Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Chơng i
lý luận chung về năng lực cạnh tranh của
ngành sản phẩm sữa Việt nam
I/ những vấn đề lý luận chung về năng lực cạnh tranh
của một ngành sản phẩm:
Nếu sét về năng lực cạnh tranh, chúng ta phải dặt ngành sản phẩm trong hai
môi trờng cạnh tranh cụ thể để phân tích: đó là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong nớc và cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nớc và doanh nghiệp nớc ngoài.
Trong bài này, chỉ lựa chọn đánh giá khả năng cạnh tranh ở tầm vĩ mô, tức là khả
năng cạnh tranh của ngành sản phẩm giữa các đối thủ quốc tế trên cùng một thị tr-
ờng, không đi vào phân tích năng lực cạnh tranh giữa các sản phẩm trong cùng một
nớc.
1.Khái niệm về năng lực cạnh tranh và cách tiếp cận vấn đề :
Vấn đề cạnh tranh, về mặt lý luận, từ lâu đã đợc các nhà kinh tế học trớc
C.Mác và chính các nhà kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã đề cập đến.
Thuật ngữ cạnh tranh đợc dùng ở đây là cách gọi tắt của cụm từ cạnh tranh kinh tế
(Economic Competition ) bằng một dạng cụ thể của cạnh tranh.
Cạnh tranh xuất hiện trong quy trình hình thành và phát triển của sản xuất và
trao đổi hàng hoá. Do đó, hoạt động cạnh tranh gắn liền với sự tác động của các
quy luật thị trờng, nh quy luật giá trị, quy luật cung cầu do các cách tiếp cận
khác nhau, nên trong thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Kế thừa
các quan điểm của các nhà nghiên cứu, chúng ta có thể thấy rằng: cạnh tranh là
quan hệ kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trờng
cùng theo đuổi mục đích, đó là lợi ích (trong đó bao gồm cả vấn đề lợi nhuận tối
Nguyễn Thị Minh Trang
1
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
đa). Cạnh tranh chính là phơng thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các
chủ thể.
Cạnh tranh có thể đợc phân chia thành nhiều loại dựa trên các tiêu thức khác
nhau, nếu xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể kinh tế trong cạnh tranh, có
cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. C.Mác đã dùng cách
phân loại trên đây nghiên cứu cơ sở khoa học của các phạm trù giá trị thị trờng, giá
cả sản xuất và lợi nhuận bình quân. ở đó, C.Mác chỉ rõ trớc hết để đạt mục tiêu bán
cùng một loại hàng hoá đã xuất hiện sự cạnh tranh trong nội bộ ngành, kết quả là
hình thành giá trị thị trờng. Và sau nữa, để đạt mục tiêu giành nơi đầu t có lợi, giữa
các chủ thể kinh tế đã xuất hiện cạnh tranh giữa các ngành, kết quả là hình thành
lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Cuối cùng xét theo phạm vi lãnh thổ ngời ta
nói tới cạnh tranh trong nớc và cạnh tranh quốc tế. Trong trờng hợp này năng lực
cạnh tranh của sản phẩm sữa đợc đánh giá trên góc độ là cạnh tranh trong nội bộ
ngành sản phẩm đồng thời xét theo phạm vi lãnh thổ chúng ta đánh giá và so sánh
khả năng cạnh tranh nh là cuộc cạnh tranh quốc tế, mặc dù vấn đề chúng ta nghiên
cứu chủ yếu là cạnh trên thị trờng trong nớc là chính.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh, các nhà nghiên cứu còn sử dụng các khái niệm
nh sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh. Rõ ràng các khái
niệm trên đều có quan hệ với cạnh tranh nhng không hoàn toàn đồng nhất với nhau.
Trong thực tế, thì sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh trang đợc
sử dụng nh những khái niệm đồng nghĩa. Thuật ngữ năng lực cạnh tranh đợc sử
dụng rộng rãi trong các phơng tiện thông tin đại chúng, trong các sách báo chuyên
môn, trong giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế, các chính khách, nhà
kinh doanh Cho đến nay vẫn ch a có một sự nhất trí cao trong các học giả và giới
chuyên môn về khái niệm và cách thức đo lờng phân tích năng lực cạnh tranh của
cấp quốc gia, ngành, công ty Lý do là ở chỗ có nhiều cách hiểu khác nhau về
năng lực cạnh tranh.
