Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

TIỂU LUẬN: Hướng mở rộng hoạt động CVTD tại các NHTM Việt Nam (Nghiên cứu tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.36 KB, 80 trang )
















TIỂU LUẬN:

Hướng mở rộng hoạt động CVTD tại
các NHTM Việt Nam (Nghiên cứu tại
NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long)







Lời nói đầu
Phát triển sản xuất hàng hoá tiêu dùng nhằm phục vụ đời sống nhân dân và mở
rộng sản xuất là một trong những chương trình kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta.
Trước đây, do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế cũ, sản xuất hàng hoá còn thấp kém, người


dân chỉ mong “đủ ăn, đủ mặc”. Trong mấy năm gần đây, với dân số gần 80 triệu người,
tăng trưởng kinh tế bình quân 8,2%, nhu cầu về hàng tiêu dùng ở nước ta đã tăng đáng
kể cả về số lượng và chất lượng. Cùng với mức thu nhập ngày càng tăng, đòi hỏi của
người dân cũng tăng lên, không chỉ dừng lại ở mức “đủ” mà cần “ăn ngon, mặc đẹp”.
Trình độ dân trí cao, người ta muốn hưởng thụ sớm và nhiều hơn số tiền kiếm được.
Tâm lý của người dân bây giờ không coi việc đi vay là thể hiện sự túng bấn mà là
muốn sử dụng trước khi có khả năng thanh toán.
Cho vay tiêu dùng (CVTD) thực sự đem lại lợi ích cho cá nhân người tiêu dùng
nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. CVTD giúp cho họ thoả mãn nhu cầu sinh hoạt,
nâng cao chất lượng cuộc sống trong lúc họ chưa đủ điều kiện. Lượng tiêu dùng hàng
hoá tăng lại kích thích sản xuất kinh doanh phát triển và cuối cùng, hoạt động CVTD
đem lại lợi nhuận cho người cho vay.
Tuy nhiên, các NHTM tại TP.Hà Nội còn chậm trễ trong việc tiến hành CVTD,
mới chỉ dừng lại ở một số ít đối tượng với món vay nhỏ lẻ. Trong khi thủ đô Hà Nội là
trung tâm chính trị, kinh tế , văn hoá, thu nhập bình quân cao và nhu cầu về tiêu dùng,
vay tiêu dùng rất lớn. Một thị trường lớn đang bị bỏ ngỏ, liệu các NHTM Việt Nam có
kịp thời hành động nắm bắt khách hàng để mở rộng hoạt động kinh doanh cũng như
cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác?
Qua quá trình nghiên cứu thực tế tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long thời
gian qua, em nhận thấy vấn đề CVTD đã tới lúc thật sự cần sự quan tâm và một hướng
đi phù hợp, vì vậy em đã chọn đề tài “Hướng mở rộng hoạt động CVTD tại các
NHTM Việt Nam (Nghiên cứu tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long )” làm
mục tiêu nghiên cứu.




Ngoài lời cảm ơn, lời nói đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương.
Chương I: Lý luận chung về CVTD
Chương II: Thực trạng hoạt động CVTD tại NHNo&PTNT chi nhánh

Thăng Long
Chương III: Những ý kiến đề xuất nhằm mở rộng hoạt động CVTD tại
NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long
.
















chương i
lý luận chung về cho vay tiêu dùng.
1.1. Tính tất yếu của sự hình thành cho vay tiêu dùng.
1.1.1. Sự hình thành và phát triển cho vay tiêu dùng.
Vào những năm 1980 của thế kỷ 20, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) ở
Mỹ phải tiến hành cải cách với lý do sự cạnh tranh gay gắt ảnh hưởng đến thực hiện
nghiệp vụ của các NHTM. Trong thực tế, sức mạnh cạnh tranh đã và đang tạo ra những
thay đổi trong lĩnh vực công nghệ, dân số học, luật pháp và chính nó sẽ góp phần vào
sự thay đổi về dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, đồng thời làm giảm vai trò của các
NHTM trong hệ thống tài chính, từ đó dẫn đến sự thay đổi cơ cấu của các NHTM. Môi

trường cạnh tranh ngày càng thay đổi một cách nhanh chóng, các ngân hàng không còn
khả năng duy trì như là tham gia cạnh tranh trong hệ thống tài chính. Cuộc khủng
hoảng 1929-1933 đã từng bước xoá đi khả năng đứng vững của các ngân hàng và cuối
cùng đưa tới một hệ thống ngân hàng yếu đuối và không đủ sức cạnh tranh.
Công cụ để các NHTM cạnh tranh với các đối thủ khác không chỉ từ các quỹ tiết
kiệm dài hạn (quỹ tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết kiệm công cộng và các liên
hiệp tín dụng) mà còn từ các công ty tài chính tiêu dùng và công ty thương mại. Cuộc
cạnh tranh xảy ra xuất phát từ những nhà môi giới và những nhà môi giới này đã hình
thành ra “thị trường tiền tệ bán lẻ”. Cuộc cạnh tranh này xuất hiện sau những năm của
thập niên 1970, nhưng phải chờ dến những năm đầu của thập niên 1980, trước đòi hỏi
của các NHTM về “một lĩnh vực tham gia ở mức độ cao hơn”, Quốc hội Mỹ đã cho
phép các NHTM cung ứng “tài khoản thị trường tiền tệ” và dịch vụ môi giới.
Cũng trong giai đoạn này, sự tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật đã tạo ra
nhiều phương tiện liên kết giúp các NHTM có thể đặt quan hệ với mọi khách hàng trên
thế giới. Sự xuất hiện của máy tính nối mạng Internet, kế đó là sự ra đời của máy rút
tiền tự động (Automated Teller Machine - ATMs) đã góp phần nâng cao khả năng cạnh
tranh không chỉ giữa các ngân hàng với nhau mà còn giữa ngân hàng với các tổ chức
tài khác.




Các NHTM đã thực sự lột xác. Sau cuộc khủng hoảng 1930 kinh hoàng nhất
trong lịch sử, hệ thống NHTM đã hết sức nỗ lực trong việc tìm kiếm con đường giành
lại vị trí độc tôn trong hệ thống tài chính của mình. Các NHTM đã mở rộng hoạt động
CVTD và đưa vào thị trường thế chấp bất động sản. Không có con đường nào là hoàn
toàn bằng phẳng. Thời gian đầu, hầu hết các NHTM đã ngần ngại cho vay đối với cá
nhân và hộ gia đình vì họ tin rằng các khoản CVTD nói chung có quy mô rất nhỏ với
rủi ro vỡ nợ tương đối cao, do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế
kỷ nay, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho

những món vay thương mại lớn.
Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc
các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm
năng. Sau đó, nhiều ngân hàng lớn đã thành lập những phòng tín dụng tiêu dùng lớn
mạnh. Đến năm 1987, các NHTM ở Mỹ đã cung cấp 80% khối lượng tín dụng tiêu
dùng, trong đó 45% chủ yếu dựa trên trả góp.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong
những loại hình tiêu dùng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Các ngân hàng đã liên tục
phát triển và trở thành những tổ chức cấp tiêu dùng chính trong lĩnh vực CVTD. Một
trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho ngân hàng có được vị trí thống trị trên lĩnh
vực CVTD là ngân hàng đã không ngừng khai thác nguồn tiền gửi của dân cư và coi
đây là nguồn vốn hoạt động quan trọng nhất. Rất nhiều hộ gia đình sẽ không muốn gửi
tiền của mình vào một ngân hàng nếu họ không thấy được rằng mình sẽ có triển vọng
vay lại tiền từ chính ngân hàng đó khi có nhu cầu.
Ngày nay, ngành kinh doanh tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh theo xu thế
chung của nền kinh tế trên toàn thế giới. Nhiều công ty chuyên môn hoá đã tìm kiếm
nhiều dạng dịch vụ khác nhau, và hiện nay đang mở rộng dần. Phù hợp với việc cung
cấp đa dạng các loại hình dịch vụ, các tổ chức như công ty bảo hiểm, ngân hàng tiết
kiệm bưu điện, công ty chứng khoán Ngày nay đã tham gia vào thị trường tài chính để
cung cấp cho người tiêu dùng mà trước đây lĩnh vực này do công ty tài chính và ngân
hàng thực hiện.




Trong thời gian tới, chương trình tín dụng tiêu dùng sẽ tiếp tục đóng một vai trò
chủ đạo trong dịch vụ ngân hàng cũng như trong quản lý ngân hàng. Xu hướng này
diễn ra bởi vì tín dụng tiêu dùng không chỉ là một trong những khoản mục mang lại lợi
nhuận cao nhất cho ngân hàng mà còn bởi vì người tiêu dùng với trình độ ngày càng
cao sẽ vay nhiều hơn để nâng cao mức sống bản thân trên cơ sở triển vọng về thu nhập

trong tương lai.
1.1.2. Lý do hình thành cho vay tiêu dùng.
Quan sát hoạt động mua bán thông thường, người ta thấy trên thực tế có hiện
tượng phát sinh, người tiêu dùng có mong muốn sử dụng hàng hoá trước khi có khả
năng thanh toán. Đó là nhu cầu tất yếu phát sinh trong cuộc sống hàng ngày của con
người. Theo quan điểm marketing, “nhu cầu” được chia làm 3 cấp độ, đó là nhu cầu tự
nhiên, mong muốn và nhu cầu có khả năng thanh toán.
Nhu cầu tự nhiên là vốn có, là một mặt bản thể của con người, gắn liền với
chính sự tồn tại của bản thân con người như: cơm ăn, áo mặc, nhà ở
Còn mong muốn là nhu cầu tự nhiên nhưng mang tính đặc thù của từng cá nhân
do sự khác biệt về bản tính, thói quen, công việc hay thu nhập Ta thấy nhu cầu tự
nhiên và mong muốn của con người là vô hạn. Tính hữu hạn nằm ở khái niệm thứ ba “
nhu cầu có khả năng thanh toán”, quyết định bởi sự giới hạn của khả năng thanh toán.
Nếu ta lập một bảng thống kê những nhu cầu của một đời người thì đó là một
con số vô hạn. Bởi lẽ nhu cầu con người là một hàm số đồng biến theo thời gian.
Không chỉ dừng lại ở “ đủ ăn, đủ mặc” mà tiến tới là “ăn ngon, mặc đẹp”, nhu cầu
được học hành, được tôn trọng Nhưng xét tại một thời điểm, lợi ích thu được từ món
đồ sử dụng là hoàn toàn khác nhau. Nếu ta có một chiếc xe máy lúc còn trẻ, ta có thể
bớt được sức lực và thời gian, đi làm được nhiều việc. Nhưng nếu cũng chiếc xe máy
lúc có tuổi, khi đó về sức khoẻ ta khó đảm bảo được sự an toàn của bản thân lúc vận
hành, lại không cần thiết phải đi đây đó nhiều. Nhưng lúc tẻ ta chưa có khả năng thanh
toán, phải dành dụm thì sau này mới có thể mua được. Vậy tại sao ta lại không hưởng
thụ ngay từ bây giờ những thứ ta chắc chắn kiếm được trong tương lai? Cũng một ví dụ
tương tự về việc học hành. Bây giờ ta cần tiền để đầu tư đi học, khi ra trường ta có thể
dễ dàng tìm việc và kiếm tiền. Nhưng hiện tại ta lại không có tiền thì ước mơ đi học, có




việc làm tốt cũng bay xa. Vậy tại sao ta lại không thể sử dụng số tiền ta sẽ kiếm được

lúc có việc làm sau này để đi học?
Đó thực sự là một ván đề quan trọng. Làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn giữa
nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán này?
Trên thực tế đã diễn ra hai cách giải quyết. Cách thứ nhất là mua bán chịu.
Nhưng cách này chỉ có lợi đối với người mua và bất lợi đối với người bán và người bán
thu hồi vốn chậm, lại gặp rủi ro đạo đức nếu người mua quỵt. Thế là khi cần tiền để
nhập hàng (đối với người bán hàng) hoặc mở rộng sản xuất (đối với nhà sản xuất kinh
doanh) thì đến lượt người bán dễ rơi vào tình trạng thiếu phương tiện thanh toán. Cách
mua bán chịu hoàn toàn không khả thi, chỉ xảy ra trong trường hợp mua bán những đồ
giá trị thấp, người mua có uy tín, quen biết. Thế còn cách thứ hai. Cách thứ hai là
người mua vay được tiền. Họ sẽ cảm giác là đã đủ phương tiện thanh toán. Cách này
vừa thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và nhà sản xuất cũng bán được hàng.
Bây giờ đứng trên cương vị người bán hàng để xem xét. Ta thấy có hai trường
hợp, người bán hàng là đại lý trung gian chuyên về lưu thông hàng hoá, hoặc người bán
hàng trực tiếp là nhà sản xuất kinh doanh. Người bán hàng thì luôn luôn muốn tiêu thụ
được hàng hoá. Nếu người mua không có phương thức thanh toán thì người bán có thể
bán chịu hàng. Về phía người bán trước hết sẽ được lời mời của người bán cho họ bán
chịu hàng. Tiếp đó người bán cho người đó lại được lời mời tương tự từ người bán
khác. Và cuối cùng là người bán hàng cho những người kia được lời mời từ nhà sản
xuất (lý do là người bán hàng muốn tiêu thụ được hàng hoá một cách nhanh chóng
trong lúc người mua lại thiếu phương tiện thanh toán). Nhưng nhà sản xuất thì không
thể cho vay nhiều tiền, thời hạn lớn được. Bán chịu nhiều hàng, vốn của họ cũng bị ứ
đọng.Vậy là kết thúc quá trình tín dụng thương mại tại đây.
Như Vậy là cần đến một tổ chức thứ ba: hỗ trợ cho cả người mua và người bán
để họ luôn luôn có phương tiện thanh toán đối với các nhu cầu của họ. Không tổ chức
nào đảm nhiệm được vị trí này tốt bằng các tổ chức trung gian tài chính, mà quan trọng
nhất là các NHTM. Thực hiện hoạt động CVTD là ngân hàng đã mở rộng hoạt động
kinh doanh, thu được lợi nhuận- mục tiêu quan trọng nhất của mọi tổ chức kinh tế.





