Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

TIỂU LUẬN: Tiêu thức, đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm giầy dép Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489 KB, 30 trang )













TIỂU LUẬN:

Tiêu thức, đánh giá khả năng
cạnh tranh của sản phẩm giầy
dép Việt Nam












Lời mở đầu


Cạnh tranh là cơ chế vận hành chủ yếu của cơ chế thị trường, là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế. Cạnh tranh tạo sức ép hoặc kích thích ứng dụng khoa
học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất, cải tiến công nghệ, thiết bị sản xuất và
phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành và giá bán
hàng hoá. Bất kỳ một loại sản phẩm hàng hoá nào, muốn tồn tại, đứng vững, phát
triển và có thị phần cao trên thị trường cần phải có khả năng cạnh tranh ít nhất là
ngang bằng hoặc cao hơn khả năng cạnh tranh của sản phẩm thay thế của đối thủ
cạnh tranh.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế với khu
vực và thế giới, chúng ta sẽ phải đối mặt với cạnh tranh ngày càng gay gắt và khốc
liệt trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. Các nước trên thế giới
cũng dã tìm được chổ đứng cho mình trên thị trường hàng hoá tiêu thụ thiết yếu.
Trước yêu cầu mở rộng thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, đã dẫn đến lúc
chúng ta cần phải có phương hướng và các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá tiêu dùng Việt Nam.
Giầy dép là thứ hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, không thể thiếu trong sinh hoạt
hằng ngày. Làm sao để việc kinh doanh giầy dép đạt hiệu quả tốt nhất là việc rất
khó, để chiếm được thị trường trong nước cũng như các nước trong khu vực, các
nước trên thế giới đòi hỏi sản phẩm phải có ưu thế rõ rệt, muốn vậy sản phẩm của
doanh nghiệp phải có chất lượng tốt phù hợp với giá cả và phải cộng thêm uy
tín của doanh nghiệp trên thị trường. Hiện nay có một số nhãn hiệu Giầy dép được
ưa chuông trên thị trường thế giới như : bitis, adidas ở nước ta cũng có các
thương hiệu lớn như giầy Thượng Đình, công ty giầy gia Hà Nội
Với mong muốn hiểu rỏ hơn về bản chất của cạnh tranh và tìm hiểu về sức
cạnh tranh của mặt hàng giầy dép ở nước ta hiện giờ, Em xin chọn đề tài: "Tiêu
thức, đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm giầy dép Việt Nam” . Qua


đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm giầy
dép Việt Nam trên thị trườngỉtong nứoc và quốc tế. Nội dung của đề tài Em xin đề

cập đến một số vấn đề sau:


-Chương 1: Tiêu thức đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh

-Chương 2: Đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm Giầy Dép Việt Nam
qua các tiêu thức trên

-Chương 3: Kết luận và một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh
của Giầy Dép Việt Nam






Chương 1 : tiêu thức đánh giá và Các yếu tố ảnh hưởng
đến cạnh tranh của sản phẩm


Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản và là động lực phát triển
của nền kinh tế thị trường. Không có cạnh tranh thì không có kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng cạnh tranh là điều kiện cho sự sống còn của
mỗi doanh nghiệp. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị
trường, vì thế từng doanh nghiệp đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược cạnh
tranh phù hợp để vươn lên tới vị thế cao nhất.
Cạnh tranh có thể đưa lại lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác,
song xét dưới góc độ lợi ích toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực. (Ví
dụ: chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn…). Giống như các quy luật sinh
tồn và đào thải tự nhiên đã được Darwin phát hiện, quy luật của cạnh tranh là thải

loại những thành viên yếu kém trên thị trường, duy trì và phát triển những thành
viên tốt nhất và qua đó hỗ trợ đắc lực cho quá trình phát triển toàn xã hội.
1.1.Khái niệm về cạnh tranh của sản phẩm
cạnh tranh được xem xét dưới góc độ hành vi, còn khả năng cạnh tranh lại được đề
cập ở khía cạnh tiềm năng. Đối với một doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh có thể
được hiểu là khả năng sáng tạo ra những sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, quy trình
công nghệ độc đáo, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, nhờ đó
mà tăng nhanh được lợi nhuận và mở rộng thị phần.
Khi nghiên cứu và đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm, các nhà kinh tế
cho rằng phải xem xét khả năng cạnh tranh trên thương trường và phải theo quan
điểm phân tích cạnh tranh động. Như vậy, sẽ có một loạt các yếu tố tác động tới
khẩ năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trên thương trường như: giá cả, chất
lượng sản phẩm, mức độ chuyên môn hoá sản phẩm, năng lực nghiên cứu và phát
triển sản phẩm, năng lực nghiên cứu thị trường, mạng lưới phân phối, dịch vụ sau
bán, sự tin tưởng của khách hàng, sự tin cậy của nhà cung cấp….


Đối với sản phẩm của doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh được đánh giá qua
việc doanh nghiệp đó sử dụng các lợi thế so sánh, công nghệ hiện đại và các điều
kiện thuận lợi khác để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã
độc đáo…đảm bảo tồn tại, đứng vững, phát triển và có khả năng cạnh tranh với
các sản phẩm thay thế cùng loại của các doanh nghiệp khác qua đó nâng cao được
thị phần, lợi nhuận và vị thế của sản phẩm doanh nghiệp trên thị trường.
Nền kinh tế nước ta cũng bước vào hội nhập với các nước trên thế giới với
những cơ hội mới và những thách thức gay gắt, buộc chúng ta phải cân nhắc, tính
toán một cách ghiêm túc và trí tuệ về mặt đường lối, chính sách. Một trong những
vấn đề kinh tế bức xúc hiện nay của chúng ta là: năng lực cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam còn rất yếu kém so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Chỉ
xem xét đến một số yếu tố cơ bản đã cho thấy khả năng cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam đang ngày càng có nguy cơ suy giảm. Tình trạng này thể hiện trên nhiều

mặt, nhiều lĩnh vực: hàng hoá mang nhãn hiệu Việt Nam hiện nay tuy đã có một số
mặt hàng(chưa nhiều) đạt được chất lượng tốt, nhưng nói chung chất lượng chưa
cao, trong khi đó giá thành lại cao hơn một số nước trong khu vực(Thái Lan,
Trung Quốc…) do nhiều nguyên nhân, trong đó đáng lưu ý là do giá đầu vào của
sản xuất nói chung cao, máy móc thiết bị cũ kỹ lạc hậu, hiểu biết về thị trường,
kinh nghiệm và kinh doanh quản lý, công tác tiếp thị, Marketing còn hạn chế, hầu
hết các doanh nghiệp chưa có chiến lược phát triển lâu dài, ổn định mà chỉ mới có
kế hoạch kinh doanh ngắn hạn, thậm chí kế hoạch kinh doanh cho từng thương
vụ…
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình gia nhập AFTA, sự bảo hộ bằng
hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá sản xuất trong nước không
còn tác dụng. Thêm vào đó, việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế
giới (WTO) đã làm cho hàng hoá Việt Nam rất khó khăn trong việc cạnh tranh với
hàng Trung Quốc. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải có sự nỗ lực
rất lớn nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong và
ngoài nước

