Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.54 MB, 84 trang )




z













LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại
Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và
Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
























Lời nói đầu

Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua hơn 10 năm
đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên bước đầu khẳng định được uy tín,
chinh phục đựơc khách hàng chiếm lĩnh được thị trường lớn, ổn định góp phần nâng cao
vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, các thành phần
kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều loại hình
doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa
các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn
luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất do đó cần thiết phải có một
lượng vốn lớn mà các ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho các doanh nghiệp,
các thành phần kinh tế một cách có hiệu quả.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng
Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước và cấp kinh doanh là các ngân hàng thương mại.
Cùng với việc triển khai thực hiện pháp lệnh ngân hàng ở nước ta trong thời gian qua đã
tạo ra những chuyển biến rõ nét cả về tổ chức, hoạt động và trình độ nghiệp vụ của hệ

thống ngân hàng góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền Các tổ chức
tín dụng hình thành mạng lưới trên hầu khắp các địa bàn cả nước. Ngoài hệ thống ngân
hàng thương mại quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên
doanh Nghiệp vụ ngân hàng cũng được đổi mới và từng bước hiện đại hoá, tiếp cận
với công nghệ và thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng ngân
hàng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự
nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Ngày nay ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan
trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh
tế khác ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi



lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công ăn việc làm cho người lao động,
phát triển thị trường ngoại hối.

Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời kỳ mới chuyển đổi sang cơ
chế thị trường, môi trường kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp lý đang dần được
hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại đang gặp nhiều khó
khăn nhất là chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn.
Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng,
từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng là một nhiệm
vụ cơ bản, thường xuyên của ngành ngân hàng. Vấn đề càng trở nên bức xúc và cần
thiết đối với hệ thống Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn có thị trường
tín dụng chủ yếu là khu vực nông thôn.

Trước tình hình trên, là một sinh viên khoa ngân hàng - tài chính đang thực tập tại
Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, em đã quyết định
chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở
Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam”.



Chia làm 3 chương:

Chương 1: Tín dụng và chất lượng tín dụng của Ngân Hàng Thương Mại.

Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng
Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam.












Chương I: Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại

I - Tín dụng và các hình thức tín dụng ngân hàng

1. Tín dụng - Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân :
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người
đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói một
cách khác tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó

mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hoặc hiện
vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về thời gian
hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Trải qua quá trình phát triển đã có nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Đầu tiên là
tín dụng nặng lãi xuất hiện ở thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ. Trong thời
kỳ này do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội mở rộng, xã hội đã
có sự phân chia giai cấp kẻ giàu người nghèo. Trong quá trình đầu tiên chủ yếu là cho
vay bằng hiện vật, về sau chủ yếu cho vay bằng tiền. Đây là hình thức cho vay nặng lãi
với lãi suất rất cao, không có giới hạn và là hình thức tín dụng tiêu dùng, chủ yếu để giải
quyết nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản cho thấy tín dụng nặng lãi không còn
phù hợp nữa, nó cản trở sự phát triển của nền kinh tế bởi các nhà tư bản kinh doanh với
mục đích lợi nhuận không thể vay với mức lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận. Vì vậy
hoạt động của nó ngày càng thu hẹp và tín dụng thương mại xuất hiện. Đây là hình thức
tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau do đó chủ thể tham gia quá trình vay
mượn này cũng là các nhà sản xuất kinh doanh.
Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn giá bán
bằng tiền mặt, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu. Quan hệ
mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. Vì vậy nó không
đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hoá và tín dụng
ngân hàng ra đời.




Mặt khác do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội thường
xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này và nhu cầu
thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác. Hiện tượng thừa, thiếu vốn phát sinh do có sự
chênh lệch về thời gian. Trong khi đó số lượng các khoản thu nhập và chi tiêu ở các tổ
chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành một cách liên tục.

Vậy để khắc phục tình trạng này thì chỉ có ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh
tiền tệ mới có khả năng giải quyết được những mâu thuẫn đó.

Vậy tín dụng ngân hàng là gì ?.

"Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân hàng
- một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ
chức, cá nhân trong xã hội trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là
người cho vay "

Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn luôn đáp
ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
Thật vậy, chúng ta xem xét trường hợp sau:
Giả sử: Đã vào đầu mùa hè, nhu cầu về nước giải khát rất lớn và nếu tôi biết tận
dụng cơ hội này thì việc sản xuất ra nước giải khát phục vụ trong hè không những đem
lại lợi nhuận cho tôi mà còn đem lại sự phát triển của nền kinh tế. Song để mua được
một dây chuyền sản xuất nước giải khát thì phải cần một lượng vốn rất lớn mà nếu một
mình tôi sẽ không đủ vốn. Trong khi đó có một số người khác có một món tiết kiệm do
tích luỹ được trong nhiều năm. Nếu tôi, những người đó gặp nhau và những người đó
cung cấp vốn cho tôi thì kế hoạch của tôi sẽ trở thành hiện thực.