Cuối cùng, CVTD là một hoạt động tất yếu hình thành do yêu cầu của nền kinh
tế, nhằm giải quyết ba vấn đề: người tiêu dùng có nhu cầu vượt quá khả năng thanh
toán, người bán thì mong muốn tiêu thụ được hàng hoá( chấp nhận rủi ro có thể xảy ra)
và những người có tiền muốn tìm kiếm thu nhập từ những hoạt động này.
Đó là ba lí do chính hình thành nên nghiệp vụ cho vay tiêu dùng.

1.1.3 Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM.
Một nhà kinh tế học lớn đã cho rằng: Ba phát minh vĩ đại nhất của loài người là
lửa, bánh xe và ngân hàng trung ương. Như Vậy, chúng ta đã thấy được tầm quan trọng
của hệ thống ngân hàng, huyết quản của nền kinh tế. Hoạt động của ngân hàng tác
động đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các
ngành nghề, tác động đến các biến số vĩ mô kinh tế khác. Sẽ không có một nền kinh tế
vững mạnh nếu không có một hệ thống tài chính phát triển ( Ví dụ ở các nước giàu
mạnh nhất thế giới như Mỹ, Nhật, EU… đều có hệ thống tài chính rất phát triển). Bất
cứ hoạt động nào của ngân hàng, dù là nhỏ cũng sẽ tác động tới nền kinh tế. Hoạt động
CVTD của NHTM cũng đóng một vai trò đáng kể trong đời sống xã hội và nền kinh tế.
1.1.2.1. Đối với người tiêu dùng.
Nhìn chung, có một số nhu cầu tự nhiên được xem là mục tiêu phấn đấu của cả
đời người , là nhu cầu mà bất kì một người bình thường nào cũng cố gắng biến nó trở
thành nhu cầu có khả năng thanh toán. Như nhu cầu về tổ chức hôn lễ, mua nhà, tiện
nghi sinh hoạt, các phương tiện đi lại. Ngoài ra, là các nhu cầu mà con người thoả mãn
càng sớm càng tốt. Chẳng hạn, nhu cầu về học hành của họ hay con cái họ, các nhu cầu
phát sinh khi chuẩn bị một công việc làm ăn mới…
Trong một đời người của cải được tích luỹ dần theo thời gian. Tuỳ điều kiện của
mỗi người, nhưng thông thường việc mua sắm đầy đủ các tiện nghi trong gia đình
thường mất khoảng thời gian dài. Khi đó lợi ích cảm nhận từ việc hưởng thụ đều có xu
hướng giảm dần. Cho nên, người tiêu dùng luôn tìm cách phối hợp khéo léo giữa việc
thoả mãn các nhu cầu với yếu tố thời gian và khả năng thanh toán hiện tại, tương lai(

tìm cách hưởng thụ trước số tiền sẽ có được trong tương lai). Nếu phân tích theo khía
cạnh tài chính, việc mượn tiền trước của ngân hàng để tiêu dùng khiến chúng ta phải




trả lãi thực chất cũng chỉ là cách quy đổi luồng tiền mà ta sẽ có tại một thời điểm nào
đó trong tương lai về thời điểm hiện tại.
Chính vì những nguyên nhân trên, việc ngân hàng thực hiện và mở rộng hoạt
động CVTD sẽ đem đến cho người tiêu dùng những lợi ích tốt nhất. Ta có thể khẳng
định rằng người tiêu dùng là những người được hưởng trực tiếp và nhiều nhất những
lợi ích mà hình thức CVTD mang lại.
1.1.2.2. Đối với nhà sản xuất.
Các nhà sản xuất có thể dễ dàng tìm thấy nhu cầu có khả năng thanh toán về các
mặt hàng tiêu dùng khi các khách hàng đã tìm được nguồn tài trợ. Lợi ích đối với các
nhà sản xuất kinh doanh là gia tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, từ đó đem lại lợi
nhuận, mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường. Khi đó, nhà sản xuất thuê thêm
công nhân, tăng thu nhập cho người lao động; Vậy là CVTD lại gián tiếp đem lại lợi
ích cho xã hội. Nhưng đồng thời, cho vay tiêu dùng tạo ra sự cạnh tranh cao hơn giữa
các hãng sản xuất, các nhà kinh doanh cả về chất lượng, mẫu mã, chủng loại sản phẩm.
Một mặt, thúc đẩy sản xuất phát triển, một mặt người tiêu dùng có nhiều lựa chọn hơn,
qua đó tạo sự năng động cho nền kinh tế.
1.1.2.3. Đối với NHTM.
Hoạt động chủ yếu của các ngân hàng là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả
và sử dụng tiền đó để cho vay kiếm lời. Các NHTM song song với nỗ lực huy động
vốn là khai thác tối đa thị trường tín dụng, nghĩa là đáp ứng tốt nhất các nhu cầu tín
dụng của nền kinh tế. Hoạt động CVTD của ngân hàng đối với các cá nhân có quy mô
nhỏ nhưng số lượng khách hàng tiềm năng và sự đa dạng của nhu cầu lại vô cung to
lớn. Nhu cầu tiêu dùng của khách hàng là vô tận, đó là nền tảng vững chắc của ngân
hàng khi tiến hành CVTD.

Khi tiến hành CVTD, các NHTM đều thấy rằng rủi ro trong hoạt động cho vay
thường nhỏ hơn so với các nghiệp vụ khác. Lãi suất thực ngân hàng áp dụng trong loại
hình CVTD rất cao, điều này khiến cho hoạt động CVTD có tỉ suất lợi nhuận không
nhỏ.
Hơn nữa, xu hướng hoạt động của các NHTM là phát triển đa năng tổng hợp
luôn tìm cách mở rộng các nghiệp vụ cũng như đưa ra các sản phẩm mới. Việc thực




hiện và phát triển CVTD vừa mở rộng được khách hàng cho vay, tận dụng được nguồn
vốn huy động một cách hiệu quả, vừa đa dạng hoá các sản phẩm , dịch vụ ngân hàng.
Từ đó ngân hàng tăng được sức mạnh trong cạnh tranh đồng thời tạo ra được những nét
đặc trưng hấp dẫn riêng.

1.1.2.4. Đối với nền kinh tế.
Một trong các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của xã hội là mức sống của người
dân. Vậy rõ ràng CVTD có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Bởi CVTD
giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống khi chưa có khả năng thanh toán. Thị
trường CVTD đã tạo nên sự sôi động của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo
nguồn vốn cho khu vực sản xuất trong nước, tạo sức hút đầu tư nước ngoài. Với CVTD
mà các NHTM cung cấp chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực sản xuất, cơ hội
kinh doanh cho các doanh nghiệp, thị trường hàng hoá nội địa phát triển.
Bên cạnh các lợi ích về kinh tế, CVTD còn giúp nhà nước đạt được các mục tiêu
xã hội như xoá đói giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người
lao động, giảm tệ nạn xã hội …
Tóm lại, hoạt động CVTD là một tất yếu, phù hợp với sự phát triển của xã hội
và tuân theo quy luật kinh tế. Dù cho là bên nào: người tiêu dùng, người cung cấp,
NHTM hay tổng quan nền kinh tế nói chung đều được hưởng lợi ích từ hoạt động này.
Vì nó thực sự là một hoạt động thiết yếu, đóng góp vai trò không nhỏ trong đời sống xã

hội chúng ta hiện nay.