Nguyễn Thị Minh Trang
2
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Trong bài này, trên quan điểm xuất phát của cạnh tranh là bắt đầu từ khi các
doanhh nghiệp phải đơng đầu với những khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trờng
khi cung lớn hơn cầu. Nên chúng ta có thể hiểu khả năng cạnh tranh của ngành sản
phẩm của một nớc chính là điểm mạnh mà đối thủ cạnh tranh không dễ dàng có đ-
ợc (đối thủ cạnh tranh ở đây có thể là các cùng đối thủ cạnh tranh cùng ngành của
một nớc khác hoặc các đối thủ cạnh tranh từ các sản phẩm thay thế ). Điểm mạnh ở
đây, theo M.Porter đó là khả năng doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu của khách hàng
với chi phí sản xuất thấp nhất. Tức là, khả năng cạnh tranh của sản phẩm ở đây có
đợc thể hiện qua giá, có thể là chất lợng hay là sự kết hợp của cả hai mà doanh
nghiệp hay ngành sản phẩm của một nớc có thể cung cấp cho khách hàng của mình
mà vẫn đảm bảo đợc mức lãi xuất cho doanh nghiệp hay cho ngành.
2.Phơng pháp phân tích khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm
sữa:
Phơng pháp phân tích này dựa trên cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của
M.Porter về ngành sản phẩm. Theo M.Porter năng lực cạnh tranh của sản phẩm có
thể dựa vào hai tiêu thức: sản phẩm có giá rẻ hơn so với đối thủ cạnh tranh hoặc là
sản phẩm có giá cao hơn bằng cách tạo ra sự khách biệt. Nhng xét đến sau cùng
M.Porter vẫn cho rằng bản chất khả năng cạnh tranh của một ngành sản phẩm đối
với một nớc là khả năng giảm chi phí sản xuất loại sản phẩm ngành đó.
Do vậy chúng ta có thể sử dụng hai chỉ tiêu sau để đánh giá khả năng cạnh
tranh của ngành sản phẩm:
2.1.Các tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh của sản phẩm:
2.1.1 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm về giá:
Chỉ tiêu này đợc sử dụng với vai trò là một sự so sánh về giá giữa các doanh
nghiệp cạnh tranh. Đây là chỉ tiêu cơ bản quan trọng đầu tiên khi xem xét xem một
sản phẩm nào đó có khả năng cạnh tranh hay không. Bởi thông qua giá, mà doanh
nghiệp có khả năng thu hút ngày càng nhiều hơn khách hàng về phía mình, tất
Nguyễn Thị Minh Trang
3
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
nhiên là trong mối tơng quan với chất lợng sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp
cho khách hàng. Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng nhất là đối với các doanh nghiệp
hay với ngành sản xuất sản phẩm có ít hàm lợng khoa học kĩ thuật, nh hàng tiêu
dùng thông thờng đặc biệt là hàng lơng thực thực phẩm. Nhất là trong điều kiện về
thu nhập của ngời tiêu dùng còn thấp.
Vấn đề khả năng cạnh tranh về giá còn cho thấy chi phí sản xuất của doanh
nghiệp thấp hơn các đối thủ của nó. Điều này thể hiện các hoạt động tạo ra giá trị
của doanh nghiệp có tính u việt hơn các đối thủ cạnh tranh. Chi phí thấp cho phép
doanh nghiệp có khả năng đơng đầu với những diễn biến bất lợi của có tác động
đến giá cân bằng thị trờng.
2.1.2 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm về chất l ợng:
Trớc tiên, chất lợng sản phẩm ít nhất phải đợc xác nhận về chất lợng và quy
trình công nghệ của các cơ quan chuyên trách. Đây là nhân tố đầu tiên đảm bảo
doanh nghiệp thực hiện các tiêu chuẩn cơ bản, đủ t cách sản xuất ra loại hàng hoá
nào đó theo quy định của pháp luật (đối với từng sản phẩm đặc thù đều có những
tiêu chuẩn kiểm định riêng về chất lợng do cơ quan có thẩm quyền đa ra).
Thứ hai đó là chất lợng đợc khẳng định trong tâm trí ngời mua hàng, đó là một
thứ tài sản vô hình vô cùng quý báu của doanh nghiệp nh uy tín, tên tuổi sản phẩm.