1.2. Các tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm



Để đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm, các nhà nghiên cứu kinh tế đã
đưa ra rất nhiều tiêu chí khác nhau với các mức độ khác nhau. ở đây, trong phạm
vi bài viết này, chỉ xin nêu một số tiêu chí cơ bản đánh gía khả năng cạnh tranh
của sản phẩm trên thương trường
1.2.1. Chất lượng sản phẩm hàng hoá

Đây chỉ là chỉ tiêu cốt lõi, mang tính chất quyết định trong cạnh tranh. Có thể
hiểu đơn giản rằng “Chất lượng là sự quay trở lại của khách hàng” hay chất lượng
trong sự phù hợp. Theo ngôn ngữ Marketing hiện đại người ta nói “Bán cái thị

trường cần chứ không phải bán cái chúng ta có”.
Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng nhất tạo ra sức hấp dẫn, thu hút
khách hàng đến với doanh nghiệp. Mỗi một sản phẩm có rất nhiều thuộc tính chất
lượng khác nhau, các thuộc tính này được coi là một trong những yếu tố cơ bản
tạo nên lợi thế cạnh tranh của mỗi tổ chức.
Chất lượng góp phần làm tăng uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp, điều này
có tác dụng rất lớn tới quyết định mua hàng của khách hàng. Chất lượng còn góp
phần nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thương trường, đây chính là cơ sở cho
việc duy trì và mở rộng thị trường, tạo điều kiện cho việc phát triển lâu của dài
doanh nghiệp.
Chất lượng góp phần tiết kiệm chi phí trong sản xuất và tiêu dùng cho xã hội,
bên cạnh đó nó góp phần không nhỏ vào việc làm giảm phế thải trong sản xuất và
trong tiêu dùng, từ đó sản phẩm có ưu thế cạnh tranh hơn.
Nâng cao chất lượng là một giải pháp quan trọng thúc đẩy việc tăng khả năng
tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu và lợi nhuận từ đó đảm bảo kết hợp thống nhất
các lợi ích trong doanh nghiệp và xã hội tạo động lực cho việc phát triển doanh
nghiệp.
Là cơ sở cho mỗi doanh nghiệp tự khẳng định mình và vươn ra thị trường quốc
tế.
1.2.2. Giá cả sản phẩm


Giá là một trong các công cụ quan trọng trong cạnh tranh thường được sử dụng
trong giai đoạn đầu của doanh nghiệp khi doanh nghiệp bước vào một thị trường
mới. Hiện nay, tuy mức sống của người dân Việt Nam chúng ta ngày một nâng cao
song độ nhạy của cầu khi giá cả thay đổi còn rất lớn. Do đó công cụ này được sử
dụng cho hầu hết các loại sản phẩm trên thị trường. Cạnh tranh bằng giá thường
được thể hiện qua các biện pháp sau:
* Bán với mức giá hạ và mức giá thấp.
* Kinh doanh với chi phí thấp.

Mức giá có vai trò cực kỳ quan trọng trong cạnh tranh. Nếu như chênh lệch về
giá giữa doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh lớn hơn chênh lệch về giá trị sử
dụng sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp đã
đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so với đối thủ. Vì lẽ đó sản phẩm của
doanh nghiệp sẽ ngày càng chiếm được lòng tin của người tiêu dùng và cũng có
nghĩa là sản phẩm của doanh nghiệp có vị trí cạnh tranh càng cao.
Để đạt được mức giá thấp doanh nghiệp cần xem xét khả năng hạ giá sản phẩm
của đơn vị mình. Có càng nhiều khả năng hạ giá sẽ có nhiều lợi thế so với đối thủ
cạnh tranh. Khả năng hạ giá phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Chi phí về kinh tế thấp.
- Khả năng bán hàng tốt, do đó khối lượng bán lớn.
- Khả năng về tài chính tốt.
Giá cả ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp do đó khi sử dụng
vũ khí này phải chọn thơì điểm hợp lý sẽ mang lại hiệu quả cao bằng không doanh
nghiệp sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn về tài chính. Như thế doanh nghiệp cần phải
kết hợp nhuần nhuyễn giữa giá cả và các bộ phận về chiết khấu với những phương
pháp bán mà doanh nghiệp đang sử dụng, với những phương pháp thanh toán, với
xu thế, trào lưu của người tiêu dùng…
Một sản phẩm có mức giá thành thấp, nghĩa là nó có khả năng chủ động trong
cạnh tranh về giá, sản phẩm đó sẽ có khả năng cạnh tranh cao, có vị thế trên thị
trường. Đó là một trong những yếu tố quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh của
các doanh nghiệp.
1.2.3. Mẫu mã của sản phẩm


Cùng với chất lượng, giá bán của sản phẩm, mẫu mã cũng là một trong các yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Mẫu mã của sản
phẩm phù hợp với sở thích của người tiêu dùng sẽ tạo lợi thế cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường. Thực tế cho thấy, nếu sản phẩm có cùng chất lượng và giá cả
thì sản phẩm nào có mẫu mã đẹp, được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng sẽ tiêu

