Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hai Bà Trưng – Hà Nội pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.89 KB, 73 trang )








LUẬN VĂN:

Giải pháp nhằm tăng cường huy động
vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Hai Bà Trưng – Hà Nội







LỜI MỞ ĐẦU

Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng và hội nhập mạnh mẽ
với nền kinh tế thế giới. Năm 2007 vừa qua Việt Nam đã là thành viên chính thức
thứ 150 của Tổ chức Thương Mại thế giới (WTO). Hội nhập là cơ hội để chúng ta
có thể tiếp cận những nền khoa học công nghệ hiện đại, những nền kinh tế phát triển
trên thế giới, cơ hội để kinh tế nước ta có thể sánh vai cùng các cường quốc Năm
châu.
Ngân hàng là một lĩnh vực vô cùng nhạy cảm trong nền kinh tế. Ngành ngân
hàng của nước ta còn tồn tại nhiều bất cập, đây chính là vấn đề gây khó khăn nhất
cho chúng ta trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Tuy nhiên đây cũng chính là
vấn đề nóng nhất khi sức mạnh hội nhập lan toả trên toàn bộ nền kinh tế nước ta.


Sức cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng thương mại trong nước với
nhau mà còn cả các ngân hàng nước ngoài, các định chế tài chính khác như công ty
bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các tập đoàn tài chính…khác nữa.
Muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế năng động đó, mỗi ngân hàng cần
phải xác định cho mình con đường đi phù hợp và hiệu quả nhất. Nâng cao vị thế
trên thị trường, nâng cao uy tín và hiệu quả hoạt động luôn là vấn đề cốt lõi. Đó
chính là việc xác định lượng vốn huy động được và vấn đề sử dụng vốn đó như thế
nào của các ngân hàng thương mại. Huy động vốn là cơ sở để tiến hành hoạt động,
là cơ sở để đảm bảo thanh toán, là uy tín và cũng chính là tiền đề cho sự sống còn
của ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và NHNN&PTNT nói riêng
trong quá trình hoạt động của mình luôn xác định được vai trò quan trọng của việc
huy động vốn. Hoà chung vào không khí đó, NHNN&PTNT Hai Bà Trưng – Hà
Nội luôn ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình, để từ đây có thể đóng góp
một phần không nhỏ vào sự phát triển của hệ thống ngân hàng nước ta nói chung và
hệ thống NHNN&PTNT nói riêng.



Chính vì vậy trong quá trình thực tập vừa qua, em đã không những tham gia, nắm
bắt và học hỏi kinh nghiệm làm việc của các anh chị nhân viên trong ngân hàng mà
còn đi sâu vào nghiên cứu về hoạt động huy động vốn tại NHNN&PTNT Quận Hai
Bà Trưng. Do đó đề tài mà em chọn chính là: “Giải pháp nhằm tăng cường huy
động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hai Bà Trưng –
Hà Nội ” .
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1 : Một số vấn đề cơ bản về NHTM và hoạt động huy động vốn của
NHTM
Chương 2 : Thực trạng vấn đề huy động vốn tại NHNN&PTNT Hai Bà Trưng – Hà
Nội

Chương 3 : Giải pháp nhăm tăng cường huy động vốn tại NHNN&PTNT Hai Bà
Trưng – Hà Nội


















CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHTM VÀ HOẠT ĐỘNG HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NHTM

1.1. Một số vấn đề cơ bản về NHTM
1.1.1. Khái niệm về NHTM
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một tổ chức tài chính quan trọng trong nền
kinh tế. Đây là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất bởi lẽ các cá nhân, tổ chức hay
doanh nghiệp đều gửi tiền tại đây, nguốn vốn của họ phần lớn xuất phát từ đây. Các
cá nhân gửi tiền với mục đích tăng thu nhập. thêm lợi nhuận, các doanh nghiệp, các
tổ chức xã hội gửi phục vụ thanh toán, chi tiêu, trả lương…Ngân hàng đóng vai trò

là người thủ quỹ cho toàn xã hội.
Bên cạnh đó ngân hàng còn là tổ chức cho vay chủ yếu đối với doanh nghiệp,
cá nhân và có thể là cả nhà nước nữa. Cho vay tiêu dùng , cho vay để đầu tư, cho
vay để phục vụ sản xuất, cho vay để xây dựng cơ sở hạ tầng…phần lớn các nguồn
vay ấy đếu được thực hiện tại ngân hàng.
Mặt khác Ngân hàng còn là một trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền
kinh tế, ngân hàng là trung gian cho người dư thừa vốn gặp những người đang cần
vốn và tạo điều kiện đem lại lợi ích cho họ. Chính sách tiền tệ là bộ phận quan trọng
của chính sách kinh tế trong mỗi quốc gia và ngân hàng đóng vai trò quyết định
chính sách ấy.
Như vậy có thể nói ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục
các sản phẩm dịch vụ đa dạng nhất, thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với
bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2005 Nước CHXHCN Việt Nam đã chỉ rõ:
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
nội dung thường xuyên là nhận tièn gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ tiền tệ”.



NHTM là bà đỡ cho mọi nền kinh tế, Một nền kinh tế phát triển và tăng
trưởng mạnh là một nền kinh tế mà ở đó NHTM đóng vai trò chủ chốt và quyết định
nhất.
1.1.2. Chức năng của NHTM
NHTM có ba chức năng cơ bản đó là:
- NHTM là một trung gian tài chính: NHTM là cầu nối giữa người dư thừa
vốn và người đang có nhu cầu vốn. Với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm
thành đầu tư, các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho
tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập chính vì thế họ cần phải bổ sung thêm vốn;
bên cạnh đó lại tồn tại các cá nhân và tổ chức tạm thời thặng dư trong chi tiêu, tức

là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn chi tiêu và họ có tiền để tiết kiệm. Hai nhóm này
tồn tại hoàn toàn độc lập với ngân hàng và điều tất yếu sẽ xảy ra đó là nguồn vốn
hợp lí sẽ được chảy từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Đây chính là chức năng
trung gian của ngân hàng. Một điều quan trọng nữa là để thực hiện được tốt chức
năng này thì việc tìm hiểu thông tin cân xứng là khả năng đảm bảo hiệu quả cho
hoạt động của ngân hàng.
- NHTM có chức năng tạo phương tiện thanh toán: Ngân hàng thương mại là
tổ chức kinh tế có khả năng huy động tiền gửi lớn nhất , tại đây tất cả các nguồn gửi
ngắn, trung và dài hạn đều được tập hợp. Sở dĩ có thể khẳng định rằng NHTM tạo
tiền cho nền kinh tế bởi vì khi khách hàng đem tiền đến gửi tại ngân hàng thì sau
khi để lại một tỉ lệ dự trữ theo quy định thì số tiền còn lại được đem cho vay. Và cứ
thế nguồn vốn được quay vòng một cách đều đặn và liên tục đem lại thu nhập cho
ngân hàng.Như vậy qua các nghiệp vụ kế toán, ngân hàng đã góp một vai trò quan
trọng trong việc tạo tiền cho nền kinh tế.
- NHTM là trung gian thanh toán:NHTM nhận tiền gửi của doanh nghiệp cũng
đồng thời là nơi doanh nghiệp đến vay hay thực hiện bất kỳ một hoạt động thanh
toán, chuyển tiền nào. Ta đã biết mục đích của doanh nghiệp luôn là tối đa hoá giá
trị tài sản của họ, doanh nghiệp hoạt động được là phải có vốn. Vốn để mua sắm
trang thiết bị, vốn đẻ tiến hành sản xuất. Ngân hàng là tổ chức luôn đáp ứng được



