Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về thanh niên và vấn đề học tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 108 trang )

CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC – EURÉKA
LẦN THỨ 12 NĂM 2010

TÊN CÔNG TRÌNH :

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THANH NIÊN
VÀ VỀ VẤN ĐỀ HỌC TẬP

LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU: KHOA HỌC XÃ HỘI
CHUYÊN NGÀNH : TRIẾT HỌC
TÁC GIẢ: KIỀU ANH VŨ, TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
TÓM TẮT.............................................................................................. Trang 1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh....................................................... Trang 2
2. Q trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh................. Trang 4
3. Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh......................................................... Trang 7
CHƯƠNG II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THANH NIÊN
1. Vị trí, vai trò của thanh niên ............................................................. Trang 11
2. Nhiệm vụ của thanh niên .................................................................. Trang 16
3. Vấn đề tổ chức của thanh niên – Đoàn Thanh niên cộng sản........... Trang 33
4. Về giáo dục thanh niên ..................................................................... Trang 39
CHƯƠNG III: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ HỌC TẬP
1. Về mục đích học tập ......................................................................... Trang 48
2. Nội dung học tập............................................................................... Trang 51
3. Thái độ học tập ................................................................................. Trang 53
4. Phương pháp học tập ........................................................................ Trang 54


KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC I: DANH NGƠN HỒ CHÍ MINH VỀ THANH NIÊN VÀ HỌC TẬP
PHỤ LỤC II: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH


ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lí do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng
dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đồng thời cũng là một nhà tư tưởng lớn của dân tộc và
nhân loại. Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam sự nghiệp cách mạng vĩ đại, tấm gương đạo
đức sáng ngời và di sản tư tưởng vơ giá.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là “nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động”1 của Đảng ta. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự tu dưỡng, rèn
luyện để hồn thiện mình như cố giáo sư Trần Văn Giàu đã nói: “Người ta khơng thể trở
thành một Hồ Chí Minh nhưng ở Cụ Hồ mỗi người có thể học một số điều làm cho mình trở
thành tốt hơn”2. Do đó, nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và làm theo tấm
gương đạo đức của Người là một việc làm “rất quan trọng và rất cần thiết”. Nhận thấy được
vai trò quan trọng và ý nghĩa to lớn của việc nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, vào ngày 27/3/2003, Ban Bí thư trung ương Đảng đã ra chỉ thị
số 23-CT/TƯ về “Đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong
giai đoạn mới”. Vào ngày 07/11/2006, Bộ Chính trị ra chỉ thị số 06-CT/TƯ về tổ chức cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong tồn Đảng, tồn
qn và tồn dân. Ngày 03/02/2007, cuộc vận động này chính thức được phát động. Cũng
vào thời điểm đó, nhằm làm cho tồn thể cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu nhi nhận thức sâu
sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu rộng trong cán bộ, đoàn viên, thanh niên và
thiếu nhi về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, học tập và làm theo những điều Bác dạy; nâng cao
đạo đức cách mạng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội

trong giới trẻ, Ban Chấp hành Trung ương Đồn TNCS Hồ Chí Minh cũng đã phát động
trong toàn Đoàn, toàn Hội và Đội, trong đoàn viên và thanh thiếu nhi cuộc vận động “Tuổi
trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”3. Những chỉ đạo sáng suốt của Đảng ta cùng với
hai cuộc vận động nêu trên đã mở ra phong trào học tập, nghiên cứu và làm theo tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sơi nổi, rộng khắp cả nước, thu hút đa dạng các đối tượng,
thành phần, giai tầng xã hội. Qua ba năm thực hiện (2007 – 2009), cuộc vận động đã đạt
được nhiều kết quả to lớn, nhiều bài nói, bài viết, nhiều cơng trình nghiên cứu về tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được thực hiện và cơng bố; các cơng trình, phần việc cụ
thể làm theo lời Bác được thực hiện và nhân rộng, nhiều tấm gương người tốt – việc tốt,
những điển hình, ưu tú, tiêu biểu làm theo lời Bác được tuyên dương…
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng; là một đoàn viên thanh niên cộng sản mang tên Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, là một cơng dân trẻ của đất nước Việt Nam thế hệ Hồ Chí Minh;
tích cực hưởng ứng, thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” và cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”; nhằm đưa
cuộc vận động vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học, làm phong phú thêm các nghiên cứu về
Tư tưởng Hồ Chí Minh và làm sáng tỏ thêm Tư tưởng của Người (cụ thể là về thanh niên và
Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 127.
Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, 2007, Vĩ đại một con người, Nxb. Trẻ, tr. 182.
3
Kế hoạch số 121-KH/TWĐTN, ngày 26/2/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đồn TNCS Hồ Chí Minh.
1

2


vấn đề học tập), góp phần vào việc nghiên cứu và hồn thiện bộ mơn khoa học “Tư tưởng
Hồ Chí Minh”, tác giả mạnh dạn thực hiện cơng trình nghiên cứu khoa học với đề tài “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và về vấn đề học tập”.
Có thể nói đây là đề tài khá mới mẻ. Việc nghiên cứu về chủ tịch Hồ Chí Minh - cuộc
đời, sự nghiệp, đạo đức, phong cách,… đã được tiến hành ở nước ta từ hơn nửa thế kỷ nay4,

rất nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đã được cơng bố. Tư
tưởng Hồ Chí Minh cũng đã được các nhà nghiên cứu thừa nhận và chứng minh là bộ mơn
khoa học, rất nhiều giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh được xuất bản, làm tài liệu chính thức
trong giảng dạy và học tập. Dù vậy, khi đề cập đến đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh
niên” và “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập” thì dường như số lượng các nghiên cứu
vẫn còn rất hạn chế. Hầu như trong các giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay khơng có
nội dung này hoặc nếu có thì cũng rất chung chung. Bằng chứng là trong các giáo trình
khơng có chương, mục nào viết về nội dung này; một số ít giáo trình có đề cập đơi nét “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên” thông qua các nghiên cứu về “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” hay “Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự nghiệp trồng
người”. Chỉ có một số ít sách chun khảo và một số ít bài viết đề cập về đề tài này, cụ thể là
quyển “Hồ Chí Minh về giáo dục, bồi dưỡng thanh, thiếu niên và nhi đồng”5 của Viện Hồ
Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, quyển “Tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
thanh niên” của tác giả Văn Tùng6, quyển “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên”
của TS. Đồn Nam Đàn (về giáo dục thanh niên chứ không phải là thanh niên nói chung),
quyển “Hồ Chí Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên” (viết dưới dạng tập hợp các bài
viết, bài nói của Bác theo chủ đề)7; quyển “Về vấn đề học tập” của Nhà xuất bản Trẻ (tập
hợp 17 bài viết của Bác có liên quan đến vấn đề học tập)8 hay như gần đây là quyển “Hồ
Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên”9 của tác giả Văn Tùng, quyển Tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập của hai tác giả Vũ Thị Kim Yến và Nguyễn Văn
Dương10 (gồm các lời dạy của Bác về học tập, giáo dục và các bài viết của nhiều tác giả
khác về Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập, giáo dục)…. Trong khi đó, đối tượng học
tập chủ yếu bộ mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh lại là tầng lớp sinh viên, thanh niên, thậm chí
đây cịn là mơn học bắt buộc trong các trường Đại học – Cao đẳng – Trung học chuyên
nghiệp. Và đối với sinh viên nói riêng và thanh niên, giới trẻ nói chung, một trong những
nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu là học tập. Tuổi trẻ chúng ta cũng đang tích cực “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Học tập và làm theo lời Bác”. Thế nhưng khi
đọc và học hết hàng trăm trang trong giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh và nhiều tài liệu
khác, khi đặt vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên, về tuổi trẻ, về thế hệ chúng ta là
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ mơn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí

Minh, 2007, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 11.
5
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đàng, 2007, Hồ Chí Minh về giáo dục, bồi dưỡng thanh, thiếu niên và nhi đồng,
Nxb. Lao động – xã hội, Hà Nội.
6
Văn Tùng, 1999, Tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Nxb. Thanh niên.
7
Quang Vinh, Trần Kim Duyên, Văn Song, 2008, Hồ Chí Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên, Nxb. Thông Tấn.
8
Tủ sách Di sản Hồ Chí Minh, 2007, Về vấn đề học tập, Nxb. Trẻ.
9
Văn Tùng, 2010, Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, tái bản lần thứ 2, Nxb. Thanh niên
10
Vũ Kim Yến, Nguyễn Văn Dương, 2010, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập, Nxb. Văn hóa thơng tin

