Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Sự thay đổi về trang phục của dân tộc hmong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.18 MB, 37 trang )

MỞ ĐẦU
Ở thị xã Sapa của tỉnh Lào Cai, đồng bào Mơng chiếm khoảng hơn 53% dân
số tồn thị xã, với nhiều ngành Mông như Mông đen, Mông trắng, Mông hoa,
Mơng cua…Có 1 điều đặc biệt là đồng bào Mơng ở đây dù thuộc ngành Mơng
nào thì họ đều mặc 1 bộ trang phục màu đen.
Đồng bào Mông trước đây là tộc người giỏi làm lúa nước sống dọc theo khu
vực sông Dương Tử, Trung Quốc. Do các các cuộc xung đột với người Hán, một
bộ phận người Mông di cư về phía Nam rồi đến Việt nam. Những người Mông
đầu tiên di cư đến Sapa tập trung chủ yếu ở dãy Hồng Liên.
Cùng với ngơn ngữ, trang phục là dấu hiệu thông tin quan trọng thứ hai để
chúng ta nhận biết một dân tộc. Trang phục không chỉ mang ý nghĩa bảo vệ cơ
thể và làm đẹp cho con người mà trang phục còn mang dấu ấn xã hội. Trang phục
chỉ ra nguồn gốc và bản sắc văn hóa của dân tộc đó, cũng là cơ sở là nguồn tư
liệu góp phần nghiên cứu trật tự xã hội của cộng đồng tộc người nào đó. Cho nên
nghiên cứu trang phục của dân tộc để tìm ra những nét riêng, giá trị văn hóa ẩn
chứa trong đó.
Dân tộc H’mơng là một trong những dân tộc có dân số đơng ở Việt Nam
phân bố tại nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Đây là dân tộc có nhiều nhóm địa
phương như: H’mông Xanh, H’mông Đen, H’mông Hoa… đã tạo nên nét văn
hóa đặc trưng riêng như tiếng nói, nếp sống, phong tục tập quán và nhất là trong
trang phục. Những nét đặc trưng đó tạo nên cái riêng trong từng nhóm H’mơng
ở các địa phương khác nhau.
Hiện nay, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước làm cho đời
sống kinh tế của các dân tộc ngày một cải thiện nhưng mặt trái của nó cũng đang
là một vấn đề bức xúc đối với người làm công tác giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc. Thực tế cho thấy mấy chục năm gần đây nghề trồng dâu nuôi tằm của người
Kinh, nghề dệt thổ cẩm của người Thái, nghề trồng bông dệt vải của người Nùng
ở nhiều nơi bị mai một và nghề trồng lanh của người H’mông cũng rơi vào tình
trạng chung đó. Cùng với đó, sự giao thoa văn hóa tộc người cũng phần nào ảnh
1



hưởng tới trang phục truyền thống của nhiều tộc người trong đó có nhóm H’mơng
Hoa tại Sa Pa. Chúng ta cùng tìm hiểu “Sự thay đổi trong trang phục truyền
thống của người H’mông Hoa ở huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai” .

2


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI H’MÔNG HOA Ở HUYỆN SA PA,
TỈNH LÀO CAI
1.
1.1.

Tên gọi và lịch sử tộc người
Tên gọi

Ở nước ta người H’mơng nằm trong nhóm các tộc người nói ngơn ngữ
H’mơng –Dao (gồm 3 tộc người: H’mơng, Dao, Pà Thẻn)
Trước năm 1979 họ được gọi là Mèo. Ở Trung Quốc người Mông được gọi
là người Miêu. Ở Lào gọi là người Mẹo. Hiện nay ngồi Trung Quốc cịn ở hầu
hết các nước trên thế giới họ được gọi là người H’mơng.
Gần đây có người cho rằng nên gọi dân tộc này là Mơng thay cho H’mơng.
Nhưng cũng có ý kiến khác không tán thành và cho rằng bản thân trong chữ viết
của họ người H’mông viết tên dân tộc mình là Hmongz. Lại có ý kiến cho rằng
Mơng là một từ tục, không được đẹp, một số nhà khoa học nước ngồi có lưu ý
nếu viết là Mơng thì có thể nhầm với dân tộc Mơng ở Mơng Cổ và Trung Quốc.
Vì vậy đến giờ cách viết chính xác nhất là H’mơng. Hiện nay có các nhóm
H’mơng sau:
H’mơng Đơ hoặc H’mông Đâu (H’mông Trắng)

H’mông Đu (H’mông Đen)
H’mông Si (H’mông Đỏ)
H’mông Dua (H’mông Xanh)
H’mông Lềnh (H’mông Hoa)
1.2. Lịch sử tộc người
Người H’mơng ở Việt Nam hiện nay đều có nguồn gốc từ phương Bắc. theo
các truyền thuyết Trung Quốc thì người H’mơng xuất hiện sớm nhất ở khu vực
trung và hạ lưu sông Trường Giang. Cách đây 5,000 năm đã có liên minh bộ lạc
do tù trưởng Suy Vưu làm thủ lĩnh. Suy Vưu tức là Vua của Cửu Lê. Cũng trong
thời kì này có một liên minh bộ lạc khác do Hiên Viên dứng đầu, nổi lên ở thượng
nguồn sơng Hồng Hà. Hai liên minh bộ lạc này luôn xung đột
3


với nhau cuối cùng Cửu Lê bị bại trận, Hiên Viên xưng Hồng đế (vào khoảng
2,700 năm TCN).
Ở thời kì của vua Nghiêu Thuấn, Vũ (theo truyền thuyết) lại xuất hiện liên
minh mới là “Tam Miêu” “Hữu Miêu” hoặc “Miêu Dân” và khá hùng mạnh. Họ
đã đừng lên chiến đấu rất kiên cường chống lại các thế lực nhà nước do các vua
đứng đầu.
Trong các thế kỉ 16 đến 11 TCN phần lớn người dân “Tam Miêu” cùng các
dân tộc khác ở miền trung lưu sông Trường Giang được gọi là “ Kinh Sở” có thời
kì cịn gọi là “Nam Man”. Đời sống kinh tế khá phát đạt, có một bộ phận gọi là
“Kinh Man” là thù địch. Từ đó trở đi sự đối nghịch giữa Nam Man và Bắc Địch
ngày một gia tăng, làm cho tình hình Trung Quốc không lúc nào được yên ổn.
Như vậy từ Cửu Lê đến Tam Miêu, Man Nam, Kinh Sở đều có mối liên hệ
về nguồn gốc với nhau. Có thể coi đó là tổ tiên của người H’mông hiện nay. Lúc
đầu người H’mơng cư trú ở khu vực phía Bắc của sơng Hoàng Hà, giai đoạn phát
triển nhất của họ là giai đoạn Tam Miêu, sau đó do sự phát triển và mở rộng lãnh
thổ của người Hán họ lui dần xuống phía Nam của con sơng này. Sau nhiều cuộc

chiến diễn ra rất khốc liệt giữa người Hán và người H’mông. Người H’mông luôn
thua trận và phải rút lui về lưu vực sông Dương Tử, rồi vượt qua con sông này đi
về phía Nam và Tây Nam, khu vực giáp giới với 5 tỉnh của Trung Quốc hiện nay
là Hồ Nam (Tương), Quý Châu (Kiềm), Tứ Xuyên (Xuyên), Hồ Bắc (Ngạc),
Quảng Tây (Quế), lấy Nguyên Giang làm trung tâm.
Quá trình di chuyển của người H’mông vào Việt Nam
Theo các nhà dân tộc học thì phần lớn những người H’mơng ở các tỉnh miền
núi phía Bắc đều di cư trực tiếp từ Quý Châu, Quảng Tây và Vân Nam (Trung
Quốc) sang. Riêng một số nhóm ở Thanh Hóa, Nghệ An, di cư đến Việt Nam qua
Lào.

