Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.8 KB, 72 trang )

1

MỞ ĐẦU
Tính tất yếu của đề tài
Được biết đến là một cường quốc kinh tế hàng đầu trên thế giới. Với dân số
đơng, diện tích địa lý trải rộng, mơi trường đa văn hoá, đa chủng tộc. Kim ngạch
nhập khẩu hàng năm lên tới 1750 tỷ USD chiếm ≈ 20% tổng kim ngạch nhập khẩu
toàn thế giới. Thị trường Hoa Kỳ thực sự hấp dẫn với bất kì doanh nghiệp nào:
Thu nhập Quốc dân GDP ln duy trì ở mức cao, thu nhập bình quân đầu người
cao, nhu cầu tiêu dùng đối với các loại hàng hoá là rất đa dạng – Đây là thị trường
khổng lồ đối với các loại hàng hố mà trong đó chứa đựng hầu hết các loại hàng
hố Việt Nam có thể xuất khẩu.
Việt Nam là quốc gia đang bước trên tiến trình hội nhập Kinh tế quốc tế, chủ
trương phát triển kinh tế theo đuổi chiến lược cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu,
đa dạng hoá thị trường cũng như mặt hàng xuất khẩu. Và Hoa Kỳ là thị trường có
tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam. Quan hệ
Việt - Hoa Kỳ đã được chính thức bình thường hố từ năm 1995. Sau hơn mười năm
tái thiết lập quan hê, việc bình thường hố đã khép lại quá khứ và mở ra tương lai có
lợi cho cả hai bên. Thực tế là kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang Hoa
Kỳ đã tăng nhanh chóng qua các năm và tính đến tháng 2/2007 Hoa Kỳ vẫn là thị
trường xuất khẩu của Việt Nam với kim ngạch là 1.339.565 nghìn USD tăng 35.41%
so với cùng kì năm 2006. Năm 2006 đã đánh dấu bước phát triển cao hơn trong quan
hệ hai nước khi quy chế PNTR cho Việt Nam đã được Hoa Kỳ thông qua. Bên cạnh
đó do tác động của BTA mang lại, hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ được
cạnh tranh bình đẳng hơn, mức thuế áp dụng đối với các mặt hàng nhập khẩu của ta
đã giảm xuống khiến cho sự cạnh tranh về giá cả phát huy được hiệu quả,…Tuy
nhiên, trong quan hệ thương mại với các đối tác Hoa Kỳ, doanh nghiệp Việt Nam vẫn
gặp nhiều khó khăn khi quy mô của các doanh nghiệp nội địa là nhỏ trong khi nhu
cầu thị trường là lớn, các đơn đặt hàng từ phía Hoa Kỳ thường yêu cầu với số lượng
lớn, thời gian giao hàng nhanh, điều này là vượt quá khả năng của doanh nghiệp.
Những trở ngại trong hàng rào phi thuế quan của Hoa Kỳ (Việc ban hành thuế chống




2

bán phá giá đối với hàng dệt may đang được xem xét); tính phức tạp trong hệ thống
luật pháp Hoa Kỳ, cạnh tranh của hàng hoá Trung quốc,.. đang tạo ra những rào cho
xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.
Năm 2006 là dấu mốc quan trọng khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, thị
trường được mở rộng cùng với mức độ cạnh tranh gay gắt hơn buộc các doanh
nghiệp trong nước phải nỗ lực hết mình để có thể cạnh tranh với doanh nghiệp nước
ngồi. Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập mới,
doanh nghiệp Việt Nam vừa đạt được mục tiêu chiếm lĩnh thị trường, vừa gia tăng sự
ảnh hưởng trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, mặt khác chúng ta có thể tiếp cận
được những cơng nghệ hiện đại, những nguồn lực kỹ thuật quan trọng cần thiết cho
phát triển kinh tế nội địa.
Trong điều kiện mới hiện nay, để có được một vị trí ổn định vững chắc cũng
như đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, phía Nhà nước, các
doanh nghiệp và cả nền kinh tế còn phải làm rất nhiều việc. Từ những vấn đề đó, em
đã chọn: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường
Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
Chun đề gồm có 3 Chương chính:
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa và sự cần thiết phải thúc
đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa
Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị
trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế



3

Đối tượng nghiên cứu
Thị trường Hoa Kỳ với nhu cầu tiêu dùng, mơi trường văn hố kinh doanh, các
đối tác Hoa Kỳ, các quy định đối với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường này,…và
hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường này.
Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ từ khi hai nước chính
thức bình thường hố quan hệ thương mại từ năm 1995 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, nghiên cứu các số liệu
thống kê và những phân tích thực tế những vấn đề liên quan, kết hợp với phân tích dự
báo


4

Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa
và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa
1.1.1.Khái niệm và vai trị
1.1.1.1.Khái niệm
Thế giới đã bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hội nhập và phát triển.
Để thành cơng trong nền kinh tế tồn cầu này đòi hỏi các quốc gia cũng như các
nhà kinh doanh phải hiểu rõ về kinh doanh quốc tế. Kinh doanh quốc tế là một lĩnh
vực rộng lớn liên quan đến nhiều vấn đề: con người, văn hóa, kinh tế, chính trị và
nhiều yếu tố khác liên quan đến mơi trường xung quanh mà chủ thể trực tiếp của
các hoạt động này là các công ty kinh doanh trên trường quốc tế, thực hiện giao

dịch buôn bán với nhau. Trên thực tế các cơng ty có thể tiến hành giao dịch với
nhau qua nhiều hình thức nhưng phổ biến nhất là thông qua hoạt động xuất nhập
khẩu.
Một cách cơ bản nhất có thể định nghĩa: Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hóa
dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác.
Trong chiến lược kinh doanh quốc tế, doanh nghiệp cần xác định được một
trong những yếu tố quan trọng mang lại thành cơng cho chiến lược của mình đó là
cách thức thâm nhập thị trường. Xuất khẩu được đánh giá là hình thức thâm nhập
thị trường ít rủi ro với chi phí thấp so với các hình thức khác. Nếu xét dưới góc độ
kinh doanh thì xuất khẩu là việc bán hàng hóa dịch vụ từ quốc gia này sang quốc
gia khác, cịn xét dưới góc độ phi kinh doanh (quà tặng, viện trợ) thì hoạt động
xuất khẩu là việc lưu chuyển hàng hóa dịch vụ qua biên giới một quốc gia.


5

1.1.1.2.Vai trò của xuất khẩu
Thứ nhất, xuất khẩu để tạo ra nguồn vốn quan trọng thỏa mãn nhu cầu nhập
khẩu và tích lũy sản xuất nhằm phục vụ đắc lực cho q trình cơng nghiệp hóa đất
nước. Trong hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia luôn diễn ra đồng
thời hai hoạt động cơ bản là xuất khẩu và nhập khẩu, xuất khẩu luôn đi kèm nhập
khẩu, hai mặt không thể tách rời nhau trong một quan hệ gắn bó hỗ trợ lẫn nhau.
Trong mối quan hệ đó, nhập khẩu là mục đích cịn xuất khẩu là phương tiện để đạt
được mục đích đó. Mọi hoạt động xuất khẩu đều hướng tới cái đích cuối cùng là
bán được nhiều nhất các loại hàng hóa dịch vụ mà quốc gia mình có khả năng để
thu được một lượng ngoại tệ phục vụ trở lại cho việc nhập khẩu các thiết bị, công
nghệ hiện đại, các dịch vụ, các mặt hàng mà quốc gia mình cịn thiếu vừa để phục
vụ nhu cầu tiêu dùng vừa để sản xuất đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai, xuất khẩu là yếu tố quan trọng để kích thích tăng trưởng kinh tế.
Đẩy mạnh xuất khẩu chính là việc tạo điều kiện thuận lợi để bán được nhiều nhất