tốt nhất nhu cầu đó, là đơn vị thu chi và thanh toán hộ cho doanh nghiệp. Hơn ai hết
để làm được điều này ngân hàng luôn có đầy đủ thông tin về tài chính, về môi
trường kinh doanh, về tình hình trong và ngoài nước để phục vụ tốt nhất nhu cầu
của doanh nghiệp- khách hàng của họ. Ngân hàng luôn là điểm tựa vững chắc cho
doanh nghiệp. Bên cạnh đó ngân hàng cũng chính là trung gian thanh toán cho các
cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế.
1.1.3. Hoạt động của NHTM
a. Hoạt động huy động vốn

Huy động vốn (HĐV) là các hoạt động nhằm tạo vốn cho ngân hàng, hình
thành tài sản nợ cho ngân hàng. Huy động vốn là hoạt động nền tảng cho sự hoạt
động và phát triển của ngân hàng. Ngân hàng dùng nhiều hình thức huy động vốn
khác nhau:
Huy động tiền gửi không kỳ hạn hay còn gọi là tiền gửi thanh toán
Huy động tiền gửi có kỳ hạn hay còn gọi là tiền gửi tiết kiệm
Vay từ Ngân hàng trung ương (NHTW) và các tổ chức tín dụng (TCTD)
Phát hành kỳ phiếu hoặc trái phiếu
Huy động thêm vốn chủ sở hữu
Huy động theo các nguồn khác
Hiên nay các ngân hàng thương mại đang đưa ra nhiều chương trình, nhiều
biện pháp để đẩy mạnh huy động vốn.




b. Hoạt động sử dụng vốn
Sử dụng vốn là việc ngân hàng sử dụng nhưng nguồn đã huy động được để
đưa vào kinh doanh thu lợi nhuận, đây là ngiệp vụ hình thành tài sản có trên bảng
cân đối kế toán của ngân hàng.
Ngân hàng sử dụng vốn cho hoạt động ngân quỹ( bản chất là dự trữ), hoạt
động này nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, khả năng chi trả cho ngân hàng. Các
nước trên thế giới thường duy trì tỉ lệ dự trữ bắt buộc là 8%/năm.Ngân hàng sử
dụng một phần tiền gửi của khách hàng để dự trữ theo quy đinh bắt buộc của Ngân
Hàng trung ương.
- Hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản, là hoạt động sống còn của ngân
hàng. Đây là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn cho người khác theo những
đảm bảo nhất định về tài sản, vật thế chấp, về khả năng hoàn trả, vế lãi suất…Hoạt
động cho vay đem lại nguồn thu nhập chính cho Ngân hàng, là cơ sơ để Ngân hàng
có thể tồn tại được.Hiện nay các ngân hàng thương mại đang đa dạng hoá các loại

hình cho vay : cho vay theo thời hạn tín dụng, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho
vay tiêu dùng, cho vay căn cứ vào tài sản thế chấp…để làm sao thoả mãn được tối
đa nhất nhu cầu của khách hàng.
- Hoạt động đầu tư : Khác với hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư mang lại
nhiều rủi ro hơn cho ngân hàng. Khi xác định đầu tư vào một khoản mục nào đó thì
mọi chi phí, mọi rủi ro là do ngân hàng hoàn toàn chụi trách nhiệm. Tất nhiên song
hành với điều đó là một quy luật của tự nhiên đó là rủi ro càng cao thì lợi nhuận thu
được càng lớn, vì vậy Ngân hàng luôn luôn phải cân nhắc kĩ lưỡng trước khi đầu tư.
Các loại hình đầu tư mà ngân hàng thực hiện đó là đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu,
chứng chỉ quỹ, bên cạnh đó còn đầu tư kiên doanh liên kết với các ngân hàng, càc tổ
chức khác trong nền kinh tế. Ngân hàng tham gia đầu tư không chỉ với mục đích
duy nhất là gia tăng lợi nhuận mà ngân hàng còn với mục đích sâu xa nữa đó là xâm
nhập sâu hơn vào thị trưòng tài chính, tham gia chi phối nền kinh tế hoàn thành mục
tiêu cuả mình.
c. Hoạt động trung gian khác



Đây là hoạt động cung cấp dịch vụ của ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển
nhu cầu tiêu dùng và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng càng đựơc quan tâm và đòi
hỏi một sự phát triển cao hơn. Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, thanh
toán qua phát hàng Sec, thẻ tín dụng… ngày càng được ưu tiên.
Bên cạnh đó ngân hàng còn thực hiên các nghiệp vụ như uỷ nhiệm thu, uỷ
nhiệm chi, thanh toán bằng thư tín dụng…Các hoạt động này bên cạnh việc đem lại
nguồn thu nhập lơn cho ngân hàng còn góp phần nâng cao vị thế của ngân hàng trên
thương trường.
1.2 Nguồn vốn và hoạt động huy động vốn của NHTM
1.2.1 Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Vốn là cơ sở và nền tảng cho mọi hoạt động của ngân hàng. Đây là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản có của ngân hàng, nó được xác định từ nhiều

nguồn khác nhau. Để thuận lợi cho mọi quá trình vận hành và xác định người ta đã
chia ra thành hai loại vốn cơ bản đó là vốn chủ sở hữu và vốn vay.
1.2.1.1 Vốn chủ sở hữu
Ngân hàng hay bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào muốn thành lập và hoạt
động được phải có một lượng vốn nhất định. Vốn này có vai trò quyết định trong
quá trình tiến hành đăng kí kinh doanh, quá trình thành lập hay quá trình hình thành
nên tài sản, trang thiết bị, nhà xưởng, hay máy móc thiết bị…cho mỗi tổ chức. Ngân
hàng thương mại cũng vậy, nguồn vốn chủ sở hữu là điều kiện tiên quyết cho mọi
vấn đề. Nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng được cụ thể thành các loại như sau:
a. Nguồn vốn hình thành ban đầu
Theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn vốn hình thành ban đầu khác
nhau. Ngân hàng thương mại nhà nước là Ngân hàng được sở hữu bởi nhà nước,
vốn do ngân sách nhà nước cấp. Ngân hàng cổ phần là ngân hàng có số vốn góp do
các cổ đông hợp sức lại, Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp vốn,
Ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
Vốn hình thành ban đầu hay vốn tự có là điều kiện pháp lý cơ bản, là xuất phát
điểm cơ bản cho mọi hoạt động của ngân hàng và cũng đồng thời là yếu tố tài chính