4


Người H’mông đến Việt Nam bằng các con đường khác nhau và chia làm
nhiều đợt, trong đó có 3 đợt chính:
Đợt thứ nhất: khoảng 100 hộ thuộc các họ Lù, Giàng từ Quý Châu đến khu
vực các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang, thời gian vào khoảng cuối đời
Minh đầu đời Thanh của lịch sử Trung Quốc tương đương với những năm có
phong trào của người Miêu ở Quý Châu chống lại chính sách “Cải tổ quy lưu” và
bị thất bại cách đây trên 300 năm.
Đợt thứ hai: khoảng trên 100 hộ trong đó có nhóm thuộc họ Vàng, Lý cũng
vào khu vực Đồng Văn. Cịn một nhóm người khác số người ít hơn thuộc họ
Vàng, Lù, Chấu, Sùng, Hồng, Vừ vào khu vực Lào Cai. Sau đó có khoảng 30 hộ
gồm các họ Vừ, Sùng chuyển sang hướng Tây Bắc. Thời gian của đợt di chuyển
này cách đây trên 200 năm.
Đơt thứ ba: Số người H’mông di cư vào Việt Nam đông nhất gồm trên 10
ngàn người. Phần lớn họ từ Quý Châu có một số từ Quảng Tây và Vân Nam sang,
chủ yếu vào các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang…Thời gian di cư này phù hợp
với thời kì phong trào “Thái Bình thiên quốc”, trong đó có người Miêu tham gia,

chống lại nhà Mãn Thanh từ 1840-1868.
Về sau hàng năm vẫn có người H’mơng di cư lẻ tẻ sang Việt Nam. Các con
đường di chuyển của đồng bào là vào Đồng Văn rồi xuống Tuyên Quang. Từ sau
ngày đất nước đổi mới (1986) tình hình di chuyển của người H’mơng ln gia
tăng theo hai hướng Bắc – Nam và Đông – Tây.
2. Sự phân bố nhóm H’mơng Hoa ở Sa Pa
Huyện Sa Pa có nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh sống từ lâu đời như:
H’mông, Nùng, Giáy, Dao, Tày, Thái, Mường, Kinh… Các dân tộc cùng sinh
sống trên địa bàn các xã và thị trấn. Theo số liệu thống kê trong báo cáo việc bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Người H’mông Hoa được phân bố rải rác ở hầu hết các xã trên địa bàn
huyện Sa Pa. Khu vực cư trú người H’mông ở Sa Pa tập trung chủ yếu ở khu vực
các núi cao, một số ít cư trú tại thị trấn.
5


Người H’mông Hoa chủ yếu canh tác nương rẫy, nền kinh tế cịn mang tính
tự cung tự cấp. Đời sống nói chung cịn nhều khó khăn. Chỉ một số nhỏ người
H’mông sống bằng hoạt động du lịch, kinh doanh dịch vụ phụ trợ hoạt động du
lịch tại thị trấn.
3. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của người H’Mơng Hoa ở huyện Sa Pa, tỉnh
Lào Cai
Về chăn nuôi: ở huyện chủ yếu là chăn ni trâu, bị, ngựa để lấy sức kéo và
phân bón trong sản xuất nơng nghiệp, ngồi ra cịn làm phương tiện vận chuyển
và đi lại. Đồng bào cịn chăn ni gia cầm như gà, vịt, ngan và gia súc nhỏ như
lợn, dê, để phục vụ nhu cầu trong những dịp lễ tết cải thiện bữa ăn hàng ngày.
Ngày nay chăn ni gia cầm cịn nhằm phát triển kinh tế gia đình.
Cơng nghiệp tiểu thủ cơng phát triển chậm, các ngành nghề kinh doanh chủ
yếu: chế biến chè, chế biến thuốc lá, sản xuất vật liệu xây dựng, đồ may mặc…với
quy mô nhỏ, giá trị không lớn chủ yếu phục vụ cho đời sông sinh hoạt cung cấp

một phần vật liệu cho xây dựng cơng trình công cộng và nhà của người dân. Tuy
công nghiệp – tiểu thủ cơng nghiệp phát triển chậm nhưng đã có sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo chiều tăng dần tỉ trọng công nghiệp.
Nền kinh tế nông lâm nghiệp đã có nhiều bước phát triển tuy nhiên việc vận
dụng và khai thác nguồn nguyên liệu sẵn có vẫn giữ một vị trí quan trọng ở địa
phương.
Người dân vận dụng những nguyên liệu sẵn có như tre, vầu, nứa, … để tự
đan dồ dùng sinh hoạt trong gia đình như bồ đựng thóc, địu, thúng, mẹt…
Tóm lại trong sản xuất kinh tế thì nơng nghiệp giữ vai trị chủ yếu và cây
lương thực là cây trồng chủ lực. Tuy nhiên với những điều kiện tự nhiên khá
thuận lợi cùng nguồn nguyên liệu dồi dào thì Sa Pa cịn nhiều khả năng phát triển
nền nơng nghiệp tồn diện.
Về kinh tế xã hội:
Tốc độ tăng trưởng bình quân: 9.4%

6


Thu nhập bình quân đầu người: 3.46 triệu đồng
Thu ngân sách trên địa bàn: 30,204 triệu đồng.
Tỷ trọng nông nghiệp 89.4% - công nghiệp1.18% - thương mại, dịch vụ
9.42% (Số liệu thống kê cuối năm 2008)
Nghề dệt vải lanh là một trong những hoạt động sản xuất đặc sắc của người
H’mông. Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên,
cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng; làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục
vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công H’mông phần lớn là thợ
bán chuyên nghiệp, làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, dao, cuốc,
xẻng, nịng súng đạt trình độ kỹ thuật cao.
Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội tại địa phương, hoạt động du
lịch thu hút đơng đảo du khách trong và ngồi nước đến với Sa Pa đã mang lại

cho nơi đây diện mạo mới. Đời sống kinh tế xã hội dần được cải thiện, cuộc sống
của đồng bào người H’mơng cũng có nhiều biến chuyển tích cực, nhiều hộ gia
đình người H’mơng tham gia vào hoạt động du lịch gia đình, hướng dẫn du
khách…

7


Chương 2
THỰC TRẠNG TRANG PHỤC CỦA NGƯỜI H’MÔNG HOA
TẠI HUYỆN SA PA, TỈNH LÀO CAI HIỆN NAY
2.1. Trang phục truyền thống của người H’Mông Hoa
Trang phục của người phụ nữ H’mơng rất sặc sỡ, gồm váy, áo xẻ ngực có
yếm lưng, tấm xiêm che trước bụng, thắt lưng, khăn quấn đầu, xà cạp quấn hai
bên. Váy hình nón cụt, xếp nếp xịe rộng chữ thập trong các hình vng, nhưng
váy mang hình ống khi mặc mới xếp nếp thắt lưng ngồi cạp.Áo mở chếc ngực
về phía bên trái cài một khuy, cánh tay, cổ áo, gấu áo đều có hoa văn… Đồ trang
sức bao gồm: khuyên tai, vòng cổ, vòng tay vịng chân và nhẫn
Phụ nữ Hmơng Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp
ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng
tóc giả.
Nam giớithường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp,
ống tay hơi rộng. Aáo nam có hai loại: năm thân và bốn thân. Loại bốn thân xẻ
ngực, hai túi trên, hai túi dưới. Loại năm thân xẻ nách phải dài q mơng. Loại
bốn thân thường khơng trang trí loại năm thân được trang trí những đường vằn
ngang trên ống tay. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng so với các tộc
trong khu vực. Đầu thường chít khăn, có nhóm đội mũ xung quanh có đính những
hình trịn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vịng bạc cổ, có khi khơng mang.
2.2. Những giá trị trong trang phục truyền thống của người
H’Mông Hoa