1.2. Lý luận chung về cho vay tiêu dùng.
1.2.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng
Ngân hàng ra đời và phát triển từ rất sớm, ban đầu là nghiệp vụ giữ tiền hộ, sau
đó phát sinh nghiệp vụ cho vay. Cho đến nay hoạt động của ngân hàng đã được đa
dạng và chuyên môn hoá cao. Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay muợn tiền hoặc tài
sản, trong đó ngân hàng là người cho vay, người đi vay là các tổ chức cá nhân trong xã
hội trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả gốc lẫn lãi tại một thời điểm xác định
trong tương lai.




CVTD là một trong các nghiệp vụ của ngân hàng. Do đó, cho vay tiêu dùng là
quan hệ vay mượn tiền, trong đó ngân hàng là người cho vay, người đi vay là các cá
nhân, người tiêu dùng, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả gốc lẫn lãi tại một
thời điểm xác định trong tương lai. Nhằm giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng
hoá, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo điều kiện cho họ có thể hưởng một
mức sống cao hơn.

1.2.2. Đặc điểm của các khoản cho vay tiêu dùng.
1.2.2.1. Quy mô các khoản vay nhỏ nhưng số lượng lại lớn.
Các khách hàng khi tìm đến ngân hàng nhằm mục đích vay tiêu dùng thông
thường có nhu cầu vay vốn không lớn, thậm chí khá nhỏ. Điều này là do giá của hàng
hoá, dịch vụ tiêu dùng không quá đắt đỏ, hoặc là khách hàng vay vốn đã có sự tích luỹ
từ trước đối với các tài sản có giá trị lớn. Chính điều này đã dẫn đến quy mô của mỗi
món vay tiêu dùng thường rất nhỏ, không thể so sánh với các món vay kinh doanh. Tuy
vậy, trên thực tế tổng quy mô vay tiêu dùng của ngân hàng lại rất lớn. Đó là vì tuy mỗi
món vay tiêu dùng có quy mô nhỏ nhưng do đây là những nhu cầu vay phổ biến, đa

dạng, thường xuyên đối với mọi tầng lớp dân cư nên số lượng khách hàng tìm đến ngân
hàng vay vốn là rất đông, khiến cho tổng quy mô của của CVTD lại trở lên khá lớn.
1.2.2.2. Các khoản CVTD có lãi suất “cứng nhắc”.
Không như hầu hết các khoản cho vay kinh doanh hiện nay với lãi suất thay đổi
theo điều kiện thị trường, lãi suất CVTD thường được cố định ở một mức nhất định,
đặc biệt phổ biến trong CVTD trả góp. Việc chia khoản vay thành nhiều kì hạn trả nợ(
đối với CVTD trả góp ) hoặc quá trình vay và trả nợ được thực hiện nhiều kì một cách
tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng ( đối với CVTD tuần hoàn như thẻ tín dụng, thấu
chi) ngay từ khi bắt đầu thời kì tín dụng khiến lãi suất cho vay mang tính cố định, hầu
như không thay đổi trong suốt quá trình tín dụng. Nguyên nhân chủ yếu các ngân hàng
thương sử dụng lãi suất cố định là do khả năng quản lý va theo dõi cáckhoản nợ của
ngân hàng chưa đủ. Nhưng với trình độ công nghệ ngân hàng hiện nay, các NHTM
hoàn toàn khắc phục được yếu điểm trên. nếu khách hàng có nhu cầu, ngân hàng sẽ
hoàn toàn thực hiện tốt.




1.2.2.3. Các khoản CVTD có rủi ro cao.
Loại hình CVTD luôn chứa đựng những nguy cơ rủi ro khá đáng kể. Rủi ro
trong hoạt động CVTD cao hơn cho vay tài trợ sản xuất - kinh doanh dưới cả hai góc
độ.
Các rủi ro khách quan như suy thoái kinh tế, mất mùa, thất nghiệp, bệnh tật…
Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm cao theo chu kì. Nó tăng lên trong thời kì nền kinh
tế mở rộng, khi mà mọi người dân cảm thấy lạc quan và tin tưởng vào tương lai.
Ngược lại, khi nền kinh tế rời vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình cảm thấy
không tin tưởng, nhất là khi họ thấy tình trạng thất nghiệp tăng lên và họ sẽ hạn chế
việc vay mượn từ ngân hàng.
Ngoài ra, CVTD còn chịu một số rủi ro khách quan như là tình trạng công việc
hay sức khoẻ của khách hàng, từ đó ảnh hưởng đến tình hình tài chính và khả năng trả

nợ của các cá nhân và hộ gia đình. Vì các cá nhân và hộ gia đình thương khó vượt qua
được những khó khăn về tài chính so với các doanh nghiệp. Thêm vào đó là sự ảnh
hưởng của các tổ chức trung gian ( đơn vị, tổ chức có cán bộ công nhân viên vay vốn,
các hội nông dân, các đơn vị chủ quản,… ), đặc biệt là hình thức vay tiêu dùng không
có tài sản đảm bảo cũng mang lại những rủi ro đối với loại hình cho vay này.

1.2.2.4. Chi phí thẩm định các khoản CVTD là khá lớn.
Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục có chi phí lớn nhất trong danh
mục cho vay của ngân hàng. Thực tế là quy mô mỗi món vay tiêu dùng thường rất nhỏ,
thời gian vay không kéo dài, trong khi đó số lượng các món vay tiêu dùng lại rất lớn.
Hơn nữa, các thông tin về các cá nhân thường không đầy đủ và chính xác hoàn toàn.
Điều này khiến cho ngân hàng rất vất vả trong quá trình cho vay, từ khâu tiếp nhận hồ
sơ, thẩm định khách hàng cũng như là quá trình giải ngân, thu nợ. Những điều trên
khiến cho việc thực hiện các khoản vay tiêu dùng đối với ngân hàng là khá tốn kém,
mất nhiều chi phí.
1.2.2.5. Lợi nhuận thu được là khá cao.
Tương ứng với mức rủi ro cao như vậy, các khoản CVTD có được mức lợi
nhuận rất lớn trong các nguồn thu của ngân hàng. Các khoản vay tiêu dùng thường