Nó thể hiện sự tin tởng vào sản phẩm của khách hàng, tức là khi lựa chọn để sử
dụng loại sản phẩm đó ngời mua nghĩ ngay đến sản phẩm của doanh nghiệp, ngay
cả khi giá sản phẩm có cao hơn thị trờng. Đó là khi, nếu cùng một chủng loại sản
phẩm giá nh nhau, chất lợng sản phẩm sẽ đợc đo bằng số lợng ngời mua lựa chọn
loại sản phẩm của doanh nghiệp, tức là thị phần của doanh nghiệp có đợc trên cùng
một loại sản phẩm. Chất lợng tạo sự tin cậy lâu dài của khách hàng vào sản phẩm
mà doanh nghiệp cung cấp doanh nghiệp nào có uy tín hơn về chất lợng sẽ thắng
thế trong cạnh tranh.
Chất lợng sản phẩm còn đợc đánh giá theo quy trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Nh vậy, chỉ tiêu chất lợng thực ra xét về bản chất nó đã nằm trong chỉ tiêu về
Nguyễn Thị Minh Trang
4
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
giá. Tuy nhiên, trong một số trờng hợp nó đợc chú trọng nhiều hơn, nhất là đối với
các sản phẩm đợc sản xuất và cung cấp với giá cao hơn bằng cách tạo ra sự khác
biệt sản phẩm. Để làm đợc nh vậy, công ty phải tạo ra thế mạnh cơ bản trong một
hoặc một số chức năng sáng tạo ra giá trị.
Nhìn chung các đánh giá cạnh tranh thờng sử dụng trong ngắn hạn, nếu trong
điều kiện cạnh tranh tơng đối hoàn hảo thì khả năng cạnh tranh của một doanh
nghiệp hay một ngành sản phẩm của một nớc đợc biểu hiện ở chỉ số thị phần chiếm
lĩnh đợc. Thế nhng trên thực tế, trong lịch sử kinh tế năng lực cạnh tranh ngành của
một số nớc dựa phần lớn vào chế độ bảo hộ của Chính phủ. Nh việc Chính phủ đa
ra hạn ngạch có thể làm hạn chế sự cạnh tranh của các sản phẩm nhập khẩu do vậy
mà sản phẩm trong nớc mới chiếm lĩnh đợc thị trờng lớn hơn.
2.2.Nội dung phân tích nh sau:
Trong tác phẩm bàn về cạnh tranh toàn cầu, Porter đã tổng hợp phơng pháp
nghiên cứu trong quá khứ, xây dựng mô hình lý luận gồm bốn nhân tố giữ vai trò
mấu trốt đối với sự thành công trong cạnh tranh của một ngành nhất định. Trong
bốn nhân tố này, em kết hợp nhân tố thứ ba và thứ t để thuận lợi hơn trong quá trình
phân tích, nh vậy chỉ còn ba nhân tố cơ bản:
2.Nhu cầu trong nớc.
1.Việc kết hợp các yếu tố sản xuất.
3.Cạnh tranh trong nớc với các doanh nghiệp chủ chốt.
Dựa trên cơ sở lý luận của M.Porter, chúng ta có thể tiến hành phân tích nh
sau:
*Trớc tiên chúng ta phân tích khái quát theo quan sát trên thị trờng xem ngành
sản phẩm đợc sản xuất trong nớc phục vụ cho quy mô thị trờng nh thế nào. Rõ ràng
sản phẩm của một nớc chiếm thị phần lớn, phục vụ đa số khách hàng của thị trờng
thì phải là sản phẩm u điểm nổi trội, tức là có khả năng cạnh tranh. Từ đây chúng ta
có những nhận định ban đầu về khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm.
Nguyễn Thị Minh Trang
5
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
*Sau đó, chúng ta đi vào bản chất vấn đề, những biểu hiện khả năng cạnh
tranh trên thị trờng nhờ vào phân tích thị phần có thể tin cậy đợc hay không. Tức là
chúng ta đi vào đánh giá sức cạnh tranh theo các tiêu chí về giá và chất lợng của
sản phẩm. Nếu sản phẩm có khả năng cạnh tranh thật sự thì những thì việc sản
phẩm có quy mô thị trờng lớn là hoàn toàn hợp lý. Nếu ngợc lại, tức là thị trờng
cạnh tranh không hoàn hảo, không phản ánh đợc thực chất vấn đề.
