Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tài liệu Một số di tích lịch sử - văn hóa ở Sông Cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (918.6 KB, 34 trang )

Sông Cầu quê hương tôi.

Sông Cầu là một vùng đất thơ mộng, sơn thủy hữu tình. Nơi đó, những vườn dừa mát rượi nằm
bên chân sóng. Nơi đó, những đầm, những vịnh, những đèo dốc đã đi vào ca dao:
Đầm Cù Mông: Cảnh quan đẹp, có nhiều đặc sản nổi tiếng như: ốc nhảy, ghẹ, cá mú, cá ngựa, ...
quanh đầm có các di tích văn hóa, lịch sử như: Miếu Công thần (Hòn Nần), di chỉ khảo cổ Gò Ốc,
Cồn Đình, Giếng Chăm,...
Vịnh Xuân Đài: Có vũng Lắm là thương cảng trong các thế kỷ XVIII, XIX; là căn cứ thủy quân của
quân Tây Sơn trước kia. Trong vịnh có nhiều vũng nhỏ, đảo nhỏ rất đẹp như: vũng La, vũng Sứ,
vũng Lắm, vũng Chào, cù lao ông Xá, Nhất Tự Sơn, Hòn Mù U...
Cụm tuyến du lịch Bãi Bàng, Bãi Bàu, Bãi Nhổm, Bãi Rạng, Bãi Ôm, Bãi Tràm.
Bãi Nồm (Hòa An, xã Xuân Hòa), Bãi Tràm (Hòa Thạnh, xã Xuân Cảnh), Từ Nham (xã Xuân
Thịnh), Gành Đỏ (thôn An - Bình Thạnh) có hệ sinh thái cát biển đẹp.
Sông Cầu có nhiều lễ hội tiêu biểu mang đậm bản sắc văn hoá địa phương như: Lễ hội cầu ngư
tổ chức hàng năm ở các xã Xuân Hải, xã Xuân Hòa, xã Xuân Cảnh, xã Xuân Thịnh. Lễ hội Sông
Nước Tam Giang được tổ chức trong 02 ngày (mồng 5,6 tháng Giêng - Âm lịch), là lễ hội mang
đậm chất dân gian và truyền thống của vùng đất Sông Cầu. Bên cạnh đó trên địa bàn huyện còn
có nhiều công trình kiến trúc tôn giáo có quang cảnh đẹp như: chùa Triều Tôn, Long Ân, Phật Học,
Thiên Thai, Xuân Long, Phước Điền, Linh Thiên...
Sông Cầu được mệnh danh là xứ dừa của Phú Yên. Dừa ở Sông Cầu thân cao tỏa bóng mát rợp
trải dài từ chân đèo Cù Mông đến tận dốc Gành Đỏ. Sông Cầu có một số đặc sản nổi tiếng, trong
đó phải kể đến món đuông dừa.
Đuông là một loại bọ cánh cứng, có họ gần với con kiến vương, chuyên đục phá cây dừa. Đuông
trưởng thành to bằng ngón tay trỏ, dài chừng năm phân, toàn thân có màu nâu, riêng đôi cánh
cứng lại có màu đỏ tươi, bên trên có điểm mấy chấm đen tròn bao lấy hai màng cánh lụa phía
trong. Đến mùa sinh sản, đuông cái đục ngọn và đẻ trứng vào gần cuống của trái dừa. Ấu trùng
lớn gần bằng ngón tay thì hoá nhộng và mỗi con chui vào nằm trong một cái kén được dệt bằng áo
tố dừa rất khéo và chắc chắn. Thời kỳ này, con đuông non nào cũng ứ sữa, mập tròn, trắng phau.
Người ta chỉ tìm được nó khi thấy chòm lá trên ngọn cây dừa bị héo và đổ gục xuống. Khi bắt,
người ta leo lên tận ngọn hốt trọn ổ mang về nhà. Con đuông non đem chiên bột là món đặc sản.
Trước khi chiên, con đuông phải được dội sơ nước sôi cho sạch, sau đó cho vào hỗn hợp bột mì