thụ được nhiều hơn. Để có mẫu mã đẹp, phù hợp, các doanh nghiệp cần đầu tư
thích đáng cho công tác tìm hiểu thị hiếu khách hàng và nghiên cứu đôỉ mới mẫu
mã cho phù hợp với từng thị trường. Đây cũng chính là một trong những điểm yếu
làm cho hàng hoá của Việt Nam có sức cạnh tranh thấp hơn so với hàng hoá của
các nước khác. Một sản phẩm, sau khi được đưa ra thị trường, lại được duy trì trên
thị trường trong một thời gian khá lâu. Chỉ khi nào thấy người tiêu dùng đã chán
sản phẩm đó, doanh nghiệp mới thôi không sản xuất nữa. Điều này có tai hại rất
lớn là, mặc dù khi doanh nghiệp phát hiện ra sự đi xuống trong chu kỳ sống của
sản phẩm và dừng lại không sản xuất nữa nhưng thực ra, trên thị trường vẫn tồn
đọng một khối lượng sản phẩm chưa tiêu thụ được. Khác với chúng ta, các doanh
nghiệp nước ngoài biết kết thúc sản xuất ngay từ khi sản phẩm đang ở đỉnh cao
của chu kỳ sống và đưa ra ngay sản phẩm mới khác. Với cách làm này, nhu cầu
của người tiêu dùng, như ta vẫn thường nói, vẫn đàng trong trạng thái ”thèm
thuồng”(do sản phẩm cũ đã thôi không được sản xuất) thì lại được mời chào bằng
các sản phẩm khác đẹp hơn, lạ hơn, mặc dù, theo các chuyên gia công nghệ đánh
giá, về kết cấu sản phẩm không có sự thay đổi nhiều.
Trong điều kiện hiện nay, khi mức thu nhập và mức sống trung bình của xã hội
đã được nâng cao, nhu cầu về thời trang ngày càng trở nên phổ biến và sâu rộng.
Mặt khác nhu cầu đó lại luôn luôn biến động không ngừng theo xu thế của thời
đại, đặc biệt là xu thế của giới trẻ-một lực lượng khách hàng đầy tiềm năng. Do
đó, vấn đề nghiêm cứu, thiết kế mẫu mốt của sản phẩm cũng trở lên hết sức cấp
thiết đối với thị hiếu của người tiêu dùng. Có như vậy, sản phẩm của doanh nghiệp
mới có vị trí trên thị trường trong điều kiện cạnh tranh rất gay gắt hiện nay.
1.2.4.Các dịch vụ trước, trong và sau khi bán
Khi đánh gía khả năng cạnh tranh của một sản phẩm, không thể không


nhắc đến một nhân tố, đó là các dịch vụ bán và dịch vụ sau khi bán. Trong thời đại
ngày nay, các dịch vụ bán và dịch vụ sau khi bán ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng cạnh tranh của sản phẩm. Một doanh nghiệp có các dịch vụ bán và sau khi

bán hợp lý, sản phẩm của doanh nghiệp đó có khả năng cạnh tranh cao hơn trong
điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Trong quá trình bán hàng, khâu quan
trọng nhất là chào mời khách hàng. Điều này đòi hỏi người bán hàng phải thật sự
tôn trọng khách hàng, lịch sự, ân cần, và chu đáo. Việc tiếp theo là doanh nghiệp
cần phải tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất trong thanh toán, có chính sách tài
chính và tiền tệ hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc mua bán với khách
hàng. Sau khi bán hàng, phải có những dịch vụ như bao bì và giao hàng đến tận
tay người mua, các dịch vụ bảo hành, sửa chữa hàng hoá…Những dịch vụ này
nhằm tạo sự tin tưởng, uy tín của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng. Tuy nhiên
để các dịch vụ trên phát huy được hiệu quả, doanh nghiệp cần cung cấp một cách
nhanh nhất, chính xác nhất, kịp thời nhất….Hiện nay, các doanh nghiệp còn sử
dụng rất rộng rãi các biện pháp như:tổ chức các chương trình khuyến mại, chiết
khấu hàng hoá khi mua với số lượng lớn, tăng gía nhằm thu hút khách hàng, nâng
cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác
nhau, bao gồm các nhân tố thuộc về nội bộ doanh nghiệp và các nhân tố thuộc về
môi trường. Dưới đây xin nêu một vài nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh
của sản phẩm
1.3.1.Các nhân tố thộc về nội bộ doanh nghiệp
1.3.1.1.Công nghệ
Có thể hiểu công nghệ là tổng hợp của rất nhiều các phương tiện kỹ thuật, kỹ
năng, phương pháp được dùng để chuyển hoá các nguồn lực thành một loại sản
phẩm hoặc một loại dịch vụ nào đó.
Thế kỷ XX là thế kỷ của khoa học và công nghệ. Do đó việc phân tích và
phán đoán sự biến đổi công nghệ là rất quan trọng và cấp bách hơn lúc nào hết.


Những ví dụ thường được dẫn ra với sự xuất hiện của điện tử, tin học và công

nghệ sinh học.
Sự thay đổi của công nghệ đương nhiên ảnh hưởng tới chu kỳ sống của một
sản phẩm hoặc một dịch vụ. Thực tế trên thế giới đã chứng kiến sự biến đổi công
nghệ làm chao đảo, thậm chí mất đi nhiều lĩnh vực nhưng đồng thời cũng lại xuất
hiện nhiều lĩnh vực kinh doanh mới, hoặc hoàn thiện hơn. Do vậy, các doanh
nghiệp phải tính tới sự tác động của môi trường công nghệ mà có thái độ ứng xử
phù hợp. Bước sang thế kỷ XXI, là thế kỷ của nền kinh tế tri thức. Thời đại kinh tế
tri thức sẽ thay thế thời đại công nghiệp. Vậy thì các doanh nghiệp phải có đường
đi nước bước như thế nào? là câu hỏi không phải dễ trả lời.
1.3.1.2.Nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực có ý nghiã quan trọng đối với cơ cấu sản xuất,
khả năng cạnh tranh, xuất khẩu của sản phẩm.Đây là nhân tố có ảnh hưởng quyết
định đến chất lượng sản phẩm . Cho dù trình độ khoa học công nghệ có hiện đại
đến đâu thì nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất tác động tới
chất lượng các hoạt động sản xuất sản phẩm và các hoạt động dịch vụ . Trình độ
chuyên môn, tay nghề kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, tinh thần hiệp
tác phối hợp, khả năng thích ứng với sự thay đổi, nắm bắt thông tin của mọi thành
viên trong doanh nghiệp tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Do đó, phát
triển hơn nữa nguồn nhân lực là yếu tố chủ yếu quyết định tốc độ tăng trưởng công
nghiệp, kinh tế và là yếu tố để tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Việt Nam có một nguồn nhân lực dồi dào, người lao động khéo léo, chăm chỉ,
tiền công tiền lương của lao động lại rất thấp. Đó là một lợi thế trong cạnh tranh
của sản phẩm. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, nguồn nhân lực càng rẻ không
còn là một lợi thế so sánh của các doanh nghiệp Việt Nam nữa. Điều đó đòi hỏi
các doanh nghiệp cần có các chính sách nâng cao trình độ, năng lực kinh doanh,
điều hành, quản lý doanh nghiệp của giám đốc, nâng cao trình độ tay nghề của lao
động,trình độ và kiến thức về tiếp thị, tiếp thu khoa học kỹ thuật, trình độ công
nghệ thông tin, chú trọng đến những sáng kiến cải tiến của người lao động ở các
khâu khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời,
doanh nghiệp cần có các hình thức khuyến khích lao động cả về vật chất lẫn tinh



thần, góp phần nâng cao năng suất lao động, khả năng sáng tạo của người lao động
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp.
1.3.1.3.Uy tín, thương hiệu của sản phẩm