2.2.1 Trang phục phản ánh mối quan hệ của người H’mông Hoa với
môi trường sống
Từ buổi hoang sơ khi chưa có trang phục, đứng trước thiên nhiên khắc
nghiệt, con người đã nghĩ đến một thứ gì đó để che chắn. Trong q trình phát
triển con người đã tạo ra trang phục từ những chiếc lá rừng cho đến những trang

8


phục như ngày nay. Với sự phát triển của xã hội lồi người con người nhận thấy
trang phục khơng chỉ đơn thuần để bảo vệ cơ thể mà cịn phơ diễn vẻ đẹp của cơ
thể con người, nhất là người phụ nữ. Nhờ trang phục giúp con người tự tin hơn
trong quan hệ xã hội giữa con người với con người trước thiên nhiên, núi rừng
huyền bí.
Với khí hậu khắc nghiệt và địa hình hiểm trở khó khăn. Người H’mơng Hoa
nói chung và người H’mơng tại Sa Pa đã tạo ra những bộ trang phục đảm bảo cho
cơ thể đủ ấm vào mùa đơng giá lạnh, thống mát vào mùa hè; đủ kín để che nắng
che mưa; đồng thời chống cơn trùng, cây rừng, gai rừng và duy trì sức khỏe cho
con người. Điều này cho thấy người H’mông Hoa sống thích nghi với mơi trường
tự nhiên.Những bộ trang phục đó nó phản ánh mơi trường sống của đồng bào,
mơi trường sống khó khăn đường đi trắc chở. Đường đi thường có gai và đá nhọn
nên bộ trang phục của đồng bào phải rất dày và cứng để không bị xước chân tay.
2.2.2. Trang phục phản ánh tư duy kỹ thuật thủ công người H’mông Hoa
Trong cơ cấu kinh tế truyền thống của người H’mông, các nghề thủ công tuy
không phải là ngành nghề chính, chỉ mang tính chất bổ trợ nhưng lại chúng nằm
trong một chỉnh thể, có vai trị quan trọng và khơng thể thiếu được. Các thành
viên của cộng đồng người H’mông nơi đây, đặc biệt là những người phụ nữ, vừa
là những người nông dân thực thụ giỏi việc nương rẫy, lại vừa là thợ thủ công
lành nghề. Thông qua trang phục của họ, chúng ta có thể thấy ở họ về trình độ,
kỹ năng, kỹ xảo, nghệ thuật tài hoa và những ý tưởng mà họ gửi gắm thông qua

các hoạ tiết hoa văn trang trí trên trang phục. Cũng như nhiều ngành thủ cơng
khác, các kỹ năng làm ra trang phục, cách sử dụng và nghệ thuật trang trí trang
phục được các thế hệ người H’mơng trao truyền, tiếp nối. Đây chính là một hình
ảnh của mơ hình giáo dục cộng đồng được duy trì từ nhiều đời ở nhiều dân tộc.

9


2.2.3 Trang phục là sản phẩm văn hóa tạo nên đặc trưng văn hóa người
H’mơng Hoa
Trong đời sống của người H’mông Hoa, người phụ nữ là những nghệ sĩ dân
gian thể hiện các tác phẩm nghệ thuật trang trí trên vải. Thơng qua cách phối màu,
trang trí họa tiết hoa văn, phụ nữ H’mơng thể hiện trách nhiệm của mình trong
cộng đồng để tạo ra giá trị văn hóa quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa H’mơng
Hoa.
Trang phục là kết quả của quá trình lao động cần mẫn của người phụ nữ tạo
nên bộ trang phục. Qua quá trình tồn tại và phát triển lâu dài nó đã trở thành một
sản phẩm văn hóa tiêu biểu, đặc trưng của tộc người. Sự tổng hòa của nhiều yếu
tố khác trong văn hóa vật chất, tổ chức xã hội, đời sống tinh thần tạo thành nếp
sống tộc người.
Việc sử dụng trang phục trong gia đình hay sinh hoạt cộng đồng đóng vai
trị và ý nghĩa riêng của nó. Đó là sự ăn mặc khác nhau giữa ngày thường và lễ
tết, hội hè. Mỗi trang phục phù hợp với từng tâm lí, giới tính, lứa tuổi…Các
quan niệm về đạo đức, tầng lớp xã hội, tâm linh đều được trang phục phản ánh.
Trang phục H’mơng Hoa góp phần tạo dựng bản sắc văn hóa tộc người.Trong
nền văn hóa vật chất và tinh thần các tộc người trang phục có một vị trí quan
trọng, là dấu hiệu thông tin quan trọng thứ hai sau ngôn ngữ để nhận diện tộc
người.
Trang phục của người H’mông có nhiều loại, mỗi loại đều mang những đặc
trưng phù hợp với tâm lý, giới tính, lứa tuổi, trạng thái sinh hoạt. Điều đó thể hiện

khả năng thích ứng, cách ứng sử với môi trường xung quanh của đồng bào. Trong
những dịp hội hè hay lễ tết, cưới xin… trang phục cũng bừng sắc như vui cùng
con người. Người H’mông Hoa ở Sa Pa coi trang phục không chỉ là vật bảo vệ
con người theo ý nghĩa sinh học thông thường, mà cịn là vũ khí bảo vệ cơ thể
con người, chống mọi loại ma tà hay giúp cho con người có thêm sức lực. Trang
phục khẳng định yếu tố người khác thế giới động vật. Đồng bào coi nó là nơi cất
giữ linh hồn (trẻ chưa được ba ngày – chưa có hồn, chưa được
10


mặc áo; người chết được mời về với gia đình cũng phải thơng qua chiếc áo/váy;
thầy cúng muốn nhìn thấy thế giới bên kia phải dùng khăn che mặt.v.v…).
2.2.4 Trang phục phản ánh đời sống kinh tế, xã hội người H’mơng Hoa
Trang phục của người H’mơng mang tính xã hội cao. Ngồi giá trị vật chất
phù hợp với mơi cảnh và điều kiện sống, trang phục còn thể hiện sâu sắc những
giá trị văn hoá, xã hội truyền thống mang đặc trưng văn hố tộc người. Nó thể
hiện tư tưởng, tình cảm, quan điểm thẩm mỹ, niềm tin tơn giáo và đạo đức của
cộng đồng. Hình tượng và nghệ thuật trang trí trên trang phục phản ánh một phần
cuộc sống của người H’mông nơi đây, phản ánh thế giới quan, tư duy, quan niệm
và ước vọng của họ về cuộc sống. Thông qua kỹ thuật cắt may và ý nghĩa của
trang phục trong đời sống văn hoá đã cho thấy nét đặc sắc trong văn hố của họ.
Đó là những biểu hiện và thể hiện của thái độ và phương cách ứng xử văn hố
của con người với mơi trường tự nhiên và mơi trường xã hội mà ở đó họ sinh
sống. Trang phục của họ cũng phản ánh trình độ phát triển khá cao, đời sống xã
hội ngày càng tiến bộ, đổi mới.
2.2.5. Trang phục H’mông Hoa mang giá trị thẩm mỹ và khoa học
Trang phục của người H’mông khơng chỉ có giá trị sử dụng mà cịn phản
ánh, ghi dấu trình độ phát triển cao của thẩm mĩ dân gian của cộng đồng cư dân
nơi đây. Màu sắc trên trang phục được xử lý tinh tế, hài hoà. Bố cục các màu sáng
- tối, nóng - lạnh cân đối, mang phong cách riêng và không kém phần hiện đại.