những hàng hóa mà một quốc gia có lợi thế. Khi doanh số bán hàng tăng lên,
lượng hàng hóa xuất khẩu ra nước ngồi nhiều hơn, nó sẽ tác động trở lại, đó là
nhu cầu mở rộng sản xuất, đẩy nhanh quá trình tạo ra sản phẩm, quy mơ sản xuất
của từng mặt hàng, từng ngành nghề lĩnh vực cũng như quy mơ tồn bộ nền kinh
tế được mở rộng, khi đó xuất hiện hiệu ứng tính kinh tế nhờ quy mơ. Khi quy mô
sản xuất phát triển sẽ kéo theo sự ra đời của nhiều ngành hàng mới vừa để bổ trợ
cho các ngành xuất khẩu chính, vừa để khai thác những tiềm năng của đất nước,
GDP của nền kinh tế không ngừng được tăng lên, quốc gia đạt được tốc độ tăng
trưởng cao và ổn định.
Thứ ba, xuất khẩu kích thích đổi mới trang thiết bị và cơng nghệ sản xuất.
Xuất khẩu tăng, nhu cầu thị trường đối với sản phẩm nhiều hơn, doanh nghiệp khi
đó phải tìm cách để nâng cao năng suất lao động sao cho tạo ra nhiều sản phẩm
nhất có thể. Cách thức nhanh chóng và hiệu quả nhất để thực hiện mục tiêu đó là
cải tiến các trang thiết bị máy móc, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như hoàn thiện


6

dần quy trình sản xuất. Ngược lại, khi hoạt động xuất khẩu ln duy trì ở mức cao
tức là lượng hàng hóa bán ra liên tục tăng, làm tăng doanh số bán hàng, lợi nhuận
tăng lên, khi đó doanh nghiệp có nhiều điều kiện để quan tâm, đầu tư nhiều hơn
vào việc hiện đại hóa dây chuyền sản xuất của mình.
Thứ tư, xuất khẩu tác động mạnh tới cơ cấu kinh tế của toàn bộ nền kinh tế
cũng như tác động tới cơ cấu của ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi
thế so sánh. Mỗi quốc gia đều có những ưu thế nhất định về một hoặc một vài
chủng loại sản phẩm. Trong thương mại quốc tế, các quốc gia ln phải cạnh tranh
với nhau vì thế để thu được lợi ích cao nhất buộc mỗi quốc gia phải tìm một
hướng đi đúng cho mình, phải tìm kiếm và khai thác tối đa những thế mạnh của
riêng mình. Khi đã biết được mình có điểm mạnh gì, các quốc gia sẽ chuyên biệt
hóa, đầu tư nhiều hơn tới việc phát triển thế mạnh của mình, nghĩa là cơ cầu của

nền kinh tế dần chuyển đổi theo hướng ưu tiên cho các ngành, các mặt hàng mang
lại giá trị và hiệu quả kinh tế tốt hơn.
Thứ năm, xuất khẩu có tác động tích cực và trực tiếp tới việc nâng cao mức
sống của người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo. Khi kim ngạch xuất khẩu của
một mặt hàng, ngành hàng nào đó khơng ngừng tăng lên, quy mơ sản xuất của
ngành đó sẽ được mở rộng. Sản xuất mở rộng, nhu cầu về lao động tăng, số lượng
việc làm nhiều hơn, điều đó đồng nghĩa là sẽ có thêm một bộ phận lao động trong
xã hội có việc làm, thu nhập người dân ổn định hơn, cuộc sống của họ được đảm
bảo, khi đó họ sẽ có nhiều điều kiện để nâng cao điều kiện sống cho gia đình, tỷ lệ
đói nghèo sẽ dần giảm bớt.
Thứ sáu, xuất khẩu giúp mở rộng và làm sâu sắc thêm các mối quan hệ đối
ngoại giữa các quốc gia với nhau. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có
tác động qua lại lẫn nhau: xuất khẩu là một trong những lĩnh vực của kinh tế đối
ngoại, xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện
thúc đẩy các quan hệ này phát triển như quan hệ về tín dụng, quan hệ đầu tư, quan
hệ vận tải…Xuất khẩu tạo tiền đề cho hợp tác quốc tế trong những lĩnh vực này,
ngược lại khi quan hệ quốc tế của những lĩnh vực này tốt đẹp sẽ kích thích cho


7

xuất khẩu trao đổi buôn bán giữa các quốc gia phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu.
Xét một cách tổng thể, trong quá trình phát triển của một quốc gia khơng thể
khơng có hoạt động thương mại quốc tế, đó là mối quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh
tranh lẫn nhau và trong cuộc cạnh tranh đó, quốc gia nào cũng muốn và cố gắng
đến tối đa để hoạt động xuất khẩu mang lại hiệu quả cao nhất. Chỉ khi xuất khẩu
phát triển, quốc gia mới có điều kiện để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và một phần
cho tích lũy, điều đó có nghĩa là, xuất khẩu là chìa khóa quan trọng để phát triển
kinh tế và đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


1.1.2.Các hình thức xuất khẩu
Trong thương mại quốc tế, xuất khẩu của một quốc gia thường diễn ra dưới
hai hình thức cơ bản là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp. Đây là hai hình
thức, đồng thời cũng là hai công cụ chủ yếu được các chủ thể kinh tế sử dụng
trong quá trình thâm nhập thị trường nước ngồi qua con đường xuất khẩu hàng
hóa.
1.1.2.1.Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một chủ thể kinh tế
cho các khách hàng của mình ở thị trường nước ngồi. Hình thức này thường được
các cơng ty có kinh nghiệm quốc tế sử dụng, khách hàng của họ không chỉ đơn
thuần là người tiêu dùng mà bao gồm tất cả những đối tượng có nhu cầu, đã, đang
và sẽ tiêu dùng sản phẩm của công ty. Xuất khẩu trực tiếp thường được tiến hành
qua hai hình thức cơ bản:
a) Đại diện bán hàng
Đại diện bán hàng là hình thức bán hàng khơng mang danh nghĩa của mình
mà lấy danh nghĩa của người ủy thác nhằm nhận lương và một phần hoa hồng trên
cơ sở giá trị của khối lượng hàng hóa bán được. Xét về bản chất, hoạt động của đại
diện bán hàng chính là hoạt động của nhân viên bán hàng của cơng ty ở thị trường
nước ngồi, thơng qua hình thức này công ty sẽ tiến hành ký kết các hợp đồng trực
tiếp với khách hàng tại thị trường mà người đại diện bán hàng đang hiện diện.