Uy tín doanh nghiệp, thương hiệu của những sản phẩm là những tài sản vô hình
rất quan trọng của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp tạo nên sự tin cậy của các nhà cung ứng, và sự tin
tưởng của khách hàng. Điều đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong việc
giành giật khách hàng về phía mình, đặc biệt thực hiện linh hoạt trong khâu hợp
đồng, thanh toán như: quy ước về giá cả, số lượng, kích cỡ, mẫu mã bằng văn bản
hoặc bằng miệng hay thanh toán với các hình thức như bán trả góp, bán chịu, bán
gối đầu…Do vậy uy tín của doanh nghiệp trở thành sắc bén trong cạnh tranh, tạo
cơ hội mở rộng thị phần, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Cùng với uy tín của doanh nghiệp, thương hiệu sản phẩm cũng ảnh hưởng rất
nhiều đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó. Một thương hiệu mạnh có thể
giúp cho các doanh nghiệp đạt được vị thế dẫn đầu trong ngành. Thương hiệu càng
nổi tiếng thì khả năng tăng thị phần của sản phẩm trên thị trường càng cao. Nhờ đó
doanh nghiệp có thể điều tiết thị trường, định gía cao hơn, chi phối làm cho các
đối thủ phải nản lòng khi muốn chia thị phần với họ. Do đó, để nâng cao khả năng
cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một thương hiệu
mạnh. Đây là một công việc rất khó khăn đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của các doanh
nghiệp.

1.3.1.4.Nguồn lực về tài chính
Khả năng về tài chính có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng cạnh tranh của sản
phẩm của doanh nghiệp. Khả năng tài chính được hiểu là quy mô tài chính của
doanh nghiệp và tình hình hoạt động, các chỉ tiêu tài chính hàng năm như tỷ lệ thu
hồi vốn,khả năng thanh toán…Nếu một doanh nghiệp có tình trạng tài chính tốt,

khả năng huy động vốn là lớn sẽ cho phép doanh nghiệp có nhiều vốn để mở rộng
sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị …Điều đó đồng
nghĩa với việc thị trường nội địa cũng như thị trường quốc tế.


1.3.2.Các nhân tố thuộc về môi trường
1.3.2.1.Nhu cầu của khách hàng
Nhu cầu của khách hàng về sản phẩm hàng hoá là một trong những yếu tố
quyết định cường độ cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá đó trên thị trường. Cầu
của sản phẩm tăng tạo cơ hội cho sản phẩm đó tăng doanh số tiêu thụ, tạo cơ hội
cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Ngược lại, cầu giảm dẫn tới cạnh tranh khốc
liệt để các doanh nghiệp giữ được phần thị trường đã chiếm lĩnh. Đe doạ mất thị
trường là điều khó tránh khỏi đối với các doanh nghiệp có sản phẩm không có khả
năng cạnh tranh cao trên thị trường. Mặt khác nhu cầu và thị hiếu của khách hàng
luôn luôn thay đổi nên các doanh nghiệp cần phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu
thị trường, tìm hiểu nhu cầu thị hiếu của khách hàng từ đó có các biện pháp nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, đảm bảo giữ gìn và mở rộng thị phần
của doanh nghiệp trên thị trường.
1.3.2.2. áp lực của sản phẩm cạnh tranh
Nhu cầu của khách hàng về sản phẩm hàng hoá là một trong những yếu tố
quyết định cường độ cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá đó trên thị trường. Sản
phẩm thay thế là sản phẩm khác có thể thoả mãn cùng nhu cầu của người tiêu
dùng. Đặc điểm cơ bản của nó thường có các ưu thế hơn sản phẩm bị thay thế ở
các đặc trưng riêng biệt. Ngày nay, sản phẩm của các doanh nghiệp cạnh tranh với
nhau thông qua việc sáng tạo ra các giá trị mới, giá trị tăng thêm, giá trị cảm nhậ
hơn là giá trị hữu dụng vốn có của nó và người mua, khách hàng cũng bỏ tiền ra để
mua các giá trị đó. Đe doạ mất thị trường là điều khó tránh khỏi đối với các doanh
nghiệp có sản phẩm không có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường. Mặt khác
nhu cầu và thị hiếu của khách hàng luôn luôn thay đổi nên các doanh nghiệp cần
phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu thị hiếu của khách

hàng từ đó có các biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm,
đảm bảo giữ gìn và mở rộng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường
1.3.2.3.Các chính sách vĩ mô của chính phủ
Cùng với các nhân tố về nhu cầu khách hàng, áp lực của sản phẩm cạnh
tranh (sản phẩm thay thế, các nhân tố chính phủ, luật pháp và chính trị tác động


đến doanh nghiệp theo các hướng khác nhau. Chúng có thể tạo ra cơ hội, trở ngại,
thậm chí là rủi ro thật sự cho doanh nghiệp. Chúng thường bao gồm:
- Hệ thống luật pháp.
- Hệ thống chính sách thuế, chính sách về tiền tệ và tỷ giá hối đoái, các quy định về
mức lãi xuất…
Chính phủ cần hoàn chỉnh các chính sách này nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm hướng ra xuất khẩu.




chương 2 : Đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm
Giầy Dép Việt Nam qua các tiêu thức trên.

Ngành da giầy Việt Nam đã được khai sinh từ cách đây hơn 500 năm và có bề
dày lịch sử khá phong phú. Tuy nhiên đến năm 1987,ngành gia dày Việt Nam mới
thực sự trở thành ngành kinh tế kỹ thuật độc lập. Sau 15 năm đổi mới, tuy đã có
những lúc thăng trầm, nhưng nhìn chung ngành da giày vẫn có sự tăng trưởng
thường xuyên và đạt được nhiều thành công đáng ghi nhận. Đặc biệt trong bối
cảnh kinh tế Việt Nam từng bước chủ động hội nhập với nền kinh tế khu vực và
thế giới, da giày trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển hàng
tiêu dùng hướng ra xuất khẩu và có những đóng góp quan trọng trong phát triển
kinh tế của Việt Nam. Giầy dép là mặt hàng chủ lực của ngành da giầy Việt Nam.