số 6, hột gà, tiêu, muối. Dầu ăn được đổ vào chảo vừa phải rồi bắc lên bếp, khi thấy dầu bắt đầu
sủi tăm thì có thể trút từng con đuông đã lăn bột vào để chiên. Lửa quá già sẽ làm cho miếng bột
chín hỗn, bên ngoài cháy sém đen hoặc ngả màu vàng đậm không bắt mắt còn bên trong thì con
đuông chưa chín; lửa non sẽ làm cho miếng bột trắng nhờ nhờ trông không hấp dẫn. Biết cách
chiên, mỗi con đuông được bao quanh một khối bột tròn đều, có màu vàng mật non. Lúc vớt con
đuông tẩm bột ra khỏi chảo dầu nhớ phết qua chút bơ margarin để tăng thêm hương vị. Khi ăn,
người sành điệu đưa lên miệng cắn từng miếng nhỏ để thưởng thức. Vị ngọt bùi thơm lựng của
đuông non hòa với vị của hột gà pha trong bột mì và vị béo của dầu ăn lẫn chút hương bơ còn
vương khói nóng, tất cả cùng tan trên đầu lưỡi. Món đuông chiên bột đã ngon lại càng ngon hơn
nếu nhắm với rượu gạo chính hiệu được cất tại làng Mỹ Phụng (Xuân Lộc, Sông Cầu).
Vịnh Xuân Đài
Trên tuyến du hành xuyên Việt, đến đỉnh dốc Găng, du khách không khỏi choáng
ngợp trước phong cảnh sơn thuỷ hữu tình với rừng dừa bạc ngàn, núi non hùng vĩ bao bọc
lấy một vùng nước non trong xanh, tĩnh mịch tựa như bức tranh thuỷ mặc. Đó là một góc
của vịnh Xuân Đài. Vịnh Xuân Đài với diện tích 13.045 ha, trong vịnh có nhiều vũng nhỏ
như: Vũng La, Vũng Sứ, Vũng Chào… và có nhiều đảo và bán đảo nằm uy nghi trong vịnh
như: cù Lao Ông Xá, Nhất Tự Sơn, mũi Đá Mài, mũi Tai Mã, hòn Mù U…
Xưa kia, Vịnh Xuân Đài mang nhiều dấu tích lịch sử, là căn cứ quân sự của quân Tây Sơn
- Nguyễn Huệ, là thương cảng buôn bán sầm uất của thực dân Pháp và cũng là cảng quân
sự của phát xít Nhật trong Thế chiến Thứ Hai …
Ngày nay, Vịnh Xuân Đài được các chuyên gia đánh giá là một trong những vịnh
có tiềm năng du lịch lớn nhất Miền trung. Nơi đây được qui hoạch phát triển các loại hình
du lịch nghĩ dưỡng biển, du lịch thể thao dưới nước, du lịch sinh thái biển…
Đầm Cù Mông
Được bao bọc xung quanh bởi 6 xã vùng Đông Bắc Sông cầu: Xuân Cảnh, Xuân
Hoà, Xuân Hải, Xuân Lộc, Xuân Bình và Xuân Thịnh. Diện tích tự nhiên 2.655 ha. Nơi
đây có nhiều đặc sản biển rất ngon, khí hậu mát mẻ, mặt đầm tĩnh mịch, trông xa là các
làng mạc ẩn hiện dưới bóng dừa xanh bạt ngàn, xung quanh đầm có nhiều thắng cảnh,
nhiều di tích lịch sử, văn hoá có giá trị như :
* Miếu Công Thần: còn gọi là miếu hòn Nần, nằm trên Cù lao hòn Nần,ngay cửa

biển đi vào đầm Cù Mông, thuộc thôn Hoà Lợi, xã Xuân Cảnh. Miếu Công Thần được xây
dựng vào năm 1802, để ghi nhớ công lao những tướng sĩ của Chúa Nguyễn bị tử trận tại
đây, trong cuộc giao chiến với nghĩa quân Tây Sơn.
* Di tích Cù lao Nần, Hòn Hương, Mả 9 tầng (xã Xuân Cảnh) là nơi nghĩa quân
Tây Sơn – Nguyễn Huệ đã giao chiến với quân thuỷ bộ của Nguyễn Ánh.
* Di chỉ khảo cổ học Gò Ốc (thôn Thọ Lộc, xã Xuân Bình): nằm ngay sát đầm Cù
Mông, là di tích về cuộc sống của người nguyên thuỷ thời tiền sử có niên đại cách ngày
nay khoảng trên dưới 3.500 năm. Di chỉ này được bảo tàng lịch sử Việt Nam tiến hành
khai quật năm 1991.
Du khách ra Bắc vào Nam trên Quốc lộ 1A, cả khách du lịch quốc tế đến đây đều
dừng chân ngắm cảnh, thưởng thức những làn gió mát nhẹ, trong lành và các món ăn đặc
sản nổi tiếng như: Ốc nhảy, cá mú, tôm hùm, ghẹ đầm Cù Mông, ….
* Vịnh Xuân Đài: Trên tuyến du hành xuyên Việt, đến đỉnh dốc Găng, du khách sẽ
thấy phong cảnh tuyệt đẹp của một vùng vịnh, với rừng dừa bạc ngàn, núi non hùng vĩ bao
bọc lấy một vùng nước non trong xanh, tĩnh mịch tựa như bức tranh thuỷ mạc. Vịnh Xuân
Đài với diện tích 13.045 ha, trong vịnh có nhiều vũng nhỏ như: Vũng La, Vũng Lắm, Vũng
Sứ, Vũng Chào… và có nhiều đảo và bán đảo trong vịnh như: cù Lao Ông Xá, Nhất Tự
Sơn, mũi Đá Mài, mũi Tai Mã, hòn Mù U…
Vịnh Xuân Đài mang nhiều dấu tích lịch sử, xưa kia là căn cứ quân sự của nghĩa
quân Tây Sơn - Nguyễn Huệ, là thương cảng buôn bán sầm uất và cũng là nơi thực dân
Pháp thường cập tàu chiến vào đánh phá nhân dân ta.
Ngày nay, Vịnh Xuân Đài được các chuyên gia đánh giá là một trong những vịnh
có tiềm năng du lịch lớn ở miền Trung. Nơi đây được qui hoạch phát triển du lịch nghĩ
dưỡng, thể thao dưới nước, du lịch sinh thái biển…
Bãi Bàng - Bãi Bàu - Bãi Nhổm - Bãi Rạng
Là một trong những điểm du lịch biển lý tưởng nằm dọc theo tuyến đường Qui
Nhơn - Sông Cầu( Quốc lộ 1D), thuộc địa phận xã Xuân Hải (phía Đông Bắc huyện Sông
Cầu), cách thành phố Qui Nhơn khoảng 20 km, cách thành phố Tuy Hòa khoảng 80 km.
Nơi đây cảnh quan thiên nhiên hữu tình, có dãy núi cao ôm lấy những bờ cát trắng mịn và
sạch, hình thành những vòng cung hướng nhìn ra biển và hòn Cù Lao Xanh tạo thành