8

b) Đại lý phân phối
Đại diện phân phối là người đứng ra mua hàng của công ty để bán theo kênh
tiêu thụ tại khu vực đã được quy định. Theo hình thức này, cơng ty là người khống
chế phạm vi giới hạn hoạt động của người phân phối đồng thời đặt hoạt động của
các kênh phân phối này trong sự kiểm sốt của mình. Mặc dù nằm dưới sự kiểm

sốt của công ty ủy thác nhưng đại lý phân phối phải chịu trách nhiệm, chấp nhận
toàn bộ rủi ro liên quan đến việc bán hàng của công ty ủy thác trên thị trường đã
được phân định và sẽ được hưởng phần lợi nhuận thu được từ chênh lệch giá mua
và giá bán hàng hóa.
1.1.2.2.Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hóa, dịch vụ của cơng ty ra thị
trường nước ngồi thơng qua trung gian (qua người thứ ba). Nếu trong loại hình
xuất khẩu trực tiếp thì người mua tìm tới người bán, người bán tìm gặp người
mua, giữa hai bên tiến hành trao đổi gặp gỡ trao đổi thơng tin hàng hóa cho nhau
một cách trực tiếp thì trong loại hình xuất khẩu gián tiếp, việc thiết lập quan hệ
người mua – người bán cũng như các điều kiện liên quan đến giao dịch mua bán
hàng hóa được thực hiện thơng qua người thứ ba được gọi là trung gian mua bán.
Các trung gian mua bán này khơng chiếm hữu hàng hóa của người ủy thác mà chỉ
đóng vai trị người trợ giúp, là cầu nối đưa hàng hóa của người xuất khẩu ra thị
trường nước ngồi. Xuất khẩu gián tiếp có các hình thức chủ yếu sau:
a) Đại lý
Đại lý là tự nhiên nhân hay pháp nhân tiến hành một hoặc nhiều hành vi theo
sự ủy thác của người ủy thác, quan hệ giữa người ủy thác và đại lý là quan hệ hợp
đồng đại lý. Trên thực tế đại lý chỉ thực hiện một cơng việc nhất định nào đó cho
người ủy thác và nhận được khoản thù lao của mình, đại lý khơng chiếm hữu và sở
hữu hàng hóa mà chỉ là người thiết lập quan hệ hợp đồng giữa người xuất khẩu và
khách hàng ở thị trường nước ngồi.
b) Cơng ty quản lý xuất khẩu


9

Là công ty nhận ủy thác và quản lý công tác xuất khẩu hàng hóa. Cơng ty
quản lý xuất khẩu hoạt động dựa trên danh nghĩa của người ủy thác với chức năng
cơ bản là thực hiện các hoạt động cũng như hoàn thiện các thủ tục xuất khẩu và

thu phí dịch vụ xuất khẩu. Xét về bản chất, các công ty quản lý xuất khẩu là trung
gian thực hiện các dịch vụ đại lý cho người ủy thác và nhận được một khoản thù
lao định mức từ các hoạt động của mình.
c) Cơng ty kinh doanh xuất khẩu
Là loại hình cơng ty hoạt động như nhà phân phối độc lập với chức năng cơ
bản là kết nối các khách hàng tại thị trường nước ngồi với cơng ty xuất khẩu của
quốc gia mình, từ đó tạo điều kiện đưa các hàng hóa trong nước ra nước ngồi tiêu
thụ. Hoạt động của các công ty kinh doanh xuất khẩu là thực hiện tất cả các hoạt
động dịch vụ xuất khẩu từ những hoạt động trực tiếp liên quan đến xuất khẩu cho
tới các hoạt động gián tiếp liên quan như thiết lập và mở rộng kênh phân phối, tài
trợ cho các dự án thương mại và đầu tư cho tới trực tiếp tham gia một công đoạn
sản xuất bổ trợ nào đó cho q trình sản xuất sản phẩm…Trên thực tế, các công ty
kinh doanh xuất khẩu đều là những cơng ty có tiềm lực và sự đảm bảo về tài chính
cũng như có kinh nghiệm chun sâu về một mảng thị trường nào đó với những
chuyên gia làm dịch vụ xuất khẩu. Chi phí hoạt động của cơng ty kinh doanh xuất
khẩu là nguồn vốn của công ty và thu hồi lại từ các dịch vụ xuất khẩu mà công ty
thực hiện.
d) Đại lý vận tải
Là các công ty thực hiện dịch vụ thuê vận chuyển và những hoạt động có liên
quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa: khai báo hải quan, áp biểu thuế quan, thực
hiện giao nhận chuyên chở và bảo hiểm. Các đại lý vận tải cũng thực hiện các
nghiệp vụ xuất khẩu và phát triển nhiều loại hình dịch vụ giao nhận đến tận tay
người nhận. Khi các công ty xuất khẩu thông qua các đại lý vận tải hay các công ty
chuyển phát hàng thì các đơn vị này cũng làm các dịch vụ xuất nhập khẩu liên
quan đến hàng hóa của cơng ty. Như vây, thực chất hoạt động của các đại lý vận
tải cũng chính là hoạt động của các cơng ty kinh doanh giao nhận vận chuyển và
dịch vụ xuất nhập khẩu, thậm chí nó cịn đi sâu hơn khi bao gồm cả dịch vụ bao


10


gói hàng hóa cho phù hợp với phương thức vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng
hóa xuất khẩu trong phạm vi hoạt động, quyền hạn của mình.

1.1.3.Nội dung xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa có hai khâu liên hệ mật thiết với nhau đó
là thu mua, huy động hàng xuất khẩu từ các đơn vị kinh tế trong nước và tiến
hành ký kết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu với nước ngồi. Trong hai khâu đó,
thu mua hàng xuất khẩu là tiền đề vật chất của xuất khẩu hàng hóa.
1.1.3.1.Thu mua, cung ứng hàng xuất khẩu
Khi doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu, trước hết doanh nghiệp
phải có được nguồn hàng và phải biết được những quy định của Nhà nước đối với
mặt hàng đó. Đối với các doanh nghiệp thương mại, để có nguồn hàng xuất khẩu
doanh nghiệp phải tiến hành hoạt động thu mua. Để tổ chức tốt việc thu mua, bên
cạnh việc quán triệt tốt quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về
khuyến khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu thì doanh nghiệp cịn phải làm tốt
việc quản lý nguồn hàng xuất khẩu của mình một cách chủ động, có biện pháp
phát triển nguồn hàng đó cũng như phương thức huy động thích hợp.
Đối với phân loại nguồn hàng xuất khẩu, có ba chỉ tiêu phân loại:
Thứ nhất theo chế độ phân cấp quản lý bao gồm nguồn hàng thuộc chỉ
tiêu kế hoạch Nhà nước và nguồn hàng ngoài kế hoạch
Thứ hai phân loại nguồn hàng theo đơn vị giao hàng gồm: từ các xí
nghiệp, các cơ sở sản xuất, các hợp tác xã…
Thứ ba phân loại theo phạm vi phân công của đơn vị kinh doanh xuất
khẩu bao gồm nguồn hàng trong địa phương và nguồn hàng ngoài địa phương.
Việc nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu, đây là cơng việc bắt buộc để
doanh nghiệp có thể khai thác và phát triển nguồn hàng. Thông qua nghiên cứu
nguồn hàng doanh nghiệp có thể nắm được khả năng cung cấp hàng xuất khẩu của
từng đơn vị nguồn hàng đồng thời nó là cơ sở đảm bảo chắc chắn cho doanh
nghiệp tiến hành ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Có hai phương pháp

nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu:


11

Thứ nhất, lấy mặt hàng làm đơn vị nghiên cứu. Phương pháp này chủ yếu
nghiên cứu tình hình và khả năng cung ứng cũng như tiêu thụ của một mặt hàng từ
đó có quyết định kinh doanh xuất khẩu mặt hàng đó khơng.
Thứ hai, lấy cơ sở sản xuất làm đơn vị nghiên cứu. Theo phương pháp
này người ta theo dõi năng lực sản xuất và cung ứng sản phẩm của từng cơ sở sản
xuất thông qua các chỉ tiêu: số lượng và chất lượng hàng cung cấp hàng năm, giá
thành, tình hình trang thiết bị, trình độ kỹ thuật, số lượng cơng nhân, trình độ tổ
chức và quản lý.
1.1.3.2.Ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Với tư cách là doanh nghiệp ngoại thương kinh doanh hàng xuất khẩu, sau
khi đã có được nguồn hàng xuất khẩu, doanh nghiệp tiến hành ký kết hợp đồng
ngoại thương. Song song với ký hợp đồng ngoại, doanh nghiệp cũng phải tiến
hành đồng thời việc lưu kho hàng xuất khẩu tiếp nhận từ các đơn vị nguồn hàng,
việc lưu kho nhằm mục đích đóng gói bảo quản hàng hóa trong thời gian hồn tất
thủ tục xuất hàng và sau khi đã hoàn tất các thủ tục, trong thời gian thỏa thuận của
hợp đồng, doanh nghiệp tiến hành xuất kho hàng hóa cho người nhập khẩu. Việc
xuất hàng cho đối tác phải dựa trên cơ sở hợp đồng đã ký kết, người xuất khẩu
phải có trách nhiệm đóng gói, phân lơ phân loại, bảo đảm về số lượng và chất
lượng hàng hóa cho đến khi làm biên bản giao nhận với người nhập khẩu, khi đó
người xuất khẩu mới hết trách nhiệm.
Sau khi giao hàng, tùy theo thỏa thuận của hai bên mà hàng hóa có thể được
bảo hành trong phạm nhất định của người xuất khẩu. Còn người nhập khẩu sau khi
nhận hàng phải có trách nhiệm thanh tốn đầy đủ tiền hàng cũng như những chi
phí được hai bên thỏa thuận. Sau khoảng thời gian được quy định trong hợp đồng
mà hai bên khơng có bất cứ khiếu kiện nào thì hoạt động xuất khẩu được thực hiện