4


gì?” hay “Học tập như thế nào là học tập theo Bác Hồ? Học tập như thế nào là học tập theo
tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập? Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập là gì?” thì câu
trả lời vẫn cịn rất mơ hồ! Đó là những lí do thơi thúc tác giả thực hiện cơng trình nghiên cứu
này.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Như tên gọi của cơng trình, đối tượng nghiên cứu của cơng trình là “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về thanh niên” và “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập”. Có thể nói, đây là hai
lĩnh vực, hai nội dung quan trọng trong toàn bộ hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minh – đối tượng
nghiên cứu của bộ mơn khoa học Tư tưởng Hồ Chí Minh – mà thiếu nó thì việc nghiên cứu
về tư tưởng Hồ Chí Minh khơng thể nào tồn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, để nghiên cứu hai
lĩnh vực “thanh niên” và “vấn đề học tập” trong tư tưởng của Bác một cách sâu sắc cũng
không phải là việc làm đơn giản. Việc nghiên cứu hai lĩnh vực này địi hỏi phải có nhiều thời

gian và nhiều điều kiện nhất định. Do đó, trong cơng trình này, tác giả chỉ nghiên cứu và đề
cập những nội dung tương đối cơ bản và mang tính khái quát trong tư tưởng cúa Bác về
thanh niên và vấn đề học tập, trong đó trọng tâm nghiên cứu là tư tưởng Hồ Chí Minh về
thanh niên. Nghiên cứu này của tác giả có tính định hướng cho những nghiên cứu tiếp theo
về đề tài này.
3. Mục tiêu, phương pháp nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của cơng trình này là khái qt hóa, làm sáng tỏ “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về thanh niên và về vấn đề học tập”. Qua việc nghiên cứu đề tài này, tác giả mong
muốn cơng trình nghiên cứu của mình sẽ đóng góp nhất định trong học tập, nghiên cứu khoa
học; bổ sung thêm những nghiên cứu mới về bộ môn khoa học Tư tưởng Hồ Chí Minh và
góp phần hồn thiện bộ mơn khoa học này. Đồng thời nghiên cứu này cũng nhằm giúp cho
người đọc, đặc biệt là các bạn trẻ, đoàn viên, thanh niên, sinh viên… có thêm được tài liệu
tham khảo hữu ích về Tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp họ có được tri thức tương đối rõ nét về
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và về vấn đề học tập”. Cơng trình nghiên cứu này
cũng là một phần việc, một sản phẩm cụ thể của tác giả nhằm hưởng ứng cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt
Nam học tập và làm theo lời Bác”.
Cũng như bất kỳ một cơng trình nghiên cứu khoa học nào, trong cơng trình này, tác giả
cũng vận dụng đa dạng các phương pháp nghiên cứu khác nhau. Tác giả đã vận dụng lí luận
và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, sử dụng các phương
pháp diễn dịch, quy nạp, so sánh, phân tích, tổng hợp, tổng – phân – hợp,… trong quá trình
nghiên cứu trên nguyên tắc lý luận gắn với thực thực tiễn. Trong quá trình nghiên cứu, tác
giả đã tập hợp các nguồn tài liệu khác nhau về tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là các bài nói,
bài viết của Người để phân tích, rút ra luận điểm phù hợp với các nội dung mà tác giả trình
bày. Đồng thời tác giả cũng đã ứng dụng công nghệ thơng tin, internet trong việc nghiên cứu
để có được hiệu quả nghiên cứu cao nhất.
4. Bố cục của cơng trình


Cơng trình nghiên cứu ngồi phần đặt vấn đề, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham

khảo và phụ lục thì nội dung được chia làm 3 chương như sau:
- Chương 1: Khái quát chung về Tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
3. Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh
- Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên.
1. Vị trí, vai trò của thanh niên
2. Nhiệm vụ của thanh niên
3. Tổ chức của thanh niên – Đoàn Thanh niên cộng sản
4. Giáo dục thanh niên
- Chương 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập.
1. Mục đích học tập
2. Nội dung học tập
3. Thái độ học tập
4. Phương pháp học tập


1

TĨM TẮT
Tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ mơn khoa học đã được nhiều học giả nghiên cứu ở nhiều
nội dung, nhiều giác độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về thanh niên và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập vẫn chưa nhiều và chưa
mang tính hệ thống cao. Trong khi đó, nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh
hiện nay rất mang tính thời sự và cấp thiết. Bởi vì tồn Đảng, tồn qn và tồn dân ta đang
sơi nổi hưởng ứng và thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” do Ban Bí thư Trung ương Đảng phát động; toàn thể thanh thiếu niên ta đang tích
cực thực hiện cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” do Ban Chấp
hành Trung ương Đồn TNCS Hồ Chí Minh phát động. Xuất phát từ tình hình thực tế đó,
với ý tưởng đưa cuộc vận động vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học, tác giả đã thực hiện cơng

trình nghiên cứu này. Đây cũng là một việc làm, một sản phẩm cụ thể của tác giả nhằm
hưởng ứng và thực hiện hai cuộc vận động này. Đồng thời kết quả nghiên cứu của tác giả
cũng dùng để phục vụ cho hai cuộc vận động.
Trên cơ sở vận dụng đa dạng nhiều phương pháp nghiên cứu trên nền tảng phương
pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, công trình nghiên cứu
này cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Cụ thể, trong cơng trình này, tác giả đã điểm
lại được những nội dung cơ bản nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm khái niệm, quá
trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh
(chương I). Cơng trình này cũng đã hệ thống hóa, khái quát hóa và làm sáng tỏ những nội
dung cơ bản, cụ thể của tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề học tập (Chương II và Chương III). Đây chính là kết quả nội bật của cơng trình, là
đóng góp khoa học của tác giả đối với bộ môn khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đó, tư
tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên gồm bốn nội dung cơ bản là vị trí, vai trị của thanh niên,
nhiệm vụ của thanh niên, tổ chức của thanh niên – Đoàn thanh niên cộng sản và giáo dục
thanh niên; tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập cũng gồm bốn nội dung cơ bản là mục
đich học tập, nội dung học tập, phương pháp học tập và thái độ học tập.
Công trình nghiên cứu này sẽ đóng góp những giá trị nhất định vào bộ mơn khoa học tư
tưởng Hồ Chí Minh; bổ sung và làm đầy đủ hơn các nghiên cứu về hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh hiện nay. Cơng trình này là một sản phẩm cụ thể nhằm hưởng ứng và thực hiện
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và cuộc vận động
“Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”, đồng thời cơng trình này cũng có thể dùng
làm tài liệu tham khảo, sinh hoạt, học tập chun đề về tư tưởng Hồ Chí Minh cho đồn
viên, thanh niên, sinh viên,… cũng như dùng làm tài liệu, ấn phẩm tuyên truyền thực hiện
hai cuộc vận động này.


2

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Trước khi đi vào nghiên cứu hai nội dung chính của cơng trình này là “Tư tưởng Hồ

Chí Minh về thanh niên” và “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập”, trước hết chúng ta
cần phải có những hiểu biết cơ bản mang tính khái quát chung về khoa học tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Trong chương này, tác giả sẽ trình bày những kiến thức khái qt chung đó, gồm ba
nội dung: khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh (có đề cập đến nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí
Minh), q trình phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đây là những kiến thức cần thiết, cơ bản, làm cơ sở, nền tảng để nghiên cứu những nội dung
tiếp theo trong công trình này cũng như là cơ sở nghiên cứu các nội dung khác trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
“Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh được xem như là chìa khóa để mở cửa đi vào kho
tàng tư tưởng Hồ Chí Minh”1. Vì vậy, để nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh thì một trong
những điều kiện tiên quyết là phải tìm hiểu khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.
Q trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và khái niệm tư tưởng Hồ
Chí Minh nói riêng gắn liền với quá trình phát triển nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh của
Đảng ta. Trong các văn kiện của Đảng, Đảng ta đã trân trọng ghi nhận vai trò quan trọng và
ý nghĩa to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời cũng đã đề cập đến khái niệm tư tưởng
Hồ Chí Minh. Có thể nói thời điểm đánh dấu rõ nét về nhận thức của Đảng ta về tư tưởng
Hồ Chí Minh là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991) với sự ra
đời của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội mà trong
đó khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động” 2. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) tiếp
tục khẳng định lại điều này và nêu rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về
sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi,

là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”3.
Trong chỉ thị số 23-CT/TW ngày 27/3/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đẩy
mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới, Đảng
(Tạp chí Tuyên giáo điện tử)
Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr. 127.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.
83 - 84.
1

2


3

ta một lần nữa khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm lý luận
chính trị toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả
của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng
lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”. Chỉ thị số 06-CT/TW ngày
07/11/2006 của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” cũng nói: “Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hóa của nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá của
Đảng và nhân dân ta, là tấm gương sáng để mọi người Việt Nam học tập và noi theo”.
Những nhận định, đánh giá của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh trong các văn kiện
nêu trên có ý nghĩa to lớn trong việc nghiên cứu bộ mơn khoa học này. Đó là những định
hướng cơ bản cho các nhà nghiên cứu lấy đó làm cơ sở, làm tiền đề để đi đến thống nhất về
khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua q trình nghiên cứu nghiêm túc và công phu trong
thời gian dài, khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh đã được định nghĩa một cách khoa học như

sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng
xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”4.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là tập hợp đơn giản những suy nghĩ, những
ý tưởng cụ thể, riêng lẻ của Hồ Chí Minh trong từng hồn cảnh cụ thể mà đó là một “hệ
thống” bao gồm nhiều quan điểm có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, liên tục và nhất qn. Đó
là hệ thống quan điểm tồn diện, bao quát và sâu sắc trên nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao…
Tuy nhiên, khơng phải tất cả đều có trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí
Minh chỉ đề cập đến “những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”. Cách mạng Việt Nam
bao gồm hai cuộc cách mạng không tách rời nhau là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam cũng chính là
những vấn đề cơ bản của hai cuộc cách mạng này. Đó là vấn đề về mục tiêu cách mạng, mục
đích cách mạng, tổ chức cách mạng, lực lượng cách mạng, phương pháp cách mạng…
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh nêu trên cũng đã chỉ ra được nguồn gốc của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải tự nhiên sinh ra, không phải “từ trên trời
sa xuống”, cũng khơng phải hình thành từ ý muốn chủ quan của những người nghiên cứu mà
tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc khách quan của nó. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình
thành từ thực tiễn điều kiện lịch sử - xã hội lúc bấy giờ mà trước hết là tư tưởng và văn hóa
truyền thống Việt Nam. Đó chính là chủ nghĩa u nước và ý chí kiên cường bất khuất được
hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử; là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương
thân tương ái; tinh thần lạc quan yêu đời; là truyền thống cần cù, hiếu học, thông minh, sáng
tạo của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng có nguồn gốc từ tư tưởng và văn hóa
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ mơn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, 2007, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 19.

