác còn chồng chéo, thiếu sự phối
hợp, không sử dụng kết quả của nhau; thiếu sự bình đẳng giữa các cơ quan thuế
và doanh nghiệp trong xử lý truy thu, phạt chậm nộp, hoàn thuế chậm hoặc gây
thiệt hại, khó khăn cho doanh nghiệp. Một số cán bộ trong ngành thuế còn gây
phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp.
2.2.3. Thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính rườm rà đang là rào cản lớn đối với các doanh nghiệp.
Theo Hội hội Công thương Thành phố Hà Nội, sau khi đăng ký kinh doanh,
doanh nghiệp còn phải hoàn tất nhiều thủ tục khác nữa và mất nhiều thời gian thì
mới có thể chính thức hoạt động như xin phép khắc dấu, đăng ký mã số thuế, xin
cấp sổ mua hoá đơn… sau khi nhận giấy đăng ký kinh doanh, trung bình một
doanh nghiệp phải mất từ 54 – 63 ngày mới có thể hoàn thành hàng loạt công
đoạn với nhiều thủ tục. Cho đến nay, khi gia nhập thị trường, doanh nghiệp còn
phải trải qua 6 bước: 1) đăng ký kinh doanh; 2) khắc dấu; 3) đăng ký mã số thuế;

4) đóng thuế môn bài; 5) mua hoá đơn lần đầu; 6) đăng báo. Doanh nghiệp chi
phí khoảng 170 USD (1/3 GDP bình quân/người) để hoàn thành công đoạn gia
nhập thị trường. Trong khi đó, ở Australia chỉ cần 2 thủ tục và 2 ngày với chi phí
2% GDP bình quân/người; Singapore chỉ cần 7 thủ tục trong 8 ngày với chi phí
bằng 1,2% GDP bình quân/người để thành lập doanh nghiệp.
Cho đến nay, một số bộ, UBND tỉnh vẫn có lệnh cấm kinh doanh áp dụng
riêng cho ngành, địa phương mình, phổ biến nhất là nhóm ngành, nghề được coi
là nhạy cảm. Trong hơn 4 năm qua, Thủ tướng Chính phủ đã ba lần chỉ thị
UBND các địa phương bãi bỏ ngay các quy định không đúng thẩm quyền về tạm
dừng hoặc cấm kinh doanh. Tuy nhiên, hiện tượng này không giảm mà còn tăng
lên. Theo thống kê chưa đầy đủ của Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp,
21

đến tháng 6 năm 2004 vẫn còn một số bộ và 12 tỉnh/thành phố còn duy trì các
lệnh cấm, hoặc tạm dừng đăng ký kinh doanh không đúng với quy định của Luật
Doanh nghiệp. Trong bốn năm qua, đã có hàng chục giấy phép được ban hành
mới, không ít hiện tượng làm trái quy định về đăng ký kinh doanh vẫn tiếp tục
tồn tại như đòi nộp thêm hồ sơ trái quy định (xác nhận lý lịch tư pháp của người
chủ doanh nghiệp, xác nhận địa chỉ, trụ sở chính, chi nhánh và văn phòng đại
diện v.v ), xác nhận hợp đồng thuê trụ sở, địa điểm kinh doanh, đòi hỏi giấy
chứng nhận điều kiện kinh doanh trước khi thành lập doanh nghiệp.
Cộng đồng doanh nghiệp cho rằng, thủ tục hành chính là một khâu có tốc
độ chuyển biến chậm mặc dù nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao năng
lực cạnh tranh. Nhiều thủ tục mặc dù đã được cải hiện song vẫn chưa đáp ứng
được với những thay đổi môi trường bên ngoài, không so sánh được với những
cải cách của các nước trong khu vực. Các doanh nghiệp đang thực sự bức xúc
với những vướng mắc trong thủ tục, trong cách hành sử của một bộ phận công
chức đối với các quy định của luật pháp. Tình trạng chậm trễ trong việc thực
hiện các chính sách đang trở lên khá phổ biến trong các cơ quan hành chính. Sự
nhất quán trong cơ chế chính sách, giữa các quy định pháp luật và việc thực thi

chính sách của các cấp chính quyền đang nổi lên như là điểm nóng nhất.
2.2.4. Môi trường pháp lý vẫn đang là vấn đề bức xúc nhất đối với khu
vực kinh tế tư nhân.
Một số văn bản pháp lý chưa theo kịp với các chế tài quy định trong Luật
Doanh nghiệp. Sự chậm chễ trong việc ban hành các văn bản pháp lý vẫn là hiện
tượng phổ biến như thông tư hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghế tư nhân pháp
lý, hướng dẫn xác định thân nhân người thành lập doanh nghiệp.
Trên thực tế, môi trường kinh doanh sau Luật vẫn chưa thực sự bằng
phẳng, thậm chí có những tác động làm méo mó thể chế kinh tế thị trường như
xu hướng hình thành sự hoá các quan hệ dân sự. Một số bộ ngành và địa phương
có lúng túng trong công tác quản lý, chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn,
thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp. Những bức xúc về môi trường pháp lý cũng
22