*Từ việc đánh giá chỉ tiêu cạnh tranh trên sẽ có hai trờng hợp xảy ra:
TH1: Nếu ngành sản phẩm trong nớc có khả năng cạnh tranh chúng ta phân
tích các yếu tố tác động đến sức cạnh tranh của ngành sản phẩm. Từ đó, có các
định hớng giải pháp khắc phục những khó khăn từ các yếu tố tác động.
TH2: Nếu trên tổng thể ngành không có khả năng cạnh tranh, ta có thể phân
tích theo cơ cấu ngành có thể có khả năng phát triển ở những nhóm sản phẩm nào,
nguyên nhân tại sao và có những định hớng gì để khắc phục nếu không thể khắc
phục đợc thì có những chuyển sang hớng đến sản phẩm mới.
Phơng pháp phân tích ở đây chúng ta phân tích theo hớng đặt ngành trong mối
quan hệ cạnh tranh công bằng trên thị trờng, tức là không công nhận khả năng cạnh
tranh nhờ vào chế độ bảo hộ của Nhà nớc. Bên cạnh đó phải chỉ ra đợc khả năng
cạnh tranh của ngành trong tơng lai là có hay không, tức là khả năng giảm giá sản
phẩm của ngành có thể thực hiện đợc hay không.
Cách phân tích khả năng giảm giá của sản phẩm trong điều kiện có đóng góp
của các yếu tố sản xuất từ nớc ngoài, ta dựa vào tỷ lệ phần đóng góp của các yếu tố
đầu vào và quy trình tạo ra giá trị sản phẩm. Trong đó phần nào chiếm tỷ lệ cao
nhất và khả năng nội địa hoá là bao nhiêu. Phần nội địa hoá càng có góp phần tạo
giá trị mới cho sản phẩm càng cao thì khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm đó
càng cao. Vấn đề này càng phải đợc phân tích chặt chẽ khi sản phẩm có chứa
những yếu tố sản xuất từ nớc ngoài mà khả năng cạnh tranh hiện tại cha có hay cha
thể hiện rõ.
Nguyễn Thị Minh Trang
6
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Chú ý là khi đa ra phơng hớng phát triển ngành nên đặt ngành trong mối quan
hệ tổng thể giữa cả các mục đích kinh tế và xã hội.
3.Các yếu tố ảnh hởng đến năng lực cạnh tranh của ngành sản
phẩm:
Theo phơng pháp phân tích trên của M.porter ta có thể chia các yếu tố ảnh hởng
đến năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm nh sau:
4.1.Các nhân tố từ phía thị trờng:
Phân tích đánh giá nhóm điều kiện về cầu phản ánh bản chất cầu thị trờng
trong nớc đối với sự sản phẩm của ngành. Nhóm này sẽ cho ta thấy chu kỳ sống sản
phẩm của ngành, ngành nào có cầu càng lớn, đơn giản, ngành đó càng có khả năng
cạnh tranh nhờ giản chi phí, giảm giá nhng lại tăng doanh thu. Nhu cầu trong nớc
lớn, khiến ngành sản phẩm trong nớc có điều kiện phát triển vững hơn, không phải
đối phó vất vả để giành giật những khoảng thị trờng nhỏ bé và sự tốn kém để cạnh
tranh với các đối thủ mạnh mẽ nớc ngoài trên thị trờng quốc tế.
4.2.Các yếu tố về điều kiện nguồn lực:
Một nớc muốn phát triển ngành thuỷ sản không thể không có vùng biển rộng,
nguồn thuỷ sản phong phú, muốn phát triển ngành sản phẩm mỹ nghệ không thể
không có nguồn nhân công có kĩ thuật và kinh nghiệm, Các yếu tố về nguồn lực
sẽ tạo cho ngành sản phẩm của nớc đó có lợi thế cạnh tranh so sánh, là tiền đề để
tạo ra lợi thế cạnh tranh. Dựa vào những lợi thế so sánh này, các doanh nghiệp sẽ
có các phơng thức kết hợp đầu vào hợp lý, có nhiều điều kiện cho ra sản phẩm có
chất lợng cao, chi phí thấp hơn so với những doanh nghiệp ở các nớc không có
những thuận lợi về nhân tố đầu vào sản xuất. Bên cạnh đó chúng ta luôn biết rằng
bất kỳ một nớc nào, một ngành nào, một doanh nghiệp nào cũng đều bị hạn chế bởi
sự khan hiếm tài nguyên. Do vậy luôn phải có sự lựa chọn để phát triển ngành đen
lại lợi ích tối u nhất.. Phân tích đánh giá nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất:
điều này đem lại tiềm năng phát triển ổn định chủ động cho ngành, đồng thời tạo
điều kiện cơ sở cho lợi thế cạnh tranh trong tơng lai. Nhóm gồm:
1.Nguồn nguyên liệu.