Do đó, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng giày dép Việt Nam trở
lên hết sức cấp thiết trong quá trình hội nhập nền kinh tế.
2.1.Tổng quan về tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giày dép Việt Nam
2.1.1.Tình hình sản xuất
Cho đến nay, các doanh nghiệp quốc doanh vẫn đóng vai trò chủ đạo trong
ngành kinh tế kỹ thuật này. Tổng năng lực sản xuất đạt 48,528 triệu đôi giày dép.
Tuy nhiên những năm gần đây, ngành da giầy đã chứng kiến sự lên ngôi của các
doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài(FDI). Với lợi thế về vốn, công nghệ, lại
chủ động về thị trường, nên các doanh nghiệp này tăng nhanh sản lượng, kiểm soát
tới 50-65% sản lượng giầy xuất khẩu của Việt Nam
Cơ c
ấu sản phẩm theo loại hình doanh nghiệp
(Đơn vị:1000 đôi)
Chủng loại
sản phẩm
DNquốc
doanh
DN ngoài
quốc doanh
DN 100% vốn
nước ngoài
DN liên
doanh
Tổng sản
phẩm
Giầy thể thao 42547 28226 141537 12888 225200
Giầy vải 39820 8106 10106 5167 63200
Giầy gia 36305 12895 0 0 49200
Các loại
khác

14054 26124 8955 13227 62400


123000 76760 168080 32080 400000
(Nguồn:dự thảo kế hoạch tiếp thị xuất khẩu giầy dép 2001-2010)

Do đặc thù của ngành, năng lực sản xuất cũng có sự khác nhau giữa các khu
vực. Sản xuất của ngành thời gian qua tập trung tại ba khu vực chính. Khu vực
đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh lân cận có ưu thế nằm trên các trục giao
thông thuận tiện, khả năng huy động lao động dễ dàng. Khu vực này hiện chiếm
khoảng 19,3% năng lực sản xuất giầy và đồ gia cả nước, 19,7% sản phẩm da thuộc
và 14,1% đế giày. Khu vực đồng bằng sông Cửu Long với tam giác kinh tế thành
phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai chiếm tới 76% năng lực sản xuất giầy,
73,6% năng lực thuộc da và 84,6% năng lực sản xuất đế giày. Đây được xem là
khu vực lý tưởng với nhiều ưu điểm: giao thông, cầu cảng thuận lợi, các khu công
nghiệp đã được đầu tư sẵn,lực lượng lao động dồi dào,năng động, môi trường đầu
tư hấp dẫn và nhiều ưu đãi. Khu vực miền Trung, từ Thừa Thiên-Huế đến Khánh
Hoà, chiếm3,7%, 6,7% và 1,3% năng lực sản xuất giầy, thuộc da và sản xuất đế
giày. Khu vực này có một ưu điểm nổi trội là giá nhân công rất rẻ, mặt bằng sản
xuất tốt, song lại có bất lợi là cơ sở hạ tầng kém phát triển

SẢN LƯỢNG SẢN XUẤT DA - GIẦY CỦA VIỆT NAM 2001 - 2003
Ngu
ồn: tạp chí
thương mại
Đơn v
ị tính:
triệu đôi

Sản phẩm

2001 2002 2003
1
Giầy vải 37,79 189,43

1.000.000,00
2
Các loại khác 76,43 71,71 1.000.000,00
3
Giầy thể thao 138,30

31,43 100.000,00
4
Giầy nữ 69,50 67,43 10.000,00
Tổng số 322,02

360,00

2.110.000,00




Trong tương lai châu á tiếp tục chiếm phần áp đảo về sản xuất da giầy của thế
giới với 75% sản lượng. Các chuyên gia kinh tế cho rằng sản lượng da giày Việt
Nam sẽ gia tăng tương ứng, nhất là khi nhu cầu giày dép trên thế giới đã gia tăng
trở lại sau thời điểm khủng hoảng 1997-1998. Bởi vậy, vấn đề nâng cao sản lượng
và năng lực xuất khẩu của ngành da giầy sẽ vẫn nhận được mối quan tâm hàng đầu
và sự hỗ trợ cần thiết của Chính phủ Việt Nam trong thời gian tới.
2.1.2.Tình hình tiêu thụ
* Thị trường trong nước

Những năm gần đây, kinh tế Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao, đời sống
của nhân dân ngày càng được cải thiện, nhu cầu thiết yếu về ăn mặc được tăng
cao, tạo điều kiện mở rộng thị trường trong nước. Tuy nhiên, do chưa tập trung
khai thác và đáp ứng thị hiếu của số đông, nên hàng năm chỉ có khoảng 6-8 triệu
đôi giầy da và 20 triệu đôi giầy nữ, giày vải, giầy thể thao…được tiêu thụ tại thị
trường nội địa. Trong khi đó, giầy dép Trung Quốc với mẫu mã đa dạng, kiểu dáng
phong phú được bán với giá rẻ do nhập lậu, trốn thuế đã khiến cho giày dép Việt
Nam bị cạnh tranh gay gắt và tỏ ra yếu thế trên sân nhà.
* Thị trường quốc tế
Cùng với quá trình mở cửa hôị nhập kinh tế quốc tế hướng về xuất khẩu, sản
phẩm giày dép đã từng bước trở thành một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam (đứng vị trí thứ 4 sau dầu thô, dệt may và thủy sản) góp phần
đáng kể vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.Việt Nam đứng thứ 4 thế giới
về xuất khẩu giày dép (sau Trung Quốc,Hồng Kông và Italia). Trong đó, giày thể
thao là mặt hàng xuất khẩu chủ lực chiếm trên 60% kim ngạch xuất khẩu toàn
ngành, tiếp đến là giày nữ trên 20%, giầy vải trên 10%.Thị trường xuất khẩu giầy
dép lớn nhất của Việt Nam là liên minh châu âu(EU), chiếm 85% số lượng giày
dép xuất khẩu và khoảng 35% tổng giá trị xuất khẩu của nước ta vào thị trường
này,kim nghạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vào thị trường EU luôn đạt trên
1 tỷ USD , năm 2003 đạt tới 1,6 tỷ USD. Ngoài thị trường EU, 15% số lượng giày
dép xuất khẩu còn lại của Việt Nam vào Nhật Bản, Mỹ và một số nước khác. Cũng
giống như EU, Mỹ và Nhật Bản là những thị trường đầy tiềm năng với sức mua


lớn. Hàng năm Mỹ nhập khoảng 1,3 tỷ đôi giầy. Kim ngạch xuất khẩu giầy dép
của Việt Nam vào Mỹ cũng được tăng lên trong những năm gần đây
XUẤT KHẨU GIẦY DÉP CỦA VIỆT NAM THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ
NĂM 2003
Đơn vị tính: triệu USD
Thành phần kinh tế Giá trị

Doanh nghiệp nhà nước 454.544.545,00
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 4.545.454,00
Liên doanh 54.545,00
100% Vốn nước ngoài 545.454,00
Công ty cổ phần 45.454,00