4



4

nhân loại, trong đó bao gồm tư tưởng và văn hóa phương Đơng qua những giá trị tích cực
của Nho giáo, Phật giáo… và nền văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây. Nguồn
gốc thứ ba hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa Mác – Lênin – “chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất”5. Đây là cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nguồn gốc thứ tư, nguồn gốc khơng thể thiếu,
để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh là những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá
nhân của Hồ Chí Minh. Đó là trí tuệ thơng minh, ln tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, óc
phê phán tinh tường, sáng suốt. Đó là sự khổ cơng học tập, là nghị lực phi thường nhằm
chiếm lĩnh vốn tri thức của nhân loại, vốn kinh nghiệm đấu tranh phong phú của phong trào
giải phóng dân tộc và phong trào cơng nhân thế giới để có thể đến với chủ nghĩa Mác Lênin và vận dụng, phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đó là tâm hồn
của một nhà yêu nước, một chiến sĩ nhiệt thành cách mạng mà suốt cuộc đời “hết lòng, hết
sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”6 và hết lòng thương yêu những
người cùng khổ, nhân loại bị áp bức.
2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Q trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là một quá trình lịch sử gắn
liền với cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thuở thiếu thời đến lúc Người “đi gặp cụ
Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác”7. Đó là một q trình gồm năm giai
đoạn:
2.1. Giai đoạn từ 1890 – 1911: hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng
Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước trên mảnh đất giàu truyền thống anh hùng
chống giặc ngoại xâm, Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành đã sớm tiếp nhận truyền
thống yêu nước, nhân nghĩa của gia đình, quê hương và dân tộc. Được cha là cụ Phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc dạy dỗ từ nhỏ, lại được các thầy là các nhà nho Hoàng Phan Quỳnh,
Vương Thúc Quý và Trần Thân dạy học chữ Hán8, rồi lại được học tập tại trường Quốc học
Huế, Hồ Chí Minh đã sớm tiếp thu vốn văn hóa Quốc học, Hán học. Bên cạnh đó, Người
cũng đã bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây, Người học tiếng Pháp, biết đến nền dân
chủ phương Tây với “tự do”, “bình đẳng” và “bác ái”. Người cũng đã sớm chứng kiến sự

thống khổ, điêu đứng của đồng bào ta trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến và tinh thần đấu
tranh bất khuất của nhân dân ta. Đau lòng trước cảnh nước nhà bị nô lệ, nhân dân bị đọa đày,
Nguyễn Tất Thành đã sớm có chí đuổi Thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Hồi bão cứu
nước, cứu dân của Hồ Chí Minh hình thành từ đó. Nhưng chí hướng cách mạng của Nguyễn
Tất Thành không giống như các bậc tiền bối. Người không cứu nước theo ngọn cờ phong
kiến của phong trào Cần Vương, hay khởi nghĩa “nặng cốt cách phong kiến” như cụ Hồng
Hoa Thám, Người cũng khơng theo chính sách cải lương “chẳng khác gì đến xin giặc rủ lịng
thương” của cụ Phan Châu Trinh, cũng không cứu nước theo phong trào Đơng Du chẳng
Trích trong tác phẩm ‘Đường Kách mệnh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
7
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
8
Bảo tàng Hồ Chí Minh, Chi nhánh Hồ Chí Minh, 2007, Hỏi và đáp về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tái bản lần thứ ba, Nxb. Trẻ, tr. 6.
5

6


5

khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau” của cụ Phan Bội Châu. Chí hướng cách
mạng của Nguyễn Tất Thành là hướng đến nền văn minh phương Tây, Người muốn làm
quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ “tự do”, “bình
đẳng”, “bác ái”. Người cũng muốn đi xem nước Pháp và các nước khác làm thế nào để trở
nên văn minh, phú cường rồi trở về giúp đồng bào mình. Với chí hướng cách mạng đó, vào
ngày 05/6/1911, Người đã rời bến Nhà Rồng (Sài Gòn) để bắt đầu cuộc hành trình vạn dặm,
hành trình “đi tìm hình của nước”9.
2.2. Giai đoạn 1911 – 1920: tìm tịi, khảo nghiệm và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin

Đây là thời kỳ Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc bôn ba khắp các châu lục để tìm
hiểu thực tiễn phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng thế giới. Cuộc hành trình lịch sử
có một khơng hai của một nhà u nước đã đưa Người đến tận sào huyệt của Chủ nghĩa đế
quốc, Chủ nghĩa thực dân và các thuộc địa của chúng ở khắp các châu lục. Từ thực tiễn đó,
Người đã nhận ra rằng “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống
người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thơi: tình
hữu ái vơ sản”. Và cũng từ cuộc khảo sát thực tiễn này, Người đã bắt gặp ánh sáng chân lý
của thời đại, tìm thấy được con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân
tộc. Đó là con đường cách mạng tháng Mười Nga, con đường cách mạng vô sản. Năm 1920
là thời điểm đánh dấu sự kiện lịch sử này, sự kiện có tính chất bước ngoặt trong nhận thức
và con đường tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Tháng 7/1920, Người đã đọc được
sơ thảo lần thứ nhất “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin trên báo Nhân
đạo của Đảng Xã hội Pháp. Tháng 12/1920, tại Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng
Xã hội Pháp ở Tua, Người đã biểu quyết tán thành đứng về Quốc tế III, tham gia thành lập
Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước phát triển về chất trong tư tưởng Nguyễn
Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai
cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.
2.3. Giai đoạn 1921 – 1930: giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường
cách mạng Việt Nam
Đây là thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc để chuẩn bị
về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1921
đến 1923, Người phụ trách tiểu ban Đông Dương trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng
Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa và tờ báo “Người Cùng khổ”
(tháng 7/1921) nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước thuộc địa. Từ giữa
năm 1923 đến 1924, Người đến Liên Xô, tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân lần thứ nhất
(tháng 10/1923), Đại hội Quốc tế cộng sản thanh niên lần thứ IV (tháng 6/1924), Đại hội
Quốc tế cộng sản lần thứ V (tháng 6/1924), Đại hội Quốc tế cứu tế Đỏ lần thứ I (tháng
7/1924) và Đại hội quốc tế Công hội đỏ lần thứ III (tháng 7/1924). Trong thời gian này,
Người cũng đã học tập tại trường Đại học Phương Đông và tham gia hoạt động, công tác ở
Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Cuối năm 1924, Người về Quảng Châu (Trung

Quốc), lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở các lớp huấn
9

Ý này lấy từ bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên.


6

luyện chính trị và đạo tào cán bộ, đưa họ về nước hoạt động. Năm 1925, tác phẩm “Bản
án chế độ Thực dân Pháp” của Người được xuất bản ở Pari, vạch trần tội ác của chế độ thực
dân Pháp và vạch ra con đường cách mạng chân chính của các dân tộc bị áp bức là con
đường cách mạng vô sản. Năm 1927, những bài giảng của Người ở các lớp huấn luyện ở
Quảng Châu được tập hợp và xuất bản trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”. Tác phẩm này
có giá trị như một văn kiện lý luận đầu tiên của Đảng, đồng thời là cơ sở tư tưởng cho đường
lối cách mạng Việt Nam. Từ ngày 03 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long, Hương Cảng
(Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản
trong nước, thành lập một Đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Người cũng
đã trực tiếp thảo ra các văn kiện Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình và
Điều lệ vắn tắt của Đảng (Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng). Những sự kiện này đã
đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam.
2.4. Giai đoạn 1930 – 1941: giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã
xác định cho cách mạng Việt Nam
Đây là giai đoạn tồn tại sự bất đồng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với Quốc tế cộng sản.
Do thiếu thơng tin về phương Đông, về thuộc địa, về Đông Dương và An Nam, lại bị chi
phối bởi quan điểm “tả’ khuynh, Quốc tế cộng sản đã chỉ trích và phê phán đường lối của
Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị Trung ương tháng 10/1930 của Đảng ta, theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, cũng
đã ra Nghị quyết thủ tiêu Chánh cương và Sách lược vắn tắt, đổi tên Đảng Cộng sản Việt
Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương10.
Lúc bấy giờ, khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) tiếp tục gây ra những hậu quả

nặng nề, mâu thuẫn xã hội ở các nước đế quốc càng thêm gay gắt. Để đối phó với phong
trào đấu tranh của quần chúng, bọn tư bản lũng đoạn ở một số nước đế quốc đã thủ tiêu các
quyền tự do dân chủ tư sản và thi hành chính sách độc tài phát xít. Bọn phát xít Đức – Italia
– Nhật Bản đã liên kết thành một “trục” có lực lượng mạnh. Chúng ráo riết chuẩn bị chiến
tranh chia lại thị trường thế giới và xâm lược Liên Xơ hịng xóa bỏ thành trì cách mạng thế
giới. Trước nguy cơ của Chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới mới đang đến gần, Đại
hội VII Quốc tế Cộng sản (tháng 7/1935) đã tự phê bình về sai lầm “tả” khuynh, “biệt phái”,
“hẹp hòi” và chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân chống phát xít. Năm 1936, Đảng ta đề
ra chiến sách mới, phê phán tư tưởng “tả” khuynh, cô độc, biệt phái trước đây. Trên thực tế,
vấn đề phân hóa kẻ thù, tranh thủ bạn đồng minh… đã trở lại với Chánh cương, Sách lược
vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc. Điều đó phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và
sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh11.

Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ mơn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, 2007, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 44.
11
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ mơn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, 2007, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 45.

10


7

2.5. Giai đoạn 1941 – 1969: sự phát triển và thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh
Đây là giai đoạn Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Đây là giai đoạn tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển và hồn thiện trên một loạt các vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam: về đường lối chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”; về xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là
thuộc địa nửa phong kiến, quá độ lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ

nghĩa trong điều kiện đất nước bị chia cắt; về xây dựng Đảng; về xây dựng nhà nước kiểu
mới; về đoàn kết dân tộc và đồn kết quốc tế… Tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn này
được thể hiện trực tiếp, cụ thể, rõ nét thông qua những đường lối, quyết sách lãnh đạo cách
mạng của Người. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh là những minh chứng sống động cho sự
thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết đó là thắng lợi của cách mạng Tháng Tám
năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước công công đầu
tiên ở Đông Nam Á. Tiếp đó là thắng lợi vĩ đại của hai cuộc kháng chiến “thần thánh” chống
Thực dân Pháp và đế quốc Mĩ của dân tộc ta. Đó là thắng lợi của ngọn cờ cứu nước Hồ Chí
Minh, thắng lợi của đường lối “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” mà tư tưởng
Hồ Chí Minh đã vạch ra.
3. Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh
Như phần khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh đã nêu rõ, tư tưởng Hồ Chí Minh là một
hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc trên nhiều lĩnh vực, bao gồm:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức;…
Qua cơng trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn làm phong phú thêm hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh với hai nội dung “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên” và “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề học tập”. Sở dĩ tác giả mạnh dạn nghiên cứu và đưa hai nội dung
này vào hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh là vì hai cơ sở sau đây:
Một là, về mặt lý luận: “Vấn đề thanh niên” và “vấn đề học tập” đều là “những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam” thỏa mãn các nội dung mà khái niệm tư tưởng Hồ Chí
Minh đã nêu lên ở trên.
Thật vậy, những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam gồm nhiều vấn đề, trong đó có

vấn đề về lực lượng cách mạng. Thanh niên chính là bộ phận quan trọng của lực lượng cách
mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa: “Thanh niên
là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt
thế hệ thanh niên tương lai – tức là các cháu nhi đồng”12; “Thanh niên là một bộ phận quan
12

Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 488


8

trọng của dân tộc. Dân tộc bị nơ lệ thì thanh niên cũng bị nô lệ. Dân tộc được giải phóng,
thanh niên mới được tự do. Vì vậy thanh niên phải hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của dân
tộc”13; “hiện nay ở các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân, thanh niên là một lực
lượng xung phong trong công cuộc xây dựng nước nhà”14, “thanh niên là người xung phong
trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”15.
Vì vậy, chúng ta hồn tồn có thể khẳng định thanh niên chính là một lực lượng cách mạng
quan trọng, là một trong những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Đối với “vấn đề học tập”, đây cũng là vấn đề chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm. Theo
quan điểm của Người, học tập và cách mạng phải đi đôi với nhau, muốn làm cách mạng thì
phải học tập - học tập lí luận cách mạng, phương pháp cách mạng; học tập chính trị, văn hóa,
kỹ thuật để xây dựng chủ nghĩa xã hội; có học tập thì mới tiến bộ, mới hồn thành thắng lợi
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa… Người dạy: “Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng
suốt đời. Còn sống thì cịn phải học, cịn phải hoạt động cách mạng”16; “Từ nay chúng ta
phải thiết thực học tập, sửa chữa các khuyết điểm. Vì có tẩy sạch khuyết điểm, cơng việc
mới có thể tiến bộ”17; “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức. Cần
phải học văn hóa, chính trị, kĩ thuật. Cần phải học lý luận Mác – Lênin kết hợp với đấu tranh
và công tác hàng ngày”18; “phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập lập
trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan
điểm và phương pháp ấy mà giải quyết tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng

của chúng ta”19. Do đó, vấn đề học tập cũng là một trong những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam.
Về mặt nguồn gốc, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy rằng những quan điểm của Hồ Chí
Minh về thanh niên và về vấn đề học tập đều xuất phát từ những nguồn gốc chung của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, là sự kế thừa tinh hoa văn hóa dân tộc và trí
tuệ thời đại. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cũng là những người rất quan tâm đến
thanh niên và vấn đề học tập, đặc biệt là Lênin. Mác và Ăngghen khẳng định: “Những người
công nhân tiên tiến nhất ý thức đầy đủ rằng tương lai của nhân loại hoàn toàn phụ thuộc vào
sự giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên”20. Trong các phát biểu và tác phẩm của mình,
Lênin nhiều lần nói đến thanh niên và vấn đề học tập, chẳng hạn như trong diễn văn Đại hội
toàn Nga lần thứ III của Đoàn TNCS Nga (tháng 10/1920), về nhiệm vụ của Đoàn thanh
niên, Lênin đã khẳng định: “theo một ý nghĩa nào đó, có thể nói rằng nhiệm vụ thật sự xây
dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, chính là của thanh niên”; “nhiệm vụ của thanh niên theo
quan điểm đó, tơi phải nói rằng nhiệm vụ của thanh niên nói chung, và của đồn thanh niên
cộng sản và các tổ chức khác nói riêng, có thể tóm gọn bằng một từ. Nhiệm vụ đó là: học
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 398
Quang Vinh – Trần Kim Duyên – Văn Song, 2008, Hồ Chí Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên, Nxb. Thơng Tấn,
tr. 87
15
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 488
16
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 94
17
X.Y.Z, 2008, Sửa đổi lối làm việc, tái bản lần thứ 3, Nxb. Trẻ, tr. 7
18
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 306
19
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 497
20

Mác-Ănghen tuyển tập, 1971, Tập 16, Nxb. Sự Thật, tr. 198
13

14


9

tập” . Lênin cũng là người đã để lại cho chúng ta lời dạy bất hủ: “Học, học nữa, học
mãi”. Bằng những phẩm chất cá nhân thiên phú, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào vấn đề thanh niên và vấn đề học tập ở nước ta. Đó
là sự vận dụng và phát triển thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
phát triển những quan điểm cụ thể của Mác, Ăng-ghen, Lênin về thanh niên và vấn đề học
tập vào việc nhìn nhận, đánh giá thế hệ thanh niên Việt Nam và về vấn đề học tập trong bối
cảnh Việt Nam.
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên và vấn đề học tập cũng xuất phát từ
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã hội tụ trong nhân cách, phẩm chất của Hồ Chí
Minh: truyền thống chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng; truyền thống cần
cù, chịu khó, hiếu học và những truyền thống quý báu khác.
Quan điểm về thanh niên và vấn đề học tập của Hồ Chí Minh cũng là kết quả từ sự vận
dụng trí tuệ thời đại, đặc biệt là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của Nho giáo phương Đông
(tư tưởng về người sĩ phu, quân tử,…) và những giá trị nghiên cứu của phương Tây mà chủ
tịch Hồ Chí Minh đã học tập, trải nghiệm trong quá trình khảo sát thực tiễn, tìm đường cứu
nước khắp năm châu bốn biển.
Hai là, về mặt thực tiễn: Thực tiễn ở đây là thực tiễn về cuộc đời hoạt động cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một thời thanh niên, một thời tuối
trẻ hoạt động cách mạng sôi nổi. Lúc 18 tuổi, Người đã tham gia phong trào chống thuế ở
Trung Kỳ (1908). Lúc 21 tuổi (1911), với đôi tay nghị lực phi thường, Người đã ra đi tìm
đường cứu nước. Thời tuổi trẻ của Người gắn liền với hành trình lịch sử này, trong suốt 10
năm từ 1911 – 1920, Người đã đi nhiều nước, làm nhiều nghề khác nhau để sống và hoạt

động cách mạng. Lúc 29 tuổi (1919), Người lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp và thay mặt Hội này gửi đến Hội nghị Versailles bản “Yêu sách của nhân dân An
Nam” địi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của
dân tộc Việt Nam; Người cũng tham gia Đảng Xã hội Pháp vào thời điểm này. Năm 30 tuổi
(1920), Người đã đọc được sơ thảo lần thứ nhất “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa” của Lênin và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam; Người tham
gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Năm 31
tuổi (1921), Người tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, rồi tham gia sáng lập tờ báo
“Người cùng khổ” (Le Paria) với vai trò chủ bút kiêm chủ nhiệm tờ báo (lúc 32 tuổi - năm
1922). Năm 33 tuổi (1923), Người tham dự Đại hội Quốc tế nơng dân lần thứ nhất, được bầu
vào Đồn chủ tịch. Năm 34 tuổi (1924), Người tham dự Đại hội Quốc tế thanh niên cộng sản
lần thứ IV, Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V, Đại hội Quốc tế cứu tế đỏ lần I, Đại hội
Quốc tế Công hội đỏ lần III. Năm 35 tuổi (1925) Người đã sáng lập ra Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên – tổ chức mang tính cộng sản đầu tiên của nước ta, là tiền thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam – để bồi dưỡng, đào tạo thanh niên yêu nước, đào tạo cán bộ để đưa về
nước hoạt động. Như vậy, ngay từ thời còn ở độ tuổi thanh niên, ngồi sự hoạt động cách
mạng sơi nổi của chính mình, Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến thanh niên (Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên là một minh chứng). Và sau này, khi đã kinh qua thời thanh niên, thời
21