Nhưng một vấn đề được đặt ra là liệu tôi - người thiếu vốn và những người thừa
vốn đó có gặp nhau không? Và trong nền kinh tế thị trường hàng ngày hàng giờ diễn ra
không biết bao nhiêu mối quan hệ như vậy? Nó đã hình thành nên: một bên là những
người có tiền tích luỹ, có khả năng cung cấp và phía bên kia là những ngưòi có nhu cầu
vay cho đầu tư phát triển. Như vậy nảy sinh vấn đề là làm thế nào để họ có thể tìm gặp



được nhau và làm thế nào để cùng một lúc thoả mãn được nhu cầu vốn đa dạng và to lớn

trong khi các nguồn tiết kiệm còn đang nằm phân tán trong xã hội. Không phải bất kỳ ai
cũng có khả năng đầu tư hoặc vay vốn trên thị trường tài chính, ngoài ra khi giao dịch
trên thị trường tài chính đòi hỏi chi phí về tiền bạc và thời gian rất lớn. Do đó các ngân
hàng thương mại với chức năng cơ bản là trung gian tài chính, hoạt động như một chiếc
cầu nối liền giữa khả năng cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội đã cơ bản
giải quyết được những vấn đề nẩy sinh trên. Đồng thời với tư cách là một trung gian tín
dụng ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và
một bên là người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện
pháp kinh tế năng động và áp dụng các phương pháp kỹ thuật theo hướng hiện đại tiên
tiến ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết kiệm dự trữ
trong xã hội để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất
kinh doanh. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã
trở thành tiền hoạt động, biến những đồng tiền phân tán thành nguồn vốn tập trung phục
vụ cho nhu cầu kinh doanh. Qua đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho
nền kinh tế ngày càng phát triển.

2. Các hình thức tín dụng ngân hàng :

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế với xu hướng tự do hoá, các ngân hàng phải
luôn luôn nghiên cứu và đưa ra các hình thức tín dụng khác nhau để có thể đáp ứng một
cách tốt nhất nhu cầu của quá trình tái sản xuất, từ đó đa dạng hóa danh mục đầu tư để
mở rộng tín dụng, thu hút khách hàng, tăng lợi nhuận và thực hiện phân tán rủi ro.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau mà chúng ta tiến hành phân loại các hình thức tín
dụng ngân hàng:
- Căn cứ vào mục đích sử dụng có các hình thức tín dụng sau:
+ Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng
bất động sản nhà ở đất đai, bất động sản trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
+ Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệp, thương mại, dịch vụ.+ Cho




vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như: phân bón, thuốc
trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân: Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiện cho vay để trang
trải chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.

- Căn cứ vào tài sản thế chấp có các hình thức tín dụng ngân hàng sau:
+ Cho vay có tài sản thế chấp: Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng để
đảm bảo cho việc trả nợ của khách hàng.
. Cho vay cầm cố: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản khách hàng mang
đến cầm cố tại ngân hàng. Tài sản của khách hàng do ngân hàng bảo quản, trong suốt
thời gian cầm cố khách hàng không được sử dụng nhượng bán, cho thuê
. Cho vay thế chấp: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng
để đảm bảo cho khả năng trả nợ của khách hàng. Tài sản không cần mang đến ngân
hàng, khách hàng có quyền sử dụng nhưng không có quyền bán và cho thuê.
+ Cho vay không có tài sản thế chấp (Tín chấp): Ngân hàng cho vay trên cơ sở tin
tưởng khách hàng, tài sản thế chấp là uy tín, danh dự của khách hàng. Ngoài ra còn có
hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị -
xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
Ví dụ: Hội nông dân Việt Nam, Hội Phụ nữ Việt Nam.

- Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng có các hình thức tín dụng ngân hàng sau:
+ Cho vay bằng tiền: Là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung
cấp bằng tiền như: Thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp
+ Cho vay bằng tài sản: Phổ biến là tài trợ thuê mua.

- Căn cứ vào xuất xứ tín dụng có các hình thức tín dụng sau:
+ Cho vay trực tiếp: Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng và khách hàng

trực tiếp trả lãi và gốc cho ngân hàng.



+ Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các
khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn lại trong thời hạn thanh toán gồm các
hình thức:
 Chiết khấu thương mại.
 Mua các khoản nợ của các doanh nghiệp ( factoring): Là dịch vụ mua các yêu cầu (
giấy đòi nợ) của các công ty sau đó nhận tiền thanh toán về các yêu cầu này. Các yêu
cầu ở đây thường là các giấy đòi nợ ngắn hạn phát sinh do cung cấp hàng hoá.
 Tín dụng chứng từ

- Căn cứ vào thời hạn cho vay có các hình thức tín dụng sau:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn không quá 12 tháng (1
năm). Được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân
+ Tín dụng trung hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60
tháng (5 năm). Mục đích là vay vốn để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định
hoặc cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ và xây dựng mới
những công trình loại nhỏ, thời hạn thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ 60 tháng trở lên. Mục
đích sử dụng là để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định, đổi mới công nghệ và
xây dựng mới đối với những công trình mới thời hạn thu hồi vốn lâu.


II - Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế :

Cho đến hiện nay, mọi người đều thống nhất ý kiến cho rằng kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần tạo ra động lực lớn, đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập,

cải thiện đời sống nhân dân, đưa lại sự phồn vinh kinh tế cho nước ta trong những năm
qua. Và để đạt được những kết quả như vậy thì phải kể đến một nhân tố góp phần quan
trọng vào sự phát triển kinh tế đất nước đó chính là tín dụng ngân hàng. Khác so với tín
dụng trước đây, trong thời kỳ bao cấp tín dụng được coi như là một công cụ cấp phát
thay ngân sách, vì lẽ đó mà đã xảy ra tình trạng có nơi cần vốn sản xuất thì không có



hoặc không kịp thời để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong khi đó vẫn có nơi lại có một
lượng vốn ứ đọng tương đối lớn trong xã hội. Ngày nay khi chúng ta chuyển sang nền
kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì tín dụng ngân hàng được sử dụng như
một đòn bẩy kinh tế, điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu một cách hiệu quả, giúp cho
nền kinh tế ngày một phát triển.