Nguyễn Thị Minh Trang
7
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
2.Lao động.
3.Khoa học công nghệ.
4.3.Các nhân tố từ môi trờng cạnh tranh trong nớc với doanh nghiệp
chủ chốt:
Phân tích nhân tố này cho thấy khả năng của các công ty trong việc nâng cao
năng lực cạnh tranh ngành nh: số lợng công ty tham gia vào ngành, vị thế đàm phán
của bên cung ứng, thị phần và tình hình sản xuất kết hợp các yếu tố đầu vào cho ra
sản phẩm. Sự cạnh tranh gay gắt trong nội bộ ngành có thể sẽ làm giảm lợi nhuận
của các doanh nghiệp nhng lại khiến ngành ở nơi sở tại ấy đi trớc đối thủ cạnh
tranh là ngời nớc ngoài. Hay nói cách khác đó là đánh giá trình độ quản lý, quy
trình để có đợc sản phẩm đầu ra. Có thể chia mục này thành hai phần cơ bản sau:
1. Các công ty tham gia vào ngành, thị phần và hiệu quả
hoạt động kinh doanh của các công ty hiện nay.
2. Vị thế đàm phán của bên cung ứng.
II/Ngành sản phẩm sữa và sự cần thiết phải đánh giá khả
năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam:
1.Đặc điểm của ngành sản phẩm sữa:
Ngành sản phẩm sữa Việt Nam đợc hình thành từ những năm 1960, nhng chỉ
thực sự phát triển từ năm 1986 khi đất nớc thực hiện công cuộc đổi mới. Trong
những năm trở lại đây, thu nhập bình quân ngời dân Việt Nam tăng lên, do vậy mới
phát triển mạnh mẽ nhu cầu sử dụng sữa, và khả năng mở rộng thị trờng tiêu thụ
sản phẩm sữa ở Việt Nam sẽ tiếp tục tăng nhiều hơn nữa trong thời gian tới. Có thể
coi hiện ngành sữa Việt Nam đang nằm trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống của
ngành. Do vậy, rất thuận lợi cho ngành sữa có điều kiện phát triển, giảm tính cạnh
tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nội bộ ngành để phân chia thị trờng.
Do sản phẩm sữa là sản phẩm có liên quan đến sức khoẻ, chế độ dinh dỡng, an
toàn thực phẩm của con ngời nên ngành công nghiệp chế biến sữa hiện đang rất đợc
Nguyễn Thị Minh Trang
8
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
các nớc trên thế giới đặt trong sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nớc. Đối với các nớc
phát triển chăn nuôi bò sữa, sự kiểm soát này đợc Bộ Nông nghiệp và các Hiệp hội
sữa thực hiện thông qua các điều luật chặt chẽ. Ngay từ đầu thế kỷ 20 (1908) các n-
ớc trên thế giới đã có các quy định thống nhất về quy trình kỹ thuật, an toàn thực
phẩm cho việc sản xuất và chế biến sữa. ở Việt Nam những vấn đề này hầu nh cha
đợc Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nớc quan tâm và vẫn ở trình trạng buông
lỏng. Điều này có tác động không tốt tới cạnh tranh bình đẳng trong nớc, có thể
một số doanh nghiệp sử dụng công nghệ chế biến kém, nguyên liệu chất lợng xấu
để cạnh tranh về giá. Đồng thời sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm sữa
trong nớc đối với hàng nhập khẩu (vì sản phẩm nhập khẩu thờng đã đợc chứng nhận
về chất lợng).
2.Sự cần thiết phải đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sữa
Việt Nam:
Trớc hết, trong quá trình phát triển, ngành công nghiêp sữa Việt Nam đã có
những đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của ngành công nghiệp cả nớc.