những bãi tắm đẹp, bờ biển có độ dốc thoai thoải dần ra xa, nước biển trong xanh lặng
sóng, khí hậu mát mẻ, trong lành.
Đây là địa chỉ thích hợp cho khách du lịch nghỉ ngơi cuối tuần, nghỉ lễ và khách
vào Nam ra Bắc, là điểm lý tưởng cho các hoạt động nghỉ ngơi, vui chơi, cắm trại, dã
ngoại, tắm biển….và thưởng thức những món ăn đặc sản biển như: tôm, cua, ghẹ, ốc, cá,
mực….Hiện nay, đã có một số cơ sở đầu tư kinh doanh dịch vụ du lịch, thu hút khách du
lịch đến đây ngày càng nhiều.
Bãi biển Từ Nham
Thuộc xã Xuân Thịnh, huyện Sông Cầu, cách thành phố Tuy Hoà khoảng 71 km về
phía Bắc theo đường quốc lộ 1A và rẽ vào con đường chạy ven vịnh Xuân Đài qua dãy núi
Đồng Tranh ra đến biển Đông. Ấn tượng đầu tiên đối với du khách là cảnh những đồi cát
trập trùng, mỗi đồi cát với một vẻ đẹp riêng luôn biến dạng theo thời gian tạo thành những
hình thù kỳ lạ, thoả mãn trí tưởng tượng của những du khách thích tìm hiểu, khám phá.
Đứng trên những đồi cát cao nhìn xuống, bãi biển Từ Nham giống như hình hai
cánh cung lớn ôm lấy Vũng Quan và Vũng Mo O với mặt nước xanh thăm thẳm. Ẩn dưới
rặng phi lao cao vút sát chân núi Mũi Ông Diên còn có một làng chài nhỏ, du khách có thể
thả bộ đến đây để thưởng thức những món ăn hải sản tươi ngon nhất, mới được ngư dân
đánh bắt từ biển lên.
Với những tiềm năng du lịch do thiên nhiên ban tặng, bãi biển Từ Nham có nhiều
thuận lợi để đầu tư thành một khu nghỉ dưỡng biển lý tưởng trong tương lai.
Bãi Nồm
Thuộc thôn Hoà An, xã Xuân Hoà, phía Đông Bắc huyện Sông Cầu, cách Quốc lộ
1A khoảng 15 km theo đường ô tô. Bãi cát hình vòng cung ôm lấy biển. Bờ cát trắng, mịn
thoai thoải dần ra xa, nước biển trong xanh, lặng sóng. Bãi tắm được tựa lưng vào cánh
rừng phi lao xen lẫn những đồi cát và có núi che chắn ở hai đầu Cảnh vật ở đây còn nguyên
sơ và không khí trong lành, là điều kiện tốt để hình thành khu du lịch nghỉ dưỡng, tắm
biển, cắm trại, dã ngoại cuối tuần. Hiện nay là điểm đến hấp dẫn của du khách.
Bãi Tràm
Từ thành phố Tuy Hoà đi về phía Bắc khoảng 70km theo đường Quốc
lộ 1A, rồi rẽ về hướng Đông khoảng 4 km là đến được Bãi Tràm – một