quan trọng để đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng, là niềm tin của khách
hàng đối với ngân hàng.
Tuy vậy Ngân hàng lại là một doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng hoá đặc
biệt, rất nhạy cảm – đó chính là vốn. Nguồn vốn ban đầu của ngân hàng thường
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn. Song qua đây nó lại cho ta thấy được
thực lực của ngân hàng, quy mô và uy tín của ngân hàng, và hơn hết nó là cơ sở để
thu hút các nguồn vốn khác cho họ.
Hiện nay các NHTM Việt Nam đều có quy mô nhỏ, vốn hình thành ban đầu
thấp, tỷ lệ vốn tự có/ tài sản có của phần lớn các ngân hàng là <5% trong khi đó tiêu
chuẩn của thế giới tối thiểu là 8 %. Đây chính là yêu cầu đặt ra đối với các ngân

hàng nước ta trong thời kỳ hội nhập.
b. Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Ngoài việc hình thành vốn ban đầu, trong quá trình hoạt động các NHTM luôn
bổ sung vốn kinh doanh của mình bằng nhiều cách: bổ sung từ lợi nhuận không
chia, bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần …
- Nguồn từ lợi nhuận: không chỉ có ngân hàng thương mại mà tất cả các doanh
nghiệp kinh doanh đều có nguồn vốn bổ sung từ lợi nhuận không chia, đây là một
nguồn vốn không đều đặn, nó được xác định tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh từng
năm của doanh nghiệp. Tuy vậy nó lại vô cùng quan trọng, khi thu nhập ròng của
doanh nghiệp lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ
bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư, tỷ lệ tích luỹ bao nhiêu
tuỳ thuộc vào cách xác định và phương hướng kinh doanh của từng ngân hàng.
Nguồn vốn này có chi phí thấp và mang lại hiệu quả cao nên luôn được các ngân
hàng sử dụng va cân nhắc trước hết.
- Nguồn vốn bổ sung bằng cách phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp
thêm…để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp
ứng nhu cầu gia tăng thêm vốn chủ sở hữu theo quy định của ngân hàng nhà nước.
Khi đó NHTM sẽ yêu cầu các cổ đông đóng góp hoặc đi xin được cấp thêm…Tuy



vậy cách huy động nguồn vốn này thường phức tạp, khó khăn và không đem lại
hiệu quả cao, chỉ những khi quá cần thiết thì ngân hàng mới áp dụng.
c. Các quỹ
Ngân hàng hay bất kỳ một tổ chức nào hoạt động đều phải có các quỹ riêng:
quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ giám đốc, quỹ dự phòng,…Bên cạng đấy ngân
hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - một lĩnh vực nhạy cảm nên các quỹ của nó
cũng mang nhiều đặc thù riêng.
- Quỹ dự phòng tổn thất: Loại quỹ này đựơc trích lập hàng năm, dùng để bù
đắp những tổn thất xảy ra. Rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng là rất lớn, nguồn quỹ

này rất được chú trọng và quan tâm, Ngân hàng Trung ương ở mỗi quốc gia thường
phải đặt ra một tỷ lệ cố định cho việc trích lập dự phòng này. Theo quy định của
Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thì quỹ dự phòng tổn thất của các ngân hàng tại
Việt nam bao gồm hai loại quỹ đó là quỹ dự phòng để xử lý rủi ro và quỹ dự phòng
tài chính.
- Quỹ bảo toàn vốn là loại quỹ được hình thành nhằm bù đắp hao mòn của vốn
dưới tác động của lạm phát.
- Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và phần chênh lệch
giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Quỹ này cũng có vai
trò quan trọng vì theo nguyên tắc giá trị thời gian của tiền và nó liên quan tới việc
đánh giá lại tài sản của ngân hàng.
- Ngoài ra còn có các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ giám đốc mang
tính chất động viên khích lệ các cá nhân, nhóm tổ chức trong ngân hàng để họ có
điều kiện thuận lợi phát triển và cống hiến.Các quỹ này được hình thành trên cơ sở
thu nhập hàng năm của ngân hàng.
d. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Vốn của ngân hàng không chỉ giới hạn bởi vốn đóng góp của cổ đông hay số
vốn góp ban đầu của ngân hàng , do tính chất sử dụng lâu dài : có thể đầu tư vào
nhà cửa, đất đai, bất động sản…có thể không phải hoàn lại, do vậy mà các khoản



vay trung và dài hạn của NHTM có khả năng chuyển đổi thành cổ phần và cũng
được coi là vốn chủ sở hữu của ngân hàng.
1.2.1.2 Vốn nợ
a. Tiền gửi
Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng. Đây là
khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp ta có thể phân biệt ngân hàng
với các doanh nghiệp khác. Năng lực của ngân hàng thể hiện ở khả năng huy động
tiền gửi. Tiền gửi là cơ sở chính cho phép ngân hàng có thể cho vay và là nguồn gốc

sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng.
Tiền gửi có nhiều loại:
- Tiền gửi thanh toán
- Tiền gửi tiết kiệm của doanh ngiệp và tổ chức xã hội
- Tiền gửi tiết kiệm dân cư
- Tiền gửi của các ngân hàng khác



b. Tiền vay
Ngoài nghiệp vụ tiền gửi, khi cần thêm vốn để phục vụ kinh doanh hay vì một
mục đích nào đó NHTM có thể chủ động đi vay. Hoạt động này chủ yếu được thực
hiện để đáp ứng nhu cầu chi trả khi mà nguồn huy động bị hạn chế. Nghiệp vụ đi
vay không đơn giản và dễ dàng như nghiệp vụ nhận tiền gửi, khi đi vay ngân hàng
còn phải tính đến mọi phí tổn cũng như phương án trả nợ hợp lý nhất. NHTM cũng
sử dụng nhiều hình thức đi vay là:
- Vay NHTW :
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong việc chi trả của
NHTM. Như ta đã được biết, NHTW là người cho vay cuối cùng, là nơi cuối cùng
mà ngân hàng thương mại có thể đến vay. Tại đây hình thức cho vay chủ yếu là tái
chiết khấu hay còn gọi là tái cấp vốn. Các thương phiếu trên thị trường đã được
ngân hàng thương mại chiết khấu hoặc tái chiết khấu sẽ trở thành tài sản của họ.
Khi nhu cầu vốn cấp bách NHTM đến NHTW vay bằng hình thức đem các thương
phiếu đã chiết khấu ấy đến NHTW tái chiết khấu. Tuy nhiên không phải bất kỳ
thương phiếu nào cũng được NHTW chiết khấu, chỉ những thương phiếu có chất
lượng tốt, có thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao thì NHTW mới đồng ý tái
chiết khấu.
- Vay các tổ chức tín dụng khác:
Đây là nguồn mà các ngân hàng thương mại vay muợn của lẫn nhau và vay
của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên nhân hàng. Khi ngân hàng đang