được định giá rất cao( có mức lãi suất cao) đến mức mà bản thân lãi suất vay vốn trên
thị trường lẫn tỉ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì hầu hết các khoản vay tiêu
dùng mới không đem lại lợi nhuận. Bên cạnh đó, số lượng các khoản vay tiêu dùng là
khá nhiều, khiến cho tổng quy mô của CVTD là rất lớn, cùng với mức lợi nhuận trên
mỗi khoản vay tiêu dùng lớn như vậy khiến cho lợi nhuận thu về từ toàn bộ hoạt động
CVTD là rất đáng kể trong tổng doanh thu của ngân hàng.
Chính vì triển vọng về lợi nhuận cũng như phạm vi đối tượng khách hàng trong
lĩnh vực này mà đối với hầu hết các nước phát triển hiện nay, CVTD đã trở thành một

trong những nguồn thu chủ chốt của các ngân hàng thương mại, và vẫn còn tiếp tục
hứa hẹn về triển vọng phát triển của loại hình cho vay này trong tương lai.
1.2.3. Phân loại cho vay tiêu dùng.
1.2.3.1. Căn cứ vào đối tượng vay.
Trong việc xét duyệt cho vay, yếu tố quan trọng nhất đối với người đi vay là
nguồn trả nợ. Chính vì thế, việc phân loại khách hàng theo công việc và thu nhập sẽ
khiến ngân hàng dễ dàng hơn trong việc sàng lọc các đối tượng vay.
 Phân loại các khách hàng cá nhân theo mức thu nhập
+ Những cá nhân có mức thu nhập thấp.
Nhu cầu về vay của nhóm người này thường rất hạn chế do nguồn thu nhập
thường không đủ để thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng đa dạng của họ. Tuy nhiên,
những người này cũng có các mong muốn chi tiêu không khác mấy so với những
người có thu nhập cao hơn. Vì vậy nếu có biện pháp phù hợp cũng có thể hình thành
được các món hợp lí đến nhóm đối tượng này.
+ Những cá nhân có thu nhập trung bình.
Nhu cầu về vay tiền của nhóm này có xu hướng tăng trưởng ngày càng mạnh.
Việc chạy theo những chi tiêu có tính chất phô trương dẫn đến quá khả năng thu nhập,
hoặc mong muốn chi tiêu ngay lập tức các nguồn tài chính trong tương lai là những
nguyên nhân làm nảy sinh nhu cầu về CVTD của nhóm người này.
+ Những cá nhân có thu nhập cao.
Những người này thường cần tới CVTD với tư cách là những khoản phụ trợ linh
hoạt, trợ giúp thêm vào khả năng thanh toán, đặc biệt khi tiền của họ đã bị trói chặt vào




những khoản đầu tư dài hạn. Mặc dù sự vay mượn nhằm mục đích tiêu dùng của họ chỉ
thể hiện một tỷ trọng nhỏ trong tổng số tài sản mà họ sở hữu, song họ lại thường đụng
chạm đến những món tiền lớn và đó chính là lý do mà các ngân hàng tỏ ra đặc biệt
quan tâm đến nhóm khách hàng đi vay này.

Nói chung, nhu cầu về tiêu dùng của hai nhóm sau là rất cao, thường chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng mức cầu tiêu dùng của các cá nhân. vì lẽ đó, nhu cầu CVTD chủ
yếu đến từ những người có tu nhập trung bình và thu nhập cao.
 Phân loại khách hàng theo tình trạng công việc hay lao động.
Thông thường nhu cầu vay của các cá nhân khác nhau phụ thuộc vào tình hình
tài chính của họ, mà tình hình tài chính lại phụ thuộc vào tình trạng công tác hay lao
động của các cá nhân. Từ khía cạnh này, ta có thể xếp loại khách hàng theo các nhóm
tình trạng công tác hay lao động khác nhau, cụ thể là :
 Những người làm công ăn lương.
 Những người có công việc kinh doanh.
 Những người hành nghề chuyên nghiệp: bác sĩ, chuyên gia tư vấn, kiến
trúc sư, ca sĩ…
 Những người lao động tự do.
Các nhóm khác nhau, mức thu nhập cũng như sự ổn định về thu nhập cũng khác
nhau. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định cấp tín dụng của ngân hàng, quyết
định nguồn hoàn trả vốn và lãi chủ yếu của các cá nhân.
1.2.3.2 Căn cứ vào mục đích vay.
 Cho vay tiêu dùng cư trú.
Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua
sắm, xây dựng hay cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình.
 Cho vay tiêu dùng phi cư trú.
Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho việc trang
trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí, du lịch,
chữa bệnh hay thanh toán tiền viện phí, ma chay, cưới hỏi.
1.2.3.3 Căn cứ vào phương thức hoàn trả.




 Cho vay tiêu dùng trả góp.

Đây là hình thức CVTD trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi)
cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương
thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng kì
của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay.
Đối với loại CVTD này, các ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề cơ bản
sau :
+ Loại tài sản được tài trợ.
Thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu tài sản từ tiền vay đáp ứng được
nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương lai. Khi lựa chọn tài sản để tài trợ,
ngân hàng thường chú ý đến điều này, vì vậy thường chỉ muốn tài trợ cho nhu cầu mua
sắm những tài sản có thì hạn sử dụng lâu bền hay có giá trị lớn. Vì rằng, với những loại
tài sản như vậy, người tiêu dùng sẽ được hưởng những tiện ích từ chúng trong một
khoảng thời gian dài.
+ Số tiền phải trả trước.
Thông thường ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một phần
giá trị tài sản cần mua sắm. Số tiền này được gọi là số tiền trả trước. Phần còn lại, ngân
hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn để một mặt, làm cho người đi vay
nghĩ rằng họ chính là chue sở hữu của tài sản, mặt khách lại có tác dụng hạn chế rủi ro
cho ngân hàng. Một khi không cảm nhận được rằng mình là chủ sở hữu của tài sản
hình thành từ tiền vay thì người vay có thể sẽ có thái độ miễn cưỡng trong việc trả nợ.
Ngoài ra, khi khách hàng không trả nợ, trong nhiều trường hợp, ngân hàng đành phải
tiếp nhận và phát mãi tài sản để thu hồi nợ. Hâù hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị
giảm giá trị, tức là giá trị thị trường nhỏ hơn giá trị hạch toán của tài sản, cho nên số
tiền trả trước có một vai trò rất quan trọng giúp ngân hàng hạn chế rủi ro.
Số tiền trả trước thường phụ thuộc vào các yếu tố sau :
Loại tài sản: đối với các tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả trước
nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số tiền trả trước ít.
Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng.
Môi trường kinh tế.





Năng lực tài chính của người đi vay.
+ Chi phí của khoản vay.
Chi phí khoản vay là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng cho việc sử
dụng vốn. Chi phí này chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có liên quan. Chi
phí khoản vay này phải trang trải được chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động, rủi ro
đồng thời mang lại một phần lợi nhuận thỏa đáng cho ngân hàng.
 Cho vay tiêu dùng phi trả góp.
Theo phương thức này, tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ
một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản CVTD phi trả góp được cấp cho các khoản
vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.
 Cho vay tiêu dùng tuần hoàn
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn là các khoản CVTD trong đó ngân hàng cho phép
khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên
tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn cho vay thoả thuận trước, căn
cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng thời kỳ, khách hàngđược ngân
hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn
mức tín dụng.