Biểu hiện:
1. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn nhàn rỗi trong xã
hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn :

Sự ra đời của tín dụng ngân hàng đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển
kinh tế trong những thập kỷ qua. Với chức năng là trung gian tài chính đứng giữa người
gửi tiền và người đi vay ngân hàng đã biến mọi nguồn ngoại tệ phân tán trong xã hội
thành nguồn vốn tập trung, qua đó điều hoà quan hệ cung cầu về tiền tệ trong xã hội,
thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng.

Là một đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với mục đích lợi nhuận, các ngân
hàng thương mại luôn tìm cách để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Lợi tức thu được của
các ngân hàng được hình thành từ hai hoạt động đó là: Hoạt động tín dụng và các dịch
vụ của ngân hàng trong đó thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Tín dụng ở đây chúng
ta hiểu là hoạt động cho vay của ngân hàng. Vậy ngân hàng lấy vốn ở đâu ra để cho
vay? Phải chăng là vốn tự có của ngân hàng. Ơ đây các ngân hàng phải huy động vốn từ

các tổ chức kinh tế, cá nhân và các tầng lớp dân cư trong xã hội sau đó phân phối vốn
trở lại một cách hợp lý. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà các chủ thể “thừa“ vốn có
cơ hội không những bảo tồn vốn mà còn tạo thu nhập (thu lãi), còn đối với chủ thể thiếu
vốn tín dụng ngân hàng giúp họ bổ sung vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh
hoặc đời sống. Trong công tác huy động vốn một mặt các ngân hàng phải cố gắng đưa ra
những mức lãi suất hấp dẫn đối với khách hàng mặt khác phải đem lại lợi nhuận cho
ngân hàng.

Nguồn vốn nhàn rỗi mà ngân hàng huy động bao gồm:



+ Vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế: Đó là thu nhập bằng tiền của xí
nghiệp để bù đắp hao phí vật chất trong quá trình sản xuất, thu nhập thuần tuý sáng tạo
từ các xí nghiệp sản xuất
+ Vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư

Bằng các hình thức khác nhau ngân hàng đã động viên, tập trung các nguồn vốn đó
về một mối. Trên cơ sở các nguồn tài chính tạm thời ngân hàng sẽ tiến hành khai thác và
sử dụng một cách triệt để nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao tránh tình trạng vốn chết,
góp phần phát triển kinh tế đất nước.

Thông qua công tác tín dụng, ngân hàng đã đáp ứng được hầu hết các nhu cầu về
vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội, giúp cho quá trình sản xuất được liên tục,
đẩy mạnh quá trình tái sản xuất. Đồng thời việc tập trung và phân phối vốn tín dụng đã
góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế quốc dân từ nơi thừa đến nơi thiếu. Bên cạnh
việc đáp ứng vốn kịp thời đầy đủ cho các doanh nghiệp, các ngân hàng còn có những ý
kiến đóng góp cho phương án sản xuất kinh doanh, lựa chọn đối tác thông qua quá trình
sử dụng vốn của doanh nghiệp


Ngoài ra khi sử dụng vốn vay ngân hàng các doanh nghiệp bị ràng buộc bởi trách
nhiệm hoàn trả vốn gốc + lãi trong thời gian nhất định khi ký kết hợp đồng tín dụng. Do
đó buộc các doanh nghiệp phải hết sức nỗ lực, tận dụng hết khả năng của mình để sử
dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn vốn tín dụng bằng cách động viên vật tư hàng
hoá, thúc đẩy quá trình ứng dụng khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất
xã hội đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ với ngân hàng. Như
vậy hoạt động tín dụng của ngân hàng góp phần đẩy lùi lạm phát,thúc đẩy sự tăng
trưởng của nền kinh tế quốc dân.

2. Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, đẩy
mạnh đầu tư phát triển :




Thực tế cho thấy bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động và sản xuất kinh
doanh cũng phải cần có một lượng vốn nhất định, trong trường hợp muốn mở rộng sản
xuất kinh doanh thì cần phải có một lượng vốn lớn hơn. Hiện nay trong nền kinh tế thị
trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp đòi hỏi các doanh
nghiệp luôn luôn phải đổi mới và mở rộng sản xuất. Vậy lấy vốn ở đâu ra? Và tín dụng
ngân hàng là nguồn vốn cơ bản hình thành nên vốn cố định và vốn lưu động của doanh
nghiệp. Thông qua việc đầu tư tín dụng tín dụng ngân hàng sẽ góp phần hình thành cơ
cấu vốn hợp lý cho các doanh nghiệp.Ơ nước ta hiện nay cơ cấu kinh tế đang chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, mở cửa thông thương với nhiều nước
trên thế giới do vậy nhu cầu về vốn ngày càng cao, các thành phần kinh tế đang rất cần
vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với sự phát triển của
xã hội đòi hỏi các ngân hàng cần phải nỗ lực hơn nữa để đáp ứng nhu cầu về vốn ngày
càng lớn của các doanh nghiệp. Muốn vậy các ngân hàng cần phải làm tốt công tác huy
động vốn tạm thời nhàn rỗi và xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh hợp lý,
phù hợp với xu thế phát triển của các thành phần kinh tế. Có như vậy các ngân hàng mới

có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh
quá trình tái sản xuất đưa nền kinh tế nước nhà ngày càng phát triển.

3. Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong tổ chức điều hoà lưu
thông tiền tệ :

Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng của mình, các ngân hàng đã huy động
và tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, đồng thời rút ra khỏi lưu thông một bộ
phận tiền tệ không cần thiết góp phần giảm lạm phát. Bởi việc Ngân hàng Nhà nước
phát hành tiền để tạo ra nguồn vốn đầu tư phát triển sẽ làm tăng khối lượng tiền tệ trong
lưu thông, gây mất cân đối trong quan hệ tiền hàng dẫn đến lạm phát cho nền kinh tế.
Mặt khác, dựa vào quy luật của lưu thông tiền tệ trong quá trình cân đối nguồn vốn tín
dụng với nhu cầu vay mà Ngân hàng Nhà nước Trung ương thực hiện pháp lệnh đưa
tiền vào lưu thông. Do đó sự vận động của vốn tín dụng là dựa trên nguyên tắc đảm bảo
hiệu quả kinh tế để tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ.




Hơn nữa quá trình hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với việc thanh toán
không dùng tiền mặt góp phần giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông trôi nổi trên thị trường
mà không có sự quản lý của nhà nước nhằm mục đích ổn định lưu thông tiền tệ. Điều
này đồng nghĩa với việc làm giảm lạm phát - một vấn đề mà nền kinh tế phải đương đầu
khi có tốc độ tăng trưởng gia tăng nhanh.
Như vậy tín dụng ngân hàng được coi là một công cụ có thể điều hoà vốn trên
phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

4. Tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường việc chấp hành chế độ hạch toán
trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn :


Trong quá trình nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng trước khi cho vay ngân hàng có
nghiệp vụ giúp đỡ các đơn vị vay vốn xây dựng kế hoạch vay vốn dựa trên cơ sở các kế
hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính. Khi xét duyệt cho vay ngân hàng còn căn cứ vào tình
hình chấp hành các nguyên tắc cơ bản của chế độ tín dụng ngân hàng, tình hình thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng kinh tế đối với các đơn vị bạn cũng như tôn trọng các quy chế
thủ tục cho vay. Đặc biệt cần phải có các báo cáo tài chính kế hoạch sản xuất kinh doanh
trong đó nêu rõ mục đích và khẳng định tính khả thi và mức sinh lợi của dự án. Như vậy
muốn vay được vốn các doanh nghiệp cần phải thực hiện chế độ hạch toán thật tốt. Tất
cả những công tác trên giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, ngân hàng có
khả năng thu hồi được vốn.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả cả gốc
lẫn lãi của các con nợ đối với ngân hàng. Các đơn vị kinh tế, cá nhân khi vay vốn ngân
hàng đều phải cam kết thực hiện đầy đủ các điều kiện mà ngân hàng đưa ra nhằm đảm
bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh
của đơn vị và hoàn trả vốn + lãi đúng thời hạn. Trong trường hợp các đơn vị vay vốn
không thực hiện đúng cam kết thì ngân hàng sẽ dùng đến các biện pháp chế tài tín dụng.
Do vậy các đơn vị sản xuất kinh doanh luôn luôn tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả sử
dụng vốn như: Đẩy nhanh vòng quay vốn, tăng năng xuất, giảm giá thành nhằm tạo ra
nhiều lợi nhuận, để có thể hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn. Điều này đã thúc đẩy đơn



vị sản xuất kinh doanh tăng cường khâu hạch toán kế toán một cách chặt chẽ đảm bảo
doanh lợi ngày càng cao, tăng hiệu quả sử dụng vốn tín dụng.



5. Tín dụng ngân hàng là công cụ chủ yếu để đầu tư, tài trợ cho các ngành kinh tế
then chốt và các ngành, vùng kinh tế kém phát triển :


Hoạt động tín dụng của ngân hàng là tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội của
các tổ chức, cá nhân để cho các đơn vị kinh tế vay. Nhưng không phải tất cả các chủ thể
có nhu cầu vay đều được ngân hàng đáp ứng, bởi để tránh rủi ro tín dụng các ngân hàng
chỉ thực hiện đầu tư tập trung vào một các đơn vị có triển vọng sản xuất kinh doanh.

Tuy nhiên trong điều kiện đất nước ta hiện nay một bộ phận lớn dân cư đang sống
bằng nghề nông. Ơ hầu hết các tỉnh miền núi vấn đề đưa máy móc vào nông nghiệp còn
rất hạn chế nguyên nhân ở đây là do thiếu vốn. Vì vậy trong giai đoạn trước mắt thông
qua công tác tín dụng Nhà nước cần tập trung vào phát triển nông nghiệp để giải quyết
những nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế
khác.
Bên cạnh đó nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá tham gia
vào các quan hệ kinh tế mang tính chất quốc tế. Bởi vậy chúng ta cần phải tập trung vào
việc phát triển các ngành mũi nhọn như: công nghiệp chế biến, dầu khí và tín dụng
ngân hàng là một trong những yếu tố cơ bản góp phần quan trọng vào việc phát triển các
ngành này điều đó được thể hiện qua việc cấp tín dụng cho các dự án, các chương trình
trọng điểm để khai thác triệt để nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Với một chính sách tín dụng và mức
lãi suất hợp lý sử dụng trong việc khuyến khích phát triển một số ngành kinh tế mũi
nhọn sẽ là một công cụ linh hoạt tích cực trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp
phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước một cách vững chắc.