hoàn tất.

1.1.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
1.1.3.1.Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh


12

Thứ nhất, mơi trường văn hóa. Văn hóa nói chung có thể được coi là tổng
thể của đức tin, các giá trị, niềm tin, thông lệ, ngôn ngữ và tôn giáo. Văn hóa của
mỗi quốc gia có những nét đặc thù khác biệt. Chính sự khác biệt về văn hóa sẽ kéo
theo sự khác biệt về nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng, sự lựa chọn sản phẩm tiêu dùng
theo đó cũng có sự khác biệt lớn, người ta khơng thể xuất khẩu thịt lợn sang các
quốc gia đạo hồi. Như vậy yếu tố văn hóa tại một thị trường nào đó là cơ sở để
doanh nghiệp đưa ra quyết định lựa chọn hàng hóa nào để xuất khẩu và thị hiếu
của thị trường đó đối với sản phẩm ra sao để có những điều chỉnh nhất định đối
với sản phẩm. Sự khác nhau về yếu tố văn hóa của một quốc gia sẽ tạo ra sự khác
nhau về mặt hàng xuất khẩu sang thị trường đó.
Thứ hai, mơi trường chính trị luật pháp. Khơng một doanh nghiệp xuất khẩu
nào muốn bán sản phẩm của mình sang thị trường có thể chế chính trị bất ổn với
tâm lý lo ngại sự mất ổn định chính trị sẽ khiến cho các doanh nghiệp nhập khẩu
trong trường hợp xấu không thể thanh tốn mọi chi phí tiền hàng. Yếu tố luật pháp
cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thông qua tác động
của hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Nếu mức thuế suất đối với các sản phẩm
nhập khẩu cao hoặc mức độ bảo hộ sản xuất trong nước của quốc gia đó lớn sẽ
làm giảm kim ngạch xuất khẩu của các quốc gia khác sang thị trường nước đó,
ngược lại mức thuế mà một quốc gia áp dụng cho sản phẩm nhập khẩu ở mức
trung bình cũng như các hàng rào yêu cầu kỹ thuật không quá khắt khe, sản phẩm
của doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tiếp cận thị trường và từ đó sẽ làm tăng
lượng hàng hóa xuất khẩu sang những thị trường dễ tính

Thứ ba, mơi trường kinh tế. Mơi trường kinh tế của một quốc gia bao gồm
tốc độ tăng trưởng kinh tế, quy mô của nền kinh tế và quy mô thị trường, cơ cấu
của nền kinh tế… Một quốc gia luôn đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn
định tức là tổng thu nhập quốc dân cao, theo đó thu nhập bình qn đầu người
cũng ở mức cao, đời sống nhân dân được nâng lên, nhu cầu tiêu dùng của người
dân và toàn nền kinh tế sẽ tăng lên, lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ nhiều hơn, điều
này sẽ kích thích hoạt động xuất khẩu từ các cơng ty nước ngồi vì họ nhìn thấy


13

tiềm năng thị trường lớn của quốc gia. Quy mô của nền kinh tế lớn cũng khiến cho
nhu cầu nhập khẩu tăng lên, và cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp xuất khẩu. Cơ cấu của nền kinh tế ảnh hưởng đến cơ cấu xuất khẩu vào
một quốc gia. Các nhà xuất khẩu khi lựa chọn thị trường xuất khẩu thường phải có
những đánh giá xem thị trường nội địa của quốc gia đó đang sản xuất được cái gì,
chủng loại ra sao để từ đó sẽ quyết định đưa mặt hàng nào xuất khẩu, khi lựa chọn
mặt hàng xuất khẩu doanh nghiệp cũng cần phải đánh giá yếu tố thị trường, thị
trường nào đang có nhu cầu về mặt hàng mà doanh nghiệp có khả năng cung cấp
thì doanh nghiệp sẽ quyết định lựa chọn thị trường đó.
1.1.3.2.Nhân tố thuộc về doanh nghiệp
Trước hết phải đề cập tới chiến lược hoạt động của doanh nghiệp. Nếu doanh
nghiệp đặt ra một mức tăng trưởng cao trong kim ngạch xuất khẩu trong một
khoảng thời gian nhất định, khi đó mọi hoạt động của doanh nghiệp đều phải
hướng tới đạt được mục tiêu đó, hoạt động xuất khẩu được đặt lên hàng đầu,
doanh nghiệp sẽ nỗ lực trong việc tìm kiếm thị trường, xây dựng quảng bá hình
ảnh của doanh nghiệp cũng như sản phẩm với mong muốn người tiêu dùng tại thị
trường nước ngồi sẽ ưu thích sản phẩm của mình tạo cơ hội cho doanh nghiệp
xuất khẩu nhiều hàng hóa hơn.
Thứ hai, chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất sẽ quyết định một phần quan trọng

giá cả của hàng hóa. Bằng cách kiểm sốt tổng chi phí sẽ kiểm sốt được giá cả
hàng hóa ở mức thấp, giá cả thấp khiến cho sản phẩm có khả năng cạnh tranh tốt
hơn. Ngồi ra chi phí sản xuất thấp cũng mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh
nghiệp vì cùng một điều kiện thương mại bình thường, mức giá của một loại sản
phẩm trên 1 thị trường là như nhau trong khi chi phí sản xuất ra sản phẩm lại thấp
hơn các đối thủ, như vậy doanh thu của doanh nghiệp tăng lên, từ đó doanh nghiệp
có điều kiện đầu tư khoa học công nghệ tăng cường sản xuất sản phẩm xuất khẩu.
Chi phí vận chuyển cũng là một nhân tố tác động tới giá cả hàng hóa, chi phí vận
chuyển cao làm tăng giá thành sản phẩm, chi phí thấp, giá cả hàng hóa sẽ thấp.
1.1.3.3.Yếu tố sản phẩm


14

Sản phẩm là cái liên quan trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Do đặc tính của mỗi loại sản phẩm khác nhau nên thị trường xuất khẩu sản phẩm
cũng khác nhau. Căn cứ vào những tính chất và điều kiện của sản phẩm mà doanh
nghiệp lựa chọn hình thức xuất khẩu phù hợp, như các sản phẩm rau quả, các loại hải
sản tươi sống trước khi xuất khẩu phải qua khâu bảo quản sản phẩm… Những chi tiết
kiểu dáng cũng như tính chất cơng dụng của cùng một loại sản phẩm có sự khác nhau
ở từng thị trường tiêu dùng, trong đó giá cả và chất lượng sản phẩm có ảnh hưởng
lớn nhất tới quyết định mua hàng, nhưng sự phân chia này chỉ mang tính chất tương
đối. Trên thực tế việc đánh giá một sản phẩm là khác nhau giữa các thị trường: thị
trường EU đánh giá và lựa chọn sản phẩm dựa trên kiểu dáng mẫu mã tức là tính
thẩm Hoa Kỳ sản phẩm, dựa trên thương hiệu của sản phẩm; trong khi đó thị trường
Hoa Kỳ lại đánh giá sản phẩm trên góc độ giá cả và chất lượng , trong xu hướng tiêu
dùng của mình, người Hoa Kỳ khơng q địi hỏi cầu kỳ, chỉ cần một chất lượng đảm
bảo với giá cả hợp lý là có thể chính phục thị trường Hoa Kỳ… Như vậy yếu tố sản
phẩm có ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp.