thắng cảnh tự nhiên tuyệt đẹp thuộc thôn Hoà Thạnh, xã Xuân Cảnh,
huyện Sông Cầu. Được dãy núi Hoà An bao bọc ba mặt Bắc – Tây – Nam,
Bãi Tràm trông tựa một lưỡi liềm bạc dài khoảng 1 km. Bờ biển dốc thoai
thoải, nước biển trong xanh lặng sóng, bãi cát trắng mịn và những bóng
dừa xanh mát nối tiếp nhau, cùng dấu tích một ngôi nhà do một thương gia
người Pháp xây dựng làm nơi nghỉ mát.…tất cả tạo nên vẻ đẹp hoang sơ,
quyến rũ mời gọi bước chân du khách.
-Khu du lịch sinh thái Nhất Tự Sơn Nằm trong vịnh Xuân Đài, thuộc
thôn Mỹ Thành, xã Xuân Thọ 1, huyện Sông Cầu. Từ Quốc lộ 1A, tại thôn
Chánh Nam (phía Nam Dốc Găng) đi về phía Đông khoảng hơn cây số
theo con đường khá rộng, du khách sẽ thấy có dãy núi trông tựa như hình
chữ nhất trong Hán tự, có lẽ vì vậy mà gọi là Nhất Tự sơn. Khi thủy triều
xuống, Nhất Tự Sơn được nối liền với bờ bằng một doi cát. Khi thủy triều
lên thì Nhất Tự Sơn hoàn toàn là một Cù lao. Trên núi có rừng nguyên
sinh với nhiều loài cây quí hiếm.
Đèo Cu
̀
Mông
Địa chỉ hiện nay
Xuân Lộc - Sông Cầu - Phú Yên
Đèo Cù Mông nằm trên quốc lộ 1A, giáp ranh giữa hai tỉnh Phú Yên Bà Bình Định. Chân đèo phía
Bắc thuộc địa bàn phường Bùi Thị Xuân, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Chân đèo phí Nam thuộc
xã Xuân Lộc, huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Đèo nằm trên núi cũng có tên là Cù Mông, một phần
của dãy Trường Sơn Nam, hay còn gọi là dãy Nam Sơn. Thế núi nằm trải dài từ cao nguyên An
Khê, Gia Lai đổ ra biển, giống như con rồng nằm phủ phục mà đầu là Xuân Lộc ra tới Gành Ráng,
đuôi níu giữ dãy Ngok Linh. Nửa núi phía Bắc thuộc về địa giới huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định,
trên núi có trạm Bình Phú là một trạm dịch để liên lạc, thông tin, chạy giấy tờ giữa các địa phương;
phía Tây có núi Nhuệ, núi Giả và Hùng Sơn, phía Đông có núi Hùng, phía Bắc có núi Qui. Núi đồi
trùng điệp, địa thế rất hiểm yếu. Nằm chếch lên hướng Tây có núi Phú Cốc, còn có tên khác là núi
Hổ có hình giống như con hổ nằm phủ phục.

Kế cận với Cù Mông, đáng chú ý hơn cả là núi Chóp Vung nằm ở phía Đông cao 676 mét, núi Ông
Bai ở phía Nam cao 381 mét, núi Hòn Khô ở Tây Nam cao 806 mét. Gò Cà trên dãy Cù Mông có
một ngôi miếu rất cổ xưa gọi là miếu Phò Giá Đại Vương, trong miếu lại có ba ngôi tháp lớn đựng
đầy xương khô.
Tên xưa của Cù Mông chính là Cù Mãng. Mãng là con rắn thần, Cù là linh vật có đầu lân mình
rồng. Đèo Cù Mông nằm gần biển. Tuy không dốc như đèo An Khê nhưng dài và quanh co khó đi.
Ngày xưa nơi đây tiêu điều vắng vẻ, nước độc mà thiêng, cực chẳng đã lắm người dân Bình Định
mới lên xuống. Từ Cù Mông trở xuống đến mé biển, núi tiếp nhau thành dãy. Nhưng từ Cù Mông
trở ra, tuy sơn mạch vẫn liền, mà các ngọn núi thường đứng cách nhau dường không có mối liên
hệ. Đỉnh núi lại không cao, tuy vậy thế vẫn hiểm.
Liên quan đến đèo Cù Mông, ca dao có câu:
Tiếng ai than khóc nỉ non?
Vợ chàng lính thú lên hòn Cù Mông.
Về tiếng khóc trên đèo Cù Mông, có nhiều cách giải thích khác nhau. Có người cho rằng, đó là
tiếng khóc của người vợ tiễn chồng đi lính trong thời chiến tranh Tây Sơn Nguyễn Ánh. Ý kiến
khác lại cho rằng, đó là tiếng khóc tiễn chồng đi lính trong thời hậu Tây Sơn, tức thời Cảnh Thịnh,
sau khi Nguyễn Ánh chiếm được thành Tây Sơn, bắt lính ra Bắc để đánh nhau với quân của Cảnh
Thịnh.
Một truyền thuyết khác có vẻ như khá khách quan, không liên quan gì đến lịch sử cho rằng “tiếng
khóc” xuất phát từ cuộc hành trình Nam tiến gian nan vất vả và nhiều nguy hiểm của lớp cư dân
miền Bắc trên đừng vào Nam lập nghiệp. Thời bấy giờ, dãy Cù Mông cao và hiểm trở. Khi đoàn
lưu dân đến bên này chân núi thì nhiều người trong đoàn đã kiệt sức, đặc biệt là phụ nữ. Đèo cao,
dốc thẳm, suối sâu khiến nhiều người sợ hãi muốn quay trở lại nhưng không biết phải trở về đâu,
đành nhắm mắt đưa chân tiến về phía trước. Một chiều nọ, đoàn người tiến sát đến ngọn núi dốc
đứng, ngó lên “trật ót”, liền hạ trại, nấu cơm chiều. Ăn uống xong trời tối sầm. Chung quanh văng
vẳng tiếng cọp gầm, vượn hú… thật thê lương. Sau nhiều ngày hạ trại vừa nghỉ dưỡng sức vừa
tìm kiếm con đường ngắn và thấp nhất để vượt qua núi hiểm, đoàn người lại tiếp tục bám lấy nhau
trèo đèo, vượt dốc, nhưng hầu hết phụ nữ đều không thể vượt qua, một số phải bỏ mạng giữa núi
rừng thâm u…
Những nấm mồ chôn cất vội vã không đủ ấm lòng người nằm xuống. Qua thời gian, mưa bão xói

