Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Sông Hồng với lịch sử tiến hóa người Việt pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.08 KB, 5 trang )

Sông Hồng với lịch sử tiến hóa người Việt
Sông Hồng trở thành một phần xương thịt của những miền đất nó đi qua, của bao
thế hệ, của mỗi con người từng gắn bó máu thịt với nó. Mỗi người lại có một Sông
Hồng của riêng mình.
Không ai biết Sông Hồng hình thành từ đời nào. Từ Việt Trì, Sông Hồng có thêm hai
phụ lưu là Sông Đà và Sông Lô với hàng ngàn lạch khe, suối nhỏ, suối to, ngòi nhỏ,
ngòi to đổ vào Sông Hồng với 609 km bắt nguồn từ dãy Ngụy Sơn cao 1.776 mét thuộc
huyện Nhị Đô, tỉnh Vân Nam trên Cao nguyên Vân Nam (Trung Quốc) và 556 km trên
đất Việt Nam, vẫn là nguồn chủ công bào mòn những vùng đất nó đi qua, hòa trong 122
tỷ m3 nước/năm một khối lượng phù sa khổng lồ là 120 triệu tấn/năm.
Cứ thế, nó cần mẫn bồi đắp nên một vùng châu thổ có bề dày từ 180m đến 60m ở trung
tâm đồng bằng, càng đi ra rìa càng nông hơn, đến mức một vài nơi còn lộ cả nền đá gốc.
Tổng diện tích đất tự nhiên nhờ nó mà có ở vùng châu thổ cả Sông Hồng và Sông Thái
Bình này là 1.479.416 ha gồm 8 tỉnh và 4 thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương,
Hưng Yên, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Thái Bình, Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc.
Không chỉ bồi đắp cho đầy mãi lên sự màu mỡ mà nó còn chịu thương chịu khó mỗi
năm mở mang bờ cõi cho đất nước nhờ lấn ra biển, trung bình 300 m qua 11 cửa sông
là: Lạch Huyện, Nam Triệu, Cấm, Lạch Tray, Văn Úc, Thái Bình, Diêm Điền, Trà Lá,
Ba Lạt, Lạch Giang và Đáy.
Vậy là cứ khoảng từ 150 đến 200 năm, đất nước sẽ có thêm một vùng đất mới cỡ một
nửa huyện Hải Hậu, Nam Định. Huyện Hải Hậu ngày nay là vùng đất được hình thành
nhờ một con đê lấn biển mà ông cha ta đắp trong khoảng từ năm 1430 đến năm 1440
tạo ra, nên mới có tên Hải Hậu, nghĩa là “sau biển”.
Một vùng ven biển Thái Bình chẳng phải là nhờ công lao Nguyễn Công Trứ cho đắp đê
rửa chua khua mặn mà làm nên một biển lúa của châu thổ vùng này sao?
Người Việt Nam biết ơn Sông Hồng đã bồi đắp nên châu thổ Sông Hồng. Có châu thổ
Sông Hồng mới có nền văn minh lúa nước Sông Hồng.
Sông Hồng - lịch sử dựng nước, giữ nước của nhân dân
Năm nghìn năm trước, những người Việt cổ đã cư trú ở Phùng Nguyên. Ở di chỉ Đồng
Đậu, ta đã tìm thấy gạo cháy. Ở Tràng Kênh (Hải Phòng) thấy phấn hoa của lúa nước
Oryza. Rồi sau đó, khi vùng biển này lùi mãi ra xa nhờ phù xa bồi lấp, họ mới rời bỏ