1.2.3.4 Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho vay
đối với nhà cung cấp để trên cơ sở đó nhà cung cấp trực tiếp bán chịu cho khách hàng.
(1)
(4)
(5)
(6) (2) (3)





Ngân hàng
Công ty
bán l


Người tiêu
dùng





(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng
(HĐ), ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu,
số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu…
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết HĐ mua bán chịu hàng hoá. Thông
thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4) Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng.
(5) Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền nợ cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm sau:
- Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số CVTD.
- Cho phép ngân hàng tiết kiệm, giảm được chi phí trong cho vay.
- Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động ngân
hàng khác.
- Trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ tốt, CVTD gián tiếp

mang tính an toàn cao, giảm bớt rủi ro.
Bên cạnh đó, CVTD còn có những nhược điểm như :
- Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được công ty bán
chịu.
- Thỉếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu
hàng hoá.
- Kỹ thuật nghiệp vụ CVTD gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm kể trên nên có rất nhiều ngân hàng không mặn mà với
CVTD gián tiếp. Ngoài ra còn những ngân hàng nào tham gia vào hoạt động
CVTD này đều có các cơ chế kiểm soát cho vay rất chặt chẽ.
 Cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp là khoản CVTD trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp
xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người vay.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp thường được tiến hành thực hiện thông qua sơ đồ
sau:




(3)


(1) (5) (2) (4)



(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết HĐ vay.
(2) Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ.
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ.
(4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.

(5) Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng.
So với CVTD gián tiếp, CVTD trực tiếp có một số ưu điểm sau:
- Nhân viên ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của mình trong việc
quyết định các khoản vay, hơn là để cho các công ty bán lẻ thực hiện. Ngoài ra,
trong hoạt động của mình, nhân viên của những công ty bán lẻ thường chú trọng
đến việc bán cho được nhiều hàng hóa. Thêm vào đó, tại các điểm bán hàng, các
quyết định cho vay thường được đưa ra vội vàng và như vậy có thể có nhiều
khoản cho vay được cấp không chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp,
do quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối cho vay đối với các khách
hàng tốt của mình. Nếu như người quyết định là ngân hàng, những điều này có
thể được hạn chế.
- Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn so với CVTD gián
tiếp.
- Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có thể
phát sinh, có khả năng làm thoả mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lẫn
ngân hàng.
1.2.3.5 Căn cứ vào thời hạn vay.
Ngân hàng
Công ty
bán l


Người tiêu
dùng





Giống như cho vay tới khách hàng công ty, CVTD cũng có các kỳ hạn ngắn,

trung, dài hạn. Căn cứ vào đối tượng vay cụ thể, vào nguồn trả nợ của người vay, ngân
hàng và khách hàng thoả thuận thời hạn vay vốn và thời hạn trả nợ cuối cùng.
Khoản vay ngắn hạn có thời hạn tối đa là 12 tháng.
Khoản vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng và tối đa tuỳ thuộc vàoquy định
của từng quốc gia (36 tháng hoặc 60 tháng).
Khoản vay dài hạn có kỳ hạn trên mức tối đa quy định cho khoản vay trung hạn.
kỳ hạn của một khoản vay tiêu dùng có thể lên đến 2 năm mà việc thu nợ dựa trên hình
thức trả góp hàng tháng.

1.2.4 Các phương thức và quy trình cho vay tiêu dùng.
1.2.4.1 Các phương thức cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Phương thức 1: Cho vay trả theo định kỳ.
Theo phương thức này,nếu được cấp tiền vay, toàn bộ số tiền vay được ghi nợ
vào tài khoản cho vay và có ghi tài khoản tiền gửi cá nhân, hoặc được giao cho khách
hàng một cách trực tiếp. Thông thường, người vay phải giải trình "mục đích sử dụng"
trong hợp đồng cho vay dùng cho phương thức này.
Kỳ hạn hoàn trả có thể khác nhau, nhưng thông thường không được vượt quá 3
hoặc 5 năm. Trong những chu kỳ đã thoả thuận, thường là 1 lần trên tháng, người vay
tiến hành trả để giảm bớt số tiền nợ. Tiền lãi, khi đó được tính hàng tháng trên số dư
còn lại của khoản tiền vay. Cũng có sự linh hoạt trong phương thức hoàn trả, chẳng hạn
trong trường hợp khác, việc hoàn trả được tiến hành một lần vào thời điểm giao khoản
vay bao gồm cả gốc và lãi.
Ngoài sự linh hoạt về phương thức trả, còn có sự phong phú trong phương thức
sử dụng tiền vay. Ngân hàng cũng cung ứng những khoản ững trước có tính chất dự
phòng, nhgiã là, chỉ một phần khoản ững trước này được đem ra sử dụng trong kỳ hạn
cho phép. Khi đó ngân hàng sẽ áp dụng phí cam kết có thể tính cho toàn bộ số tiền
trong suốt kỳ hạn kể từ khi ngân hàng trao quyền sử dụng, hoặc có thể tính cho số tiền
còn lại thuộc phần chưa dùng đến của khoản ứng trước đã cho phép.





Đối với phương thức đã cho vay này, điều quan trọng là phải xem xét thu nhập
ròng của khách hàng, có nghĩa là tiền lương cộng thêm nguồn thu nhập ròng của khách
hàng trừ đi mọi chi phí cần thiết. Từ đó có thể đánh giá được năng lực hoàn trả của
người vay cũng như quy mô của khoản tiền vay có thể được cấp.
 Phương thức 2 : Thấu chi
Đây là cách thức cho phép một cá nhân rút tiền từ tài khoản vãng lai của anh ta
vượt quá số dư, tới một hạn mức đã được thoả thuận, phương tiện chue yếu là séc.
Nghiệp vụ này mang lại nhiều thuận lợi cho khách hàng sử dụng nó. Khách
hàng chỉ phải trả lãi phần tiền của khoản ứng đã sử dụng theo mức lãi suất đã thoả
thuận; không quy định các đối tượng cụ thể nào. Việc hoàn trả định kỳ không được
thiết lập, khách hàng có thể hoàn trả một số tiền nào đó vào bất kỳ lúc nào đơn giản
bằng cách gửi tiền vào tài khoản. Ngày tái xét được ấn định, thường là trong vòng một
nưm, để cân nhắc xem có nên duy trì hay giảm bớt lượng tiền hoặc yêu cầu phải hoàn
trả vào bất kỳ lúc nào.
Khi cấp khoản tiền thấu chi, giám đốc hoặc cán bộ tín dụng, người có thẩm
quyền quyết định vấn đề này, phát hành một thư nghiệp vụ để khách hàng ký chấp
nhận. Thư nghiệp vụ bao hàm những nội dung chi tiết về khoản tiền thấu chi và điều
kiện để theo đó khoản tiền thấu chi được cấp phát (gồm : hạn mức, lãi suất, yêu cầu
bảo đảm, phí các loại, bảo hiểm, thời điểm tái xét, kỳ hạn nợ ).
Đối với ngân hàng các tài khoản thấu chi cần được kiểm tra định kỳ nhằm xét
xem tài khoản có hoạt động hiệu quả không, có tấm séc nào của chủ tài khoản bị trả về
hay không, khoản khấu trừ có thực sự được dùng vào mục đích thoả thuận hay không
(nếu có), số dư có biến động và cách nộp tín dụng có giao động hay không?
 Phương thức 3 : Thẻ tín dụng
Đây là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng phát hành thẻ tín dụng cho những
người mở tài khoản ở ngân hàng đủ điều kiện cấp thẻ và ấn định mức giới hạn tín dụng
tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng. Phương thức thẻ tín dụng bao gồm một sự
thoả thuận giữa 3 bên : người giữ thẻ, ngân hàng và người bán hàng. Thẻ tín dụng có ý