1.2.Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam
sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập KTQT
Sau hơn 1 năm kể từ khi Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận, ngày 11/7/1995, tổng thống
Hoa Kỳ Bill Clinton đã chính thức tun bố bình thường hóa quan hệ thương mại,
ngoại giao với Việt Nam. Đây là sự kiện quan trọng ghi nhận những nỗ lực không
ngừng của cả hai quốc gia trong tiến trình cải thiện mối quan hệ phức tạp. Với
chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu, phục vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Chính phủ Việt Nam đã chủ trương mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại
trong đó Hoa Kỳ là thị trường trọng điểm. Quan hệ Việt Hoa Kỳ trong những năm
qua được xây dựng trên tinh thần tự nguyện hợp tác hữu nghị, hai bên đều có nhu
cầu hướng tới mối quan hệ hợp tác kinh tế, mở rộng xuất nhập khẩu các mặt hàng
mang tính bổ sung lẫn nhau. Hoa Kỳ đang hướng tới Việt Nam như một thị trường
đông dân đầy tiềm năng, một thị trường sản xuất hàng nông, thủy sản đầy tiềm
năng của châu Á. Còn Việt Nam hướng tới thị trường Hoa Kỳ như một thị trường


15

tiêu thụ khổng lồ có nền cơng nghệ kỹ thuật hiện đại và có nguồn vốn dồi dào vào
bậc nhất thể giới. Có thể thấy tính quy mơ của thị trường này qua bảng 1.1 dưới
đây:

Bảng 1.1.Nhu cầu nhập khẩu của thị trường Hoa Kỳ và xuất khẩu của Việt
Nam trong một số mặt hàng
Đơn vị: Triệu
USD
Tổng nhập khẩu

Xuất khẩu của Việt


% của Việt Nam

của Hoa Kỳ năm

Nhóm hàng

Nam sang Hoa Kỳ

trong tổng nhập

năm 2005
2005
Thủy sản
12.000
630
Cà phê
2.775
150
Dệt may
100.500
3.000
Giày dép
17.830
717
Đồ nội thất
24.300
684
(Nguồn: Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ)

khẩu của Hoa Kỳ

5,25 %
5,405 %
2,985 %
4,021 %
2,815 %

Việt Nam đã và đang đạt được những bước phát triển qua trọng trên tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế của mình, thực hiện đường lối tự do hóa thương mại trên
cơ sở hợp tác đa phương. Việt Nam muốn làm bạn với các quốc gia trên thế giới,
vì vậy trong mọi đường lối chính sách của mình, Đảng và Nhà nước ln thể hiện
tinh thần hịa bình hữu nghị, khơng chỉ trong văn hóa xã hội mà trên mọi mặt kinh
tế. Nằm trong xu thế tồn cầu hóa như hiện nay, Việt Nam khơng thể phát triển
một cách cơ lập đóng cửa với bên ngoài, chúng ta phải mở cửa, chủ động bắt tay
hợp tác với nhiều nền kinh tế khác nhau, và thực tế là chúng ta đang thực hiện
thành công quan chính sách đa dạng hóa các quan hệ kinh tế trên tinh thần hợp tác
cùng có lợi.
Q trình hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT) của Việt Nam diễn ra chủ động và
tích cực với việc tham gia các tổ chức, các liên kết và các định chế KTQT ở nhiều


16

cấp độ khác nhau: gia nhập ASEAN (1995), tham gia AFTA (1996), gia nhập
APEC (1998) và việc ký kết BTA là cơ sở cho việc gia nhập WTO năm 2006 –
bước phát triển quan trọng trong tiến trình hội nhập của Việt Nam. Gia nhập WTO,
cơ hội xuất khẩu cho hàng hóa Việt Nam là rất lớn, chúng ta sẽ được cạnh tranh
bình đẳng, thị trường tiêu thụ được mở rộng. Trong sân chơi thương mại tồn cầu
đó, Hoa Kỳ là quốc gia có tầm ảnh hưởng lớn tới các chính sách thương mại quốc
tế của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Khi trở thành thành viên chính thức
của WTO, chúng ta sẽ được hưởng sự đãi ngộ như các quốc gia thành viên khác vì

thế các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải biết khai thác mọi lợi thế để
thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của mình sang thị trường này, xuất khẩu sang Hoa Kỳ
thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu sang các thị trường khác. Và phát triển
quan hệ hợp tác với Hoa Kỳ không chỉ đơn thuần là hợp tác kinh tế để khai thác
lợi ích lẫn nhau, mà phát triển quan hệ thương mại là cơ sở đảm bảo cho phát triển
các quan hệ trên mọi lĩnh vực khác nhau mà nhất là quan hệ đối ngoại giữa hai
Chính phủ. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta vẫn ln rất coi trọng việc phát
triển quan hệ mọi mặt với Hoa Kỳ vì lợi ích của nền kinh tế, lợi ích quốc gia của
cả hai nước.

1.3.Kinh nghiệm của Trung Quốc trong đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ
Năm 2006 đánh dấu việc Trung Quốc tròn 5 năm gia nhập WTO, đánh giá
chung của các tập đoàn, các tổ chức quốc tế như WB hay IMF đối với sự phát triển
của nền kinh tế Trung Quốc trong những năm trước và cho tới thời điểm hiện tại
đều rất tích cực với tốc độ tăng trưởng nhanh, hiệu suất cao và lạm phát thấp. Với
tốc độ tăng trưởng 2 con số liên tục giúp Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ
4 trên thế giới. Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu năm 2006 của Trung
Quốc đạt 960 tỷ USD tăng 26,8% so với mức trung bình hàng năm, thặng dư
thương mại đạt 150 tỷ USD và Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn thứ 2 của Trung
Quốc (sau EU) với kim ngạch thương mại đạt 142,16 tỷ USD. Có thể nói khơng
chỉ gia tăng về lượng xuất khẩu một cách nhanh chóng mà điểm cần nhấn mạnh


17

trong xuất khẩu của Trung Quốc đó là cơ cấu xuất khẩu ngày một hoàn thiện hơn
theo hướng xuất khẩu các sản phẩm máy móc điện tử và hàng cơng nghệ cao:
trong 4 tháng đầu năm 2006, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu là 25,8% trong đó tăng
trưởng của các mặt hàng truyền thống như dệt may chỉ khoảng 24%, giày dép là