thiếu hụt về dự trữ, hay đang phải đáp ứng nhu cầu chi trả cấp bách trong khi nguồn
vốn của họ không đủ, họ phải ngay lập tức vay mượn để kịp thời chi trả. Bên cạnh
đó lại có những ngân hàng khác , các tổ chức tín dụng khác như công ty bảo Hiểm,
công ty Tài chính…đang có dự trữ vượt yêu cầu do kết số dư tăng bất ngờ về các
khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn sàng cho vay để tìm kiếm lợi
nhuận cao hơn. Và thế là họ gặp nhau, trao đổi cho nhau để cả hai bên cùng có lợi.
Các khoản vay này thương có thủ tục đơn giản, thuận lợi, xác định dựa trên uy tín



của các ngân hàng với nhau, do vậy nó thường hay được sử dụng và mang lại hiệu
quả cao.
- Vay trên thị trường vốn:
Đây là các khoản vay trung và dài hạn, nó hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng
và uy tín của ngân hàng. Ngân hàng nào có uy tín trên thị trường hoặc có khả năng
trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều và ngược lại các ngân hàng nhỏ thưòng khó
vay hơn và họ thường phải dựa vào các ngân hàng đại lý hoặc nhờ các ngân hàng
lớn bảo lãnh. Sở dĩ như vậy vì đây là hình thức Ngân hàng vay bằng cách phát hành
giấy nợ ra công chúng, Một hình thức vay có đảm bảo : phát hành kỳ phiếu, trái
phiếu, tín phiếu.
Kỳ phiếu là hình thức thu hút được nhiều khách hàng, Kỳ phiếu bao gồm hối
phiếu và lệnh phiếu, là hình thức phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Trái phiếu là một loại giấy chứng nhận nợ mà người cầm nó có quyền đòi nợ
người phát hàng ra nó ở đây là NHTM. Theo đó trong một thời gian xác định được
ghi trên trái phiếu ngân hàng phải hoàn trả một số tiền nhất định về cả gốc và lãi
cho người cầm nó.
c. Vốn nợ khác
Loại vốn này được hình thành trong quá trình tham gia vào các hoạt động dịch
vụ của ngân hàng. Nó bao gồm các nguồn cơ bản sau:
- Nguồn vốn uỷ thác:

Đây là một trong những dịch vụ mà ngân hàng tích cực tham gia và ngày nay
nó càng trở thành nghiệp vụ chiếm giữ vị trí quan trọng. Đó là các nghiệp vụ uỷ
thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác giải ngân…Ngân hàng đồng thời là kênh dẫn
vốn, đồng thời là kênh quản lý vốn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, cho sự
vững chắc của các công trình và bên cạnh đó lại mang về cho họ những lợi ích đáng
kể.
- Vốn trong thanh toán:
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ
nhiệm chi, thanh toán bằng thư tín dụng, thanh toán qua phát hành Sec… đã vô hình



chung tạo nên cho ngân hàng một luồng vốn quan trọng và ngân hàng cỏ thể sử
dụng với mục đích sinh lời.
1.2.2 Hoạt động huy động vốn của NHTM
Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm tạo lập và duy trì nguồn
vốn kinh doanh cho NH. Huy động vốn là các hình thức hoạt động khác nhau của
ngân hàng nhằm thu hút vốn từ các tổ chức, cá nhân, các thành phần khác trong nền
kinh tế để phục vụ mục đích kinh doanh của mình.
1.2.2.1 Các hình thức huy động vốn
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà ta có thể chia hoạt động huy động vốn theo
các hình thức khác nhau,sau đây là một vài tiêu chí cơ bản hay được quan tâm:
a. Huy động vốn theo thời gian
- Vốn ngắn hạn
Đây là loại vốn có thời gian huy động dưới 12 tháng. Để thoả mãn nhu cầu của
khách hàng thì ngân hàng có thể chia ra nhiều kỳ hạn nhỏ: Dưới 1 tháng, 1 tháng, 3
tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, hoặc khách hàng có thể rút ra bất kỳ khi nào nếu
họ cần. Nguồn này mang tính chất nhạy cảm cao nhưng lại luôn thu hút được nhiều
vì nó phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Tuy vậy chi phí cho nguồn này cũng
lớn, nguồn huy động này chủ yếu để cho vay ngắn hạn., nếu muốn cho vay dài hơn

thì ngân hàng thường phải chuyển đổi kỳ hạn tương ứng.
- Vốn trung hạn
Vốn trung hạn là nguồn vốn có thời hạn lớn hơn 12 tháng và đến 5năm. Nguồn
này chủ yếu phục vụ cho các khoản vay trung hạn, tạo ra các sản phẩm với mức kỳ
hạn từ 1 năm đến 5 năm cho ngân hàng. Đây là nguồn rất quan trọng cho khách
hàng và ngân hàng thường phải đặt ra các hình thức huy động rất hấp dẫn để thu hút
nguồn vốn này.
- Vốn dài hạn
Vốn dài hạn là những khoản tiền mà ngân hàng huy động có thời hạn từ 5 năm
trở lên, được sử dụng cho các dự án dài hạn. Đây là nguồn vốn ổn định, ngân hàng
có thể sử dụng trong thời gian dài. Tuy nhiên việc huy động nó cũng gặp nhiều khó