vùng đất cao của khu vực Phong Châu, Mê Linh để khai phá đồng bằng hoang vu này.
Lau sậy, cỏ dại, rừng ngập nước nhiệt đới với bao nhiêu muông thú, rắn rết, thuồng
luồng… mãi tới Thế kỷ XVII còn được Phan Huy Chú miêu tả trong cuốn Lịch triều
hiến chương loại chí về Đầm Dạ Trạch ở vùng Khoái Châu như một minh họa.
Không phải ngẫu nhiên, phía Tây Hồ Tây lại có một làng tên là Trích Sài (tức là làng
làm nghề hái củi). Mùa hoa đào năm ngoái, tôi có đến thăm nhà ông Chu Văn Thứ,
người thuê một mảnh đất ở cánh đồng Xã Phú Thượng để lập vườn trồng đào. Để có
những luống đất cao trồng đào và có nước tưới, ông cho đào một cái ao sâu hơn 2,5 m,
thấy toàn những gốc cây to ở thế đứng, rễ nhằng nhịt, phải vất vả lắm thợ đấu mới đánh
lên được. Mấy trăm gốc chất sau nhà phơi khô đun dần.
Cuối những năm 70, các nhà khảo cổ còn đào thấy ở Văn Điển một khu cư trú cũ, có
nhiều đồ đá, trong đó có một tượng người. Đấy là di tích thời kỳ đồ đá mới.
Nhờ có châu thổ Sông Hồng với địa thế “trung tâm trời đất”, “được cái thế rồng cuộn
hổ ngồi”, “tiện hướng nhìn sông, dựa núi”, “địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà
thoáng”, “muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi”, với con mắt nhìn thấu sáu cõi,
tầm nhìn chiến lược của một bậc Đế vương đích thực, Lý Công Uẩn mới đi đến quyết
định có ý nghĩa sống còn đối với đất nước: “Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng
địa, thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là nơi Kinh đô bậc
nhất của đế vương muôn đời”.
Năm 1010, với Chiếu dời đô (trích) ấy, Lý Công Uẩn đã cho dời Kinh đô từ Hoa Lư,
Ninh Bình ra đại La, đổi tên là Thăng Long, thì sau này Hà Nội mới đóng vai trò là Thủ
đô của đất Việt, châu thổ Sông Hồng mới thực sự trở thành cái nôi của dân tộc Việt
Nam trong hành trình 1000 năm dựng nước và giữ nước.
Vừa rồi, Ban chỉ đạo kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội có làm một cuộc khảo
sát để xem Vua tôi đã theo đường sông nào để “dọn” cung thất từ Hoa Lư ra Thăng
Long dựng đô mới. Lập lại được cuộc hành trình ấy cũng là điều thú vị trong việc tái
hiện lại lịch sử dựng nước rất có ý nghĩa đối với Hà Nội.
Ở Việt Nam ta ngày xưa, ngoài nguồn nước tưới và sinh hoạt hàng ngày, sông ngòi vẫn
là đường giao thông chính cho con người đi lại giao lưu văn hóa, vận chuyển hàng hóa,
phát triển kinh tế và chuyển quân đánh giặc. Chính nhờ hệ thống Sông Thái Bình (do ba

con sông: Sông Cầu, Sông Thương và Sông Lục Nam nhập lại) nối với Sông Hồng bằng
các sông: Kinh Thầy, Lạch Tray, Sông Đuống, Sông Luộc và Sông Đáy tạo nên một hệ
thống giao thông đường sông chằng chịt trên khắp vùng châu thổ và thông ra biển qua
11 cửa.
Ba lần danh tướng Lý Thường Kiệt ra quân đều dùng chiến thuyền hành binh theo
đường thủy đánh giặc. Lần thứ nhất khoảng 1068, ông được Lý Thánh Tông phong làm
Đại tướng quân, cùng nhà Vua đem năm vạn quân xuống 200 chiến thuyền đi đường
biển vào đánh Chế Củ ở phía Nam.
Lần thứ hai, ngày 2/1/1076, Lý Thường Kiệt lại dùng hơn 200 chiến thuyền, mỗi chiếc
chở 250 quân theo đường biển chủ động đánh sang đất giặc chiếm cả Sạ Đẩu, Khâm
Châu, Liêm Châu, Ung Châu của quân Tống rồi lại chủ động rút về. Cuối năm ấy
(1076), 30 vạn quân Tống đánh sang trả hận. Ta dàn quân đánh bộ ở chiến tuyến Sông
Như Nguyệt (Sông Cầu). Thủy quân trên 400 chiến thuyền thì cắm ở Sông Lục Đầu
đánh cho chúng một trận tơi bời.
Không biết bao giờ ta đủ tài, đủ sức dựng một bộ phim lịch sử đánh giặc phương Bắc để
có thể tái hiện được quang cảnh ngày 9/10/1284 cả 13 trại, 61 phường dân Thăng Long
và đất các vùng lân cận đổ ra xem cuộc đại duyệt quân thủy và quân bộ ở Đông Bộ Đầu
trước khi ra trận với hai chữ “Sát Thát” trên tay, để tạc vào lịch sử những trận đánh
thắng giặc ở Chương Dương, Vạn Kiếp, Hàm Tử còn lưu lại muôn đời trong câu thơ bất
hủ:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù…
và thành địa danh trên bến Sông Hồng, Hà Nội hôm nay.
Đông Bộ Đầu là chiến trường chống quân Nguyên tấn công Kinh thành của quân dân ta
đời nhà Trần. Nó ở vào quãng từ Bãi Phúc Xá xuống đến trước Cảng Phà Đen bây giờ.
Trên đó có một đồn thủy quân, một vị trí quân sự rất quan trọng, chỗ Bệnh viện Trung
ương Quân đội 108 ngày nay. Trước 1954, nó cũng vẫn là bệnh viện, bà con ta gọi là
Bệnh viện Đồn Thủy là vì thế. Rồi hai lần thắng quân Mông - Nguyên trên Sông Bạch
Đằng.
“Người ta không thể nào tắm hai lần trên một dòng sông”. Với ý nghĩa triết học của sự