21

/>

10

tuổi trẻ, Người vẫn tiếp tục dành sự quan tâm sâu sắc đến thanh niên thông qua những lời
dạy bảo ân cần, thơng qua các bài nói, bài viết của Người.
Đối với vấn đề học tập, cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời học tập
khơng ngừng, một tấm gương tự học sáng ngời cho muôn đời. Với nền tảng tri thức học

được từ người cha là ơng Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, từ những người thầy dạy chữ Hán như
Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, Trần Thân… từ trường Tiểu học Đông Ba và trường
Quốc học Huế, Người đã tự học thêm cho mình nhiều điều, trong đó có những điều vĩ đại, để
làm nên một “sự nghiệp lớn”. Trong hành trình bơn ba tìm đường cứu nước, để học tập và
hoạt động cách mạng ở tất cả các nước mà Người đi qua, Người đã vượt qua mọi khó khăn
để học tập ngoại ngữ và Người đã biết thành thạo nhiều ngoại ngữ: Anh, Pháp, Trung Quốc,
Ý, Đức, Nga22, Tây Ban Nha, Thái Lan. Người cũng đã tự học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tự
học lí luận cách mạng, tự tìm tịi con đường cách mạng cho mình và cho cả dân tộc Việt
Nam.
Như vậy, với cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, việc tìm hiểu những quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên và vấn đề học tập và đưa hai nội dung này vào hệ thống
tư tưởng Hồ Chí Minh với tên gọi “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên” và “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề học tập” là hoàn toàn phù hợp. Và hai nội dung này được đưa vào hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh một cách khoa học cịn có ý nghĩa to lớn: Nó làm phong phú
thêm hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh đầy đủ hơn
và góp phần hồn thiện bộ mơn khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trên đây tác giả đã cung cấp những kiến thức chung nhất về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đây là cơ sở để nghiên cứu từng chuyên đề, từng nội dung cụ thể trong hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh. Qua chương này, chúng ta đã biết được khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh là
một khái niệm khoa học, “là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã
hội chủ nghĩa; là kết quả vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người” và cũng biết được nguồn
gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh thơng qua khái niệm này.
Chương này cũng đã chỉ ra năm giai đoạn phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là
năm giai đoạn lịch sử gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, gắn liền với các mốc lịch sử trọng đại của dân tộc.
Trong Chương này, chúng ta cũng đã biết được hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh là một
hệ thống gồm nhiều nội dung và tác giả cũng lý giải và chứng minh được “tư tưởng Hồ Chí

Minh về thanh niên”và “tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập” là hai nội dung trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính là cơ sở quan trọng, mang tính tiên quyết để tác giả
nghiên cứu hai chương tiếp theo trong cơng trình này.

22

Theo bản khai lí lịch của Người với bí danh là Lin khi tham dự Đại hội VII Quốc tế cộng sản (1935)


11

CHƯƠNG II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THANH NIÊN
Với sự quan tâm đặc biệt đối với thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln dành nhiều
tâm huyết trong việc nhìn nhận, đánh giá, đào tạo và giáo dục thanh niên. Trong suốt cuộc
đời của Bác, Người đã viết, đã nói, đã căn dặn thanh niên rất nhiều “lời hay ý đẹp”. Những
lời dạy ấy của Người không phải là những lời dạy mang tính riêng rẽ, rời rạc mà bao giờ
cũng thống nhất, có mối liên hệ mật thiết với nhau. Chính vì vậy, những quan điểm của
Người về thanh niên trong các bài viết, bài nói của Người đã hình thành nên “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về thanh niên”. Đây là một nội dung trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thanh niên được Bác đề cập với nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau và vì vậy tư tưởng
Hồ Chí Minh về thanh niên là một vấn đề lớn, gồm nhiều nội dung. Đây cũng là nội dung
nghiên cứu trọng tâm của tác giả trong cơng trình này. Với kết quả nghiên cứu của mình,
tác giả xác định bốn nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên như trình
bày dưới đây.
1. Vị trí, vai trị của thanh niên
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành
sự quan tâm đặc biệt đối với thanh niên. Từ sự quan tâm đặc biệt đó, Người đã sớm nhìn
thấy được vị trí quan trọng và vai trị to lớn của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng, giải
phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Trong tồn bộ tư tưởng của Người, vai trò của thanh niên
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá một cách nhất quán là: Thanh niên người chủ tương

lai của nước nhà, là lực lượng xung kích quan trọng của cách mạng, xuyên suốt từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, khi cịn trong q trình bơn ba tìm đường cứu
nước, thơng qua thực tiễn của phong trào công nhân, phong trào cách mạng và phong trào
giải phóng dân tộc trên khắp thế giới, trong đó có cả Việt Nam, Người đã sớm nhìn thấy
được những ưu điểm, những phẩm chất quý báu và khả năng cách mạng to lớn của thanh
niên. Đó là sự hăng hái, tiên phong, khơng ngại gian khổ, khó khăn, sẵn sàng hy sinh vì sự
nghiệp cách mạng: “Thanh niên cộng sản làm việc rất nỗ lực, rất hy sinh. […] Việc bãi khóa
ở Tàu, vận động ở Cao Ly, bãi công ở Anh, vân v., Cộng sản thanh niên đều đứng đầu đi
trước”23. Từ năm 1916, Người đã nhìn thấy sự anh dũng hy sinh của thanh niên Ấn Độ đối
với phong trào cách mạng nước này: “Năm 1916, một cậu bé 16 tuổi đã ném bom ngay giữa
đường và giữa ban ngày vào xe của tên cầm đầu nổi tiếng của cục điều tra. Lịng dũng cảm
khơng trừ già hay trẻ.
Danh sách những người bị hy sinh kéo dài rất đau xót. Trong mười năm, khơng kể
những vụ thảm sát tập thể, đã có hơn 200 người lấy máu đào tưới gốc cây cách mạng và lý
tưởng. [...] Trong số những người hy sinh có 50 người tuổi chỉ từ 16 đến 20!”24.
Người cũng thấy được vai trò to lớn của thanh niên, của phong trào thanh niên đối với
cách mạng Trung Quốc. Trong bài viết về “Chủ nghĩa cộng sản và thanh niên Trung Quốc”
23
24

Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 295
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 42


12

đăng trên báo L’Humanité ngày 19/8/1922, Người đã chỉ ra phong trào thanh niên Trung
Quốc không chỉ giúp tập hợp lượng thanh niên mà cịn tạo ra được sự đồn kết, tạo được
một khối liên hiệp dân tộc bao gồm các đối tượng thanh niên và các nghiệp đồn, cơng đoàn.

Từ phong trào thanh niên, thanh niên đã được tập hợp lại thành một tổ chức độc lập, tạo
thành một lực lượng cách mạng to lớn dưới ngọn cờ búa liềm - dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản. Và các hoạt động, phong trào của thanh niên cũng làm cho tư tưởng cách mạng,
“tư tưởng độc lập” được lan tỏa trong quần chúng: các sinh viên, các thanh niên nam nữ,
binh lính, cảnh sát, cơng nhân, lao động tồn Trung Quốc. Người viết: “Phong trào thanh
niên xã hội chủ nghĩa mới bắt đầu ở Trung Quốc từ năm 1920. Nhưng từ đó và chỉ có từ đó
thì những thanh niên mácxít, những thanh niên vơ chính phủ chủ nghĩa, những nghiệp đồn
xã hội chủ nghĩa và những cơng đồn mới gia nhập các hội liên hiệp. Và chỉ từ tháng 11 năm
1921, những thanh niên cộng sản mới thành lập được các tổ chức độc lập của họ. 5 nghìn
thanh niên đã tập hợp dưới ngọn cờ búa liềm. Hồi tháng 5 năm 1922, họ triệu tập Đại hội
toàn Trung Quốc […] Đại hội kêu gọi các công nhân và lao động toàn Trung Quốc, các sinh
viên, các thanh niên nam nữ, tất cả những người có tư tưởng độc lập, các binh lính cũng như
cảnh sát”25.
Nhìn về Đơng Dương, về An Nam, Người cũng nhìn thấy được sức mạnh to lớn tiềm
ẩn của thanh niên Đông Dương, thanh niên An Nam đối với cách mạng. Sức mạnh đó trước
hết bắt nguồn từ lòng yêu nước, từ truyền thống dân tộc: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn
của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những
người culi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp
dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam
cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khố, làm
cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa
năm 1917”26. Sức mạnh đó cũng bắt nguồn từ sự tàn bạo của thực dân Pháp, từ sự “khai hóa
giết người”, “chính sách ngu dân”, chế độ nghĩa vụ quân sự cay nghiệt “tình nguyện bắt
buộc” đang làm cho “thanh niên bản xứ ghét cay ghét đắng” và “tìm mọi cơ hội để tự cứu
lấy mình”. Người thấy “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đơng Dương giấu một cái gì
đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú
có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến”27.
Mặc dù nhìn thấy thanh niên có sức mạnh tiềm ẩn to lớn như vậy nhưng Người cũng
nhận thấy một thực tế ở nước ta lúc bấy giờ là “chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ
chức! Bởi thế công nghiệp và thương nghiệp của chúng ta là một con số khơng. Thế thì

thanh niên của ta đang làm gì? Nói ra thì buồn, buồn lắm: họ khơng làm gì cả. Những thanh
niên khơng có phương tiện thì khơng dám rời q nhà; những người có phương tiện thì lại
chìm ngập trong sự biếng nhác; còn những kẻ đã xuất dương thì chỉ nghĩ đến việc thoả mãn
tính tị mị của tuổi trẻ mà thơi!”28. Vì vậy, Người đã đứng ra kêu gọi thanh niên, làm cho
thanh niên “hồi sinh”, “thức tỉnh thanh niên đi tới thức tỉnh dân tộc”. Trong thư “Gửi thanh
niên An Nam” Người kêu lên tha thiết: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 106
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 468
27
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 28
28
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 132