khăn và chi phí mà họ bỏ ra cũng tương đối lớn. Nguồn này thường chiếm tỷ trọng
nhỏ so với tổng nguồn huy động của ngân hàng.
Việc xác định huy động vốn theo thời gian có vai trò quan trọng trong việc xác
định kỳ hạn của các khoản cho vay hay đầu tư của ngân hàng. Lượng vốn huy động
ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn sẽ quyết định xem ngân hàng có thể cho vay với
mức thời gian nào là hợp lý và lượng vay là bao nhiêu, và bên cạnh đó để đảm bảo
khả năng thanh toán cho khách hàng của họ.
b. Huy động vốn theo đối tượng
- Huy động vốn từ dân cư
Dân cư là đối tuợng huy động chủ yếu của ngân hàng. Những luồng vốn rải
rác trong dân cư sẽ được quy tụ tại ngân hàng, đây chính là vai trò trung gian của
ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò thu hút vốn nhỏ lẻ trong dân cư, trả lãi để được
sử dụng vốn của họ. Nguồn huy động từ tất cả các tầng lớp dân cư sẽ làm phong
phú cho các hoạt động của ngân hàng. Hình thức huy động này có hiệu quả cao hay
không hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của ngân hàng. Nếu ngân hàng có khả
năng và biện pháp thu hút khách hợp lý, có khả năng thoả mãn tốt nhất các nhu cầu

của họ, tạo sự tin tưởng cho họ thì sẽ là liều thuốc hữu hiệu nhất đưa họ đến với
ngân hàng.
- Huy động vốn từ tổ chức trong nước
Các tổ chức kinh tế có luồng tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá trình kinh doanh,
quá trình luân chuyển vốn, Ngân hàng sẽ sẵn sàng làm két sắt cho họ, hay tạm thời
giữ vốn cho họ, và đây cũng là cơ hội cho ngân hàng thu lợi nhuận trên chính đồng
vốn đó. Đây là nguồn vốn lớn và lại có chi phí thấp, nếu tăng cường các biện pháp
thu hút và quản lý nguồn này tốt thì sẽ mang lại cho ngân hàng một kết quả tốt.
Các tổ chức trong nước có thể là doanh nghiệp, các tổ chức, và cũng cỏ thể là
cá tổ chức tín dụng. Ngân hàng có thể huy động bằng cách đi vay các tổ chức tín
dụng khác trên thị trường, nó sẽ giải quyết khi ngân hàng có nhu cầu cấp bách mặc
dù chi phí hơi cao.
- Huy động vốn từ các tổ chức nước ngoài



Ngân hàng tham gia liên kết với các tổ chức, các doanh nghiệp nước ngoài,
hay cũng có thể làm trung gian, làm đại lý cho họ. Giữ vốn cho công trình đầu tư,
giữ vốn uỷ thác, vốn để thanh toán hộ cho họ. Nghiệp vụ này tuy không sôi nổi
nhưng nó cũng có thể huy động được số vốn khá lớn mặc dù nó không phải là
nguồn vốn ổn đinh.
c. Huy động vốn theo phương thức huy động
- Huy động qua tiền gửi
Tiền gửi là nguồn tiền chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân
hàng. Từ trước đến nay ngân hàng đã sử dụng nhiều biện pháp để gia tăng nguồn
tiền gửi dưới nhiều hình thức khác nhau, cụ thể là:
+ Tiền gửi thanh toán:
Đây là một trong những dich vụ nhận tiền gửi lâu đời nhất mà ngân hàng cung
cấp là nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán cho hộ cho khách hàng. Cá nhân hay
doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng với mục đích nhờ ngân hàng giữ hộ và thanh

toán hộ. Khi khách hàng có nhu cầu, ngân hàng mở cho họ một tài khoản tiền gửi
thanh toán, trên tài khoản này, tất cả các nghiệp vụ thu chi của khách hàng sẽ được
cụ thể hoá. Khi có yêu cầu ngân hàng lập tức phải thanh toán các lệnh rút tiền cho 1
cá nhân hay bên thứ ba được chỉ rõ là người thụ hưởng trên số dư cho phép.
Hiện nay để đa dạng hoá các tài khoản tiền gửi và tối đa hoá lợi ích người gửi
tiền ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức tiền gửi thanh toán khác nhau. Ví dụ như
tiền gửi thanh toán có thể phát hành Séc, tài khoản tiền gửi thanh toàn kết hợp với
tài khoản cho vay…
Tiền gửi thanh toán có đặc điểm lãi suất thấp hoặc có thể bằng không, tức là
chi phí mà ngân hàng bỏ ra thấp mà lại mang lai nhiều tiện ích cho khách hàng và
cả ngân hàng.
+ Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
Không phải lúc nào các khoản thu của doanh nghiệp hay tổ chức cũng được
chi trả ngay, bên cạnh đó các khoản thu này thường lớn, nếu sử dụng nó với mục
đích hợp lý thì có thể đem lại lợi ích cho cả ngân hàng và cả người gửi tiền.



Để đáp ứng được nhu cầu này, Ngân hàng đã đưa ra hình thức gửi tiền có kỳ
hạn cho doanh nghiệp và các tổ chức. Một chế độ lãi suất cao hơn sẽ được áp dụng
và song hành với nó là một thời hạn được ấn định sẵn, tuỳ theo tình hình thực tế mà
khách hàng có thể lựa chọn kỳ hạn 1 tuần, 2 tuần,1 tháng, 1 năm…Khi có nhu cầu
cần sử dụng mà chưa đến hạn thì khách hàng vẫn có thể rút tuy nhiên sẽ phải chịu
theo lãi suất không kỳ hạn. Hình thức này cũng mang lại cho ngân hàng nguồn thu
nhập và lợi ích lớn.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Tiền gửi tiết kiệm dân cư chiếm giữ vị trí hàng đầu trong nguồn vốn của Ngân
hàng và là đề tài cạnh tranh gay gắt giữa họ. Các ngân hàng luôn xác định cho mình
một chiến lược cạnh tranh để thu hút khách hàng gửi tiền. Đây là các khoản tiền tạm
thời nhàn rỗi hoặc chưa được sử dụng trong các tầng lớp dân cư, họ gửi vào đây với

mục đích bảo toàn và sinh lời. Tận dụng cơ hội này, các ngân hàng chuyển đổi kỳ
hạn, tích tụ và tập trung vốn lại và đem cho vay. Như vậy ngân hàng đã thực hiện
được vai trò trung gian của mình, là cầu nối giữa những người thiếu vốn và những
người thừa vốn, là trung gian biến tiết kiệm thành đầu tư.
Tuỳ theo thời hạn sử dụng mà ngân hàng có thể đưa ra nhiều hình thức lãi
suất khác nhau như lãi tuần, lãi 1 tháng, lãi 3 tháng, lãi 6 tháng, lãi bậc thang… và
vì thế khách hàng có thể lựa chọn các hình thức phù hợp nhất với họ. Nguồn tiền
gửi này mang tính chất ổn định, chắc chắn, chủ động mặc dù lãi suất và chi phí cao
hơn. Tuy nhiên các ngân hàng luôn xác định đây là nguồn an toàn nhất, đảm bảo
nhất và cũng là chủ đạo nhất đối với nguồn vốn của họ.
+ Tiền gửi của các ngân hàng khác:
Cùng tồn tại trong một nền kinh tế, cùng chịu ảnh hưởng của cơ chế thị
trường đặc biệt cùng kinh doanh trên lĩnh vực nhạy cảm nhất của nền kinh tế, các
NHTM cùng địa bàn không thể tách rời nhau mà họ cùng nhau hợp tác, trao đổi và
liên kết với nhau. Họ có thể vay mượn lẫn nhau,thanh toán hộ cho nhau hay bù trừ
cho nhau. Để quá trình ấy diễn ra mang lại hiệu quả cao, các ngân hàng thường mở
cho họ một tài kkhoản tại ngân hàng bạn, khi co nhu cầu thanh toán với khách hàng