Với sự kết hợp cả ba hình thức trang trí tạo ra cho trang phục không chỉ sống
động về màu sắc, mơ típ hoa văn cũng rất phong phú, phản ánh thế giới quan sâu
sắc của họ. Ngoài các hoạ tiết dưới dạng đường thẳng, đoạn thẳng, người H’mơng
cịn thành thục trong việc bố cục đồ án hoa văn hình trịn, đường cong, hình xốy
trơn ốc, hay biến thể của nó là 2 hình xốy trơn ốc được bố trí đối xứng tạo thành
hình móc, hoặc đối xứng trục quay thành chữ S.
2.2.6. Trang phục trong một số nghi lễ tín ngưỡng
- Trong tang lễ
Có thể nói, bộ y phục mặc cho người chết hiện còn giữ được nhiều yếu tố
truyền thống nhất trong các loại trang phục của người H’mơng hiện nay. Ngồi
11


ra, bộ y phục mặc cho người chết cùng các sản phẩm từ may mặc khác phục vụ
trong tang lễ cịn có nhiều nội dung, ý nghĩa sâu sắc phản ánh về nhân sinh quan
của người H’mông.
Người chết dù là trẻ em mới 1 ngày tuổi hay người già đều được mặc trang
phục may bằng vải lanh. Theo quan niệm của người H’mông, người chết phải
được mặc vải lanh, kể cả giầy cũng phải được may bằng vải lanh thì khi về với
thế giới bên kia, tổ tiên của họ mới nhận diện được con cháu của mình. Nếu khơng
có trang phục vải lanh, phần hồn của người chết sẽ khơng được tổ tiên chấp nhận,
khơng được siêu thốt, trở thành ma đói, ma ác và sẽ quay trở về quấy nhiễu gia
đình và cộng đồng để “địi ăn” gây những thiệt hại khó lường cho những người
cịn sống. Do đó, người chết nhất thiết phải được mặc trang phục bằng vải lanh
theo đúng phong tục truyền thống.
Khi bố mẹ đã già, con gái có trách nhiệm may cho bố mẹ mỗi người một bộ
và một cái khăn gối đầu thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong để dùng lúc chết.
Những thứ đồ dùng này gọi là đồi dối già (trôngx lâul) bằng cách mổ một con lợn
khoảng 50 kg mời con gái và con rể đến ăn. Nếu con gái và con rể chưa kịp làm
cho bố mẹ từ trước thì lúc bố mẹ chết phải mang đến, khơng có thì cũng phải đi

vay mượn cho bằng được.
Người chết có bao nhiêu người con sẽ được mặc bấy nhiêu bộ y phục bằng
vải lanh và gối từng đó khăn gối đầu do các con dâu, con gái làm cho. Các bộ y
phục này sẽ lần lượt được mặc bên trong, cịn bộ ngồi cùng là do người vợ làm
cho nếu người chết là người chồng, gồm áo dài tay nữ có hoa văn, quần, thắt lưng,
tạp dề, khăn quấn đầu, xà cạp, giầy. Nếu người chết là đàn bà thì bộ quần áo ngồi
cùng bao gồm áo dài tay nữ có hoa văn, váy, thắt lưng, tạp dề, khăn quấn đầu, xà
cạp, giầy. Trong đó, chiếc váy phải do chính mẹ đẻ làm, tặng khi đi lây chồng.
Theo quan niệm của người H’mông, nếu không mặc chiếc váy này, người me sẽ
không nhận ra con ở thế giới bên kia.
Đồng bào cho rằng người chết đeo đồ trang sức sẽ không sang được thế giới
bên kia, linh hồn người đó sẽ cịn lởn vởn để làm hại người sống. Điều này
12


thật trùng khớp với những kết quả mà khoa học hiện đại đã cho thấy nếu chôn
kim loại theo thi hài thì kim loại sẽ làm cho thi hài khó phân huỷ được. Đây cũng
là một lý do khiến cho công tác vận động người phụ nữ H’mông đi đặt vịng tránh
thai - thực hiện kế hoạch hố gia đình gặp nhiều khó khăn bởi đồng bào lập luận
rằng: nếu đặt kim loại vào trong cơ thể người sống lúc chết sẽ không tháo được
ra, linh hồn sẽ không siêu thoát được và sẽ quay về làm hại người sống.
- Trong việc bảo vệ và kéo dài tuổi thọ
Đồng bào quan niệm trẻ em và người già cần được chăm sóc và bảo vệ nhất.
Vì vậy, trẻ em bao giờ cũng có mũ, địu, vịng vía. Những người thường xun bị
ốm đau, bệnh tật thì được làm cho vịng vía. Những người già còn được con dâu
hoặc con gái làm cho áo kéo dài tuổi thọ, hay còn gọi là áo thêm phúc thêm hồn
(yao jin tia hay yao saox jin tơ) là một chiếc áo được cắt may bình thường, nhưng
phía sau lưng áo có đắp thêm 2 miếng vải đen chéo nhau như hình chữ thập hoặc
hình chữ thập chéo. Đồng bào quan niệm: Con người khi từ trên trời xuống chỉ
mang đủ rượu, gạo ăn cho đến 60 tuổi. Vì vậy, muốn sống thêm nữa thì phải sửa

lại áo. Vì vậy, từ 50 tuổi trở lên, những người già được con dâu hoặc con gái may
cho chiếc áo này. Ngày con dâu hay con gái may áo thêm phúc cho bố mẹ phải
mời thầy cúng về làm lễ trước bàn thờ. Áo đã được chuẩn bị sẵn nhưng chưa
được gắn thêm 5 đồng xu đằng sau. Thầy cúng cầm áo và vải, hướng dẫn con dâu
hay con gái vị trí gắn các đồng xu. Vì vậy, lễ này còn được gọi là lễ sửa lại áo
hay vá áo (txưr saox) cho người già mặc để có thêm sức khoẻ.
2.3. Những biến đổi trong trang phục truyền thống của người H’Mông
Hoa tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai
2.3.1. Biến đổi về cách tạo trang phục
2.3.1.1. Trang phục ngày xưa
Đa phần các bộ trang phục được làm trong những lúc rảnh rỗi của người
phụ nữ H’mơng. Để có một bộ trang phục người H’mơng truyền thống thì trước

13


hết phải có những sợi vải lanh. Đây là nguyên liệu chính để tạo ra trang phục của
người H’mơng Hoa truyền thống.
Cây lanh có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của đồng bào H’mơng Hoa . Nó
khơng chỉ là nguyên liệu để làm ra trang phục mà nó con mang ý nghĩa rất lớn
trong cuộc sống của họ.
Để tạo ra nguyên lệu sợi, ở một số dân tộc khác trồng bơng cịn người
H’mơng thì trồng lanh. Người H’mơng coi cây lanh là biểu tượng của mình. Họ
tự hào nói: “ở đâu có lanh thì ở đó có người H’mơng”. Cũng có thể nói: Xưa ở
đâu có người H’mơng ở đó có nghề dệt lanh, may vải lanh. Người H'mơng gọi
cây lanh là “măngx”.
Nghề trồng lanh được bảo lưu trao truyền qua nhiều thế hệ. Bởi đó khơng
chỉ là bản sắc văn hóa của riêng dân tộc H’mơng mà cịn là nền văn hóa chung
cho đất nước. Dịng đời người phụ nữ H’mông trôi qua mùa lanh này nối tiếp mùa
lanh khác. Dòng hoa văn cứ chảy mãi theo tài năng của họ. Qua bàn tay người