Trong ngành công nghiệp chế biến sữa, đơn vị nòng cốt là Công ty Sữa Việt Nam
(Vinamilk). Từ năm 1994 có thêm công ty Foremost (nay là Dutch Lady) là công ty
liên doanh giữa Công ty suất nhập khẩu Sông Bé với Công ty Friesland Vietnam
Holding B.V đợc cấp giấy phép hoạt động (tháng 4/1994) và Công ty Nestle Việt
Nam- doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài. Thực trạng đóng góp và phát triển của
ngành công nghiệp chế biến sữa đợc thể hiện trong bảng sau:
Bảng1: Giá trị sản xuất công nghiệp
Đơn vị: Tỷ đồng
1995 1997 1998 1999 2000 2001
Công nghiệp toàn
quốc
103.374 134.420 150.685 168.749 195.225 223.578
Nguyễn Thị Minh Trang
9
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Bộ Công nghiệp
quản lý
24.783 32.080 34.956 36.284 41.793 48.159
Công ty Sữa VN 1.065,3 1.119,4 1.420 1.896,1 2.316 3.648
(Nguồn: Số liệu của Bộ Công nghiệp)
So sánh về giá trị sản xuất công nghiệp, tỷ trọng của Vinamilk so với Bộ Công
nghiệp chiếm 4,30% trong năm 1995 đã tăng lên 5,54% trong năm 2000 (so với
toàn ngành công nghiệp, con số tơng ứng là 1,03% và 1,19%). Nhìn chung, tốc độ
tăng trởng của ngành sữa cao hơn tốc độ tăng trởng của toàn ngành công nghiệp.
Tính theo giá trị sản xuất công nghiệp, ngành sữa có mức tăng trởng trung bình là
20%/năm trong giai đoạn 1996-2000. Trong khi đó, mức tăng trởng cùng thời kỳ
của toàn ngành công nghiệp là 13,57%/năm (theo giá cố định 1994). Điều này cho
thấy ngành công nghiệp chế biến sữa trong quá trình phát triển, ngành đã có những
đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của toàn ngành công nghiệp cũng nh cả
nớc. Bên cạnh đó, còn có những lý do sau cần phải đánh giá thực trạng khả năng
cạnh tranh sau để có đợc định hớng nhập khẩu hay phát triển ngành một cách hợp
lý.
Thứ hai, thu nhập bình quân đầu ngời của Việt Nam ngày càng cao, ngành
công nghiệp chế biến sữa đang phải đáp ứng nhu cầu sử dụng sữa và các sản
phẩm từ sữa của ngời dân ngày một nhiều hơn. Theo thống kê, dự báo sẽ đạt 8 lít
vào năm 2005 và 10-12 lít vào năm 2010. Phát triển sản xuất sản phẩm sữa với
chiến lợc thay thế hàng nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu.
Thứ ba, việc phát triển ngành công nghiệp chế biến sữa có tác động tích cực
đến phát triển một số ngành khác nh ngành chăn nuôi bò sữa, ngành công nghiệp
đờng, ngành công nghiệp dầu luyện Những ngành phụ trợ này phát triển tạo điều
kiện cho các ngành sản xuất hàng thực phẩm tiêu dùng khác phát triển nh sản xuất
nớc quả, sản xuất bánh kẹo. Đặc biệt, hiện nay hai ngành công nghiệp đờng và
công nghiệp dầu luyện đang gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm đầu
Nguyễn Thị Minh Trang
10
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
ra. Phát triển công nghiệp chế biến sữa cũng là một trong những giải pháp để phát
triển hai ngành sản xuất này.
Thứ t, ngành công nghiệp sữa phát triển sẽ tạo thên việc làm cho xã hội , góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn, tăng thu nhập cho ngời
nông dân, thực hiện xoá đói giảm nghèo. Có lẽ đây là một trong những vấn đề
quan trọng nhất trong vai trò phát triển của ngành sữa Việt Nam. Theo dự báo trong
Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp sữa Việt Nam, năm 2005 tạo đợc việc làm
cho 200.000 lao động, năm 2010 sẽ có 380.000 lao động làm việc trong ngành sữa.