7. Tín dụng ngân hàng góp phần giải quyết các vấn đề xã hội :




Trong những năm qua với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước cùng
với sự cố gắng của tất cả các thành viên trong xã hội nước ta đã và đang từng bước đi
lên và đạt được những thành tựu đáng kể như: Tốc độ tăng trưởng tương đối cao, tăng

thu nhập, đời sống nhân dân được cải thiện Nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh
tế đất nước đã nẩy sinh các vấn đề xã hội lớn: Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt,
chênh lệch giữa nông thôn và thành thị này càng doãng rộng, tham nhũng có dấu hiệu
gia tăng cả về quy mô và số vụ, thất nghiệp ở tỷ lệ cao Nhận thức sâu sắc thực trạng
này, các nghị quyết của Đảng luôn luôn nhấn mạnh yêu cầu phải kết hợp tăng trưởng
với công bằng, giải quyết các yêu cầu về công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng
bước tăng trưởng và tín dụng ngân hàng được sử dụng như một công cụ để khắc phục
tình trạng này.

Thông qua cơ chế tín dụng ưu tiên và ưu đãi chúng ta đang dần dần khắc phục
được các vấn đề xã hội. Tín dụng ưu tiên là hình thức tập trung nguồn vốn cho một
vùng, giới, ngành trong một thời gian nhất định nhằm đạt tới một mục tiêu nào đó. Tín
dụng ưu đãi là cho vay các đối tượng cần ưu đãi với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường
gọi là lãi suất ưu đãi.
Bằng cách các ngân hàng cung cấp nguồn vốn với lãi suất ưu đãi cho người nghèo,
người khó khăn để họ có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, áp dụng kỹ
thuật mới, mở rộng thị trường từ đó tăng thu nhập. Với mức lãi suất ưu đãi, tín dụng
ngân hàng có vai trò to lớn trong việc giúp người nghèo tự vươn lên, tự giải quyết được
tình trạng nghèo đói của mình. Đồng thời chúng ta phải khẳng định rằng giúp người
nghèo bằng tín dụng là giải quyết vấn đề công bằng theo quan điểm hiện đại, coi trọng
sự nỗ lực và tham gia của bản thân người nghèo. Đó là sự giúp đỡ tích cực “Cho cần câu
chứ không cho xâu cá”. Song để đạt được mục đích trên các ngân hàng cần phải có một
cơ chế giám sát chặt chẽ bởi thực tế cho thấy do lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị
trường cán bộ tín dụng có cơ hội lạm dụng quyền hạn để cho vay với những đòi hỏi
ngoài lãi suất làm cho người nghèo khó lòng đáp ứng.



Ngoài ra các cán bộ tín dụng ngân hàng cần phải quan tâm đến vấn đề làm sao để
vốn được sử dụng đúng mục đích là phát triển sản xuất, cải tiến kỹ thuật để tăng thu

nhập, tránh rủi ro cho ngân hàng không thu hồi được vốn

Trong điều kiện hiện nay chúng ta hy vọng rằng tín dụng ngân hàng sẽ phát huy tốt
vai trò to lớn của mình trong việc cung cấp nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội
theo hướng chủ động, tích cực, phù hợp với kinh tế thị trường.



8. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển quan hệ đối ngoại :

Ngày nay khi tất cả các quốc gia trên thế giới đều có xu hướng chuyển từ đối đầu
sang đối thoại thì việc phát triển kinh tế không chỉ bó hẹp trong phạm vi đất nước mình
mà phải hoà vào sự phát triển chung của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Tín dụng ngân hàng đã trở thành một phương tiện nối liền nền kinh tế các nước với
nhau. Đặc biệt là các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Tín dụng
đóng vai trò quan trọng trong việc xuất nhập khẩu hàng hoá và hiện đại hoá nền kinh tế.
Sở dĩ nó có một tầm quan trọng như vậy là bởi các hoạt động này đòi hỏi phải có một
lượng vốn lớn đặc biệt là vốn ngoại tệ mà chính bản thân một tổ chức hay một cá nhân
không thể có được. Vì vậy mà tín dụng ngân hàng sẽ là nguồn vốn tài trợ đắc lực cho
các nhà đầu tư, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Hơn nữa nếu ngân hàng
có một chính sách tín dụng đúng đắn thì nó sẽ có tác động tích cực tới hoạt động xuất
nhập khẩu. Một chính sách tín dụng ưu đãi đối với các sản phẩm xuất khẩu sẽ làm tăng
sức cạnh tranh của hàng hoá này trên thị trường quốc tế, nâng cao vị thế của quốc gia.

Sự phát triển của hoạt động tín dụng giữa các tổ chức tài chính quốc tế, các quỹ
tiền tệ quốc tế và các ngân hàng nước ngoài với chính phủ Việt Nam đã góp phần to lớn
trong việc thúc đẩy nền kinh tế nước ta có những bước tiến vượt bậc để có thể có khả
năng hội nhập với các tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới.





III - Chất lượng tín dụng ngân hàng :

1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng :

Trong nền kinh tế thị trường, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đựoc thì
phải thắng trong cạnh tranh. Khi nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển thì cạnh
tranh ngày càng gay gắt. Cạnh tranh diễn ra trên 3 phương diện: Số lượng, chất lượng,
giá cả trong đó chất lượng đóng vai trò quan trọng hàng đầu, tạo điều kiện nâng cao tỷ lệ
chiếm lĩnh thị trường.

Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và có tác
động rất lớn tới toàn bộ nền kinh tế bởi thực tế cho thấy nguyên nhân của hầu hết các
cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra đều bắt nguồn từ ngân hàng. Do đó vấn đề nâng cao
chất lượng tín dụng của ngân hàng là rất cần thiết, vậy ta hiểu chất lượng tín dụng ngân
hàng là như thế nào?

" Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của
khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an
toàn hay hạn chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận cho ngân hàng phù hợp và phục vụ sự
phát triển kinh tế xã hội "

Việt Nam trong điều kiện hiện nay với sự bung ra của cơ chế mới ngoài các ngân
hàng quốc doanh đã xuất hiện hàng loạt các loại hình ngân hàng khác nhau như: Các
ngân hàng liên doanh, các ngân hàng cổ phần, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Chính sự xuất hiện này đã làm cho mức độ cạnh tranh trên thị trường ngân hàng ngày
càng tăng. Điều này đòi hỏi các ngân hàng phải luôn luôn tìm ra những giải pháp nhằm
thắng trong cạnh tranh, nâng cao uy tín vị thế của mình trên thị trường. Một trong những
biện pháp đó chính là phải nâng cao chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng được thể

hiện cụ thể qua các chỉ tiêu có thể tính toán được như kết quả kinh doanh, dư nợ, nợ quá
hạn , đồng thời nó cũng được thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng và mức độ tác
động tới nền kinh tế. Để có được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu



quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín. Hiểu đúng bản
chất của tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn
tại về chất lượng sẽ giúp cho ngân hàng tìm được những biện pháp thích hợp để có thể
đứng vững trong nền kinh tế thị trường.

Cùng với sự phát triển mãnh mẽ của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng ngân
hàng cũng không ngừng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện để đáp ứng nhu
cầu giao dịch ngày càng tăng của xã hội đòi hỏi chất lượng tín dụng cần phải được quan
tâm hơn. Hơn nữa việc đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt
vai trò trung tâm thanh toán của mình. Chất lượng đảm bảo sẽ tăng vòng quay của vốn
tín dụng để có thể tạo ra được số lần giao dịch lớn hơn, làm giảm lượng tiền trong lưu
thông, mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt từ đó giảm chi phí lưu thông
cho xã hội. Như vậy nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại có quan hệ chặt chẽ
với số lượng tiền mặt trong lưu thông - nguyên nhân tiềm ẩn của lạm phát. Làm tốt công
tác tín dụng sẽ giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, góp phần kiềm chế lạm phát, điều
hoà và ổn định lưu thông tiền tệ.

Mặt khác chúng ta thấy rằng với một chính sách tín dụng đúng đắn và được thực
hiện có chất lượng không những hỗ trợ cho các ngành kém phát triển, thúc đẩy các
ngành mũi nhọn mà còn góp phần vào việc tăng hiệu quả sản xuất kinh tế xã hội, đảm
bảo sự cân đối giữa các vùng, giải quyết các vấn đề mang tính xã hội tạo điều kiện đưa
đất nước ta tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá.

Thông qua khâu phân tích khả năng phát triển của đối tượng định đầu tư để đánh

giá chất lượng khoản tín dụng từ đó đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn sẽ khai
thác tốt tiềm năng về tài nguyên, lao động tăng cường năng lực sản xuất, cung cấp
ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động. Việc thực hiện đúng nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay đúng đối
tượng, hạn chế và xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi ở các vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh.




Một lý do quan trọng mà ta phải đề cập đến là việc nâng cao chất lượng tín dụng có
vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Bởi chất lương tín dụng
có tốt mới tăng khả năng cung cấp dịch vụ do tạo thêm được nguồn vốn từ việc quay
vòng vốn tín dụng, thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức sản phẩm dịch vụ
đa dạng. Chất lượng tín dụng ngân hàng tốt sẽ làm tăng khả năng sinh lời do giảm được
sự chậm chễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu
hồi được vốn đã cho vay. Từ đó tạo ra thế mạnh và nâng cao uy tín cho ngành ngân
hàng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của mình. Chính nhờ đó mà tạo ra điều kiện cho
sự tồn tại và phát triển lâu dài của ngân hàng. Vì vậy các ngân hàng luôn luôn phải quan
tâm tới việc nâng cao chất lượng tín dụng.

2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng :

2.1 Tổng vốn huy động :

Tổng vốn huy động cho biết tổng nguồn tiền mà ngân hàng huy động được trong
nền kinh tế. Chỉ tiêu này cho thấy ngân hàng có hoạt động uy tín, có được người gửi tin
tưởng không, mức giá mà ngân hàng đưa ra có phù hợp không,có khuyến khích được
nhân dân gửi tiền vào không? đồng thời cho thấy ngân hàng đã tham gia vào các hình
thức huy động vốn và các dịch vụ ngân hàng như thế nào?
2.2 Tỷ trọng từng loại tiền gửi trên tổng nguồn vốn huy động :

Thông thường nguồn vốn huy động của ngân hàng bao gồm các loại tiền gửi như :
Tiền gửi của các doanh nghiệp (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có thể phát hành séc )
,tiền gửi tiết kiệm (không kỳ hạn, có kỳ hạn). Mỗi loại tiền gửi khác nhau có các mức lãi
suất khác nhau. Chỉ tiêu này xác định kết cấu của nguồn vốn huy động, để phát hiện ra
mặt mạnh, mặt yếu của ngân hàng trong kinh doanh từ đó để đưa ra các biện pháp để
đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng một cách phù hợp.Trong trường hợp ngân hàng có
tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn cao ngân hàng đó sẽ có nhiều thuận lợi trong việc tạo ra
lợi nhuận bởi lãi suất của loại hình tiền gửi này tương đối thấp. Ngược lại nếu tỷ lệ tiền
gửi với lãi suất cao chiếm tỷ trọng lớn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc giải



quyết đầu ra của nguồn vốn. Song đây mới chỉ xét về một khía cạnh là lãi suất, còn việc
đem lại lợi nhuận cao hay thấp và độ rủi ro ra sao thì còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
2.3 Tổng dư nợ :
Chỉ tiêu này cho biết ngân hàng cho vay được nhiều hay ít, mối quan hệ giữa ngân
hàng với khách hàng như thế nào? Chỉ tiêu này cao cho thấy ngân hàng đã tạo được uy
tín đối với khách hàng, cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng phong phú thu hút được khách
hàng.
2.4 Hiệu suất sử dụng vốn vay :
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng vốn huy động

Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với
khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động. Vậy
tỷ lệ này lớn là tốt hay nhỏ là tốt? Chúng ta chưa thể khẳng định được bởi: Nếu tiền gửi
ít hơn tiền cho vay thì ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn có chi phí cao hơn, còn nếu
tiền gửi nhiều hơn tiền cho vay thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng thừa vốn.