phụ nữ, nghệ thuật dệt vải, thêu thổ cẩm trên nền trang phục xuất hiện nhiều nét
mới độc đáo cả về mặt bố cục và màu sắc. Những giá trị văn hóa của trang phục
dân tộc H’mông ẩn chứa nhiều nét rất độc đáo mà dung dị.
Sơ chế lanh: Lanh đã tới độ thu hoạch người ta cắt buộc lại thành từng bó
đem về phơi khơ trong vịng 10-15 ngày. Sau đó tước lấy vỏ (tớ). Cơng việc này
phải làm trước khi có đợt gió mùa Đơng Bắc, nếu gặp gió lanh sẽ bị khơ sợi, giảm
độ bền, sợi nát, khó nối.
Sau khi làm cho vỏ ngoài bong ra người ta chia đều lanh thành những chùm
sợi đều nhau, đem giã cho sợi mềm và sơ, sau đó tước ra từng sợi, nối lại với
nhau cuộn thành từng cuộn to. Vỏ lanh được tước thành từng sợi và nối với nhau
một cách khéo léo, cơng việc này cần sự kiên trì nhẫn nại nên thường do những
người phụ nữ đảm nhiệm. Vì vậy vào hầu như lúc nào người phụ nữ H’mông
cũng đều tranh thủ nối và tước các sợi lanh trên đường đi từ nhà lên nương, đi lấy
củi, đi chợ hay đi hội. Người phụ nữ H’mơng thường có một cuộn

14


lanh chưa nối buộc quanh thắt lưng, trên lòng bàn tay có vài sợi lanh, vừa đi vừa
nối.
Dệt vải: từng cuộn sợi lanh này được ngâm với nước tro bếp, luộc chín cho
bung hết vỏ xanh, giặt sạch, sau đó lại đem dun một lần nữa với nước hòa sáp
ong khoảng 4- 5 giờ sau đó vớt ra và để ráo nước, dùng đoạn gỗ tròn chà lăn trên
cuộn sợi lanh cho tới khi sợi lanh thẳng ra, sạch và bóng là được. Thứ sợi lanh
trắng và sạch ấy gội là xé, đủ để xe thành sợi trước khi đưa lên khung dệt. Xe sợi
có vị trí quan trọng thứ nhất trong q trình tạo ra vải. Cơng cụ quay sợi là súa
màng là một loại công cụ thao tác cá nhân với tư thế ngồi. Nguyên lí kĩ thuật của
công cụ quay sợi là dùng phương pháp chênh lệch vòng quay của hai vòng to,
nhỏ lấy lực qua dây curoa để kéo sợi.
Sau khi được sợi người ta tiến hành guồng sợi lại. Công cụ guồng sợi (cái

dáy) là hai đoạn tre có chiều dài 3 m buộc lại thành hình chữ nhật để quay sợi lại.
Con sợi to hay nhỏ tùy ý muốn của từng người dệt.
Trước khi dệt, sợi dệt được tẩy trắng (han sú) bằng cách đem ngâm sợi vào
nước tro bếp khoảng một đêm và đun sơi lần thứ nhất. Sau đó ủ sợi trắng khoảng
một đêm nữa rồi giặt sạch. Cứ như vậy phải đun sợi, giặt sợi đến ba lần thì sợi
trắng. Sau đó đem phơi khơ rồi nhúng vào nước sáp ong (han sú thia), xong lại
đem phơi khô, ép sợi lại. Đây là khâu xử lí kĩ thuật làm cho sợi trắng, dai, bền,
mịn để tạo thành các tay sợi, sợi được kéo (tung sú) và được cuốn vào những ống
lót sợi.
Đồng bào H’mông dệt vải trên khung cửi truyền thống có hai thanh gỗ
dựng đứng có tiết diện khoảng 12cm× 12 cm, dài 60cm ghép với thanh ngang
tạo thành khung cố định. Ngồi ra, dệt vải cần có: con thoi (lúng gào) khá to,
dài 50cm, rộng 12cm, dày 5cm, lược ép sợi (lú dua) và lược tách sợi (tsung gào)
Trước khi đưa sợi vào khung dệt, giăng sợi cho đủ số sợi dọc của khổ vải
sau đó bắt đầu dệt. Dệt theo nguyên tắc đan của lóng, gồm những sợi căng dọc
theo chiều dài khung cửi đan với sợi ngang do các con thoi vận chuyển. Khi dệt
người ta buộc khung cửi cho chắc, người dệt ngồi trên chiếc ghế đẩu.
15


Dệt vải là việc tranh thủ sớm hôm, chủ yếu là mùa đơng, khi ít cơng việc
trên nương. Nhìn chung chị em phụ nữ H’mông thường dệt vải quanh năm, tốn
nhiều cơng sức, xong ngồi ý nghĩa kinh tế, việc làm này cịn có ý nghĩa xã hội.
Khéo tay chăm chỉ dệt vải là một trong những tiêu chuẩn đánh giá tài năng, đạo
đức của người phụ nữ, nhất là chị em trong độ tuổi xây dựng gia đình. Dệt vải
lanh (tẩu măng) người ta đem giặt vải và nhuộm chàm để may quần áo cho nam
giới, và in sáp ong lên váy.
Nhuộm và lăn vải: Vải dệt xong được nấu trong nước tro bếp sao cho thật
sạch, trắng, rồi nấu với sáp ong để hồ vải cho cứng và bóng. Vải lanh sau khi nấu
với sáp ong lại phải qua khâu lăn vải giữa bàn đá và khúc gỗ, tới khi trơng vải

bóng mịn thì đem nhuộm chàm. Người H’mông trồng chàm và chế biến thuốc
nhuộm chàm (cao chàm).
Cách thức chế biến: chàm cắt về đem ngâm cho mục ra, sau đó gạn lấy nước
cốt đem hịa với tro bếp và nước vôi, khuấy đều, để lắng lấy cao chàm.
Loại cao chàm này trữ lại dùng lâu dài trong cả năm. Vừa nhuộm vải mới
vừa nhuộm lại vải đã bạc màu.
Trước khi nhuộm bao giờ cũng nhúng qua nước lã cho vải ngấm đều rồi mới
nhúng vào vại nước chàm. Vải nhúng nước chàm xong vớt ra ủ qua đêm, hôm
sau giặt qua nước lã rồi mới đem phơi. Cứ thế qua 10- 18 lần thì vải có màu chàm
đen ánh là được.
Kỹ thuật cắt may và lắp ghép vải: Áo thường ngày may bằng vải lanh hoặc
đen, kiểu xẻ ngực, có những nút cài bằng vải hai bên mép nẹp áo. Tạng áo dài có
ba khoanh màu trang trí cách quãng nhau trên khắp cánh tay hay dồn về phí gần
cổ tay.
Áo mặc trong dịp lễ tết, hội hè, người ta chăm chút hơn nhiều, nhất là hoa
văn trang trí từ khoảng một phần ba thân áo trở xuống mơ típ thường thấy hơn cả
là những đường xốy ốc, nét khá mảnh, rồi được khâu lên vải áo. Các mơ típ hình
tam giác với màu sắc khác nhau ghép lại thành những bố cục mảng đa

16


dạng. Đó là hai đồ án trang trí chính trên áo, nhưng chúng bổ xung xen cài với
nhau tạo nên hình khối và màu săc hài hịa.
Các em gái H’mơng từ 7- 10 tuổi đã được mẹ, chị tập cho thêu thùa, lớn lên
có bộ váy áo đẹp di chợ, đi hội, để mặc về làm dâu nhà chồng. khi về nhà chồng
lại phải có váy áo đẹp tặng mẹ chồng. Khi về già phải có váy áo đẹp mặc về với
tổ tiên. Có thể nói người phụ nữ H’mơng có sức sáng tạo nghệ thật chuyển giao
văn hóa trang phục.
2.3.1.2. Trang phục hiện nay