vận động thì điều ấy là tuyệt đối. Nhưng bảo “lịch sử không bao giờ lặp lại” thì… Cũng
vẫn giặc ngoại xâm phương Bắc. Cũng vẫn theo đường biển kéo vào. Cũng vẫn bị ta
phục kích ở cửa Sông Rút, Sông Chanh - hai nhánh của Sông Bạch Đằng. Cũng vẫn bị
thua bởi một cách đánh. Cũng vẫn chừng chiếc cọc lim ấy chọc thủng thuyền giặc…:
bạn hãy đến Bạch Đằng Giang để ngẫm nghĩ về lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân
tộc và nhớ tới hai câu thơ của Trương Hán Siêu trong bài Phú Bạch Đằng:
Đỏ rực ráng chiều in đáy nước
Ngỡ rằng máu giặc vẫn còn đây.
Năm 1786, Nguyễn Huệ dẫn thủy quân ra Bắc, ngược Sông Hồng phá đoàn thuyền
chiến của Chúa Trịnh ở Bến Thúy ái. Cũng Nguyễn Huệ - Quang Trung đã hành quân
thần tốc ra Thăng Long phá tan hai mươi vạn quân Thanh của tướng giặc Tôn Sỹ Nghị.
Quân tướng giặc chạy qua cầu phao Bắc ở Bến Tây Long (chỗ Đầm Trấu, ngoài Nhà
máy xay Lương Yên bây giờ). Cầu vỡ, đứt, quân sỹ chen lấn nhau rơi xuống sông,
không đếm xuể. Lại cái lần ta đánh tan hai mươi vạn quân Thanh khiến chúng phải
tranh nhau qua cầu phao trên Sông Hồng, rơi xuống sông chết nhiều như sung rụng mặt
ao.
Thế đấy! Không một chiến thắng nào của dân tộc ở phía Bắc mà Sông Hồng (và các chi
lưu của nó) không tham chiến, không góp công vào thắng lợi.
Sông Hồng chính là lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân, của Hà Nội.
Thêu sắc đỏ trên áo dài Hà Nội
Khi Hà Nội trở thành Kinh đô, thì ngoài vị trí là gương mặt, là đầu não điều khiển toàn
bộ hoạt động của đất nước, nó còn là trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế. Nhưng trước
hết là của tam giác châu thổ Sông Hồng mà sự thông thương giữa Hà Nội - “thứ nhất
Kinh kỳ” với “thứ nhì Phố Hiến” (Hưng Yên) nhờ Sông Hồng để từ đó tỏa ra xung
quanh trở nên vô cùng nhộn nhịp, ấy là cảnh dòng sông trên bến dưới thuyền, san sát
tàu thuyền ra vào bốc dỡ hàng hóa.
Thời phồn thịnh Thế kỷ XVII khi ta mở cửa giao lưu thương mại với các nước thì Hà
Nội trở thành trung tâm sản xuất, đầu mối trung chuyển.
Và hôm nay, trong sự nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa, Hà Nội được xác định là
đỉnh của tam giác kinh tế mà hai góc đáy là Quảng Ninh và Hải Phòng. Đường Quốc lộ