Nguồn: VNECONOMY.com
Một thuận lợi khác nữa của giầy dép Việt Nam đó là Vi
ệt Nam có những bạn hàng
truyền thống rất quan trọng tại châu âu là Pháp và Đức đây là 2 qu
ốc gia lớn và có tiếng nói
quan trọng tại EU do vậy hàng hoá của chúng ta xuất khẩu sang EU đang được hư
ởng nhiều
chính sách ưu đãi của EU :Được hưởng ưu đãi trong khuôn kh
ổ GSP , không hạn chế nhập
khẩu bằng hạn nghạch … Chính vì vậy trong th
ời gian qua xuất khẩu giầy dép của Việt Nam
vào thị trường EU năm sau luôn cao hơn năm trước , ngay cả sang năm nay –
năm 2005 ,
giầy dép Việt Nam bị điều tra bán phá giá nhưng những tháng gần đây xu
ất khẩu giầy dép
Việt Nam sang thị trường EU có những tín hiệu đáng mừng :
- Tại Pháp : Do nhiều nguyên nhân khác nhau tác động xấu tới hoạt đ
ộng xuất khẩu
giầy dép Việt Nam nên 5 tháng đầu năm 2005 kim ngh
ạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam
sang Pháp giảm trung bình tới 24% so với cùng kỳ năm 2004, nhưng xu
ất khẩu sang Pháp
trong tháng 7 đã tăng 18,72% so với cùng kỳ , đ

ạt 14,59 USD . Kim nghạch xuất khẩu giầy
thể thao và giầy có mũ bằng nguyên liệu dệt sang thị trường Pháp thang 8/2005 tăng m
ạnh
đã đẩy kim nghạch xuất khẩu giầy dép sang Pháp tăng gần 90% so với cùng kỳ năm 2004 .



- Ti c : c l ca ng quan trng Vit Nam tip cn v a
hng sang ton
khu vc ụng u. Cỏc doanh nghip cn tớch cc tham gia cỏc hi ch ti c
tm hiu
th hiu, bt kp nhng thay i ca th trng v tm kim
i tỏc kinh doanh trong khu vc
ny.
Kim ngch xut khu giy dộp ca nc ta sang th trng c trong 5 thỏng n
m 2005
ú lin tc b gim rt mnh (-28%) so vi cng k nm 2004. Tuy nhiờn, mc
gim sỳt
trong thỏng 6 v thỏng 7 ú chm li, ch gim tng
ng 5,43% v 10,79% so vi cựng k
nm 2004. n thỏng 8/05, kim ngch xut khu t gn 26 triu USD ú tng 6,73% so v
i
cựng k nm 2004. õy l ln u tiờn xut khu sang c tng k t nm 2003 n nay.

0
100
200
300
400
500

600
Italia Phá p Bỉ Hà lan Đ ức Anh
N ớ c NK
G i á Tr ị N K
2001
2002
2003
2004
Biu th hin mc XK giy da sang cỏc nc Chõu u


XUT KHU GIY DẫP CA VIT NAM THEO QUC GIA
NM 2003


Đơn v
ị tính: triệu USD
Quốc gia Giá trị
Đài Loan 4.545,00
Anh 45.454,00
Đức 5.454,00
Pháp 54.545,00
Hàn Quốc 54.563,00

2.2.Các tiêu chí đánh gía khả năng cạnh tranh của sản phẩm giầy dép Việt
Nam
2.2.1.Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là yếu tố đầu tiên và quan trọng ảnh hưởng tới khả năng
cạnh tranh của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm được hình thành trong suốt quá
trình sản xuất do nhiều yếu tố quyết định như: chất lượng nguyên vật liệu, chất

lượng hoạt động của máy móc thiết bị, tình trạng ổn định của công nghệ chế tạo và
đặc biệt là chất lượng của đội ngũ lao động. Đối với sản phẩm giày dép Việt Nam,
chất lượng chưa thể là nhân tố tạo nên lợi thế cạnh tranh bởi rất nhiều hạn chế: hạn
chế về chất lượng nguyên vật liệu(vì nguyên vật liệu chủ yếu là nhập từ nước
ngoài), máy móc thiết bị chủ yếu nhập từ Hàn Quốc, Đài Loan thế hệ những năm
70,80, có trình độ cơ khí hoá nhưng chưa có trình độ tự động hoá, đội ngũ lao
động hầu hết không được đào tạo chính quy…Rõ ràng,về chất lượng, giầy dép
Việt Nam không thể cạnh tranh được với sản phẩm của Tây âu (đặc biệt là Italia)
và Mỹ. Do đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm giầy dép Việt Nam
trên thương trường, cần có các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm như:
đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao trình độ đội ngũ lao động trong ngành…

2.2.2.Giá thành
Cùng với chất lượng sản phẩm, giá thành cũng là một yếu tố rất quan trọng
ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Bên cạnh những thị trường đòi


hỏi cao về chất lượng, còn có rất nhiều thị trường dễ tính hơn về chất lượng nhưng
lại đòi hỏi giá cả thấp, mà về điểm này, Việt Nam rất khó cạnh tranh với hàng
Trung Quốc. Việt Nam hiện vẫn được coi là nước có ưu thế về giá thành do giá
nhân công rẻ, song Trung Quốc vẫn có giá thành rẻ hơn. Ngoài yếu tố chi phí lao
động thấp, hàng Trung Quốc dễ dàng ra nước ngoài hơn do chính phủ nước này có
chính sách ưu đãi khá hấp dẫn đối với hàng xuất khẩu. Một số nhà xuất khẩu giầy
của Việt Nam còn cho rằng các doanh nghiệp Trung Quốc thuận lợi hơn Việt Nam
do có được những đàm phán ở cấp chính phủ. Trung Quốc là một thị trường đông
dân. Bởi vậy, để đổi lại việc chính phủ Trung Quốc mở cửa thị trường này, các
nước khác cũng phải cởi mở hơn đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.Các
chuyên gia cho hay giá giầy dép của Trung Quốc thấp hơn giá bán của Việt Nam
30-40%. Việt Nam chỉ có ưu thế cạnh tranh ở những sản phẩm cỡ trung bình. Nói
tóm lại, sản phẩm giá rẻ không thể cạnh tranh được với sản phẩm của Trung Quốc,