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, diện mạo ở Sa Pa đã đổi thay
về mọi mặt, đời sống tinh thần được nâng lên, việc trao đổi giao lưu văn hóa được
mở rộng, du lịch phát triển. Tuy nhiên, cùng với sự đổi mới ấy, những bản sắc
văn hoá truyền thống của dân tộc H’mơng ngày càng mất dần đi, trong đó có trang
phục truyền thống của người Mông.
Điều đáng suy ngẫm là nếu như trước đây, khi đến vùng đồng bào H’mông
chúng ta đều thấy nam nữ người H’mông từ già đến trẻ đều mang trên mình những
bộ trang phục truyền thống có nét đặc trưng riêng của dân tộc, thì nay những bộ
trang phục truyền thống ấy ở vùng đồng bào H’mông đã thưa dần. Từ váy áo của
nữ giới đến quần áo của nam giới khơng cịn được may bằng vải lanh như trước
kia mà được thay bằng vải láng.
Hiện nay khung cửi và guồng quay sợi khơng cịn được sử dụng ở đồng bào
H’mông Hoa tại huyện Sa Pa. Họ khơng cịn làm nghề dệt vải như trước nữa.
Những cơng cụ làm ra vải và trang phục khơng cịn được sử dụng.
Hiện nay đa phần trang phục truyền thống của người H’mông Hoa ở huyện
Sa Pa, Lào Cai mua chủ yếu của Trung Quốc. Họ khơng cịn tự tay mình làm ra
những bộ trang phục. Có chăng cũng chỉ là mua những phụ kiện về và máy lại
với nhau chứ khơng cịn tự tay mình làm ra bộ trang phục của mình từ đầu tới
cuối. Vải làm trang phục cũng chỉ là vải công nghiệp dệt sẵn chứ không còn là
vải lanh tự nhiên như trước đây. Hiện nay các hoa văn in trên vải chủ yếu là in

17


cơng nghiệp chứ khơng cịn thêu tay như trước nữa. In như thế này hoa văn trở
nên đều đẹp và vải mịn không bị thô như vải thêu tay thông thường.
Vải được mua từ chợ có thể là vải trắng đem về nhuộm chàm hoặc đồng bào
mua trực tiếp các loại vải màu về cắt may quần áo cho mình. Những mảnh vải
công nghiệp được bán trong các phên chợ. Đồng bào mua vải sẽ đỡ tốn một
khoảng thời gian dài để gia công xe sợi làm vải. Tuy vải công nghiệp không được

tốt và bền như vải lanh truyền thống nhưng nó có một ưu thế là đẹp, mịn mềm,
tuy không phải là rẻ nhưng lại đỡ mất thời gian và công sức nên hiện nay người
H’mông chọn mua vải về làm váy hơn là tự làm vải. Một số mua hẳn bộ váy,
những bộ váy mặc thường ngày để làm sản xuất có giá giao động từ 2- 4 triệu
đồng một bộ (bao gồm cả áo , váy, khăn đội đầu, xà cạp, yếm ) còn những bộ váy
đã được cách điệu để đi hội, đi chơi thì có giá giao động từ 7-10 triệu đồng. Hiện
nay váy H’mông được cách điệu lên rất nhiều.
Người phụ nữ H’mông vẫn thể hiện sự khéo léo, tỉ mỉ của mình trên những
mảnh vải thêu. Tuy nhiên số người hứng thú và u thích cơng việc này càng ít.
Do hiện nay trên thị trường có nhiều mặt hàng có mẫu mã đẹp thu hút được thị
hiếu của người dân. Hiện nay trang phục ghép những mảnh vải thêu ngày càng
trở nên ít hơn do thêu vải tốn rất nhiều thời gian.
Trang phục truyền thống hiện nay đang dần bị mai một nó được thể hiện qua
hình ảnh người đàn ơng mặc quần áo sơ mi, áo phông khi tiết trời nắng ấm hoặc
mặc những chiếc áo khốc từ miền xi mang lên đã trở thành phổ biến ở vùng
cao.
Váy cũng vậy, nhiều người khơng cịn dùng váy do mình tự thêu dệt mà là
những chiếc váy may sẵn (hàng của Trung Quốc) được bày bán ở chợ, các họa
tiết hoa văn trên váy không phải là thêu bằng sợi chỉ mà là những họa tiết được
in ấn bằng mực với máy hiện đại lên mặt chất vải.
2.3.2 Biến đổi về nghệ thuật trang trí
2.2.2.1 Trang phục ngày xưa
- Mơ tip – bố cục
18


Bố cục hoa văn hình học theo đường viền. Ở trên nền vải người H’mơng
Hoa thường dùng hoa văn hình học làm nền cho các hình hoa cúc, hoa hướng
dương, hoa đồng tiền, chữ thập, các băng hoa văn không bị cắt khúc mà chạy liên
tục, tạo cảm giác kéo dài vơ tận.

Ở thân váy hoa văn in sáp thì thường thấy các đường viền hình vng. Mảng
hoa văn này được người Mơng xử lí bằng khn hoa văn thành từng ơ hình vng,
mà trơng đó thường miêu tả các dạng ngơi sao tám cánh, hình đồng tiền, hình chữ
thập.
Ở chân váy H’mơng, những băng hoa văn hình học chạy song song tạo thành
đường diềm trên và dưới, mảng hoa văn này cũng được người H’mơng xử lí
khn hoa văn vào thành từng ô vuông để miêu tả các loại hình hoa.
Bố cục hoa văn trên vải dân tộc H’mơng cịn có đặc điểm là sự kết hợp
những mơ típ hoa văn thành những tổ hợp hoa văn có tần số xuất hiện tương đối
nhiều trên vải dân tộc H’mông, nhất là trên áo váy.
Tổ hợp hoa văn hình đồng tiền xen giữa các đường gạch dài: Tổ hợp này
cũng mang tính cân đối, băng hoa văn đồng tiền ở giữ, hai bên là các đường gạch
dài chạy song song như hoa văn in sáp ong trên thân váy của phụ nữ.
Ngồi tổ hợp hoa văn cơ bản trên cịn một số tổ hợp hoa văn khác nhưng
xuất hiện không nhiều. Bố cục hoa văn trang trí cịn được thể hiện ở cách bố trí
xen ghép giữa các tổ hợp hoa văn chính với các tổ hợp hoa văn làm nền. Những
mảng trang trí thường là đường diềm , đường nét bằng in sáp, ghép vải thêu.
Những mảng hoa văn chính thường là rộng, đường nét đậm, nét dày thậm chí
ghép cả miếng vải (4cm×4cm), (4cm×7cm), nhưng hiệu quả màu sắc vẫn sáng,
thống. Qua đây thấy người H’mơng có trình độ thẩm mĩ cao.
Cũng như hoa văn nhiều dân tộc khác, hoa văn dân tộc H’mơng Hoa có bố
cục thành dải: dải ngang và dải dọc. Mỗi dải hoa văn thừng bố cục ở giữa là mơ
típ hoa thêu chủ đạo khổ lớn, phía diềm các vải là hoa văn thêu có tiết diện nhỏ,
hẹp, bề ngang, dọc. Dải ngang hoa văn xuất hiện trên thắt lưng, đầu tấm vải tạp
dề, nằm trên ống tay áo. Trên nền chàm của váy, dải ngang gấu váy rực rỡ hoa
19


văn. Bố cục dải dọc hoa văn sáp ong chạy song song sát nhau trên thân váy, hay
chạy thành hàng dọc trên tạp dề.