19% trong khi đó mức tăng của các ngành công nghiệp nặng và khoa học công
nghệ cao lại khá nhiều (đồng hồ điện tử là 46%, xe ô tơ và linh kiện tăng 43%…)
trong đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ của Trung Quốc cũng đạt được những hiệu quả
mà Việt Nam cần tham khảo.
Trước hết là đối với ngành hàng dệt may. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
của Trung Quốc vào Hoa Kỳ không những lớn mà cịn có tốc độ tăng trưởng cao.
Năm 2005 Trung Quốc xuất sang Hoa Kỳ khoảng 27 tỷ USD tăng 42,5% so với
năm 2004 và chiếm khoảng 27% tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may của Hoa Kỳ.
Sức mạnh cạnh tranh của hàng dệt may Trung Quốc là nhờ vào các nhân tố: chi
phí lao động trên mỗi sản phẩm thấp do mức lương thấp và năng suất lao động
cao; Trung Quốc có thể sản xuất vải, phụ kiện trang trí, bao bì và hầu hết các phụ
kiện khác dùng để sản xuất hàng dệt may và các sản phẩm khác; Trung Quốc được
giới chuyên môn đánh giá là một nơi tốt nhất về sản xuất quần áo và các sản phẩm
dệt may khác với bất kỳ chất lượng nào hay với bất kỳ mức giá nào; Trung Quốc
có thể cung cấp hàng dệt may với số lượng lớn trong thời gian ngắn, tạo tâm lý an
tâm với người nhập khẩu. Là một ngành truyền thống, lợi thế Trung Quốc có một
lực lượng lao động có kỷ luật và lành nghề, đây cũng là quốc gia tự đảm bảo được
nhu cầu về sợi tổng hợp và tự nhiên. Ngành dệt may Trung Quốc là ngành đầu tiên
sử dụng Internet để tiến hàng giao dịch trực tuyến. Một điểm nổi bật nữa là Trung
Quốc hiện đang sử dụng có hiệu quả phương cách one – stop – shopping, theo đó
các nhà máy kết nối với nhau, sử dụng nguyên liệu có sẵn để thực hiện tất cả các
khâu: kéo sợi, dệt, nhuộm, cắt và may. Một kinh nghiệm trong hoạt động xuất
khẩu của Trung Quốc là giao hàng đúng hạn với chất lượng tốt, điều này có ý
nghĩa quyết định đến sự thành bại của ngành dệt may và thực tế Trung Quốc luôn
là người giao hàng đầu tiên và tốt nhất… Với những lợi thế vốn có cũng như
những cố gắng nỗ lực của chính mình, Trung Quốc là nhà cung cấp hàng đầu, một
đối thủ cạnh tranh nặng ký mà không một ai muốn đối đối đầu. Qua những kinh


18


nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam có thể học tập ở cách thức sản xuất hiện đại,
việc cung ứng sản phẩm đảm bảo một giá trị nội địa lớn, phương cách one – stop –
shopping. Ngoài ra chúng ta cũng cần học hỏi cách làm sao đảm bảo chữ tín trong
quan hệ thương mại quốc tế.
Mặt hàng thứ hai mà Trung Quốc vẫn luôn đạt được sự tăng trưởng trong
xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, đó là các sản phẩm gia dụng, nội thất. Trung
Quốc là quốc gia xuất khẩu mặt hàng này lớn nhất vào Hoa Kỳ, năm 2005 đạt 11,7
tỷ USD tăng 2 tỷ so với năm 2004 và chiếm 48% thị phần nhập khẩu mặt hàng này
của Hoa Kỳ. Nguyên nhân của điều này là: giá thành của các sản phẩm của Trung
Quốc ngày một thấp trong khi chất lượng lại ngày càng nâng cao; nhiều cơng ty
nước ngồi thậm chí kể cả một số cơng ty hàng đầu của Hoa Kỳ đã di chuyển sản
xuất sang Trung Quốc để tận dụng giá lao động rẻ làm tăng khả năng cung của
nước này; chi phí vận tải thấp; quan hệ giữa nhà sản xuất ở Trung Quốc với các
nhà bán lẻ của Hoa Kỳ ngày càng chặt chẽ. Với những phân tích trên, Việt Nam
cần tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc thu hút đầu tư sản xuất từ
các nhà đầu tư nước ngoài mà nhất là nhà đầu tư Hoa Kỳ vào những ngành mà
chúng ta có lợi thế, đồng thời cần gia tăng củng cố quan hệ với hệ thống bán lẻ của
Hoa Kỳ, đây là cầu nối quan trọng cho hàng hóa Việt Nam đến được với người
tiêu dùng.
Đối với các mặt hàng cơng nghiệp có hàm lượng khoa học cơng nghệ cao,
Trung Quốc cũng là nhà cung cấp lớn cho thị trường Hoa Kỳ. Hiện nay Trung
Quốc là nước xuất khẩu lớn nhất hàng điện tử vào Hoa Kỳ, năm 2005 giá trị xuất
khẩu của ngành này là 86,7 tỷ USD tăng 25,4% so với năm 2004 chiếm 28,5%
tổng nhập khẩu hàng điện tử của Trung Quốc. Còn xuất khẩu máy tính và phụ kiện
của Trung Quốc vào Hoa Kỳ cũng chiếm thị phần lớn nhất với tốc độ tăng trưởng
cao nhất, năm 2005 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt khoảng 40,3 tỷ USD
tăng 18,6 % so với năm 2004 chiếm 43% thị phần của Hoa Kỳ. Nguyên nhân chủ
yếu của sự tăng trưởng xuất khẩu cao các mặt hàng này là do nhiều nhà sản xuất
lớn trên thế giới đã chuyển vào đầu tư sản xuất tại Trung Quốc do giá nhân công

rẻ. Việt Nam cũng là quốc gia có một đội ngũ lao động cần cù sáng tạo, chi phí lao


19

động của nước ta khơng cao vì thế chúng ta nên học hỏi kinh nghiệm của Trung
Quốc để thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư sản xuất trong
nước, mà trước hết cần phải xây dựng hệ thống các khu công nghệ cao, các khu
chế xuất và hồn thiện các chế tài tạo mơi trường thuận lợi và tâm lý an toàn cho
hoạt động đầu tư nước ngoài.


20

Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam
sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế
2.1.Thị trường Hoa Kỳ
2.1.1.Những đặc điểm cơ bản của thị trường Hoa Kỳ
Tên nước: Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ (The United State of America)
Vị trí địa lý: Nằm ở Bắc Hoa Kỳ, phía đơng là Bắc Đại Tây Dương, phía Tây là
Bắc Thái Bình Dương, phía Bắc giáp với Canada và phía Nam giáp với Meehico.
Diện tích: 9.629.091 km2 chiếm 6,2% diện tích tồn cầu trong đó diện tích đất
liền là 9.158.960 km2 và diện tích mặt nước là 470.131 km2.
Dân số Hoa Kỳ tính đến tháng 7/2005 là 295.734.134 người trong đó độ tuổi 0 –
14 chiếm 21%; có 66,4% dân số trong độ tuổi 15 – 64 và có 12,6% dân số ở độ tuổi
trên 65. Tuổi thọ trung bình của người dân Hoa Kỳ là 77,4 tuổi trong đó nam trung
bình là 75,5 tuổi và nữ là 80,2 tuổi. Đây là một quốc gia đa sắc tộc với người da trắng
chiếm 77,1%; người da đen chiếm 12,9%; người châu Á chiếm 4,2% còn lại là thổ
dân và các dân tộc khác. Có khoảng 30% dân số Hoa Kỳ hiện nay là người nhập cư

và trung bình hàng năm có khoảng một triệu người nhập cư vào Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là quốc gia theo thể chế Cộng hòa Tổng thống, chế độ lưỡng viện (từ
năm 1789). Hiện nay Hoa Kỳ có 50 bang, 1 quận (Washington DC – District of
Columbia) và 13 lãnh thổ quốc đảo phụ thuộc khác.
Thủ đô của Hoa Kỳ là Washington DC với diện tích 176 km2 và khồng 600
nghìn dân. Các thành phố chính: New York, Los Angeles, Chicago, San Prancisco,
Philadelphia và Boston. Người ta biết đến Hoa Kỳ là một quốc gia có tiềm lực quân
sự mạnh nhất, một nền kinh tế phát triển năng động với cơ cấu kinh tế: công nghiệp
chiếm 18% GDP, 2% nông nghiệp và 80% là ngành dịch vụ. Mặc dù nông nghiệp chỉ
chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu kinh tế của Hoa Kỳ nhưng quốc gia này lại đứng đầu thế
giới về sản lượng ngũ cốc, nơng nghiệp đã có những thay đổi nhanh chóng và giữ vị