họ có thể bù trừ cho nhau một cách nhanh gọn và thuận tiện nhất. Đây chính là một
biện pháp tăng vốn hữu hiệu nhất cho ngân hàng.
- Huy động bằng cách phát hành giấy tờ có giá
+ Trái phiếu ngân hàng: Là việc ngân hàng phát hành ra công chúng một loại
công cụ nợ dài hạn thường là 5 đến 10 năm. Trên trái phiếu sẽ ghi rõ mệnh giá, lãi
suất, thời gian đáo hạn. Lãi suất trái phiếu ngân hàng thường cao hơn hoặc ngang
bằng trái phiếu Chính Phủ. Nguồn huy động này mang tính chất ổn định về thời
gian, lượng vốn thu về lớn song chi phí bỏ ra cũng khá lớn.
+ Kỳ phiếu ngân hàng: Đây là hình thức huy động với kỳ hạn ngắn hơn, lãi
suất cao hơn lãi suất tiết kiệm, dễ chuyển thành tiền mặt khi cần thiết và nó được

các nhà đầu tư rất ưa thích.
+ Chứng chỉ tiền gửi: Đây là giấy xác nhận khoản vay của ngân hàng, có xác
nhận về lãi suất, số tiền vay, ngày đáo hạn. Trước đây lãi suất của các loại chứng
chỉ này là cố định nhưng để phù hợp với điều kiện và thích hợp hơn cho khách hàng
thì nó có thể mang lãi suất theo thoả thuận. Hình thức này mang tính chất đầu tư
ngắn hạn, hấp dẫn các nhà kinh doanh nhỏ và hộ gia đình. Bên cạnh đó thời gian
đáo hạn là cố định nên nó đem lại nhiều tiện ích cho ngân hàng.
- Vay từ NHTW và các tổ chức tín dụng khác:
+ Vay NHTW: Khi cần vốn cấp bách để đảm bảo khả năng thanh toán thì
NHTM có thể vay trên NHTW bằng cách tái chiết khấu giấy tờ có giá hoặc được tái
cấp vốn.
+ Vay các tổ chức tín dụng khác: Các ngân hàng thương mại vay vốn của lẫn
nhau và của các tổ chức tín dụng khác để đảm bảo chi trả. Hình thức này không cần
đảm bảo, vốn huy động là tương đối và cũng chỉ thực hiện khi cần nhất.
- Tăng vốn chủ sở hữu
Ngân hàng có thể tăng vốn của mình bằng cách giữ lại lợi nhuận không chia
để tăng thêm nguồn vốn chủ sở hữu, hoặc là có thể phát hành thêm cổ phần, cổ
phiếu. Đây là hình thức huy động khi cần thiết để đảm bảo hoạt động của Ngân



hàng, gia tăng uy tín và năng lực trên thị trường. Nguồn vốn này không mất phí
hoặc phí rất thấp, tuy nhiên huy động phức tạp.
- Hình thức khác: Ngoài những hình thức phổ biến trên, ngân hàng còn có thể
huy động vốn qua các hoạt động kinh doanh, các hợp đồng uỷ thác, các hình thức
thanh toán. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, hình thức
này càng được chú ý và đem lại hiệu quả lớn.
d. Huy động vốn theo loại tiền:
Ngân hàng có thể huy động vốn theo loại tiền, ngoài hình thức phổ biến và
chủ đạo là tiền của quốc gia, Ngân hàng có thể thu hút thêm các loại ngoại tệ khác,

USD, EURO,…Nguồn này xuât phát từ đặc điểm kinh tế của từng quốc gia mà có
quy định khác nhau.Tuy nhiên phương thức huy động như thế nào còn phải tuỳ
thuộc vào tình hình kinh tế của từng thời kỳ. Các ngân hàng thương mại nước ta
thường chia làm 2 mảng đó là:
- Tiền gửi bằng VNĐ
- Tiền gửi bằng ngoại tệ
Trên cơ sở xác định mức phí ngân hàng sẽ đưa ra lãi suất và kỳ hạn hợp lý với
từng loại tiền.
1.2.2.2 Một số chỉ tiêu đánh giá huy động vốn
- Quy mô huy động vốn
Câu hỏi đầu tiên khi giới thiệu về một doanh nghiệp dù hoạt động trong bất kỳ
một lĩnh vực nào cũng đều là: Quy mô hoạt động như thế nào? Nhắc đến ngân hàng
thì quy mô đó chính là quy mô về vốn. Mục đích cuối cùng của họ là tối đa hoá lợi
nhuận, tối đa hoá giá trị tài sản, mà để làm được điều đó thì phải mở rộng kinh
doanh, nâng cao hiệu quả và chất lượng huy động vốn. Mỗi ngân hàng có một quy
mô và tốc độ thay đổi quy mô vốn khác nhau. Các ngân hàng lớn có quy mô nguồn
vốn lớn nhưng tốc độ tăng nguồn thường không cao như các ngân hàng nhỏ. Những
ngân hàng ở trung tâm hoạt động tiền tệ tín dụng thường có quy mô và tốc độ tăng
vốn cũng khác.
- Cơ cấu huy động vốn



Gia tăng nguồn vốn theo chuẩn mực nào đó là một chỉ tiêu phản ánh chất
lượng hoạt động của ngân hàng, là điều kiện cơ bản để ngân hàng mở rộng quy mô
hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn. Vì vậy các
ngân hàng luôn phải lập cho mình một cơ cấu vốn hợp lý và an toàn. Nguồn vốn có
nhiều kỳ hạn khác nhau, mỗi loại có một đặc điểm riêng, để xác định nguồn nào sử
dụng cho chiến lược nào là hợp lý thì tuỳ thuộc vào cách xác định của chủ ngân
hàng. Khi ngân hàng thường xuyên huy động nguồn vốn ngắn hạn, tính lỏng cao thì