2.5 Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ :

Chỉ tiêu này được tính như sau:

Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này thể hiện chất lượng của những khoản vay. Khi tỉ lệ này vượt quá một
giới hạn cho phép thì nó thể hiện sự yếu kém của hoạt động tín dụng( Mức giới hạn của
mỗi nước là khác nhau, ở Việt Nam hiện nay chấp nhận tỷ lệ này là 5%).

Theo thời gian, tỷ lệ này có thể phân làm 2 trường hợp:
Nợ quá hạn bình thường + Nợ quá hạn có vấn đề



Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 12 tháng=

Tỷ lệ nợ quá hạn trên 12 tháng=

Qua việc phân loại nợ quá hạn, ta có thể biết rõ các khoản nợ đang gặp khó khăn
hay những khoản nợ không thể thu hồi được từ đó đưa ra các biện pháp hợp lý rủi ro tới
mức thấp nhất.

2.7 Chỉ tiêu lợi nhuận :

Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Chỉ tiêu lợi nhuận =
Tổng dư nợ tín dụng





Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng. Lợi nhuận ở đây phản ánh
chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lãi suất huy động) và thu lãi đầu ra.

3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng :

Hiện nay vấn đề chất lượng tín dụng đang được các ngân hàng rất quan tâm và
đang tìm mọi cách để có thể nâng cao chất lượng tín dụng một cách tốt nhất. Để quản lý
và đưa ra những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng một cách có hiệu quả đòi hỏi
chúng ta phải có một sự hiểu biết sâu sắc các nhân tố tác động đến nó. Có rất nhiều nhân
tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng nhưng chúng ta có thể phân thành các
nhóm nhân tố như :

Tổng dư nợ
N
ợ quá hạn khó thu hồi

Tổng dư
n





3.1 Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế :

ở đây chúng ta xét đến cả môi trường kinh tế trong nước và quốc tế:
Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân hàng phát

triển, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được tiến hành một
cách bình thường, không bị ảnh hưởng bởi lạm phát, khủng hoảng tài chính dẫn đến khả
năng cho vay và khả năng trả nợ vay không có biến động lớn. Tuy nhiên để xã hội phát
triển đi lên đòi hỏi nền kinh tế phải có sự tăng trưởng mà tăng trưởng thì dẫn đến lạm
phát. Nếu chúng ta không quản lý tốt để lạm phát ở con số cao thì các ngân hàng sẽ là
người chịu thiệt thòi nhất do đồng tiền mất giá và như vậy chất lượng tín dụng sẽ bị
giảm sút nghiêm trọng. Ngoài ra do chính sách vĩ mô của nhà nước ưu tiên hay hạn chế
phát triển một số ngành nghề kinh tế đảm bảo cho sự ổn định phát triển chung cho nền
kinh tế cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng ngân hàng.

Hiện nay với chủ trương chuyển từ đối đầu sang đối thoại nước ta đã có quan hệ
với nhiều nước trên thế giới và đem lại nhiều thuận lợi. Song việc đầu tư nước ngoài vào
trong nước một cách ồ ạt sẽ làm mất cân bằng cung cầu tiền tệ gây ra lạm phát làm ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng một cách sâu sắc. Do vậy với hệ thống ngân hàng nước ta
hiện nay chưa thực sự phát triển, chúng ta cần phải cố gắng hơn nữa trong vấn đề kiểm
soát luồng tiền từ nước ngoài vào trong nước bởi luồng tiền này sẽ làm tăng khối lượng
tiền trong lưu thông gây ra lạm phát ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng.

Chu kỳ phát triển kinh tế cũng có tác động không nhỏ tới chất lượng tín dụng.
Trong thời kỳ sản xuất kinh doanh đình trệ, nhu cầu vốn tín dụng giảm gây nên tình
trạng ứ đọng vốn và các khoản tín dụng đã được thực hiện cũng khó hoàn trả. Ngược lại
trong thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế, các doanh nghiệp đua nhau mở rộng sản xuất
kinh doanh dẫn đến nhu cầu vay vốn ngày càng lớn. Trong một vài trường hợp do sự tác
động mạnh mẽ của nền kinh tế đã gây ra những bất lợi cho doanh nghiệp làm cho khả
năng trả các khoản nợ sẽ gặp nhiều khó khăn.
Một yếu tố mà chúng ta cần phải đề cạp đến ở đây đó chính là lãi suất tín dụng
cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Với phương châm “Đi vay để cho




vay” các ngân hàng luôn luôn phải cố gắng để có thể đưa ra một mức lãi suất hợp lý sao
cho vừa thu hút được vốn nhàn rỗi vừa đem lại lợi nhuận.Bởi nếu lãi suất huy động tiền
nhàn rỗi quá thấp sẽ không khuyến khích được các tổ chức, cá nhân gửi tiền vào ngân
hàng dẫn đến ngân hàng không đủ vốn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.Ngược lại
nếu lãi suất huy động đặt ra cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của ngân hàng, ngân
hàng sẽ gặp khó khăn trong vấn đề cho vay. Và đối với lãi suất cho vay cũng vậy trường
hợp đưa ra mức lãi suất cao sẽ dẫn đến tình trạng không cho vay được, ứ đọng vốn hoặc
có cho vay được nhưng khó thu hồi bởi khách hàng của ngân hàng không phải tất cả đều
làm ăn có hiệu quả mà có những khách hàng làm ăn không có lãi hoặc lãi thấp sẽ khó có
thể trả được những khoản nợ lớn của ngân hàng gây rủi ro cho hoạt động của ngân hàng.
3.2 Nhóm nhân tố thuộc về môi trường pháp lý :

Hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng cũng như hoạt động của nền kinh tế nói
chung muốn hoạt động có hiệu qủa thì cần phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ,
thống nhất, đầy đủ đi kèm hỗ trợ. Pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu
trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không có pháp luật hoặc một hệ
thống pháp luật không đầy đủ, không phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh
tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ trở nên hỗn độn, không thể tiến hành trôi chảy.
Pháp luật đã tạo lập hành lang pháp lý giúp cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến
hành thuận tiện và đạt kết quả cao. Chỉ trong trường hợp các chủ thể tham gia quan hệ
tín dụng chấp hành luật pháp một cách nghiêm minh thì quan hệ tín dụng mới đạt kết
quả mong muốn đem lại chất lượng cho hoạt động tín dụng ngân hàng.
Trong điều kiện nước ta hệ thống văn bản chưa được hoàn thiện đã gây khó khăn
cho ngân hàng trong hoạt động của mình như: Hiện nay văn bản quy định về biện pháp
đảm bảo tiền vay đối với các tổ chức Đảng chưa được ban hành trong khi đó các tổ chức
này đang có nhu cầu vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp. Vì vậy Ngân hàng Nhà nước
và các ban ngành có liên cần sớm ban hành thêm các văn bản cần thiết nhằm hoàn thiện
dần hệ thống các văn bản tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong hoạt động của
mình,góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.


3.3 Nhóm nhân tố về phía ngân hàng :




Đây là những nhân tố thuộc về bản thân nội tại của ngân hàng có liên quan, ảnh
hưởng tới hoạt động tín dụng bao gồm:

- Chính sách tín dụng:

Chính sách tín dụng có một ý nghĩa to lớn quyết định đến sự thành công hay thất
bại của cả hệ thống ngân hàng. Do vậy khi xây dựng chính sách tín dụng cần phải đảm
bảo sự kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng và của người sử
dụng vốn vay. Đồng thời chính sách tín dụng phải phù hợp với đường lối phát triển kinh
tế của Đảng, Nhà nước và cần được dựa trên những cơ sở thực tiễn và khoa học nhất
định.
Đối với các ngân hàng thương mại một chính sách tín dụng đúng đắn phải đảm bảo
khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật và
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đảm bảo công bằng xã hội.

- Công tác tổ chức của ngân hàng:

Tổ chức của ngân hàng cần được cụ thể hoá và sắp xếp một cách có khoa học, có
tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã được quy định cả về huy
động vốn cũng như cho vay, quản lý đựơc cơ cấu tài sản nợ, tài sản có của ngân hàng.
Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do hoạt động tín dụng là
loại hình kinh doanh tiền tệ có rủi ro rất lớn nên cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng
giữa các phòng ban, bộ phận trong từng ngân hàng trong toàn hệ thống ngân hàng, giữa
ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính, pháp lý Việc thiết lập các mối quan hệ
tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải

quyết kịp thời các vấn đề có liên quan đến tín dụng khi cần thiết.

- Chất lượng nhân sự:




Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói
riêng và trong hoạt động của ngân hàng nói chung. Hiện nay khi nghiệp vụ hoạt động
ngân hàng ngày càng phát triển thì đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể
sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại, phù hợp với sự phát triển nghiệp vụ không
ngừng. Do vậy việc tuyển chọn nhân sự cần phải được tiến hành kỹ lưỡng, cán bộ tín
dụng phải là người có trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp tốt, phải có chuyên môn
giỏi thì mới có thể ngăn ngừa những sai phạm khi thực hiện chu kỳ khép kín cuả một
khoản tín dụng, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng mình trên thị trường
và đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu đa dạng của một xã hội ngày càng phát triển.


- Quy trình tín dụng:

Đây là những giai đoạn, công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định
trong việc cho vay, thu nợ bắt đầu từ việc xét đơn xin vay của khách hàng cho đến khi
thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc lập
ra một quy trình tín dụng có đảm bảo tính khoa học không và việc thực hiện các giai
đoạn trong quy trình tín dụng cũng như sự phối hợp nhịp nhàng giữa các giai đoạn như
thế nào?

Quy trình tín dụng gồm 3 giai đoạn chính:
+ Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay: Đây là giai đoạn rất quan
trọng trong quy trình tín dụng, nó quyết định đến chất lượng tín dụng của khoản tín

dụng sẽ được thực hiện và là cơ sở định lượng rủi ro trong khi cho vay. Trong giai đoạn
này chất lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng và việc
chấp hành các quy định về điều kiện, thủ tục cho vay của ngân hàng.
+ Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro: Việc thiết lập
hệ thống kiểm tra hữu hiệu áp dụng có hiệu quả các hình thức, biện pháp sẽ giúp cho
ngân hàng kịp thời nắm bắt những thông tin về các khoản tín dụng đã cung cấp để có thể
đưa ra kịp thời những quyết định can thiệp khi cần thiết, sớm ngăn ngừa những rủi ro có
thể xảy ra góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.

×