21

trí bất biến trong đời sống hàng ngày, các sản phẩm nông nghiệp, lương thực thực
phẩm của quốc gia này được sản xuất rất an toàn, phong phú và giá cả phù hợp. Với
ngành công nghiệp, Hoa Kỳ là quốc gia phát triển hàng đầu thế giới về những sản
phẩm tiên tiến và có tính cạnh tranh cao. Lợi thế của Hoa Kỳ là có nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú như than đá, đồng chì…đã khiến cho trong giai đoạn những
năm 1880 và 1900, thậm chí tới tận ngày nay Hoa Kỳ vẫn nổi lên là một quốc gia
phát triển mạnh về công nghiệp với các ngành chủ chốt là sản xuất thép, xe hơi, cơ
khí điện và điện tử, ô tô, hàng không, viễn thông, chế biến thực phẩm, hóa chất…
trong đó riêng ngành cơng nghiệp chế tạo chiếm trên 80% giá trị toàn ngành.
2.1.1.1.Hoa Kỳ là thị trường có tính mở cao
Hoa Kỳ là quốc gia tiên phong trong việc ủng hộ tự do hóa thương mại vì vậy
các quy chế xuất nhập khẩu mà quốc gia này đã và đang áp dụng đều phù hợp với
những nguyên tắc cơ bản của WTO, đây là quốc gia nhập khẩu với khối lượng lớn
các mặt hàng có hàm lượng lao động cao: dệt may, giày dép…trong đó có nhiều mặt
hàng tiêu dùng thông thường mà Hoa Kỳ hầu như không sản xuất. Một thực tế là sự

phát triển của nền kinh tế Hoa Kỳ đã liên tục đóng góp cho sự phát triển tồn cầu nhờ
duy trì chính sách mở cửa thị trường. Thơng qua chính sách mở cửa của mình, các
nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng Hoa Kỳ có thể tiếp cận với hàng hóa dịch vụ
từ nước ngoài với những điều kiện ưu đãi nhất. Trong hầu hết các chính sách phát
triển kinh tế, Hoa Kỳ luôn chủ trương đặt hệ thống thương mại đa phương vào trung
tâm của các quan hệ thương mại quốc tế của mình, ln có xu hướng mở cửa thị
trường một cách cao độ thông qua các cuộc đàm phán từ song phương cho tới khu
vực để đạt tới một chiến lược tự do hóa thương mại mang lại nhiều lợi ích quốc gia
nhất.
Tính mở của thị trường cịn được thể hiện ở nhu cầu thị hiếu cũng như những
yêu cầu trong tiêu dùng của người Hoa Kỳ không quá khắt khe, nhu cầu tiêu dùng
nhiều nhưng họ không quá kỹ tính như những người tiêu dùng châu Âu hay Nhật
Bản. Mặt khác, là đất nước đa sắc tộc, các tầng lớp dân cư trong xã hội cũng có sự
phân hóa nhất định vì vậy nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp khác nhau thì cũng


22

khác nhau, hàng hóa bán trên thị trường Hoa Kỳ cũng sẽ đa dạng phong phú hơn cả
về chủng loại lẫn chất lượng. Sức tiêu thụ hàng hóa trên thị trường Hoa Kỳ là vô
cùng hấp dẫn với bất kỳ nhà xuất khẩu nước ngoài nào. Theo một khảo sát mới đây
thì bình quân một năm, một người phụ nữ Hoa Kỳ mua khoảng 54 bộ quần áo và 6
đôi giày, và người tiêu dùng chủ yếu hiện nay là phụ nữ sau đó đến giới trẻ. Thị
trường đồ gỗ cũng hấp dẫn không kém khi kim ngạch nhập khẩu gỗ, các sản phẩm gỗ
và đồ nội thất là trên 40 tỷ USD/ năm, nhu cầu tiêu dùng đối với mặt hàng này hàng
năm không ngừng tăng lên. Với mặt hàng thủy sản thì trung bình một người Hoa Kỳ
tiêu dùng khoảng 16,3 pound/ người/ năm, tức là họ đã tiêu thụ khoảng 8 % tổng sản
lượng thủy sản thế giới… Có thể thấy, những mặt hàng mà thị trường Hoa Kỳ có kim
ngạch nhập khẩu lớn và có nhu cầu cao đều là những hàng hóa Việt Nam hồn tồn
có khả năng cung ứng tốt, điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam sẽ có

thêm nhiều cơ hội kinh doanh tại thị trường này.
2.1.1.2.Tính quy chuẩn và thống nhất cao độ đối với các sản phẩm nhập khẩu vào
thị trường Hoa Kỳ
Là thị trường rộng, sức mua lớn, nhu cầu đa dạng nhưng đồng thời cũng là
thị trường có những quy định tương đối chặt chẽ đối với hàng hóa nhập khẩu.
Thơng thường, hàng hóa được các doanh nghiệp Hoa Kỳ nhập về phải có khối
lượng lớn, phải đảm bảo đúng quy chuẩn, đúng thời hạn và đặc biệt là khơng được
phương hại đến lợi ích quốc gia cũng như lợi ích của các cơng ty nhập khẩu. Hàng
hóa trước khi đưa vào phân phối đến tay người tiêu dùng đều phải được kiểm
nghiệm chặt chẽ, chỉ khi đã đáp ứng được các chuẩn mực nhất định mới được
phép đưa vào lưu thông tới người tiêu dùng cuối cùng. Ngồi ra, trong q trình
nhập khẩu hàng hóa vào thị trường nội địa, Hoa Kỳ cũng đưa ra những quy định
chung về cách tính trị giá hải quan, về nội dung hình thức của một hóa đơn thương
mại đặc biệt vấn đề xuất xứ sản phẩm rất được coi trọng. Mức thuế nhập khẩu
được áp dụng khác nhau cho các hàng hóa đến từ các nhóm nước khác nhau và
một số mặt hàng còn chịu sự quản lý bằng hạn ngạch phân bổ theo quốc gia do đó
việc xác định được xuất xứ hàng hóa là hết sức quan trọng.


23

2.1.1.3.Thị trường Hoa Kỳ có hệ thống phân phối thống nhất và ổn định
Do đặc tính là thị trường lớn, thị hiếu tiêu dùng đa dạng nên việc cung ứng
các loại hàng hóa tới người tiêu dùng cũng phải có quy mô tương ứng. Thực tế đã
cho thấy hệ thống phân phối hàng hóa ở Hoa Kỳ phát triển ở trình độ cao và có
một tổ chức hồn chỉnh. Tại Hoa Kỳ hiện nay có nhiều loại cơng ty lớn, vừa và
nhỏ sử dụng các kênh phân phối sản phẩm khác nhau. Các cơng ty lớn thường có
hệ thống phân phối riêng và tự mình thực hiện các khâu từ nghiên cứu, sản xuất,
tiếp thị, phân phối và tự nhập khẩu. Cịn đối với các cơng ty vừa và nhỏ thì vận
động xung quanh hệ thống thị trường và được sự hỗ trợ từ phía Chính phủ. Các