mòn lớp đất che phủ, xương cốt theo triền dốc trôi xuống các khe lũng dưới chân đèo. Hàng năm
cứ đến mùa mưa bão, từ dưới khe sâu chân đèo vọng lên tiếng than khóc ai oán khiến khu vực
này đã quạnh hiu vắng vẻ càng trở nên u tịch huyền bí hơn. Tiếng than khóc nương theo tiếng gió
hú rít trên đỉnh càng bay xa, đến nỗi những người tiều phu không dám vào rừng như trước.
Để cho các linh hồn được siêu thoát, người dân bên kia đèo (phần đất Bình Định) cho xây một am
thờ nhỏ gọi là am cô hồn. Mỗi năm cứ vào dịp Rằm tháng Giêng và tháng Bảy, các nhà sư đến
tụng niệm cúng chay. Dần dà lâu sau đó, có lẽ các linh hồn cô độc đã siêu thoát, nên không còn
nghe thấy tiếng khóc bi thương như trước nữa. Ngôi miếu thờ này tồn tại khá lâu, nhưng mưa
nắng thời gian và chiến tranh đã xóa dần vết tích, không còn nữa.
Cu
̀
lao Ông Xá

Địa chỉ hiện nay
Xuân Thọ 2 - Sông Cầu - Phú Yên
Vị trí
Cù lao Ông Xá nằm phía bên ngoài vũng Lắm, trong biển Đông, cách chân núi Gành Đỏ chừng vài
trăm mét, cũng thuộc xã Xuân Thọ 2, huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
Cảnh quan
Cù lao này có hình dạng giống hệt một con cá sấu khổng lồ nằm bất động, đuôi hướng về phía
Bắc Gành Đỏ, đầu nhô lên cao, hướng ra biển Đông. Phần lưng từ đuôi lên gần đầu, có đoạn ễnh
cong xuống, đoạn nhô lên cao như thể cá sấu vừa ăn con mồi no nê. Chung quanh hòn cù lao này
có những rạng những gành, đá ngầm nhô lởm chởm. Ở mạn Nam hòn cù lao có một số gộp nhỏ
ghe có thể vào neo đậu được.
Truyền thuyết
Truyền thuyết kể rằng, thuở xa xưa, từ núi Gành Đỏ ra mỏm đuôi của hòn cù lao Ông Xá có một
dãi đất tựa như một cái bờ chắn ngang mặt vũng. Lúc bấy giờ có một con cá vược khổng lồ từ
biển khơi lạc vào đấy, bị cản trở đường đi, cá vược tức giận đập đuôi quẫy nước, nước văng bắn
lên cao, sóng réo ầm ầm, bờ chắn bị sụt lở gần hết, chỉ còn lại ở hai mỏm núi, người ta gọi đấy là
bờ ngăn cá vược. Rồi từ đó cá quay ra biển Đông, không bao giờ trở lại vũng này nữa.