nghĩa như một sự bảo lãnh của ngân hàng đối với người bán hàng về việc chi trả một




số tiền nhất định của chủ thẻ. Mỗi thẻ có một hạn mức tín dụng nhất định, có thể thay
đổi tuỳ nhu cầu của khách hàng và mức độ tín nhiệm của ngân hàng.
Hệ thống thẻ tín dụng đem lại rất nhiều lợi ích cho chủ thẻ. Đó là phương pháp
thanh toán tiện lợi so với thanh toán bằng tiền mặt hoặc bằng séc trên các phương diện
: sử dụng gọn nhẹ và an toàn về tài chính, có thể dùng thẻ để rút tiền mặt từ các ngân
hàng hoặc để chuyển sang các tài khoản ngân hàng khác. nó tạo ra nguồn tín dụng
được sử dụng ngay tại điểm bán hàng không cần thủ tục. Lệ phí giao dịch giảm với
hoạt động của tài khoản khách hàng. Nhưng hơn cả phạm vi hoạt động của thẻ tín dụng
là ưu điểm khó thay thế đối với các nhà kinh doanh và người du lịch. Đối với ngân
hàng lợi tức thu được từ hoạt động thẻ bao gồm :
Chiết khấu thương mại : Khi người bán hàng gửi hoá đơn đến ngân hàng thanh
toán, ngân hàng sẽ chiết khấu một tỷ lệ phần trăm nhất định (thường từ 2 đến 5%) sau
đó mới trả tiền cho người bán hàng.
Lệ phí hàng năm : ngân hàng thu một lệ phí hàng năm từ chủ thể (ngoài việc thu
tiền các tấm thẻ).
Phí rút tiền mặt ứng trước : bao gồm phí điều hành cộng một tỷ lệ phần trăm
của của tổng số tiền rút ra qua máy rút qua máy rút tiền tự động ATMs hoặc từ các chi
nhánh ngân hàng.
Lãi suất trên số dư nợ ngày đáo hạn : tính theo lãi suất ngân hàng hiện hành
hoặc lãi phạt nếu khách hàng không thanh toán mức tiền tối thiểu vào ngày đáo hạn
trên mức dư nợ thực tế.
Lệ phí chuyển tiền liên ngân hàng : khi chủ thể sử dụng thẻ do ngân hàng phát
hành và tiền thanh toán do ngân hàng khác thu, khi đó tiền chiết khấu thương mại trừ đi
một tỷ lệ phần trăm.
Bên cạnh những điểm mạnh, phương thức thẻ tín dụng cũng có những hạn chế.

Thẻ tín dụng nói chung chủ yếu dùng ở phạm vi bán lẻ, nó không thích hợp với các hoá
đơn có mệnh giá lớn (như mua xe hơi, tàu thuyền…). Mặt khác, giới hạn tín dụng với
hầu hết các khoản tín dụng cũng thấp hơn các khoản chi phí như vậy. Đồng thời, cũng
như séc, thẻ tín dụng cũng bị rủi ro khi nó rơi vào tình trạng bị mất hay đánh cắp nếu




không được xử lý kịp thời, và quan hệ tay ba giữa ngân hàng, khách hàng và người bán
hàng là một quan hệ phức tạp khó xác lập.

1.2.4.2 Các phương thức cho vay tiêu dùng gián tiếp.

CVTD gián tiếp là một hoạt động tái trợ tiêu dùng được ngân hàng thực hiện
htông qua việc mua bán các phiếu bán hàng từ những người bán lẻ hàng hoá, và do
vậy, chính là phương thức tài trợ bán hàng trả góp của các NHTM.
Cho vay trả góp của các ngân hàng thực hiện một trong hai cách sau:
Cách 1:
Ngân hàng, người bán hàng và người mua hàng, thoả thuận với nhau về số tiền
vay, mức và thời hạn trả dần. Cụ thể là : trước tiên, người mua trả trước 20 đến 30%
giá trị của tài sản; người bán giao tài sản cho người mua đồng thời giữ lại chứng từ về
quyền sở hữu tài sản và giao ngân hàng cùng phiếu bán hàng làm thế chấp để thu phần
tiền còn thiếu của người mua từ phía ngân hàng (70-80%), người mua trả góp cho ngân
hàng theo hạn mức, lãi suất và kỳ hạn xác định.
Cách 2:
Cách này, người mua và người bán thực hiện hành vi mua bán chịu nên xuất
hiện kỳ phiếu do người mua ký phát. Người mua ký quỹ 20%-30% giá trị tài sản, cam
kết thế chấp tài sản và người bán giao tài sản cùng chứng từ nhận quyền sở hữu cho
người mua. Ngân hàng cấp tín dụng dưới dạng mua lại các phiếu bán hàng trả góp cho
người bán. Người mua tiến hành trả góp cho ngân hàng theo mức và kỳ hạn được xác

định. Trong trường hợp này, người bán vẫn chịu trách nhiệm về việc thực hiện trả góp
cho người mua.
Cho vay trả góp đem lại những ưu điểm lớn. Việc mua phiếu bán hàng sẽ ít tốn
kém hơn so với các chi phí xét duyệt cho vay trực tiếp. Mặt khác người bán hàng cũng
chịu trách nhiệm giám sát các khoản cho vay trong một giới hạn nào đó (như theo dõi
các tài khoản không trả đúng hạn, việc tái sở hữu, bán hàng hoá tái sở hữu) làm cho chi
phí ngân hàng giảm xuống. Hơn nữa, đây là hình thức tài trợ rất phù hợp với cách thức
mua hàng tiêu dùng lâu bền, có ý nghĩa lớn đối với cả người mua hàng (mua trước khi




có tiền) và với cả người bán hàng (khi không có đủ khả năng tài chính giữ tất cả các
tích trái của họ).
Tuy nhiên, cho vay trả góp cũng có những hạn chế nhất định như không đánh
giá được khách hàng trả góp. Nghiêm trọng hơn, trong quá trình trả góp, người mua trả
lại hàng hoá vì một lý do nào đó. Loại tình huống này thương không xảy ra đối với cho
vay trực tiếp. Những cuộc tranh chấp giữa người mua và người bán như vậy ảnh hưởng
lớn đến kết quả khoản vay. Các khả năng lừa đảo, giả mạo, xuyên tạc cũng nhiều hơn
so với cho vay trực tiếp tư phía người mua hàng.
Vì những hạn chế kể trên, một số ngân hàng không CVTD bằng loại này, hoặc
nếu có thì tuân theo thủ tục rất nghiêm ngặt. Để thích ứng với từng đối tượng khách
hàng, ngân hàng đưa ra các phương thức khác nhau trong quá trình mua các phiếu bán
hàng : phương thức được truy đòi, phương thức không được truy đòi và phương thức
mua lại.
* Phương thức được truy đòi : cho phép ngân hàng thu hồi nợ từ người bán hàng
nếu phiếu bán hàng rơi vào tình trạng quá hạn thanh toán. Lãi suất áp dụng thấp vì
ngân hàng an toàn hơn trong phương thức này.
* Phương thức không được truy đòi: là phương thức mà người bán hàng không
có trách nhiệm đối với các phiếu nợ bán cho ngân hàng. Do có độ rủi ro cao hơn, lãi