cơng ty vừa và nhỏ của Hoa Kỳ tiến hành nhập khẩu hàng hóa về và bán tại thị
trường trong nước thơng qua nhiều cách khác nhau: bán cho các cửa hàng bán lẻ,
bán cho các nhà phân phối, tiến hành bán lẻ trực tiếp…Khi nói tới các kênh phân
phối trên thị trường Hoa Kỳ khơng thể khơng nhắc tới vai trị của hệ thống bán lẻ.
Hiện nay Hoa Kỳ có trên 1 triệu doanh nghiệp bán lẻ chiếm khoảng 11,7% tổng số
việc làm tại Hoa Kỳ, riêng trong ngành may mặc đã có hàng trăm cửa hàng bán lẻ
quần áo với doanh thu khoảng 93 tỷ USD/ năm. Với mặt hàng thủy sản, việc cung
ứng cũng rất tiện lợi với hệ thống các nhà hàng, hệ thống cung cấp cho các cơ sở
ăn uống công cộng như trường học, hộ gia đinh; hệ thống bán lẻ là các chuỗi siêu
thị, các cửa hàng bán lẻ, các chợ, các cửa hàng…
2.1.1.4.Hoa Kỳ là thị trường có cường độ cạnh tranh cao
Như đã biết, nhu cầu nhập khẩu của Hoa Kỳ hàng năm là lớn nhất thế giới,
đây là cái đích hướng tới của nhiều nhà xuất khẩu. Do đó trên thị trường này ln
có mặt của rất nhiều nhà cung cấp lớn nhỏ từ khắp nơi trên thế giới, đó chính là
ngun nhân cơ bản của sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà xuất khẩu với nhau,
giữa nhà xuất khẩu với nhà sản xuất nội địa, và trong những chiến lược cạnh tranh
đó, giá cả và chất lượng là hai yếu tố cơ bản nhất giữ vai trò quan trọng cần được
các doanh nghiệp xuất khẩu lưu tâm. Trong hai yếu tố đó, giá cả đơi khi có sức
cạnh tranh hơn so với chất lượng sản phẩm bởi người tiêu dùng Hoa Kỳ thường
không muốn trả tiền theo giá niêm yết, hàng hóa bán tại trị trường Hoa Kỳ phải


24

kèm theo dịch vụ sau bán hàng, số lượng và chất lượng của những dịch vụ này có
ý nghĩa quan trọng trong sự lựa chọn mua hàng của họ. Nắm được đặc điểm này
mà các doanh nghiệp thường tập trung cao vào phục vụ tốt các dịch vụ sau bán
hàng cũng như tìm cách để hạ thấp giá thành sản phẩm đến mức tối thiểu có thể.
Các nhà kinh doanh tại thị trường Hoa Kỳ phải chấp nhận cạnh tranh gay gắt và
cái giá phải trả cho sự nhầm lẫn là rất lớn.

2.1.1.5.Vai trò của các Hiệp hội kinh doanh và hệ thống tư vấn rất được đề cao
Mặc dù là thị trường có tính mở khá cao nhưng trên thực tế các chính sách
thương mại của quốc gia này vẫn mang xu hướng bảo vệ các doanh nghiệp sản
xuất trong nước tương đối chặt chẽ và nghiêm ngặt. Điều này được thể hiện ở một
số lượng lớn các Hiệp hội, các tổ chức của các nhà kinh doanh giữ vai trò hướng
dẫn, phối hợp hoạt động và bảo vệ lợi ích các doanh nghiệp trong nước trước sự
thâm nhập mạnh mẽ của các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này vừa tạo ra những
thách thức và những cơ hội mà nếu doanh nghiệp nước ngồi khai thác được thì sẽ
có được một sự đảm bảo vững chắc cho xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Hoa
Kỳ là: thơng qua thiết lập mối quan hệ tốt đẹp bình đẳng với các tổ chức Hiệp hội
ngành hàng của Hoa Kỳ, nhà xuất khẩu nước ngồi sẽ có thể dễ dàng tìm cho mình
những đối tác làm ăn là các doanh nghiệp nội địa phù hợp nhất từ đó thiết lập quan
hệ thương mại, cơ sở cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, đây là cách tiếp cận
thị trường hiệu quả cao và đảm bảo được sự tin cậy.
Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ vốn phức tạp nên để có thể hiểu được những vấn
đề liên quan đến pháp luật cũng như có một sự đảm bảo pháp lý vững chắc cho
hoạt động kinh doanh của mình, nhà xuất khẩu thường lựa chọn cho mình những
cố vấn luật pháp riêng. Các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ rất đề cao vai trò của các dịch
vụ tư vấn đặc biệt là dịch vụ tư vấn luật, họ rất sợ trong hợp đồng của mình có bất
cứ điều gì khơng rõ ràng hay khơng đúng với quy định của pháp luật, và họ cũng
muốn các đối tác làm ăn của mình nắm vững cơ sở pháp lý cho các điều khoản
hợp đồng. Các nhà xuất khẩu, doanh nghiệp nước ngồi ln cần phải có sự hỗ trợ
của các loại hình dịch vụ này cho quá trình hoạt động của mình trong quan hệ làm


25

ăn với thương nhân Hoa Kỳ, tuy nhiên cũng cần phải tính tốn cụ thể vì giá của
những dịch vụ này tại Hoa Kỳ là tương đối cao. Với người Hoa Kỳ, “thời gian là
tiền bạc”, họ cũng coi thời gian là một loại hàng hóa như tất cả các loại hàng hóa

khác, người Hoa Kỳ tiết kiệm thời gian như tiết kiệm tiền bạc đặc biệt là những
người làm dịch vụ tư vấn, luật sư…thường tính phí hoặc tiền cơng dựa trên số giờ
làm việc với khách hàng. Vì vậy, các nhà kinh doanh nước ngoài khi cần phải sử
dụng các dịch vụ này phải hết sức lưu ý: chuẩn bị đầy đủ và chu đáo mọi câu hỏi
cần giải đáp cũng như nội dung cần tư vấn để đi thẳng vào vấn đề, tiết kiệm tối đa
thời gian sử dụng các dịch vụ này. Cũng chính vì tiết kiệm thời gian mà các nhà
kinh doanh Hoa Kỳ không có nhiều thời gian cho những câu chuyện rơng dài hoặc
đọc những bức thư dài hoặc phải chờ đợi sự trả lời chậm trễ. Do đó, các bức thư
chào hàng hoặc giao dịch trước hết phải đảm bảo được sự ngắn gọn súc tích thu
hút được sự chú ý của đối tác, nội dung phải rõ ràng và trả lời thẳng vào vấn đề mà
đối tác quan tâm. Sự chậm trễ trả lời các thư hỏi hàng sẽ làm mất cơ hội kinh
doanh.

2.1.2.Rào cản thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ
Là một quốc gia theo thể chế Cộng hịa Liên bang do đó ngồi hệ thống pháp
luật liên bang thì mỗi bang đều có hệ thống pháp luật riêng nhưng không được trái
với Hiến pháp chung của quốc gia, trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa luật
liên bang, luật của bang hoặc luật địa phương thì luật liên bang sẽ có hiệu lực. Tất
cả các bang của Hoa Kỳ (trừ bang Luoisiana theo hệ thống Luật châu Âu) đều theo
hệ thống Luật Anh – Hoa Kỳ. Theo hệ thống Luật pháp này thì những giải thích
luật của Tịa án sẽ trở thành luật áp dụng trong các trường hợp sau và tương tự do
đó với các nhà xuất khẩu nước ngồi khi tìm hiểu luật pháp Hoa Kỳ cũng cần phải
nghiên cứu tìm hiểu các phán quyết của Tòa án.
Hệ thống luật pháp Hoa Kỳ phức tạp nhưng về cơ bản nó bao gồm:
Thứ nhất, Luật bồi thường thương mại được sử dụng với mục đích chống lại
sự cạnh tranh khơng cơng bằng của hàng nhập khẩu với hàng hóa được sản xuất
trong nước và bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp trong nước. Luật bồi thường



×