như sự yếu kém, bất cập của các cơ quan quản lý nhà nước ở một số nơi đã làm
sai lệch, méo mó những chủ trương, chính sách của Đảng kìm hãm sự phát triển
của kinh tế tư nhân.
Chi phí trung gian vẫn đang ở mức cao làm giảm khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập. Hiện nay, giá thành một số sản phẩm
đầu vào của doanh nghiệp cao hơn các nước ASEAN và Trung Quốc từ 1,2 đến
1,5 lần. Chẳng hạn, giá điện, dầu, than, ga ở nước ta cao hơn 30% đến 40%; chi
phí vận tải cao hơn 1,5 lần; cước điện thoại Internet vẫn cao hơn 6 lần so với
Singapore, gần 5 lần so với Philipines, 3 lần so với Indonesia. Ngoài ra, các
doanh nghiệp còn phải đóng nhiều lệ phí, loại phí khác. Mức chi phí đầu vào cao
đã tác động đến giá thành sản phẩm làm cho kinh tế tư nhân khó có khả năng
cạnh tranh trên thị trường nội địa và hạn chế vươn ra chiếm lĩnh thị trường khu
vực và quốc tế.
Ngoài ra, cho đến năm 2004, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân vẫn
còn nhiều vấn đề bức xúc, như sự bình đẳn thực sự giữa các doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp liên doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong tiếp cận

các nguồn vốn tín dụng; sự độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh
vực như điện, nước, bưu chính, viễn thông…; việc cụ thể hoá quyền của các
doanh nghiệp theo nguyên tắc doanh nghiệp được phép làm những gì mà pháp
luật không cấm như doanh nghiệp được quyền thuê lao động nước ngoài mà
không cần xin phép, quyền góp vốn liên doanh, liên kết và bán cổ phần với nhà
đầu tư nước ngoài ở những ngành, lĩnh vực mà nhà nước không cấm; thực hiện
đồng bộ chương trình trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ; kiện toàn hệ thống kinh
doanh trong toàn quốc; thành lập ngân hàng dữ liệu cung cấp thông tin về khoa
học – công nghệ mới; hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến thương mại, thâm nhập thị
trường mới, hỗ trợ thông tin thị trường; đào tạo doanh nhân; xây dựng vườn
ươm doanh nghiệp; thực hiện các quy định kiểm tra sau đăng ký kinh
doanh…Các vấn đề này đã được cộng đồng doanh nghiệp đề xuất và đã được
Chính phủ, các bộ, ngành hứa sẽ tiếp tục giải quyết.
23

2.2.5. Một bộ phận cán bộ, công chức và dư luận xã hội chưa thực sự có
cái nhìn đồng thuận về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân
Sở dĩ như vậy là do nhận thức và tâm lý, thói quen tư duy cũ, một bộ
phận không nhỏ trong xã hội, trong đó có cả cán bộ, công chức nhà nước vẫn
chưa hết mặc cảm với kinh tế tư nhân, chưa có cách nhìn nhận đúng vị trí, vai
trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chưa
thực sự quán triệt chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và
Nhà nước ta. Vẫn có nhiều ý kiến cho rằng kinh tế tư nhân là đối lập với định
hướng XHCN. Tâm lý dè dặt, e ngại đối với kinh tế tư nhân đang là rào cản đối
với sự phát triển của khu vực kinh tế này. Từ một số biểu hiện sai trái của một
số ít doanh nghiệp, một số người còn cho rằng kinh tế tư nhân là trốn lậu thuế,
làm ăn phi pháp v.v Mặc dù đã gần 20 năm đổi mới nhưng thái độ và cách nhìn
nhận đối với kinh tế tư nhân như trên đã làm giảm ý chí kinh doanh và tinh thần
lập nghiệp của một bộ phận dân cư, đặc biệt là các doanh nhân.


3. Nguyên nhân và những tồn tại
3.1. Vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử đối với khu vực tư nhân
Một yếu tố không thể nói đến là các nhà kinh doanh tư nhân vẫn có tâm
lý dè dặt trong đầu tư và sản xuất kinh doanh. Sự lo ngại này có nguồn gốc sâu
xa từ những biến cố trong lịch sử chính sách phát triển kinh tế của đất nước,
cũng như từ thực tế diễn ra hàng ngày ở các cấp khác nhau hiện nay. Tư duy cũ
của thể chế kế hoạch hoá tập trung không công nhận thị trường, không công
nhận kinh tế tư nhân v.v vẫn còn tồn tại, chi phối một số cán bộ lập cơ chế
chính sách, luật pháp cũng như trong hoạt động thực tiễn của bộ máy nhà nước.
Giữa DNNN và doanh nghiệp tư nhân còn tồn tại nhiều phân biệt đối xử,
cả trong việc đề ra chính sách, lẫn trong việc thực hiện chính sách, chẳng hạn
DNNN có những lợi thế hơn so với doanh nghiệp tư nhân trong vay vốn ngân
hàng như thủ tục và điều kiện vay dễ dàng hơn, không phải thế chấp, dễ dàng
thuê đất hơn, tiếp cận tín dụng ưu đãi của Chính phủ dễ dàng hơn.
24