suất áp dụng cũng cao hơn, đồng thời các chứng từ cũng được các ngân hàng lựa chọn
kỹ càng.
* Phương thức mua lại: là phương thức thoả thuận không truy đòi hoặc truy đòi
có giới hạn, trong đó người bán hàng được mua lại số dư thực tế chưa thanh toán, khi
mà số dư này đã quá hạn thanh toán.
Các yếu tố xét đến trong cho vay trả góp và cho vay trực tiếp về cơ bản không
khác nhau. Tuy nhiên, do đặc điểm của cho vay trả góp là hoạt động cho vay gián tiếp,
ngân hàng có những nguyên tắc có tính chất bắt buộc chi phối cả những người bán
hàng trả góp nếu muốn bán phiếu nợ cho ngân hàng. Đó là nguyên tắc "khả năng trả
tiền hàng hoá" của người mua (các tiêu thức quan trọng bậc nhất là uy tín, công việc
làm ăn, lợi tức) và nguyên tắc "mức chi trả lần đầu", nó cần phải ở mức chấp nhận
được sao cho mức chi trả nhanh hơn mức giảm hàng hoá.





1.3 Cho vay tiêu dùng tại các NHTM Việt Nam.
1.3.1 Các nguồn cho vay tiêu dùng.
1.3.1.1 Các tổ chức tài chính.
Các công ty tài chính là một định chế cung ứng tín dụng tiêu dùng quan trọng
nhất, xét trong bối cho cảnh tín dụng tiêu dùng đã thực sự phát triển đáng kể. Những
hình thức tín dụng tiêu dùng mà công ty tài chính cung cấp lãi suấtà thuê mua, các
khoản vay cho một số mục đích tín dụng khác.
Phần lớn quỹ của công ty tài chính được hình thành từ tiền gửi của khách hàng,
ngoài ra là các khoản vay của chính công ty, vốn đã góp đủ và lợi nhuận giữ lại.
Các ngân hàng thương mại.
Các ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng trong tài trợ tiêu dùng. Các
hình thức CVTD của NHTM cũng khá đa dạng như: cho vay để mua xe, mua nhà, đi
học, du lịch, đồ dùng thiết bị gia đìnhvà cho vay mua sắm khác. Khác với các nước

phát triển, nơi mà việc đấu giá tài sản thế chấp còn nhiều nhiêu khê và các ngân hàng
còn hạn chế CVTD, thì ở các nước phát triển, CVTD là một loại hình tài sản khá phổ
biến, có khả năng sinh lời cao nhất mà ngân hàng thực hiện.
1.Hiệu cầm đồ.
Đối với người tiêu dùng, các hiệu cầm đồ có khả năng cung cấp các khoản cho
vay quy mô nhỏ, phù hợp với nhu cầu vốn không lớn của khách hàng, đồng thời đây là
những nhu cầu mang tính ngắn hạn, việc mà các ngân hàng thương mại không mấy ưa
thích.
Phần lớn khách hàng của hiệu cầm đồ thuộc nhóm có thu nhập thấp, những
người gặp khó khăn khi vay ngân hàng hay công ty tài chính do chỉ có thể đưa ra
những đảm bảo không hiệu quả, bởi uy tín và tính cách không rõ ràng và quy mô món
vay nhỏ.
Mô hình hoạt động của một hiệu cầm đồ khá đơn giản. Các cá nhân đem các vật
có giá trị đến hiệu cầm đồ để yêu cầu vay một khoản tiền. Lượng tiền được vay phụ
thuộc vào giá trị của vật được cầm cố, bản chất dễ tính, dễ bán và thời gian sử dụng lâu
dài. Những vật cầm cố thường là đồ trang sức, đồng hồ, xe cộ, quần áo




Các chủ hiệu cầm đồ chủ yếu kinh doanh dựa trên vốn của mình, hoặc các
khoản vay công chúng và tiền mặt từ các khoản khác.
1.3.1.2 Công ty bảo hiểm.
Ngành bảo hiểm có vai trò bổ sung trong việc huy động quỹ để tài trợ tiêu dùng.
Các công ty bảo hiểm cho vay chủ yếu tới những người nắm giữ các hợp đồng bảo
hiểm. Các bảo đảm thường là tài sản cầm cố, thế chấp và hợp đồng bảo hiểm. Đồng
thời các công ty bảo hiểm có một số chiến ược kinh doanh hỗ trợ cho vay tiêu dùng
như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm thuê mua, bảo hiểm sự mất giá của taid sản cầm cố
thế chấp.
Nguồn vốn chính là vốn của công ty, thu nhập từ phí bảo hiême, đầu tư đến hạn

và lợi tức từ các khoản cho vay.
1.3.1.3 Ngân hàng tiết kiệm bưu điện.
Tuỳ thuộc vào tờng quốc gia, ngân hàng tiết kiệm bưu điện có thể là chi nhánh
của Tổng cục bưu điện hoặc là một ngân hàng tiết kiệm độc lập. Nó cũng tham gia cùn
ứng vốn, tham gia vào thị trường chiết khấu. Phương thức tín dụng mà ngân hàng cung
ứng tới các cá nhân là : cho vay mua tậu bất động sản, cho vay để sửa chữa nhà cửa,
cho vay mua sắm tiện nghi sinh hoạt và các loại cho vay phục vụ các mục đích khác.
Để có được sự tài trợ của ngân hàng tiết kiệm bưu điện, người xin vay phải thoả
mãn một số điều kiện như phải có tài khoản tiền giử tại ngân hàng, số dư tài khoản tiền
gửi phải đạt tới một mức nhất định. Tài sản mà khách hàng mua là một trong những
bảo đảm cho khoản vay.
Các khách hàng tiềm năng của loại cho vay này là các công dân trong nước hoặc
người cư ngụ lâu năm có mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng bưu điện.
1.3.1.4 Hợp tác xã.
Hợp tác xã (HTX) là kiểu tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có
nhu cầu lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lực theo quy định của pháp luật
nhằm phát huy sức mạnh của tập thể và từng xã viên để giúp nhau thực hiện tốt hơn
các hoạt động sản xuất kinh doanh hay các nhu cầu thiết yếu của đời sống. Trong đó,
có một số loại hình HTX như: HTX tín dụng, HTX tiết kiệm và cho vay, HTX đa mục
đích cung cấp các khoản vay tiêu dùng cho các thành viên.

×