sẽ khó khăn trong việc cho vay trung và dài hạn, Ngân hàng sẽ phải chuyển đổi kỳ
hạn sao cho hợp lý nhất. Xác định cơ cấu vốn thế nào cho phù hợp nhất với danh
mục đầu tư, phong tránh rủi ro thanh khoản luôn là yêu cầu cần thiết.
Bên cạnh đó các ngân hàng còn xem xét tỷ lệ vốn huy động theo loại tiền. Thời
gian và diễn biến của môi trường cạnh tranh cho ngân hàng quyết định nên huy
động thêm ngoại tệ hay ngừng huy động ngoại tệ. Việc cất trữ và cho vay ngoại tệ
chụi ảnh hưởng của diễn biến vể tỷ giá, tình hình lạm phát…của từng thời kỳ.
- Chi phí huy động vốn
Chi phí của nguồn vốn huy động là nhân tố quyết định đến chất lượng của
nguồn vốn. Bên cạnh sự an toàn, khách hàng luôn có xu hướng tìm đến ngân hàng
có lãi suất cao nhất để gửi tiền, để họ có thể thu được số lãi là cao nhất. Có nhiều
ngân hàng đưa ra biện pháp điều chỉnh mức lãi suât bằng cách mạnh dạn cải thiện
biên độ giao động của lãi suất đầu ra để từ đó có thể tăng lãi suất đầu vào mà họ vẫn
có lãi, tuy vậy điều này không phải là đơn giản.
Huy động nguồn có chi phí thấp thì ngân hàng thu được lợi nhuân cao, có thể
mở rộng cho vay và đầu tư và ngược lại. Tuy nhiên nhân tố cơ bản quyêt định chi
phí đó chính là lãi suất. Chính sách lãi suất phù hợp luôn là cơ sở cho hoạt động huy
đọng vốn trong ngân hàng.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
Ở đây ta có thể chia thành hai nhóm nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động huy
động vốn của NHTM đó là:



1.3.1 Nhân tố khách quan
1.3.1.1 Môi trường pháp lý:
Là một doanh nghiệp kinh doanh, NHTM chịu sự quản lý của các cơ quan có
thẩm quyền, hoạt động theo quy định của pháp luật, chịu sư chi phối và điều tiết của
NHTW nước sở tại. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại ngoài việc

tuân thủ theo quy định về tỷ lệ lãi suất theo quy đinh, tỷ lệ vốn huy động của pháp
luật trong nước ma còn chịu tác động của nhiều diều lệ quốc tế. Ngoài ra, lĩnh vực
ngân hàng là lĩnh vực có nhân tố quyết định đến toàn bộ nền kinh tế, hoạt động dưới
sự chi phối của chính sách tiền tệ quốc gia, tuỳ từng thời kỳ mà NHTW đưa ra các
biên pháp và chính sách nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ quốc gia. Điều này ảnh hưởng
trực tiếp đến tình hình và hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.3.1.2 Môi trường kinh tế:
Tồn tại và phát triển trong một môi trường kinh tế năng động là cơ sở để ngân
hàng vươn lên, cơ hội để ngân hàng có thể triển khai các hoạt động của mình, cơ hội
để nắm trong tay những công nghệ hiện đại và là cơ hội để hội nhập với nền kinh tế
toàn cầu. Tuy nhiên nó cũng đi đôi với những khó khăn như khó khăn về cạnh
tranh, khó khăn về khách hàng…
Nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuân lợi cho hoạt động tạo vốn của NH,
hoạt động kinh doanh cũng được tiến hành thuận lợi hơn, có khả năng phát triển cao
hơn và ổn định hơn. Khi đó thu nhập cũng như tài sản mà người lao đọng nắm giữ
cũng sẽ lớn hơn, họ sẽ có nhiều tiền hơn đẻ gửi vào ngân hàng và đồng nghĩa với
việc ngân hàng sẽ thu hút được nhiều vốn hơn.
Và ngược lại khi nền kinh tế gặp phải nhiều vấn đề, tình hình lạm phát gia
tăng, đồng tiền trong nước bị mất giá so với nước ngoài hay vì bất cứ một lý do nào
đó sẽ ;làm cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng thay đổi, rất có thể người
dân sẽ cho rằng nắm giữ vàng, đầu tư bất động sản… tốt hơn gửi tiền vào ngân
hàng.
1.3.1.3 Những nhân tố từ phía khách hàng



Khách hàng là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến huy động vốn. Quy mô vốn
huy đọng lớn là do có nhiều khách hàng đến gửi tiền tại ngân hàng hay quy mô vốn
huy động ít tức là phần lớn khách hàng đã không chon ngân hàng là điểm đến của
họ. Khách hàng chọn ngân hàng vì chất lương phục vụ tốt - đến đây họ được chào

đón một cách nhiệt tình nhất, được phục vụ một cách chu đáo nhất, hay họ đến đây
vì ngân hàng có uy tín lớn trên thị trường, hay là ngân hàng có thể trả một mức lợi
tức cao hơn so với các ngân hnàg khác… Yếu tố tâm lý của khách hàng sẽ ảnh
hưởng đến hiệu quả huy động của bản thân ngân hàng.
1.3.1.4 Cạnh tranh giữa các ngân hàng
Nền kinh tế nước ta vừa bước vào thời kỳ hội nhập, nền kinh tế có nhiều bước
chuyển biến mới, đặc biệt mở ra một kỉ nguyên mới trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng. Các ngân hàng nước ngoài đang ào ạt tiến vào Việt Nam đem theo những
công nghệ hiện đại, những giải pháp hoàn mỹ, những lợi ích tuyệt vời. Điều này đặt
ra muôn vàn khó khăn cho hệ thống ngân hàng trong nước, nếu không chịu đổi mới
sẽ bị xâm chiếm thị phần, bị suy giảm về quy mô hoạt động, không đủ sức cạnh
tranh.
Bên cạnh đó, việc tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm của ngân hàng là rất
khó, việc marketing không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả như ý muốn. Đây
cũng là một khó khăn trong việc cạnh tranh của NHTM.
1.3.2 Nhân tố chủ quan
1.3.2.1 Xuất phát từ các hình thức HĐV của ngân hàng
Hình thức huy động vốn của ngân hàng càng phong phú và đa dạng sẽ góp
phần khuyến khích khách hàng tham gia vào các dịch vụ của họ. Ngân hàng càng đi
sâu vào nghiên cứu nhu cầu cũng như tâm lý của khách hàng thì càng có cơ hội phát
triển thêm những công cụ mà họ cần.
Các NHTM nước ta hiện nay có danh mục các sản phẩm huy động là khá đa
dạng: tiền gửi có nhiều loại như tiết kiệm có ký hạn trả trước, tiết kiệm có kỳ hạn
trả sau, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm tiêu
dùng…