- Hoa văn
Vẽ bằng sáp ong nhuộm chàm là cách thể hiện hoa văn đơn giản nhất. Trước
hết đồng bào dùng sáp ong nóng chảy được vẽ nhiều đường nét hoa văn theo ý
muốn trên tấm vải lanh trắng. Sau khi vẽ xong người ta đem tấm vải đó nhúng
vào nước chàm nhiều lần. Khi nào nước chàm ăn vào vải tạo thành màu vừa ý
đồng bào lại mang vải đó nhúng vào nước nóng cho tan sáp ong để lại những hình
hoa văn trắng trên nền chàm. Cách thể hiện hoa văn này ta thường gặp trên váy.
Mơ típ hoa văn thêu bằng chỉ màu rất phong phú. Bức thêu bằng chỉ màu là
bức hoa văn đẹp nhất nên dù có mất nhiều cơng chị em vẫn chịu khó làm. Vì vậy
hoa văn bằng chỉ màu chiếm tỉ lệ nhiều hơn cả.
Ghép vải màu là cách thể hiện hoa văn đơn giản song vẫn đảm bảo màu sắc
theo ý muốn. Chị em thường ghép vải màu vào nẹp, áo trước ngực, vào ống tay
áo, trên váy, ghép vải để làm mũ cho trẻ em.
-

Màu sắc

Màu truyền thống của người H’mơng có 5 màu: Chàm sẫm thành đen, đỏ,
vàng, trắng, xanh lơ. Để tạo màu chàm sẫm (vải may áo) người phụ nữ H’mông
phải tiến hành nhiều khâu từ luộc sợi lanh với nước tro, ngâm sợi trong nước
chàm và củ nâu nhiều lần tạo thành màu chàm sẫm. để thêm độ bóng, họ miết sáp
ong vào vải và mài lên đá.
Màu chàm sẫm thường làm nền cho hoa văn trang trí. Đơi khi có một ít diềm
mỏng màu chàm chạy song song với diềm trắng ở dải hoa văn chính.
Điểm dễ nhận thấy là trên nền vải dân tộc h’mơng màu đỏ giữ vai trị chủ
đạo. Màu đỏ xuất hiện trên hai tạp dề (phía trước và phía sau váy) được nổi bật
ngay giữa thân váy. Màu đỏ lấp loáng ở cổ và hai ống tay áo. Các motip chính
cũng mang màu đỏ hoặc vàng. Ngay nhũng tấm vải ghép, các mootip phần lớn

20



cũng là màu đỏ. Thông thường đặt màu đỏ trên nền chàm sẫm, sẽ làm giảm sắc
độ của đỏ. Đỏ sẽ khơng tươi mà sẫm lại chìm vào nền chàm.
Màu đỏ trước đây nhuộm từ nước vỏ một loài cây thảo mộc hoặc nhuộm từ
cánhkiến, hiện nay chủ yếu là vải đỏ công nghiệp. Màu vàng nhuộm từ một loại
củ hoang hoặc nghệ. Màu trắng là màu nguyên của sợi lanh.
Phụ nữ H’mơng chỉ dùng màu đỏ làm mơ típ hoa văn mà cịn làm màu nền
cho các mơ típ hoa văn. Màu đỏ trở thành một thứ nền trung gian đặt trên nền cơ
bản của màu chàm.
Chất rực rỡ của hoa văn trên vải dân tộc được tăng thêm nhờ sự phối hợp
màu đỏ với màu vàng tạo thành những gam màu nóng được phát huy tối đa.
2.2.2.2 Trang phục hiện nay
- Về mô tip- bố cục
Trang phục hiện nay làm từ chất vải công nghiệp của trung Quốc nhưng mẫu
mã, hoa văn vẫn là hoa văn mơ típ của dân tộc H’mông Hoa. Trung Quốc đã sưu
tầm những hình thức, mơ típ hoa văn của dân tộc H’mơng Hoa, đem về tạo thành
những bản in áp dụng trong sản xuất trang phục cơng nghiệp đại trà. Ngồi làm
ra những bộ trang phục truyền thống theo chất liệu công nghiệp hiện nay trung
Quốc còn sáng tạo ra những bộ trang phục H’mông cách tân với nhiều kiểu dáng,
đa dạng.
Chủ yếu là mơ típ áo cổ trịn , tay áo làm đa phần bằng vải thêu ren và loe
rộng ở phần cổ tay .Cổ áo khơng cịn đóng kín cổ như trước đã có sự phóng
khống hơn trong cách tạo trang phục. Trong quá trình phát triển, bộ trang phục
dần thay đổi về kiểu dáng và màu sắc. Chiếc áo được may ngắn lên hay dài ra, cổ
tay dần được thu nhỏ lại.
Bộ trang phục hiện nay thay đổi về kích thước những chiếc váy có thể ngắn
hơn hoặc dài hơn đầu gối, có bộ chân váy được làm bằng vải ren mỏng. Có những
bộ trang phục dài tới tận gót chân.
-


Về hoa văn

21


Nhiều loại hình hoa văn đặc sắc hơn trước.Hoa văn chủ yếu được in bằng
máy. Đồng đều hơn loại váy do người dân tự làm . hoa văn chủ yếu vẫn là hoa
văn cũ và có sự sáng tạo thêm những kiểu hoa văn mới đẹp mắt, có nhiều mẫu
mã, vải ren được dùng rất nhiều trong trang phục H’mông hiện nay.
-

Về màu sắc

Khác với người H’mông Hoa và vùng nội địa, người H’mơng Hoa ở biên
giới có xu hướng ngày càng vượt khỏi sắc màu thiên nhiên, phải rực rỡ và nổi bật
trước không gian núi rừng vùng cao tràn ngập màu lạnh.
Trong các ngành H’mông, ngành H’mông Hoa có y phục giàu màu sắc và
rực rỡ hơn cả. Tất nhiên, nghệ thuật sử dụng màu sắc ở mỗi vùng cũng khác nhau.
Ở vùng sâu nội địa y phục ngày hội của phụ nữ H’mơng Hoa được trang trí nhiều
băng dải hoa văn đẹp ở vai, cánh tay, thắt lưng, gần gấu váy. Nhưng các hoạ tiết
hoa văn này do ít sử dụng tối đa màu đỏ vàng mà thiên màu lơ, lụa, tím nên hoa
văn khơng rực rỡ, ít có cảm giác chói, nóng
2.3.3. Biến đổi về phụ kiện và đồ trang sức
2.2.3.1 Trang sức ngày xưa
Đồ trang sức cổ truyền của người H’mông Hoa chủ yếu làm bằng bạc, gần
đây một số nơi mới sử dụng đồ trang sức bằng hợp kim nhôm, kẽm, đồng. Bộ đồ
trang sức của người Mơng ở Cát Cát thường có khun tai (câux nhas), vòng cổ,
(pâux chax đangz), vòng tay (pâux tês), bộ xà tích (lăngx hliaz), nhẫn (ntir blaiz)
và răng vàng (nar cul)

Phụ nữ H’mông thường đeo nhiều khuyên tai bằng nhơm, mỏng, tồn thân
hình xoắn ốc, mỗi bên tai đeo ít nhất một cái cịn thường là hai, ba cái. Trên mặt
của những chiếc khuyên tai trang trí nhiều họa tiết, trong đó chủ yếu là họa tiết
xoắn ốc, một họa tiết trang trí chủ đạo của người H’mơng. Vì đeo nhiều loại vịng
khun như thế nên từ khi còn nhỏ đã được xâu lỗ tai.
Vòng cổ là đồ trang sức chung cho cả phụ nữ và nam giới. Vịng bằng bạc,
tiết diện trịn , dường kính tiết diện khoảng 0,5 cm. Chu vi của vòng cổ khoảng