Luật Doanh nghiệp quy định rõ việc cấm và hạn chế một số lĩnh vực kinh
doanh. Tuy vậy, khái niệm “các lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm” đang bị lạm
dụng bởi một số cơ quan có thẩm quyền nhằm cản trở người dân kinh doanh các
ngành kinh tế mới.
3.2. Những nguyên nhân từ cơ chế, chính sách
Hiện nay có 4 rào cản chính đang hạn chế sự phát triển của khu vực kinh
tế tư nhân. Đó là:
Hiện đang tồn tại mâu thuẫn: đổi mới kinh tế đang được đẩy mạnh, Đảng
và Nhà nước đã đề ra những quyết sách để phát huy tiềm năng của các thành
phần kinh tế, hâm nóng lại môi trường đầu tư trong nhân dân và doanh nghiệp,
những bộ máy quản lý nhà nước và công chức chuyển không kịp. Bộ máy chưa
được sắp xếp theo yêu cầu của thể chế mới, đang còn nhiều trường hợp bộ máy
trùng lắp, nhiều cơ quan cùng làm một việc nhưng đùn đẩy nhau, trách nhiệm
không rõ ràng. Vẫn còn không ít công chức lưu luyến cung cách quản lý cũ,

không chịu rời bỏ thứ quyền lực đã nhiều năm gây phiền hà cho doanh nghiệp.
Còn tồn tại nhiều thủ tục hành chính rườm rà, không cần thiết hoặc bất cập
với yêu cầu thực tiễn, dẫn đến không những tạo cơ hội phát triển tệ sách nhiễu,
tham nhũng của các cơ quan và công chức hành chính, mà còn có thể khiến
doanh nghiệp đánh mất những cơ hội kinh doanh tốt, hoặc phải trả giá đắt hơn
cho các giao dịch làm ăn của mình.
Hiện nay có hiện tượng là văn bản pháp quy do bộ, ngành nào dự thảo thì
thường nghiêng về quyền lực và lợi ích của bộ, ngành đó, không đứng về phía
người thi hành là doanh nghiệp, thậm chí không đứng về lợi ích của toàn xã hội,
do đó nhiều văn bản không khả thi, không đi vào cuộc sống, ngược lại, gò bó,
trói buộc người dân và doanh nghiệp.
Trên lĩnh vực thanh tra, kiểm tra, Chính phủ đã có Nghị định 61, ngày
15-8-1998, quy định rõ về công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có thẩm
quyền. Luật Doanh nghiệp cũng quy định rõ: việc thanh tra tài chính được thực
hiện không quá một lần trong một năm đối với một doanh nghiệp; thời hạn
25

thanh tra không quá 30 ngày; khi thanh tra phải có quyết định và kết thúc phải
có biên bản kết luận; công chức lợi dụng thanh tra để sách nhiễu doanh nghiệp
thì phải bị xử lý, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường cho doanh nghiệp. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy không nhiều doanh nghiệp dám thực hiện quyền “tư
chối” của mình trong trường hợp thanh tra, kiểm tra không đúng pháp luật. Bởi
lẽ, doanh nghiệp kiện cơ quan hành chính là việc “dân kiện quan”, rất không dễ
dàng, nên phần lớn đều tìm giải pháp mềm dẻo hơn để được việc và khỏi mất
thời gian. Nguyên nhân chính của tình trạng này là cơ cấu tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ và bộ máy của Toà Hành chính đang có nhiều bất cập.
3.3. Những nguyên nhân của bản thân doanh nghiệp
Một số nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp dân doanh dường như phát
triển chậm về quy mô (kể cả quy mô về vốn và lao động). Có một số cách giải
thích cho tình trạng này. Thứ nhất, các doanh nghiệp lúc mới đăng ký thường rất

nhỏ và phải mất vài năm để đạt tới quy mô lao động từ vài chục đến vài trăm
người. Thứ hai, những khó khăn về vốn, thị trường và bí quyết sản xuất, kinh
doanh cản trở doanh nghiệp tăng quy mô. Thứ ba, đó là những lo lắng về rủi ro
đầu tư và rủi ro kinh doanh. Thứ tư là những khó khăn về hành chính, trong đó
có cả sự sách nhiễu từ phía các cơ quan công quyền, đã cản trở doanh nghiệp mở
rộng, phát triển.
3.3.1. Khó khăn về vốn
Tình trạng thiếu vốn rất phổ biến của bản thân các doanh nghiệp tư nhân
mới được thành lập và phát triển trong những năm gần đây, nên vốn đầu tư và
tài sản ít, không đủ thế chấp cho các khoản vay cần thiết, chưa đủ uy tín để vay
mà không cần thế chấp.
Hệ thống ngân hàng thương mại mà nòng cốt là ngân hàng thương mại
quốc doanh lại ngần ngại cho các doanh nghiệp tư nhân vay vốn. Bên cạnh đó,
các quy định về thế chấp còn chưa đầy đủ, phức tạp, tình trang ngân hàng đánh
giá quá thấp giá trị tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhằm đảm bảo an toàn cho
mình là phổ biến.

×