đặc biệt hiện nay Trung Quốc đã gia nhập WTO
2.2.3.Kiểu dáng, mẫu mã
Bên cạnh chất lượng tốt, giá thành hạ, một sản phẩm muốn có khả năng cạnh
tranh cao, chiếm được thị phần lớn trên thị trường cần phải có sự đa dạng và
phong phú về kiểu dáng và mẫu mã. Nếu sản phẩm có cùng chất lượng, cùng giá
cả thì sản phẩm nào có kiểu dáng và mẫu mã đẹp, hợp với sở thích và thị hiếu của
khách hàng thì sản phẩm đó có khả năng tiêu thụ nhanh hơn, dễ dàng hơn. Đặc
biệt trong điều kiện ngày nay, mức thu nhập trung bình của xã hội đã được nâng
cao, đời sống nhân dân được cải thiện, nhu cầu của họ ngày càng tăng và luôn luôn
biến động. Nhu cầu về thời trang là một nhu cầu tất yếu trong xã hội. Cũng giống
như may mặc, nhu cầu thời trang về các sản phẩm giầy dép cũng rất phong phú và
đa dạng. Đối với sản phẩm giầy dép Việt Nam, kiểu dáng và mẫu mã còn là một
điểm yếu làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường. Kiểu
dáng, mẫu mã của sản phẩm giầy dép Việt Nam phần lớn vẫn do bên đặt hàng đưa
ra. Gần đây, chúng ta đã đẩy mạnh công tác tìm hiểu thị trường, tìm hiểu nhu cầu
sở thích của khách hàng, đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu, thiết kế mẫu mã nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường đối với sản phẩm giầy dép. Tuy
nhiên, phải thừa nhận rằng, sản phẩm giầy dép Việt Nam chưa thể cạnh tranh với


sản phẩm của Trung Quốc do sản phẩm của Trung Quốc rất đa dạng, phong phú về
kiểu dáng và mẫu mã
2.2.4.Dịch vụ bán và dịch vụ sau khi bán
Đây cũng là các yếu tố ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng cạnh tranh của
sản phẩm giầy dép Việt Nam. Chúng ta cần có các chính sách nhằm lôi kéo khách
hàng, tạo sự tin tưởng của khách hàng vào sản phẩm, góp phần bảo vệ và mở rộng
thị phần. Các doanh nghiệp cần có các chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi
nhất trong thanh toán, có chính sách tài chính và tiền tệ hợp lý tạo điều kiện thuận
lợi nhất cho việc mua bán với khách hàng. Sau khi bán, phải có những dịch vụ như
bao bì, vận chuyển hàng hoá, các dịch vụ bảo hành…nhằm tạo sự tin tưởng của

khách hàng. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn có thể tổ chức các chương trình
khuyến mại, chiết khấu hàng hóa khi mua với số lượng lớn…
2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu kém của sản
phẩm giầy dép Việt Nam
2.3.1.Về thiết bị công nghệ và nhà xưởng
Do ngành da giầy Việt Nam đi lên từ gia công theo đơn đặt hàng từ nước
ngoài nên công nghệ và thiết bị nhập vào Việt Nam đều nhằm tạo ra những sản
phẩm theo yêu cầu của chủ hàng. Vì thế, hầu hết các thiết bị này đều có xuất xứ từ
Hàn Quốc và Đài Loan thế hệ cuối thập kỷ 70,80, đạt trình độ cơ khí hoá, nhưng
chưa đạt trình độ tự động hoá, đã qua sử dụng nên tuổi thọ ngắn, năng suất thấp.
Về nhà xưởng, đa phần các doanh nghiệp quốc doanh và liên doanh tận dụng các
cơ sở hiện có và cải tạo từ hệ thống kho tàng cũ, chỉ một số ít doanh nghiệp đầu tư
trong vài năm gần đây mới có nhà xưởng khang trang, phù hợp với việc bố trí thiết
bị, công nghệ tiên tiến. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng nhà xưởng còn
chắp vá. Đó là nguyên nhân làm cho ngành da giầy chưa thể sản xuất được các
mặt hàng giầy dép có chất lượng cao với giá cạnh tranh. Do đó chúng ta cần phải
có các biện pháp nâng cấp nhà xưởng, đổi mới, cải tiến máy móc thiết bị nhằm tạo
ra các sản phẩm giầy dép có khả năng cạnh tranh cao trên thương trường.
2.3.2.Về lao động


Ngành da giầy là một ngành sử dụng nhiều lao động của xã hội.Sau 15 năm
đổi mới, lực lượng lao động ngành da giầy ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số lao động của ngành công nghiệp. Nếu như năm 1997, lao
động toàn ngành chỉ chiếm 5,7% thì đến năm 2001 đã chiếm tới 10,8% tổng số lao
động ngành công nghiệp (khoảng 400000 người), trong đó chủ yếu là lao động nữ
(chiếm 80-85%). Tuy nhiên, phần lớn lao động trong ngành được đào tạo dưới
hình thức kèm cặp, chỉ có một số lượng nhỏ được đào tạo chính quy. Phần lớn đội
ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật chuyên ngành được đào tạo ở các nước Đông âu,
Liên Xô(cũ)…vào những năm 70,80. Trong nước chưa có trường, lớp đào tạo kỹ

sư và công nhân kỹ thuật chuyên ngành cung cấp cho ngành công nghiệp da giầy.
Vì thế, những năm gần đây, số cán bộ kỹ thuật hầu như không được bổ sung thêm,
số công nhân kỹ thuật lành nghề còn ít. Do đó năng suất lao động còn thấp, chất
lượng sản phẩm sản xuất ra chưa cao. Điều đó đã làm giảm khả năng cạnh tranh
của sản phẩm giầy dép với các sản phẩm của các nước khác.
2.3.3.Về nguồn nguyên liệu
Hiện nay, nguồn nguyên liệu đang là vấn đề gây nhức nhối cho các nhà quản
lý, sản xuất, kinh doanh giầy dép. Đến nay, chỉ có giầy vải, dép đi trong nhà có
khả năng chủ động cân đối cơ bản nguồn nguyên liệu trong nước; còn lại, các
nguyên liệu cho sản xuất giầy nữ, mũ giầy thể thao gần như phải nhập khẩu hoàn
toàn.
Đối với ngành da, do gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, da thuộc thành
phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất trong nước, nên hàng năm toàn ngành
phải nhập khẩu với số lượng lớn. Ngoài ra, các loại hóa chất, phụ tùng, dụng cụ
phục vụ cho sản xuất hầu như do nước ngoài cung cấp, trong nước chỉ giải quyết
được một số loại thông thường như phom giầy, dao chặt và một số thiết bị băng tải
đơn giản.
Việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu khiến chi phí đầu
vào cao và có thể dẫn đến kết cục các doanh nghiệp không hoàn thành các đơn đặt
hàng, hoặc chậm thời hạn giao hàng. Những nhân tố này đã tácđộng tiêu cực đến
uy tín và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như sản phẩm giầy dép
Việt Nam.


