Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

TIỂU LUẬN: Vấn đề môi trường bức bách trong công nghiệp khai thác than là đổ thải. Có nhận xét gì về đổ thải mỏ than cao sơn potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.85 KB, 9 trang )







TIỂU LUẬN:

Vấn đề môi trường bức bách trong
công nghiệp khai thác than là đổ
thải. Có nhận xét gì về đổ thải mỏ
than cao sơn





Lời nói đầu

Được sự tạo điều kiện của trường chúng em đã thực sự trải qua 5 ngày đi
thực tế ở Quảng Ninh rất bổ ích. Trong chuyến đi chúng em thu được rất nhiều
kinh nghiệm kiến thức quý báu. Đã thực sự mắt thấy tai nghe những con người
thực sự có kinh nghiệm đã được qua đào tạo làm việc như thế nào, đã thực sự nhìn
thấy sự giàu có về tài nguyên, khoáng sản danh lam thắng cảnh mà thiên nhiên đã
ưu đãi ban tặng cho đất Quảng Ninh. Qua chuyến đi bọn em đã có cơ hội để củng
cố, cập nhật và nâng cao kiến thức ở trong trường. Bên cạnh đó giúp chúng em
làm quen thu thập số liệu điều tra thực tế. Trên cơ sở đó cùng với kiến thức đã lý
giải một số vấn đề cụ thể mà mình thu được như khai thác tài nguyên không có
khả năng tái sinh và chế biến tài nguyên có khả năng tái sinh, thực trạng ô nhiễm
môi trường, chi phí đầu tư cho bảo vệ môi trường ở cơ sở sản xuất, cơ chế quản lý
môi trường hiện nay ở địa phương





















I- Tổng quan về mỏ than Cao Sơn
- Đặc điểm của tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh là một tỉnh biên giới phía đông bắc của nước Việt Nam,
có phần đất rộng lớn và hơn 4000 đảo lớn nhỏ. Quảng Ninh là một tỉnh trọng điểm
của nước ta với những tiềm năng phong phú.
Địa hình: có đầy đủ các dạng địa hình đồi núi ,đồng bằng, ven biển và
cả hệ thống đảo, thềm lục địa. Đây là một lợi thế để phát triển du lịch và dịch vụ.
Khoáng sản: Quảng Ninh là tỉnh giàu tài nguyên khoáng sản nhất nước
ta: than, quặng sắt, ăngtimoan, đá chứa dầu, ti tan và các loại vật liệu xây dựng.
Thuận tiện cho việc phát triển nghành công nghiệp khai thác nguồn lao động dồi
dào, gần 50% dân số đã tốt nghiệp THCS, thuận lợi cho việc đào tạo nghành nghề

và tiếp thu tiến bộ khoâ học kỹ thuật
Cơ sở hạ tầng: bước đầu đã hình thành một hệ thống cơ sở sản xuất công
nghiệp, các trung tâm thương mại, du lịch, các đô thị và hệ thống giao thông điện
nước, thông tin liên lạc phục vụ cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của dân cư.
Tóm lại, Quảng Ninh là một trong những tỉnh có nền công nghiệp phát triển
sớm nhất của nước ta. Do có bể than chiếm gần một nửa diện tích lãnh thổ, vừa dễ
khai thác, vừa dễ vận chuyển đồng thời lại có một vịnh biển là di sản thiên nhiên
và di sản địa chất của thế giới. Quảng Ninh đã trở nên nổi tiếng là nơi cung cấp
nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện ở phía Bắc và cho công nghiệp sản xuất xi
măng, cũng như là vùng du lịch văn hoá -sinh thái vịnh biển.
* Giới thiệu về mỏ than Cao Sơn
Qua báo cáo của chú Nguyễn Trọng Bình chánh văn phòng công ty than
Cao Sơn đã khái quát cho chúng ta thấy toàn bộ những thông tin về công ty than
Cao Sơn là công ty khai thác than lộ thiên lớn nhất. Trước đây công ty có tên là
mỏ than Cao Sơn và nay đổi thành công ty than Cao Sơn thuộc tổng công ty than
Việt Nam được đầu tư và thiết kế của Liên Xô lập năm 1980 và đã được phê
duỵệt. Từ khi Liên Xô suy sụp chúng ta đã có những ảnh hưởng to lớn đến nghành



than. Hiện nay tất cả các máy móc thiết bị không hoàn chỉnh là của Liên Xô nữa
mà còn có đầu tư thiết kế của Nhật Bản.
+Về vị trí địa lý:
Có diện tích khai thác =10km
2
, độ cao 420 m so với mặt nước biển.
Gồm có hai khuvực: Cao sơn và khe chàm 3.
Có trữ lượng 71triệu tấn.
Tiếp giáp: Mỏ than thống nhất, Khai trường cọc 6 khai trường đèo Nai.
+ Về vị trí kinh tế:

Mỏ than cao sơn là mỏ có trữ lượng lớn nằm ở vị trí hết sức thuận lợi là
trung tâm trong vấn đề vận chuyển. Mỏ có hai đường vận chuyển chính:
Đường sắt: Chở than đến công ty tuyển than Cửa Ông.
Đường ô tô chở than đến các điểm.
Than được chuyển đén công ty than Cửa Ông để sàng tuyển và phân loại
+ Nguồn lực lao động:
Tổng số lao động: 3719 người: trong đó nam 2486 người, nữ 1233 người.
Bộ máy quản lý: 431 người(178 đảng viên).
Có 21 phòng ban.
Công nhân: 2950 người ( 457 đoàn viên).
Gồm có 24 công trường, phân xưởng (mỗi công trường có một chức năng
riêng).
+ Các ngành nghề chính.
Công nhân kỹ thuật 2362 người.
Nghề điện.
Khai thác chế biến than.
Vận hành máy móc.
Nghề cơ khí: gò hàn.
+ Quá trình sản xuất.
Mỏ thành lập năm 1974 đi vào sản xuất năm 1977.



Những năm đầu chủ yếu làm thủ tục hành chính, tổ chức cán bộ, nhân sự,
xây dựng cơ bản sau đó mới đi vào sản xuất.
Năm 1980 mỏ đã khai thác ra tấn than đầu tiên.
+ Về bảo vệ môi trường.
Công ty than Cao Sơn là công ty đi đầu về vấn đề môi trường. Sau khi khai
thác song tiến hành trồng cây xanh hoàn trả đất.
Quá trình đổ thải đúng qui hoạch, phun, tưới nước đoạn đường ô tô vận

chuyển, có biện pháp chống sói mòn, chống sụt lở.
Mỏ đặc biệt quan tâm đến công nghệ khai thác vì công nghệ khai thác tác
động đến tự nhiên, ảnh hưởng đến môi trường.
Hàng năm mỏ trích 1% doanh thu đầu tư cho việc bảo vệ môi trường trong
đó 0,5% đầu tư giải quyết toàn bộ môi trường nội bộ, 0,5% còn lại dùng để giải
quyết vấn đề môi trường chung.

II - Thực trạng về vấn đề đổ thải của công ty
than Cao Sơn
- Qui trình khai thác than lộ thiên.
+ Thiết kế, mở moong khai thác, khoan nổ mìn đề phá vỡ lớp đất đá: Dùng
máy khoan thành hố, đặt thuốc nổ và mìn nổ làm tung lớp đất đá bên ngoài vỉa
than.
+ Bốc xúc: Dùng máy xúc để bốc xúc đất đá thải hoặc than nguyên khai lên
ô tô vận tải cỡ lớn. Máy móc thiết bị ở công đoạn này chủ yếu là nhập từ Pháp,
Thuỷ Điển, Nhật Bản và Liên Xô cũ.
+ Vận chuyển: Dùng ô tô và băng tải để chuyên chở than từ gương than về
bãi chứa và chở đất đá ra bãi thải.
- Vấn đề đổ thải ở mỏ than Cao Sơn.
Theo thiết kế của Liên Xô công suất mỏ là 3 triệu tấn / năm và khối lượng
đất đá bóc 18-20 triệu m
3
/năm. Mặc dù đã được cải thiện của một số chuyên gia
các nước nhưng vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tại.



Cụ thể như một số năm gần đây:
Năm1999: Lượng than khai thác 779000tấn.
Lượng đất đá bóc 3270000 tấn.