Một truyền thuyết khác kể rằng, ngày xưa, vũng Lắm là một hồ nước mặn bị núi vây bọc bốn bên.
Một đêm kia, trời đang yên, gió đang lặng thì đến giờ Tý bỗng dưng sóng dậy ầm ầm. Những cột
nước cao hơn ba trượng đổ ập vào xé toạc ngọn núi phía đông ngăn cách giữa biển và đầm, sau
đó thì trời lặng sóng yên như không có chuyện gì xảy ra trước đó. Sáng ra, dân chúng men ra mé
vũng ngoài coi thì thấy chiếc mai con rùa biển to bằng bốn cái nong. Dân chúng làm lạ, lên đền
cầu khấn được bà cốt báo rằng: Long Vương có đứa con trai út bị lạc vào đầm không ra được nên
sai Hà Bá thống lĩnh thiên binh tới phá rặng núi chắn ngang vũng để cứu hoàng tử ra. Hoàng tử
chính là con rùa thỉnh thoảng dân trong vũng thấy nổi lên
Chợ Gò Duối

Địa chỉ hiện nay
Xuân Lộc - Sông Cầu - Phú Yên
Chợ Gò Duối thuộc xã Xuân Lộc, huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Chợ tuy nhỏ nhưng rất đông
đúc. Đặc biệt, chợ có món bánh hỏi lòng heo ngon nổi tiếng. Nếu có dịp đi qua đây mà không ghé
vào thưởng thức thì quả là thiếu sót.
Bánh hỏi ở nơi nào cũng có, lòng heo lại càng không phải món hiếm, nhưng quả thật muốn ăn
miếng bánh hỏi ngon thì phải về đây. Khách đường xa đã từng một lần thử món này hẳn sẽ khó
quên hương vị của nó. Tiêu chuẩn của một đĩa bánh hỏi ngon là cọng bánh phải nhỏ bằng que tăm
tre, các miếng bánh không bị rời ra hay vón cục, khi cắn vào miệng người ăn không thấy bở, lúc
nhai kỹ thì cảm nhận được vị ngọt của bột gạo, vị béo của dầu dừa và mùi thơm của lá hẹ. Tất cả
sẽ hòa lẫn cùng vị ngọt bùi của miếng gan heo, vị béo của miếng phèo non hoặc miếng thịt ba chỉ
được luộc khéo để thành món ăn sáng được xếp vào hàng đặc sản của vùng đất một thời nổi
tiếng dệt lãnh.
Để làm ra bánh hỏi ngon, người thợ phải giàu kinh nghiệm. Đầu tiên, chọn gạo tốt ngâm với nước
lã một đêm. Sau đó, vo và xả đi xả lại ba bốn lần. Khi nào thấy nước trong thì đem xay thành bột.
Tiếp tục, bột được ngâm thêm một buổi, lóng trong và thay nước vài ba lần nữa (chính giai đoạn
này sẽ làm cho bột nở ra, sau này giúp chiếc bánh có độ dai hấp dẫn mà không phải thêm bất kỳ
một chất phụ gia nào). Hoàn tất khâu chuẩn bị, người thợ bánh dùng một thanh tre lớn (đẽo hình
giống chiếc mái chèo) dáo bột. Công việc này đòi hỏi phải khuấy liên tục cho đến khi thấy bột
không đóng cục trên cây dáo bột là được. Bước tiếp theo, người thợ bánh bắc thau bột lên lò lửa

rồi dùng cây khuấy mạnh, một lát thì bột đặc lại. Tay người thợ vẫn tiếp tục xốc, trộn liên tục cho
đều, đến lúc sờ vào bột không thấy dính thì nhắc xuống lấy bột lăn thành con bỏ vào khuôn ép.
Đến giai đoạn này, cùng lúc phải có hai người thực hiện hai thao tác khác nhau: một người bắt ép
khuôn, một người bắt bánh trải lên vỉ. Một xửng hấp bánh lớn được đặt lên lò lửa hừng hực, khi
nào nước sôi thì vỉ bánh được đưa vào hấp. Mỗi lần có thể hấp từ hai đến ba vỉ. Lửa cháy to,
chừng năm phút thì bánh chín.
Mỗi khi ăn, từng lá bánh được gỡ bày ra đĩa rồi phết lên đó hỗn hợp dầu dừa pha với lá hẹ xắt thật
nhỏ. Dầu dừa phải là loại dầu ép tay vàng óng có màu hổ phách non được thắng tới thơm lừng. Lá
hẹ phải là loại hẹ chỉ, hơi cay và thơm (không bao giờ dùng hành lá hay hẹ trâu lớn cọng mà
không hương vị như ở thành phố). Dùng kèm bánh hỏi Xuân Lộc, để hưởng hết hương vị ngọt bùi
của hạt gạo quê hương, người ta không ăn với tôm chà bông như kiểu ăn của người Huế hay ăn
cùng nhân tôm thịt theo kiểu người Sài Gòn mà lại ăn cùng lòng heo-thịt luộc. Một đĩa lòng heo
dọn kèm đĩa bánh hỏi, cộng thêm đĩa rau sống tươi xanh và chén mắm pha gia vị vừa phải sẽ tạo
nên hương vị đậm đà đặc biệt.
Riêng khoản chọn thịt, luộc lòng cũng không đơn giản. Muốn đĩa lòng heo được ngon, người chủ
phải chọn mua lòng con heo mới làm. Đĩa lòng phải có đủ tim, gan, cật, phèo non và nhất định
không thể thiếu miếng thịt ba chỉ, loại lấy dưới nây bụng. Khi luộc, thịt và lòng được xâu vào một
sợi lạt tre, chờ nước sôi già thả nguyên xâu lòng vào chừng mười phút. Vấn đề quan trọng của
việc luộc thịt luộc lòng không phải là làm thế nào cho chín mà phải làm thế nào cho ngon. Muốn
lòng và thịt ngọt ngon, có độ giòn thì sau khi vớt xâu thịt khỏi nồi nước sôi lập tức thả ngay vào
một thau nước đá cục được chuẩn bị sẵn. Chính cái lạnh dưới 00C của đá sẽ làm cho bề mặt
miếng thịt se lại, giữ nước ngọt trong miếng thịt và đặc biệt làm cho miếng thịt, miếng lòng vừa
trắng vừa giòn.
Miếu Công Thần
Địa chỉ hiện nay
Xuân Cảnh - Sông Cầu - Phú Yên
Vị trí
Miếu ở xã Xuân Cảnh, huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Miếu nằm trên đảo Hòn Nầng, giữa đầm
Cù Mông. Hòn Nầng có chu vi khoảng khoảng 2km, có núi cao đất bằng, chung quanh bao bọc bởi
mặt nước trong xanh của đầm Cù Mông. Đây là ngôi miếu lớn nhất, tế lễ uy nghiêm nhất trong