25

26


13

mất nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”29. Đó là hồi chng
cảnh tỉnh thanh niên ở Đơng Dương nói riêng và tất cả các dân tộc ở Đơng Dương nói
chung. Và để “hồi sinh” bộ phận quan trọng này của dân tộc, Người đã tích cực chuẩn bị về
tư tưởng, về tổ chức cho thanh niên trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, gian khổ. Cuối
năm 1924, Người về Quảng Châu (Trung Quốc) để có điều kiện thuận lợi hơn trong việc
nắm bắt tình hình cách mạng trong nước và từng bước “thức tỉnh” thanh niên. Dù phải sống
trong hồn cảnh khó khăn, phải “đi bán thuốc lá và bán báo để sống”30 nhưng Người luôn
chú ý đến các hoạt động cách mạng diễn ra trong nước, đặc biệt là hoạt động của thanh niên.
Người đã rất chú ý đến “tiếng bom Sa Diện” của Phạm Hồng Thái (năm 1924): “Mấy tháng
trước đây, một thanh niên cách mạng Việt Nam Phạm Hồng Thái, đã ném bom vào Méclanh

đến Sa Điện, một tô giới quốc tế gần Quảng Châu. Méclanh thoát chết nhưng liệt sĩ Phạm
Hồng Thái phải tự vẫn trên sông Châu Giang”31. Điều này làm cho Người càng tin tưởng
thêm vào thanh niên, vào phong trào đấu tranh giải phóng của dân tộc: “Việc đó tuy nhỏ,
nhưng nó báo hiệu bắt đầu thời đại đấu tranh dân tộc, như chim én nhỏ báo hiệu mùa
xuân”32. Từ đó, Người nhanh chóng thành lập một tổ chức cách mạng để tập hợp thanh niên
yêu nước. Đó là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (tháng 6/1925). Người còn sáng lập và
cho xuất bản báo Thanh niên (21/6/1925), cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, để truyền bá cách mạng cho thanh niên trong Hội và nhân dân trong nước. Tiếp
đó, thơng qua hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Người đã mở các lớp
huấn luyện chính trị, đào tạo thanh niên thành những Người cán bộ cách mạng nòng cốt
(thức tỉnh thanh niên), đưa họ về nước hoạt động, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa
đường lối cứu nước, đường lối cách mạng vào trong quần chúng (thức tỉnh dân tộc). Các bài
giảng của Người được tập hợp, in thành sách “Đường Kách Mệnh” (1927) làm tài liệu học
tập cho thanh niên. Quyển sách này cũng là cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt
Nam; là quyển sách “gối đầu giường” cho những người yêu nước Việt Nam, giúp giác ngộ
những người yêu nước đến với cách mạng, dẫn dắt họ hoạt động theo đường lối cứu nước
đúng đắn. Từ sự hoạt động và phát triển của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ngày
03/02/1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sau đó một
năm (1931), Đồn Thanh niên cộng sản Đông Dương cũng được thành lập để tập hợp, lãnh
đạo thanh niên. Và từ những hoạt động này của Người, thanh niên ta đã thực sự “hồi sinh”,
dân tộc ta đã hoàn toàn “thức tỉnh”. Thanh niên ta nói riêng và các tầng lớp nhân dân ta nói
chung đã đồn kết một lịng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (có tiền thân là
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên), dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ làm nên thắng lợi của
cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa.
Cách mạng tháng Tám thành cơng đã mở ra tiền đồ rực rỡ trước mắt thanh niên ta. Bởi
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 132 - 133
Trần Dân Tiên, 2004, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tái bản lần thứ II, Nxb. Trẻ, tr.
63
31

Trần Dân Tiên, 2004, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tái bản lần thứ II, Nxb. Trẻ, tr.
63
32
Trần Dân Tiên, 2004, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tái bản lần thứ II, Nxb. Trẻ, tr.
63
29

30


14

vì từ nay thanh niên ta đã là cơng dân của một nước Việt Nam độc lập, tự do. Trong
“Thư gửi cho học sinh nhân ngày khai trường” đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trị rất lớn của thanh niên trong công cuộc
kiến thiết và phát triển đất nước: “Non sơng Việt Nam có trở nên vẻ vang hay khơng, dân tộc
Việt Nam có được vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu hay khơng, chính là nhờ
một phần lớn ở công học tập của các cháu”33. Người cũng khẳng định thanh niên, tuổi trẻ giữ
vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, của đất nước. Vai trò ấy như là một sự
thật khách quan của lịch sử, như là một quy luật mang tính tự nhiên: “Một năm khởi đầu từ
mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”34. Và cũng từ niềm
tin sâu sắc của Người đối với thanh niên như vậy, Người đã chỉ rõ vai trò người chủ nước
nhà của thanh niên ta: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà
thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”35.
Có thể nói tư tưởng về vai trị làm chủ nước nhà của thanh niên luôn luôn thường trực
trong suy nghĩ, nhận thức và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nhắc đi nhắc lại
rất nhiều lần vai trò làm chủ tương lai của nước nhà của thanh niên. Trong các bức thư gửi
cho thanh niên, trong các buổi nói chuyện với thanh niên, Người thường xuyên đề cập đến
điều này. Người mong muốn thanh niên ta phải nhận thức rõ và sâu sắc vai trị của mình mà
cố gắng phấn đấu cho xứng đáng với vai trò ấy. Trong tác phẩm “Đời sống mới” (tháng

3/1947), Người viết: “Tương lai của thanh niên tức là tương lai của nước nhà”36. Trong buổi
nói chuyện với nam nữ thanh niên học sinh các trường Trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An
và Trưng Vương (Hà Nội) ngày 18/12/1954, Người nói: “Thanh niên là bộ phận quan trọng
của dân tộc. Dân tộc bị nơ lệ thì thanh niên cũng bị nơ lệ. Dân tộc được giải phóng thanh
niên mới được tự do. […] Ngày nay, ta đã được độc lập, tự do, thanh niên mới thật là người
chủ tương lai của nước nhà”37. Trong buổi nói chuyện tại đại hội đại biểu toàn quốc Hội liên
hiệp thanh niên Việt Nam (15/10/1956), Người cũng nói: “Ngày nay, thanh niên là cơng dân
của nước Việt Nam độc lập, tự do, có Đảng, có Đồn của mình, có chính quyền, có Mặt trận,
có qn đội của mình, là người chủ tương lai của nước nhà mình”38. Tại Đại hội thanh niên
tích cực lao động xã hội chủ nghĩa (17/3/1960), Người một lần nữa nhắc lại: “Thanh niên là
người chủ tương lai của nước nhà”39,…
Chính vì là chủ tương lai của nước nhà nên thanh niên cũng có vai trị quan trọng đối với
sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Sự nghiệp cách mạng của chúng ta, con đường cách mạng
mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho dân tộc ta là hai cuộc cách mạng không tách rời nhau
là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thanh niên là chủ
tương lai của nước nhà nên cũng là lực lượng xung kích quan trọng trong cả hai cuộc cách
mạng đó. Dù trong bất kỳ hồn cảnh nào, dù cho có khó khăn, gian nan, vất vả và cực khổ
đến đâu thanh niên ta cũng luôn thể hiện rõ vai trị đó và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng ln
Hồ Chí Minh tuyển tập, 1960, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 208
Quang Vinh – Trần Kim Duyên – Văn Song, 2008, Hồ Chí Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên, Nxb. Thơng Tấn,
tr. 58
35
Hồ Chí Minh tuyển tập, 1960, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 278
36
Tân Sinh, 2007, Đời sống mới, Nxb. Trẻ, tr.23
37
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 398
38
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 261
39

Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 106

33

34


15

nhìn nhận và đánh giá vai trị to lớn ấy của thanh niên ta. Trải qua các thời kỳ cách
mạng, dù lịch sử có những lúc thăng trầm, biến cố nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh trước sau
như một vẫn ln khẳng định vai trị xung kích quan trọng của thanh niên đối với sự nghiệp
cách mạng: “thanh niên là những đội quân xung kích trên các mặt trận, là đại biểu cái tinh
thần tự tôn, tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại”40.
Tinh thần xung kích của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng được Chủ tịch Hồ
Chí Minh ghi nhận ở sự đóng góp lớn lao của thanh niên đối với cách mạng, sự anh dũng hy
sinh của thanh niên vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì cơng cuộc kiến thiết, xây dựng nước
nhà, vì chủ nghĩa xã hội. Người nói: “Trong những năm hoạt động bí mật cực kỳ oanh liệt
mà cũng cực kỳ gian nan, Đảng đã hy sinh rất nhiều, thanh niên cũng hy sinh khơng ít. Tiêu
biểu nhất cho sự hy sinh dũng cảm của thanh niên là Lý Tự Trọng.
- Năm 1945, cách mạng tháng Tám thành công, tiếp đến cuộc kháng chiến thắng lợi.
Trong hai phong trào vĩ đại ấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thanh niên ta được rèn luyện
trong khói lửa và đã góp nhiều cơng lao”41.
Người cũng nói thêm: “Từ đó đến nay, có nhiều đồn viên thanh niên đã noi gương
chói lọi của Lý Tự Trọng, đã dũng cảm hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì chủ nghĩa cộng
sản. Như các liệt sĩ Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân và nhiều liệt sĩ khác.
Chúng ta có những thanh niên gan dạ, trung thành như Trần Thị Lý bị địch đánh khảo
chết đi sống lại bao nhiêu lần. Như Nguyễn Thị Châu suốt 1.300 ngày bị địch dùng cực hình
tra tấn. Nhưng các cháu ấy kiên quyết khơng khuất phục kẻ thù, một lịng một dạ trung thành
với Đảng.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây, chúng ta có nhiều thanh niên
anh hùng như Nguyễn Thị Chiên, La Văn Cầu v.v.
Trong cuộc chống Mỹ, cứu nước hiện nay đã trưởng thành nhiều anh hùng thanh niên.
Như Tạ Thị Kiều, tay không mà cướp được đồn giặc. Bùi Minh Kỳ, 20 tuổi, trong bốn trận
đã tiêu diệt 46 tên lính Mỹ và lính Pắc Chung Hy. Trương Văn Hoà, 24 tuổi, trong bốn tháng
đã tiêu diệt 78 tên xâm lược Mỹ và 76 tên ngụy. Nguyễn Văn Điền, 22 tuổi, dù bi thương
nặng, không chịu rời mâm pháo, tự lấy tay nhét ruột vào bụng, vẫn tiếp tục chiến đấu, quyết
tâm hạ máy bay Mỹ, v.v..”42.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ nhìn nhận, đánh giá vai trò của thanh niên với quan
điểm “tĩnh” trong một thời điểm lịch sử nhất định mà Người còn còn nhìn nhận, đánh giá vai
trị của thanh niên với quan điểm “động” theo tiến trình lịch sử, theo các giai đoạn, thời kì
cách mạng. Từ quan điểm đó, Người nhận thấy rằng: “Ở nước ta từ ngày Cách mạng Tháng
Tám thành cơng đến nay, thanh niên đã tích cực tham gia trong mọi mặt công tác, từ tăng gia
sản xuất ở hậu phương đến xung phong chiến đấu ngoài mặt trận”43; “trong mấy năm kháng
chiến, các anh hùng quân đội, các chiến sĩ kiểu mẫu ở nhà máy, nông thôn, ở công trường
(thanh niên xung phong) đại đa số là các thanh niên”44; “trong thời kỳ vận động cách mạng
Dẫn theo TS. Đồn Nam Đàn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, 2008, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr. 51 - 520
41
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 105
42
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 66 - 67
43
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 162
44
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 399
40


16


bí mật, trong những năm kháng chiến cứu nước và trong hai năm qua xây dựng hồ
bình45, thanh niên ta ở bộ đội, ở nhà máy, ở công trường, ở nông thôn, ở cơ quan, ở trường
học đều hăng hái phấn đấu, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp kháng chiến và
kiến quốc của toàn dân”46; “thanh niên là lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an và dân
quân tự vệ, đang hăng hái giữ trật tự, trị an, bảo vệ Tổ quốc”47, “thanh niên là người xung
phong trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hoá, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội”48; “trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước hiện nay, theo tiếng gọi của Tổ quốc, thanh
niên cả nước ta cùng giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lập nhiều
thành tích xuất sắc. […] Khắp thành thị, nơng thôn, miền xuôi, miền núi, thanh niên ta ngày
nay đã thành một đội quân to lớn, hăng hái tiến lên, quyết tâm phấn đấu, hy sinh vì Tổ quốc
thân yêu, vì tiến bộ xã hội”49.
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá vai trò của thanh niên rất to lớn và rất
quan trọng đối với cách mạng, đối với nước nhà. Đó khơng phải là sự nhìn nhận xuất phát từ
ý nghĩ chủ quan của Người mà đó là một sự đánh giá khách quan, khoa học, biện chứng và
logic dựa trên thực tiễn hoạt động của thanh niên ta theo tiến trình của lịch sử dân tộc, tiến
trình của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của thanh
niên có giá trị bền vững, có sức sống trường tồn như là chân lý của thời đại.
2. Nhiệm vụ của thanh niên
Vai trò và nhiệm vụ là hai mặt thống nhất, khơng tách rời nhau của một vấn đề. Chúng
có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Vai trị càng to thì
nhiệm vụ càng lớn, nhiệm vụ có lớn thì mới xứng đáng với vai trị to, hay nói cách khác
nhiệm vụ và vai trị ln có tính tương xứng với nhau. Vai trò và nhiệm vụ của thanh niên
theo tư tưởng Hồ Chí Minh cũng vậy. Nếu như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra vai trò rất to
lớn và rất quan trọng của thanh niên ta là người chủ tương lai của nước nhà, là lực lượng
xung kích quan trọng của cách mạng thì Người cũng chỉ rõ và đề ra những nhiệm vụ hết sức
to lớn của thanh niên ta. Người đặt vấn đề: “Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng
đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để
chuẩn bị cái tương lai đó”50. Và Người cũng cho rằng thanh niên ta là một lực lượng to lớn,
mà “lực lượng lớn thì phải có nhiệm vụ lớn51”, “thanh niên ta có vinh dự to thì cũng có trách

nhiệm lớn”52. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thanh niên có những nhiệm vụ sau đây:
2.1. Thanh niên phải hăng hái xung phong, đi đầu trong mọi lĩnh vực, sẵn sàng
cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của nước nhà
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, bên cạnh sự quan tâm đặc biệt, lòng tin yêu
sâu sắc đối với thanh niên, bên cạnh việc nhìn nhận, đánh giá cao vai trò của thanh niên, Chủ
Tức là việc xây dựng hịa bình ở miền Bắc trong hai năm từ 1954 – 1956.
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 262
47
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 489
48
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 488
49
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 506
50
Hồ Chí Minh tuyển tập, 1960, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 222
51
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 94
52
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 489
45

46


17

tịch Hồ Chí Minh cũng địi hỏi thanh niên ta phải có nhiệm vụ lớn để xứng đáng với vai
trị ấy. Vì thanh niên có vai trị là lực lượng to lớn, là lực lượng xung kích, quan trọng của
cách mạng và là người chủ tương lai của nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln mong muốn
thanh niên ta phải hăng hái đi đầu trong mọi lĩnh vực; sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách

mạng của nước nhà, phải hy sinh, cống hiến nhiều nhất cho đất nước. Người đòi hỏi ở thanh
niên: “Nhiệm vụ của thanh niên khơng phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải
tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm gì cho ích lợi nước nhà nhiều hơn?
Mình đã vì nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?”53.
Trong công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra
nhiệm vụ của thanh niên ta là phải hăng hái tham gia cách mạng, phải sẵn sàng tranh đấu, đi
đầu trong cuộc bảo vệ nền độc lập, tự do của đất nước. Người nói : “Thanh niên là bộ phận
quan trọng của dân tộc. Dân tộc bị nơ lệ thì thanh niên cũng bị nơ lệ. Dân tộc được giải
phóng thanh niên mới được tự do. Vì vậy thanh niên phải hăng hái tham gia cuộc đấu tranh
của dân tộc”54. Về nhiệm vụ này của thanh niên, Người cũng nói một cách rất đơn giản, mộc
mạc và “nên thơ”: “Một lòng bảo vệ nước nhà. Thanh niên như thế mới thật là thanh niên”55.
Người cịn địi hỏi thanh niên phải có tâm thế sẵn sàng chuẩn bị chiến đấu khi thời cơ đến:
“chuẩn bị luôn luôn. Một mặt ủng hộ sự kháng chiến của anh em Nam Bộ; một mặt chuẩn bị
đợi đến lượt mình chiến đấu ở Trung và Bắc Bộ”56. Người căn dặn thanh niên phải kiên trì,
quyết tâm, giữ vững lịng hăng hái, nhiệt tình cơng hiến trong cuộc kháng chiến: “phải có
lịng kiên quyết tham gia kháng chiến để tranh cho kỳ được thống nhất và độc lập, dân chủ
và tự do”57; “Phải nêu cao ý chí chiến đấu, tinh thần cảnh giác cách mạng, cùng quân dân ra
quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược. […] Đem hết nhiệt tình, tài năng của
tuổi trẻ cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước”58. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khơng chỉ gắn nhiệm vụ của thanh niên với vai trò của họ mà còn gắn với quyền lợi của họ.
Người chỉ ra cho thanh niên ta thấy rằng sự hăng hái, hy sinh của họ trong công cuộc kháng
chiến là nhằm giành lại quyền lợi cho dân tộc và cũng là giành lại quyền lợi cho chính mình:
“Hiện nay, quyền lợi chung của dân tộc và riêng của thanh niên ta, đang bị bọn đế quốc
Pháp – Mỹ và lũ phong kiến bù nhìn xâm phạm. Để tranh lại và để giữ gìn quyền lợi của
mình, thanh niên ta:
- Cần phải hăng hái tham gia kháng chiến,
- Cần phải rèn luyện mình thành những chiến sĩ kiên quyết và gan góc, khơng sợ nguy
hiểm, khơng sợ khó khăn,
- Cần phải u lao động và kính trọng của cơng; chống quan liêu, tham ơ, lãng phí,
- Cần phải tuyệt đối yêu Tổ quốc, dũng cảm hy sinh cho Tổ quốc,