Bên cạnh đó ngân hàng còn đưa ra nhiều hình thức khuyến mại, dự thưởng
thu hút sự quan tâm của khách hàng. Hình thức và kỳ hạn lãi phong phú như lãi

tuần, lãi tháng, lãi năm… được triển khai liên tục và rất được người dân và các tổ
chức quan tâm. Ngoài ra trong lĩnh vực tiền gửi thanh toán hay tiền gửi giao dịch
cũng được nghiên cứu và bổ sung nhiều hình thức phù hợp hơn.
1.3.2.2 Chính sách lãi suất huy động
Người dân gửi tiền vào ngân hàng bên cạnh mục đích cất trữ an toàn thì lợi
nhuận thu được lại là điều đầu tiên, là nhân tố quyết định. Ngân hàng nào lãi suất
cao, hấp dẫn thì vốn sẽ chảy vào đó. Khung lãi suất ngân hàng đưa ra phụ thuộc vào
mức lãi suất trần, lãi suất sàn theo quy định của NHTW và nó được điều chỉnh theo
chế độ của chính ngân hàng ấy. Lãi suất huy động còn phải căn cứ và dựa trên lãi
suất của nguồn sử dụng, hay cụ thể hơn đó là lãi suất cho vay hay lãi suất đầu tư.
Nhiều ngân hàng sử dụng nhiều hình thức lãi suất khác nhau. Nhưng cạnh tranh
theo lãi suất là loại hình cạnh tranh có nhiều rủi ro và thường có giới hạn nên việc
lựa chọn mức lãi suất phù hợp là yêu cầu đòi hỏi đối với từng ngân hàng.
Tuy nhiên để thu hút được lượng khách hàng lớn và duy trì đựơc mối quan
hệ lâu dài với họ thì ngân hàng phải đưa ra mức lãi suất có tính chất cạnh tranh và
linh hoạt, nhạy cảm nhất, hay có thể là thực hiện những ưu đãi nhất định vế lãi suất
cho các khách hàng tiềm năng.
1.3.2.3 Chính sách về Marketing Ngân hàng
Như ta đã biết, kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm,
phụ thuộc chủ yếu vào uy tín và khả năng. Lĩnh vực huy động vốn không ngoại lệ:
khách hàng cho rằng lãi suât càng cao càng tốt thì họ sẽ lập tức gửi vào ngân hàng
có lãi suất huy động cao nhất. Nhưng một khách hàng khác lại thích gửi tiền vào
một ngân hàng có uy tín, ngân hàng có thương hiệu đã được khẳng định. Chính điều
này đã đặt ra một yêu cầu cho hoạt động Marketing trong NHTM tính đặc thù. Quá
trình hình thành nên một sản phẩm huy động mới trong ngân hàng đòi hỏi rất nhiều
thời gian và công sức, bên cạnh đó còn rất khó khăn không phải ngân hàng nào
cũng làm được.




Các hình thức quảng bá hình ảnh của ngân hàng, đẩy mạnh xây dựng và phát
triển thương hiệu đem lại niềm tin cho khách hàng, khuyến khích khách hàng gửi
tiền và làm quen với ngân hàng, chính điều này góp phần không nhỏ vào hiệu quả
huy động vốn của họ.
Tuy nhiên khách hàng khi đến với ngân hàng thì thái độ phục vụ của nhân
viên ngân hàng lại có tính chất hỗ trợ vô cùng lớn. Một phong cách phục vụ nhiệt
tình, có trách nhiệm của nhân viên là yếu tố thu hút khách hàng, khách hàng sẽ tin
tưởng và có ý định gắn bó với ngân hàng, đó chính là đã tạo ra lợi thế cho ngân
hàng.
1.3.2.4 Công nghệ ngân hàng
Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì đòi hỏi mức độ hiện đại trong
phương thức làm việc cũng như phục vụ của ngân hàng càng phải cao. Để nâng cao
hiệu quả huy động vốn thì trang thiết bị và quy trình công nghệ cần phải được đầu
tư. Hiện nay đã có nhiều sản phẩm dịch vụ mới như ATM,POS, dịch vụ ngân hàng
điện tử rất hiện đại và thuận tiện nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Nghiệp vụ chuyển tiền điện tử, thanh toán qua mạng điện tử, trả lương qua tài
khoản…đang ngày càng phát triển và góp phần làm tăng hiệu quả cho hoạt động
huy động vốn trong ngân hàng.



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNN&PTNT
HAI BÀ TRƯNG HÀ NỘI

2.1 Tổng quan về NHNN&PTNN và NHNN&PTNT Hai Bà Trưng-HN
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
NHNN&PTNT VN được thành lập theo quyết định số 53/HĐBT ngày
26/03/1988 của Hội Đồng Bộ Trưởng ( nay là Thủ Tướng Chính Phủ)
Tên gọi đầy đủ là Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam,
viết tắt là NHNH&PTNT VN

Tên Tiếng Anh là: Vietnam Bank For Agriculture And Rural Development, viết tắt
là AGRIBANK.
Trụ sở chính: Số 2 Láng Hạ , Ba Đình, Hà Nội.
Thành lập ngày 26 tháng 3 năm 1988 tiền thân là Ngân hàng Nông Nghiệp
Việt Nam, đến nay NHNN&PTNT Việt Nam vừa tròn 20 tuổi. Với nguồn vốn ban
đầu là 1046 tỷ VNĐ, Ngân hàng đã có những thành công đáng tự hào, làm bộ mặt
nông thôn Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt. NHNN&PTNT là ngân hàng kinh
doanh đa lĩnh vực: Ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, cho thuê…Sau 20 năm hoạt
động,Ngân hàng luôn chấp hành tốt mọi chủ trương của Nhà nước, tốc độ tăng
trưởng liên tục, bình quân hàng năm cao nhất, cơ sở vật chất ngày càng được bảo
đảm. Đến nay NHNN&PTNT đã có hơn 2200 chi nhánh cấp I, nhiều trung tâm điện
tử lớn hoạt động với nhiều tiện ích. Tính đến cuối năm 2007 tổng tài sản của ngân
hàng đạt 325 Nghìn tỷ, dư nợ cho vay là 282 nghìn tỷ VNĐ. Lợi nhuận năm 2005 là
2400 tỷ VNĐ đến năm 2007 là 6000 tỷ VNĐ tức là đã tăng 24 lần so với trứơc.
NHNN&PTNT Việt Nam đã không ngừng quảng bá hình ảnh, nâng cao vị thế của
mình không chỉ trong nước mà còn với bạn bè quốc tế. Năm 2007 Ngân hàng đã
được bầu chọn là Doanh Nghiệp đứng đầu trong 200 Doanh nghiệp có quy mô lớn
nhất Việt Nam.
NHNN&PTNT Hà Nội là chi nhánh cấp I trực thuộc NHNN&PTNT Việt
Nam, được thành lập theo quyết định số 51-QĐ/NH/QĐ ngày 27/6/1988 của Tổng

×