vùng.
Lịch sử
Tương truyền miếu do vua Gia Long ra sắc lập vào năm 1806. Sở dĩ miếu có tên là Công Thần vì
ngày xưa vùng này là nơi trú quân của Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây Sơn. Buổi sáng, xuất
quân ra đánh thành Quy Nhơn, buổi chiều Nguyễn Ánh lui quân về đồn trú ở đây. Số binh lính tử
trận cũng được đưa về đây chôn cất. Sau khi thắng Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi vua vào năm
1802, lấy niên hiệu là Gia Long. Đến năm 1806 thì vua ra sắc lập miếu.
Kiến trúc
Kiến trúc miếu có nhà thờ chính, nhà thờ tả, nhà thờ hữu, sân tế lễ, nhà các quan đến tạm ở để
làm lễ hàng năm, nhà cho cai miếu và đội phu dịch miếu. Đền thờ được xây cất nguy nga tráng lệ,
mái cong, có long, lân, quy, phượng. Trên nóc có lưỡng long triều nguyệt. Quy định của Gia Long
mỗi năm 2 lần quốc tế xuân kỳ-thu tế "xuân thu nhị kỳ". Bộ lễ của triều đình Nhà Nguyễn và quan
chức của Tĩnh thân làm chủ tế. Tế lễ là phải đủ Tam Sinh. "Vật tế sống 1 bò, 1 dê, 1 lợn" ngoài ra
vật tế chín nhiều heo quay, gà, vịt xã sở tại người lo các vật phẩm hiến tế, phục dịch đưa rước các
quan trên các quan Tỉnh về bằng ngựa bỏ ngựa ở đất liền phải đưa ghe bảo đảm an toàn ra đảo
miếu.
Gành Tướng

Địa chỉ hiện nay
Xuân Phương - Sông Cầu - Phú Yên
Vị trí
Gành Tướng là một doi đất nhô ra biển phía ngoài vũng La, thuộc xã Xuân Phương, huyện Sông
Cầu, tỉnh Phú Yên, phía Đông thị trấn Sông Cầu. Nơi đây còn lưu truyền câu chuyện về bàn cờ
tiên khá thú vị.
Truyền thuyết
Chuyện kể rằng, vào ngày mùng hai Tết năm ấy là ngày kị Hà Bá, một ngư dân đi đánh chài vào
lúc chiều tối, phát hiện hai ông lão râu tóc bạc phơ, tướng mạo phương phi đang đánh cờ trên
gành đá, ông hốt hoảng buông tay chài. Hai ông lão nhìn ông và nói: “Ta là thiên tướng nhà trời,
thấy phong cảnh hữu tình nên xuống đánh cờ, ngươi đã trông thấy thì không được kể với bất cứ
ai, ta sẽ cho ngươi sống đến trăm tuổi, nếu kể “ắt phải chết” rồi biến mất.