số 5 đã được nâng cấp. Việc nâng cấp Đường 18 đã hoàn thành. Cầu Bính, cầu dây
văng Bãi Cháy đã đi vào sử dụng. Đường sắt Hà Nội - Hải Phòng vẫn đảm bảo tối đa
năng lực vận chuyển. Nhưng vận tải đường thủy trên Sông Hồng từ các nơi về Hà Nội
và từ Hà Nội đi các nơi vẫn có một vị trí quan trọng, nhất là với tuyến Hà Nội đi Sơn La
(phải bốc dỡ hàng qua đập của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình), đi Tuyên Quang, Yên
Bái, Lào Cai. Nhưng điều quan trọng hơn cả là: hệ thống Sông Hồng (và Sông Thái
Bình) vẫn tiếp tục là nguồn thủy lợi cho nền nông nghiệp và cuộc sống của 11 tỉnh
thuộc châu thổ Sông Hồng.
Hàng ngàn năm nay, Sông Hồng đã chảy thành một phần rất trọng yếu của lịch sử nước
Việt, trong đó có một ngàn năm chảy thành lịch sử Hà Nội.
Nó trở thành một phần xương thịt của những miền đất nó đi qua, của bao thế hệ, của
mỗi con người từng gắn bó máu thịt với nó.
Mỗi người lại có một Sông Hồng của riêng mình. Bao nhiêu người Hà Nội đi kháng
chiến đã sống với Sông Hồng cùng Nguyễn Đình Thi mỗi khi ngân nga “Hồng Hà ơi, ta
nhớ mùa Thu xưa, nước về như sóng cờ lên khi quân về Thủ đô…”. Sông Hồng trong
Du kích Sông Thao là bản tráng ca bằng ngôn ngữ âm thanh đẹp nhất của cuộc kháng
chiến chống Pháp. Và cuối năm 1954, bao nhiêu người từ trong những khu rừng Việt
Bắc âm u cũng náo nức hồi cư về Hà Nội với lời mời rủ của Tố Hữu:
Sông Thao náo nức sóng dồi.
Ai về Hà Nội thì xuôi cùng thuyền!.
Theo thư tịch cổ Trung Quốc thì khoảng trước Thế kỷ VI, người Trung Hoa gọi con
sông này là Diệp Du. Còn bây giờ, Trung Quốc gọi phần thượng lưu Sông Hồng từ nơi
phát tích là Nguyên Giang hay Mã Long Giang. Gần đến vùng biên giới Việt Trung lại
gọi là Liên Hoa hay Lê Hoa.
Vào đất Việt, mỗi vùng quê lại có Sông Hồng của mình. Từ Lào Cai đến Việt Trì con
Sông như dải lụa đào uốn lượn giữa hai bên bờ rừng cọ đồi chè nên người Phú Thọ gọi
nó là Sông Thao (lụa). Thao còn là một từ tố trong Lâm Thao, tên một huyện của Phú
Thọ mà dòng sông chảy qua. Từ Việt Trì về đến Hà Nội là Sông Bạch Hạc.
Bây giờ vẫn còn nhiều cụ già gọi sông này là Sông Cái, nghĩa là Sông Mẹ. Mẹ của trăm
ngàn con sông khác. Đấy là cái tên có từ xa xưa mà người Việt cổ đã gọi, có lẽ theo nếp

nghĩ của chế độ mẫu hệ.
Người Pháp thì rất lãng mạn và có lý khi nhìn dòng nước phù sa hồng hào máu thịt mà
gọi nó là Sông Hồng, cái tên được gọi chính thức cho đến ngày nay. Sông Hồng cong
mình ôm lấy Thăng Long để từ thời Minh Mạng mới gọi đất này là Hà Nội (trong
sông)./.
Theo Chinh phu

×