- Cần phải gắn chặt lòng yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế chân chính, thật thà
trung thành với nhân dân, với Đảng và Chính phủ”59.
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 455
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 398
55
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 419
56
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 112
57
Quang Vinh – Trần Kim Duyên – Văn Song, 2008, Hồ Chí Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên, Nxb. Thơng Tấn,
tr. 155
58
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 441
59
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 66
53

54


18

Nhiệm vụ của thanh niên không chỉ hăng hái, xung phong đi đầu, sẵn sàng hy
sinh trong công cuộc giữ nước mà trong công cuộc dựng nước, trong công cuộc kiến thiết
nước nhà và xây dựng xã hội chủ nghĩa, thanh niên cũng phải làm đầu tàu. Khi cách mạng
tháng Tám năm 1945 mới thành công, “đất nước ta như ngàn cân treo sợi tóc”, chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa mà đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra sáu nhiệm vụ
cấp bách lúc bấy giờ là: giải quyết nạn đói, giải quyết nạn dốt, tiến hành Tổng tuyển cử, kêu
gọi toàn dân cần kiệm liêm chính, xóa bỏ một số thuế như thuế thân, thuế chợ, thuế đị và
thực hiện tự do tín ngưỡng, lương giáo đồn kết. Trong sáu nhiệm vụ đó thì ba nhiệm vụ

quan trọng, cấp bách hàng đầu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cụ thể cho thanh niên ta
thực hiện, góp sức cùng chính phủ, cùng tồn dân thực hiện thắng lợi ba nhiệm vụ này. Đối
với việc diệt giặc đói, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, Người giao nhiệm vụ cho thanh niên là
phải: “Cứu nạn đói. Mang gạo từ chỗ có đến chỗ khơng. Qun gạo. Khuyến nông, không để
thừa một tấc đất hoang nào”60. Đối với việc diệt giặc dốt, Người đã phát động thực hiện
phong trào Bình dân học vụ, kêu gọi chống nạn thất học và nhiệm vụ của thanh niên là phải
“sốt sắng “trong việc này, phải là “chủ lực quân”. Người nói: “Nay chúng ta đã giành quyền
độc lập. Một trong công việc phải thực hiện cấp tốc lúc này, là nâng cao dân trí. Chính phủ
đã ra hạn trong một năm tất cả mọi người Việt Nam đều phải biết chữ quốc ngữ. Chính phủ
đã lập một Nha bình dân học vụ của nhân dân. […] Công việc này mong anh chị em thanh
niên sốt sắng giúp sức”61. Người cũng chỉ rõ: “Thanh niên là chủ lực quân trong phong trào
bình dân học vụ. Bất kỳ ở đâu cũng phải làm cho thanh niên hiểu rõ nhiệm vụ đó. Học,
thanh niên cũng phải làm đầu tàu, dạy, thanh niên cũng phải làm đầu tàu”62. Đối với việc
Tổng tuyển cử, nhiệm vụ của thanh niên là: “Sửa soạn cho cuộc Tổng tuyển cử. Tuyên
truyền cho dân chúng hiểu cái bổn phận của mỗi người trong cuộc tổng tuyển cử thế nào”63.
Người cũng đòi hỏi: “Nhiệm vụ của thanh niên là xung phong trong ba việc cần yếu nói trên.
Và khẩu hiệu là: làm, phải cho thắng, nhất định không cho bại”64.
Từ năm 1946, chúng ta thực hiện “Đời sống mới” và nhiệm vụ của thanh niên lúc này
là “phải xung phong thực hành “đời sống mới”. Đời sống mới là:
- Hăng hái, kiên quyết, khơng sợ khó, khơng sợ khổ.
- Phải siêng học, phải siêng làm, phải tiết kiệm.
- Việc nên làm (như ủng hộ kháng chiến, tăng gia sản xuất) thì ta khơng chờ ai nhắc
nhủ.
- Việc nên tránh (như tự tư tự lợi) thì ta khơng đợi ai ngăn ngừa”65
Ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc. Phong trào thi
đua ái quốc nhanh chóng lan tỏa trong tồn dân và nhiệm vụ của thanh niên cũng phải hăng
hái, xung phong, đi đầu trong phong trào này. Trong “Thư gửi nam nữ thanh niên và nhi
đồng Nam Bộ” (15/9/1948), Người viết: “Trong phong trào thi đua ái quốc này, Bác mong
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 112
Hồ Chí Minh tuyển tập, 1960, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 222

62
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 206
63
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 113
64
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 113
65
Quang Vinh – Trần Kim Duyên – Văn Song, 2008, Hồ Chí Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên, Nxb. Thông Tấn,
tr. 58

60

61


19

các cháu sẽ cùng với thanh niên và nhi đồng toàn quốc, hăng hái xung phong. Các cháu
phải dũng cảm tiến lên, làm cho xứng đáng là con cháu của Phù Đổng Thiên Vương, của
Trần Quốc Toản. Cho xứng đáng là thanh niên và nhi đồng của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa thống nhất và độc lập”66. Người cũng nói với thanh niên: “Cần phải làm đầu tàu,
làm gương mẫu trong phong trào thi đua yêu nước”67.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đất nước ta bị chia cắt, miền Bắc được
giải phóng, tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, còn miền Nam vẫn tiếp tục kháng chiến
chống giặc ngoại xâm, tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong bối
cảnh lịch sử này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn thanh niên cả nước về nhiệm vụ của
thanh niên là phải hăng hái xung phong, đi đầu trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và kháng chiến chống giặc ngoại xâm ở miền Nam, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước, thống nhất nước nhà. Người dạy: “Thanh niên phải xung phong đến
những nơi khó khăn gian khổ nhất, nơi nào người khác làm ít kết quả, thanh niên phải xung

phong đến làm cho tốt. Xưa kia, lớp thanh niên trước xung phong làm cách mạng, kháng
chiến, trải qua rất nhiều gian nan, nguy hiểm, có khi bị tù đày, tra tấn, có khi bị thương tật,
chết chóc để cho cách mạng thành cơng, kháng chiến thắng lợi. Ngày nay, tuy một nửa nước
ta đã được giải phóng, nhưng lớp thanh niên cũng phải xung phong đến những nơi khó khăn
để xây dựng chủ nghĩa xã hội. […], xung phong để hoàn thành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và giúp đỡ miền Nam”68. Người nhắc nhủ với thanh niên: “Các cháu nên nhớ rằng:
Làm việc ở công trường hoặc ở nơi khác đều là tham gia vào công cuộc củng cố miền Bắc,
chiếu cố miền Nam, để tiến đến thực hiện hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả
nước, cũng đều là nhiệm vụ và vinh dự của thanh niên”69. Người cũng chỉ ra rằng: “Tính
trung bình, thanh niên chiếm độ 1 phần 3 tổng số nhân dân - tức là một lực lượng to lớn. Lực
lượng lớn thì phải có nhiệm vụ lớn. Cho nên trong mọi cơng việc khôi phục kinh tế, củng cố
miền Bắc, chiếu cố miền Nam..., trên các mặt trận đấu tranh để thống nhất nước nhà, toàn
thể thanh niên gái và trai phải cố gắng nhiều nữa, tiến bộ hơn nữa, để làm tròn nhiệm vụ vẻ
vang của thanh niên”70.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, mặc dù hồn cảnh lịch sử ở hai miền Nam, Bắc có khác
nhau nhưng nhiệm vụ của thanh niên hai miền, nhiệm vụ của thanh niên cả nước lúc này đều
là phải hăng hái xung phong, đi đầu trong mọi lĩnh vực, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách
mạng chung của cả nước là chống Mỹ, cứu nước: Người căn dặn thanh niên “không sợ gian
khổ, hy sinh, hăng hái thi đua, tăng gia sản xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu
trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước”71, “Các cháu thanh niên gái cũng như trai hãy thực
hiện tốt “ba sẵn sàng”, xung phong dâng tất cả tinh thần và lực lượng của tuổi trẻ cho sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước, cho Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội”. Người ghi nhận nhiệm vụ
hăng hái xung phong, phục vụ kháng chiến là nhiệm vụ vẻ vang của thanh niên, Người viết:
Quang Vinh – Trần Kim Duyên – Văn Song, 2008, Hồ Chí Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên, Nxb. Thông Tấn,
tr. 74
67
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 306
68
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 620
69

Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 82 - 83
70
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 94 - 95
71
Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, Tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 506 - 507
66


×