Người đàn ông chài lưới kia hoảng sợ mang chài về, không dám xuống vịnh chài cá như những
hôm trước đây. Quả nhiên sau đó công việc làm ăn của gia đình ông ngày mỗi khấm khá, trở
thành một ngư dân giàu có trong làng, mua sắm được nhiều ghe bầu chở cá, mắm, muối đi vào
tận Đàng Trong bán, rồi chở gạo, vải vóc về bán lại cho các thương buôn khác trong vùng.
Mãi đến năm ông chín mươi mốt tuổi, nhân dịp cúng lăng, ông vô tình kể lại câu chuyện xảy ra
cách đây bốn mươi năm. Đêm ấy, trong giấc ngủ chập chờn, ông thấy hai thiên tướng xuất hiện,
bảo ông đã phạm lời nguyền. Ông tỉnh giấc, gọi con cháu kể lại giấc mơ rồi nhắm mắt ra đi. Ngày
này, trên mỏm đá Gành Tướng vẫn còn in dấu bàn cờ, mặc dù thời gian, mưa nắng, sóng biển
đánh vào đã làm cho phiến đá mòn đi khá nhiều.
Dốc Xuân Đài
Địa chỉ hiện nay
Xuân Thọ 2 - Sông Cầu - Phú Yên
Dốc Xuân Đài nằm án ngữ trên quốc lộ 1A, đoạn qua địa bàn xã Xuân Thọ 2, huyện Sông Cầu,
tỉnh Phú Yên. Từ thành phố Quy Nhơn vào huyện Tuy Hoà, buộc phải đi ngang qua đây. Dốc cao,
hiểm trở; mùa mưa thì trơn trợt do đất sỏi thấm ướt; mùa nắng nóng leo lên được tới đỉnh dốc cổ
họng khô rốc, mà trên đỉnh thì không có giếng nước nào để uống đỡ khát.
Từ phía Nam đi ra, bắt đầu từ thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An đến gần dốc Vườn Xoài chừng
3000 mét có con đường đất rẽ trái đi về hướng Tây Bắc độ một cây số thì đến chân dốc Xuân Đài.
Dốc ngược theo triền núi cao khoảng 500 mét. Leo lên dốc như thể ta bước từng cấp một lên đỉnh
núi Yên Tử, hai bên có nhiều cây cổ thụ tán lá che phủ cả con đường đi vào một vùng rộng lớn.
Đỉnh dốc phía Bắc có vườn cam nổi tiếng thơm ngon, đã từng tiến vua cùng với xoài Đá Trắng,
xuống khỏi dốc, đi ngược về phía Nam non 7 km nữa thì tới ngã ba Triều Sơn, nơi trước kia triều
đình nhà Nguyễn có đặt hai khẩu thần công để bảo vệ vịnh Xuân Đài.
Nói về sự hiểm trở của dốc Xuân Đài, ca dao địa phương có câu:
Đèo nào cao bằng đèo Phú Cốc
Dốc nào ngược bằng dốc Xuân Đài
Đèo cao dốc ngược đường dài
Anh còn qua được huống chi vài lạch sông.
Hay:
Không đi thì nhắc thì trông

Đi rồi thấy sợ Cù Mông Xuân Đài
An Dân, Xuân Thọ chia hai
Chỉ vì cái đảnh Xuân Đài ngăn đôi
Vu
̃
ng La

Địa chỉ hiện nay
Xuân Phương - Sông Cầu - Phú Yên
Vị trí
Vũng Dông, vũng Mắm, vũng Chào, Vũng La, vũng Sứ đều nằm trên địa bàn xã Xuân Phương,
huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
Cảnh quan
Từ đèo Nại, một dãy núi chạy xuống phía Đông bao bọc vịnh Xuân Đài. Bờ vịnh, do ảnh hưởng
của dãy núi, nên chỗ thì nhô ra, chỗ lại lõm vào, tạo thành năm cái vũng. Vũng Mắm: có lẽ thuở
trước dân ở vùng này đa số làm nghề muối mắm để làm kế sinh sống. Vũng Dông: trước kia là
một gò cát pha, dông thường đào hang cư trú. Cư dân thường làm bẫy, bắt để dùng làm thức ăn
cho gia đình và bán lại cho khách. Vũng Chào: dân vùng này làm nghề lưới cản, thường được các
loại cá to như cá bò, cá ngừ. Ghe buồm từ các nơi đến mua đem bán nơi xa, người dân phải tiếp
đón lái buôn với thái độ niềm nở chào mời.
Riêng Vũng La nằm về phía Nam của các vũng, có hai mỏm núi nhô ra nên cá thường vào ẩn trú.
Mỗi lần có mẻ cá dạt vào, ngư dân hô hoán la to, báo hiệu cùng nhau đem thuyền lưới ra bắt, lệ ấy
thành quen. Vũng hẹp chiều ngang, nhà ở của dân chạy theo bờ vũng. Dọc bờ có trồng nhiều dừa
tỏa bóng mát. Phía Bắc vũng La có bãi cát nằm sâu vào giữa hai hòn núi nhô ra, từ mỏm núi này

×