Năm 2001: Lượng than khai thác 1270000 tấn.
Lượng đất đá bóc 6450000 tấn.
Tháng 9/2002: Lượng than khai thác 1323000 tấn.
Luợng đất đá bóc 8420000 tấn.
Năm 1980 theo như tính toán của Liên Xô toàn bộ đất dá thải của khu Cao
Sơn chủ yếu đổ ra bãi thải đông Cao Sơn (353,7trm
3
) phần còn lại đổ ra bãi thải
tây Cao Sơn (25trm
3
). Nhưng do thiết kế chỉ mới xem xét riêng lẻ từng mỏ chứa
chưa xem xét trên phương diện tổng thể, việc phát triển khai thác ở mỏ này sẽ ảnh
hưởng đến các mỏ lân cận chưa được xem xét. Mặt khác qua quá trình khai thác và
thăm dò bổ xung cho thấy cấu tạo địa chất mỏ có nhiều thay đổi cần xem xét điều
chỉnh biên giới khai thác mỏ nhằm tối đa tài nguyên than được khai thác bằng
phương pháp lộ thiên. Bãi thải Đông Cao Sơn Và Tây Cao Sơn chưa được mở
rộng diện đổ thải do còn tồn tại một số mỏ và công trường khai thác: Bắc quảng
lợi, H12 Mông Dương,Công trường Yên Ngựa- Thống nhất
Địa hình ở mỏ Cao Sơn chủ yếu là đồi núi trọc nên trong quá trình khai thác
để tìm được vị trí đổ thải đất đá là không khó. Bên cạnh đó sau khi khai thác vấn
đề hoàn nguyên đã giải quyết được rất nhiều lượng đất đá bóc giỡ từ các dây
truyền khác. Nhưng vẫn chưa thể giải quyết triệt để lượng đất đá bốc dỡ. Một số
nơi đất đá có thể đổ thải được nhưng vấn đề đặt ra là bãi thải đó đã phù hợp, hợp
lý hay chưa. Trước mắt có thể giải quyết được vấn đề đổ thải nhưng về lâu dài, về
môi trường, về độ an toàn thì như thế nào.
Do đặc thù của tỉnh Quảng Ninh là phát triển công nghiệp khai thác và du
lịch cho nên vấn đề đổ thải không hợp lý sẽ là một trong những nguyên nhân kìm
hãm phát triển du lịch. Trong quá trình khai thác lượng thải đã làm gây ô nhiễm
nguồn nước, không khí làm ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân. Bây giờ khi
nhắc đến Quảng Ninh, ấn tượng trong một số người là tiếng ồn của công trường




khai thác, sàng tuyển, tiếng nổ mìn, tiếng ô tô chạy, bụi than mù trời một số nhà
dân sống gần mỏ than bị bao phủ một lớp bụi than, đoạn đường có xe công trường
đi qua bụi mù mịt. Dự tính hàng năm sản lượng khai thác than sẽ tăng lên nhằm
đáp ứng nhu cầu tiêu thụ và xuất khẩu, bên cạnh đó lượng đất đá bóc ra sẽ tăng lên
rất nhiều.




Kết luận và kiến nghị

Mỏ Than Cảo Sơn là mỏ than lớn trong vùng than Cẩm Phả. Việc phát triển
của mỏ không chỉ có ý nghĩa trong nội bộ mà nó còn có ý nghĩa rất lớn cho vùng,
tỉnh và đất nước. Ngoài ra hoạt động của Mỏ phải gắn lièn với các hoạt động
chung của thị xã Cẩm Phả. Các hoạt động tương tác hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng
phát triển cũng như làm hạn chế nhau. Thị xã Cẩm Phả là một vùng đất ven biển
với sự kết hợp hài hoà giữa các nhân tố sông suối, đồi núi, đồng bằng. Chúng có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong các hệ thống đó nếu có một hệ tống thay
đổi thì kéo theo các hệ thống khác cũng ảnh hưởng theo. Vì vậy việc khai thác
than của mỏ than Cao Sơn không phải chỉ là vấn đề nội bộ của Công ty than Cao
Sơn hay Tổng Công ty Than mà nó là vấn đề của cả cộng đồng. Điều này có nghĩa
là giải quyết mẫu thuẫn về lợi ích giữa các ngành nghề.
Từ những nhận định đó. Khi xem xét tổng quan về mỏ than Cao Sơn chúng
ta thấy có rất nhiều vấn đề cập nhật môi trường lao động, vấn đề đổ thải cần phải
có giải pháp phù hợp.
Cụ thể qua hiện trạng về đổ thải ở mỏ than Cao Sơn chúng ta thấy có nhiều
vấn đề cấp bách cần được giải quyết. Việc đổ thải không phải là vấn đề có thể giải

quyết ngay một lúc được mà đòi hỏi cần phải có thời gian.
Để cho quá trình khai thác và đổ thải diễn ra thuận lợi đòi hỏi phải có tổ
chức đứng ra giải quyết tìm nơi đổ thải sao cho có tính khoa học, đúng đắn tránh
tình trạng sau một thời gian nữa chúng ta lại phải đối đầu với vấn đề hôm nay.
Vấn đề cũ không những được giải quyết lại nảy sinh thêm vấn đề mới phức tạp,
rắc rối hơn.
Than thì có thể đi tiêu thụ được còn đất đá thải sẽ đọng lại và chúng ta
không thể bỏ mặc được. Vì vậy để khắc phục tình trạng như hiện nay khi xây dựng
bãi thải cần phải:
- Có chuyên gia có kinh nghiệm hướng dẫn



- Phải tính toán trên phương diện toàn diện.
- Tính các tác động tích cực và tiêu cực có thể xảy ra
- Bãi thải phải có tuổi thọ lâu dài, thích nghi với một số biến đổi
- Bố trí bãi thải phải phù hợp, thuận tiện cho quá trình đổ thải.
- Đầu tư hợp lý cho quá trình xây dựng bãi thải.
- Phải có người quản lý phù hợp.

×