2.3.4.Về chính sách thuế
Những bất cập trong chính sách thuế quan đang níu chân các doanh nghiệp
da giầy, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm giầy dép trên thị trường. Để
ngăn ngừa các doanh nghiệp cố tình nhập khẩu thừa nguyên liệu, theo quy định
hiện hành, các đơn vị này buộc phải tái xuất nguyên liệu thừa hoặc chịu thuế nhập
khẩu 40% nếu bán trong nước. Quy định này khiến các đối tác nước ngoài phải

huỷ bỏ nguyên liệu thừa, vì nếu tái xuất thì cước vận chuyển quá cao, còn bán tại
chỗ thì thuế suất cao, thủ tục lại phức tạp,rườm rà. Mặt khác ngành da giầy Việt
Nam chủ yếu lấy công làm lãi, giải quyết vấn đề việc làm. Trong khi đó nhà nước
đã thu thuế vốn lại thu cả thuế lợi tức, cộng cả hai khoản đã gấp đôi lãi vay ngân
hàng, liệu doanh nghiệp có còn lãi? Thiếu nguyên liệu, lẽ ra nhà nước nên khuyến
khích các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu. Nhưng hiện nay, doanh nghiệp vẫn phải
chịu thuế VAT 10% trong khi phải tự bươn chải, không được đầu tư, giá nguyên
liệu lại gia tăng, da muối trong nước lại xuất khẩu hết sang Trung Quốc,
Campuchia…Đó cũng là nguyên nhân làm cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm
giầy dép không thể ngang bằng được với một số nước khác.
Việt Nam tiếp tục được hưởng ưu đói thuế quan phổ cập GPS khi xuất
khẩu giày dộp vào EU. Cú thể núi cơ hội đối với ngành giày dép Việt Nam
đang đến gần, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, vấn đề là ở
chỗ các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng cơ hội này như thế nào và đến mức
độ nào.
2.3.5.Xu hướng hội nhập kinh tế
Thị trường thế giới mở cửa, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp với
quy luật ”mạnh được yếu thua”. Cơ hội mới mở ra nhưng thách thức cũng liền kề
bởi các sản phẩm giầy dép Việt Nam luôn phải đối đầu với sự cạnh tranh của các
sản phẩm cùng loại của các nước khác, đặc biệt là Trung Quốc.
Trong khi Trung Quốc có lợi thế hơn về nguồn nguyên liệu, thiết kế sản phẩm
và được hưởng ưu thế từ việc tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Thực tế cho thấy, ngay tại thị trường EU, dù nhận được nhiều ưu đãi hơn nhưng
sản phẩm của Việt Nam chỉ chiếm 20% so với tỷ lệ 33% của Trung Quốc. Điều
này có nghĩa là để tăng khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt Nam phải


triển khai đồng bộ từ việc cơ cấu lại sản phẩm, phát triển các mặt hàng thế mạnh
phù hợp với xu hướng tiêu dùng của thị trường thế giới đến các vấn đề về nguyên
vật liệu, thiết kế mẫu mã và khả năng tiếp thị sản phẩm.

Ngoài ra, với việc thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ cùng với
những tiêu chuẩn bắt buộc về môi trường (ISO-14000) và phúc lợi xã hội (SA-
8000) mà phía Mỹ đưa ra đối với doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng hoá vào thị
trường Mỹ, nên các doanh nghiệp phần lớn không thể đáp ứng được điều kiện này
và vì thế khả năng cạnh tranh cũng thua các doanh nghiệp của nước ngoài. Thêm
vào đó, tất cả các sản phẩm giầy dép Việt Nam xuất khẩu qua thị trường Mỹ đều
phải qua đối tác trung gian là Đài Loan mà về phía Việt Nam vẫn chưa thể ký
được hợp đồng bán hàng nào trực tiếp với phía Mỹ. Điều đó cũng là nguyên nhân
dẫn tới khả năng cạnh tranh yếu kém của sản phẩm giầy dép Việt Nam.
Tỡnh hỡnh kinh tế thế giới biến động, những tranh chấp thương mại giữa EU
và Trung Quốc, giữa Mỹ và Trung Quốc, giữa Nhật Bản và Trung Quốc về mặt
hàng dệt may, giày dép sẽ tạo ra những bất lợi cho xuất khẩu giày dép của Trung
Quốc và tạo ra những cơ hội mới thuận lợi cho giày dép Việt Nam.


Chương 3 : Kết luận và một số kiến nghị nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh của Giầy Dép Việt Nam

Mặc dù hiện nay, Việt Nam đang đứng thứ 8 thế giới về xuất nhập giầy dép,
chiếm 2,1% tổng sản lượng giầy thế giới với khả năng sản xuất hàng năm 400
triệu đôi giầy dép các loại. Song ngành công nghiệp da giầy vẫn chưa có được một
quy hoạch tổng thể cho sự phát triển của mình. Việc nghiên cứu, xây dựng ”Quy
hoạch tổng thể phát triển ngành da giầy đến năm 2000” là nhằm đóng góp cho
ngành công nghiệp non trẻ này có được định hướng phát triển đúng, xác định được
những bước đi vững chắc và khai thác có hiệu quả những nguồn lợi mà ngành này
mang lại.
3.1. Xu hướng phát triển của ngành giầy dép trong tương lai
Trong định hướng phát triển chung của ngành da giầy Việt Nam, mục tiêu tổng
thể đã được chỉ ra là: duy trì và phát huy vị trí hiện có (hiện ngành da giầy có kim
ngạch xuất khẩu đứng hàng thứ 4 sau dầu khí, dệt may và thuỷ sản). Đồng thời

khẳng định vai trò và đóng góp đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Trong thời gian tới, sản xuất giầy dép tiếp tục chuyển dịch mạnh từ các
nước công nghiệp trát triển sang các nước đang phát triển có giá lao động rẻ, châu
Á sẽ trở thành khu vực sản xuất giầy dép chính của thế giới. Bên cạnh lợi thế về
nhân lực rẻ, dồi dào, Việt Nam cũn cú vị trí địa lý thuận lợi, điều kiện chính trị ổn
định, Chính phủ đó và đang tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các ngành thu hút
nhiều lao động và có sản phẩm XK. Việc tạo dựng các nhân tố phát triển cho
ngành cũng chính là quá trỡnh nõng cao hàm lượng giá trị gia tăng của giầy dép
sản xuất tại Việt Nam và tăng tính chủ động của cá DN trong sản xuất, kinh doanh.
Ngành da giày Việt Nam đó đặt ra chiến lược phát triển với mục tiêu đến năm
2005 đạt kim ngạch xuất khẩu 3,1 tỷ USD và tăng lên 6,2 tỷ USD vào năm 2010.


Mục tiêu sản xuất nguyên vật liệu phục vụ sx gia dầy đến 2010

×