22


trên 30cm. vịng trịn khơng khép kín hồn tồn. Có hai loại vòng cổ: vòng thuần
túy trang sức và vòng bảo mệnh .
Người ta đeo vịng cổ chỉ mang tính chất trang trí cho đẹp. Cịn vịng bảo
mệnh (có hình cái khóa) được đeo để ngăn cản ma quỷ xâm nhập vào cơ thể làm
hại người, làm cho người ốm đau, bệnh tật. Trên chiếc vịng có khắc chữ bảo
mệnh (bằng chữ nho)
Các em bé H’mơng thường được đeo vịng vía, 2,3 vịng bạc cỡ to, nhiều
dây chuyền bạc cịn rủ xuống tận thắt lưng. Có em cịn khốc qua vai chiếc túi
vải đựng đồ chơi, mặt túi thêu hoa văn rất đẹp. Tới tuổi trưởng thành cả nam lẫn
nữ ưa bịt răng vàng.
Vòng tay là đồ trang sức ưa thích của phụ nữ. loại vịng này có nhiều đường
nét hoa văn trang trí. Đó là những hình hoa, hình con bướm cách điệu. Vào dịp
hội hè, lễ tết khi đi chợ chơi chị em đeo đến 5-6 vòng trên một cổ tay.
Nhẫn chủ yếu do người H’mông tự làm bằng bạc gồm hai loại tiết diện tròn
hoặc dẹt. Nam, nữ thanh niên đeo một nhẫn tiết diện tròn là dấu hiệu chưa vợ,
chưa chồng (hoặc góa vợ, góa chồng) cịn nếu đeo hai nhẫn cùng một ngón tay là
dáu hiệu đã có vợ có chồng.
2.2.3.2 Trang sức hiện nay
Hiện nay các đồ trang sức của người H’mông chủ yếu là làm bằng nhôm và

đồng. Những nhà khá giả bắt đầu dùng những đồ trang sức như vàng ta, vàng tây,
bạc khơng cịn ngun chất như trước. Cịn đa phần những nhà khơng có điều
kiện họ chỉ dùng những đồ trang sức bằng nhơm bằng đồng, hiện nay cịn có
nhiều đồ mĩ kí, đồ trang sức bằng nhựa. Trẻ con rất thích dùng những đồ trang
sức. Có khi một cổ tay đeo 4-5 cái vòng tay, đeo vòng cổ, khuyên tai.
2.3.4. Biến đổi về tâm lí của đồng bào H’mơng Hoa trong việc sử dụng
trang phục
2.2.4.1 Tâm lí của đồng bào trước đây
Việc sử dụng trang phục của đồng bào trước đây phụ thuộc vào bàn tay
của người phụ nữ. Họ sử dụng chính từ những nguyên liệu họ trồng được và
23


làm ra. Bộ trang phục làm từ những sợi vải lanh này không chỉ làm ra mảnh vải
che thân, bảo vệ cơ thể khỏi điều kiện khắc nghiệt của thời tiết, của địa hình mà
cịn mang giá trị thẩm mĩ cao của dân tộc.
Bộ trang phục làm từ vải lanh rất thơ và cứng có thể ngăn cản những vật
nhọn, gai góc có thể làm chầy xước tới thân thể của đồng bào. Những bộ váy này
thể hiện nét đẹp riêng của dân tộc mình, cái để phân biệt dân tộc này với dân tộc
khác.
2.2.4.2. Tâm lí của đồng bào hiện nay
Hiện nay bắt nhịp với xu hướng của thời đại, với đời sống ổn định hơn trước
người dân đã chú ý tới thẩm mĩ tới cái đẹp nhiều hơn. Họ khơng cịn thích dùng
những bộ trang phục từ vải lanh truyền thống. Họ bắt đầu thích những sợi vải
mềm mại hơn, đẹp hơn.
Hầu hết người H’mông thường ngày đều mặc giống người Kinh theo lối Âu
hóa như ngày nay. Sau nữa vải dệt công nghiệp được may cắt sẵn bày bán rất
nhiều tại chợ với nhiều chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng đa dạng, đẹp mắt đã thực
sự là một hấp dẫn lớn đối với thanh niên dân tộc, họ ham muốn cái đẹp, cái mới,
lại tiện lợi trong cách sử dụng. Do đó sự biến đổi khơng phải là điều khó hiểu.

2.4. Nguyên nhân của sự biến đổi trong trang phục truyền thống của
người H’Mông Hoa tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai
Sự biến đổi về trang phục hiện nay do các nguyên nhân sau: nguyên nhân
kinh tế và nguyên nhân thuộc về ý thức con người.
Về kinh tế : nguyên nhân khiến cho trang phục của người H’mơng có sự
mai một là do tác động hội nhập về văn hóa giữa các vùng miền, lưu thơng văn
hóa trong và ngồi nước.
Ngày nay kinh tế thì trường phát triển, xuất hiện nhiều loại vải, quần áo may
sẵn bán trên thị trường. Chúng vừa rẻ, vừa tiện lợi hợp túi tiền của người dân nên
nhiều người ưa chuộng. Với số tiền vừa phải họ có thể mua được bộ quần áo bền,
màu sắc phong phú, trong khi đó để khâu được bộ trang phục

24


truyền thống tốn rất nhiều thời gian, công sức. Việc lựa chọn một bộ trang phục
may sẵn cũng là điều dễ hiểu. Ngày nay phụ nữ ngoài làm việc nhà, nương rẫy
họ cịn tham gia cơng tác xã hội, đi học vì vậy thời gian rảnh khơng có nhiều.
Quần áo bán sẵn có rất nhiều, họ khơng phải lo cái mặc cho cả gia đình, vì đã có
bán sẵn ngồi chợ, rất tiện lợi.
Trang phục truyền thống bị biến đổi một phần do nghề dệt truyền thống đang
đứng trước nguy cơ mai một. Từ thực tế người H’mông Hoa ở đây khơng trồng
lanh, dệt vải nữa thay vì trồng lanh đồng bào đã chuyển sang trồng các loại cây
khác mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nghề dệt bị mai một cũng chính một phần do
người H’mơng chuyển sang cách ăn mặc của người Kinh và mặc những bộ trang
phục công nghiệp của Trung Quốc.
Những bộ trang phục sản xuất hiện đại được mang từ Trung Quốc sang đang
tràn ngập thị trường vùng cao với giá bán rất rẻ, chỉ cần bỏ ra từ 80.000 đến
100.000 là có thể mua được một chiếc váy.
Về ý thức của người dân: quan điểm về chuyện ăn mặc cũng bắt đầu bộc lộ

sự đơn giản hơn trong suy nghĩ đối với lớp trẻ người H’mông hiện nay.
Cũng do kinh tế thị trường phát triển giới trẻ người H’mông được tiếp xúc
với nhiều luồng thông tin, với nhiều loại mốt trang phục của người Kinh đang
thịnh hành, và những bộ trang phục H’mông Trung quốc đẹp mắt. Vì thế họ tự
ty, sợ mặc trang phục truyền thống sẽ bị chê cười, không đúng mốt, khơng hiện
đại. Vì thế mà trang phục truyền thống khơng còn được ưa chuộng.
Trước thực trạng về sự mai một đối với trang phục truyền thống của người
H’mông như hiện nay nên chăng các cơ quan chức năng cũng như các địa phương
thuộc vùng đồng bào sinh sống cần có những giải pháp tuyên truyền vận động
đồng bào bảo tồn và phát huy giá trị dộc đáo của dân tộc mình.
Sự biến đổi này cũng khơng phải là khơng hợp lí. Bởi lẽ cuộc sống mới có
nhiều biến đổi rất cần đến sự thích ứng. Theo như ý kiến của nhiều chị em phụ
nữ H’mơng Hoa ở thị trấn thì trang phục truyền thống của họ rất đẹp và đó là
niềm tự hòa của dân tộc họ. Song với chiếc váy dày và nặng là một sự bất tiện
25


×