Nh đã nói ở trên, phát triển ngành công nghiệp sữa có tác động tích cực cho phát
triển ngành chăn nuôi bò sữa trong nớc. Nhất là trong điều kiện hiện nay, đất đai
canh tác ngày càng bị thu hẹp, nông dân ít vốn, hình thức chăn nuôi bò sữa tỏ ra có
hiệu quả tốt trong việc xoá đói giảm nghèo. Các mô hình này đặc biệt hiệu quả ở
các vùng ngoại thành thành phố, nơi đất trồng trọt ngày càng thiếu thốn, sức ép lao
động cao, có nhiều điều kiện tiếp thu kĩ thuật hơn so với các vùng nông thôn xa
thành phố, xa nơi sản xuất, đã tạo ra việc làm cho nhiều ngàn hộ nông dân. Hiện tại
do còn gặp nhiều khó khăn trong vấn đề bảo quản tiêu thụ nguyên liệu sữa, nên ng-
ời nông dân còn chịu nhiều thiệt thòi, mới chỉ chăn nuôi theo quy mô gia đình nhỏ,
lấy công làm lãi. Tuy nhiên hình thức này lại tơng đối thành công so với các hình
thức xoá đói giảm nghèo khác đã đợc thực hiện. Thúc đẩy quá trình phát triển chăn
nuôi đàn bò sữa đối với các nông hộ sẽ đóng góp cho quá trình chuyển dịch cơ cấu
cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp. Hiện nay, vấn đề này đã đợc các Ban ngành
có thẩm quyền quan tâm, nh Chơng trình phát triển đàn bò sữa 135 của Nhà nớc để
thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo.
3.Quan điểm đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm
sữa Việt Nam:
Thực tế thấy rằng ngành công nghiệp Sữa của Việt Nam sinh sau đẻ muộn và
vô cùng nhỏ bé so với các đại gia trên thế giới, trong khi đó nhu cầu tiêu dùng của
Nguyễn Thị Minh Trang
11
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
thị trờng nội địa mới phát triển và còn nhiều tiềm năng lớn bởi mức tiêu dùng sữa
của ngời dân Việt Nam còn quá thấp so với thế giới và còn phải mất rất nhiều năm
phấn đấu để ngành này đáp ứng đợc mức tiêu dùng của ngời dân Việt Nam bằng
các nớc trong khu vực chứ cha nói gì theo kịp mức các nớc công nghiệp phát triển.
Đặc biệt là nếu ngành sản phẩm Việt Nam muốn thâm nhập vào thị trờng xuất khẩu
mới, ngoài các yếu tố về giá cả và chất lợng mà phải có uy tín về thơng hiệu của
mình, đây chính là điểm yếu của sản phẩm sữa Việt Nam so với các hãng hàng đầu
thế giới. Tuy nhiên, trong mấy năm qua, các sản phẩm sữa Việt Nam cũng đã xuất
khẩu đợc sang thị trờng thế giới, nhng phải nhìn nhận rằng thực chất việc xuất khẩu
đó là do ta đã tận dụng đợc hoàn cảnh chính trị đặc biệt của thế giới, và cũng chủ
yếu là đối với thị trờng Irăk (Trung Đông). Nh vậy thị trờng hiện nay và trong tơng
lai tới của ngành sản phẩm sữa Việt Nam chủ yếu tập trung khai thác là thị trờng
nội địa. Vì lý do đó, trong khuôn khổ bài viết này, em chỉ tập trung phân tích khả
năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam trên thị trờng nội địa. Do vậy
khi nói đến thị trờng trong bài chúng ta có thể ngầm hiểu ở đây là thị trờng nội địa.
chơng ii
đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành
sản phẩm sữa việt nam
i/điều kiện về cầu thị trờng trong nớc:
Nguyễn Thị Minh Trang
12
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Cùng với sự chuyển biến chung của nền kinh tế cả nớc, năm 1986, từ khi đất
nớc thực hiện công cuộc đổi mới thị trờng sữa mới thực sự phát triển. Ngời mua
không chỉ dùng nhiều sữa hơn, mà cơ cấu, chủng loại sản phẩm sữa cũng đa dạng
phong phú hơn. Trớc đây sản phẩm sữa tiêu thụ phổ biến là sữa đặc có đờng và sữâ
bột cho đến nay cơ cấu sản phẩm đã tăng lên nhanh chóng thành nhiều nhóm sản
phẩm phong phú. Lợng sữa tiêu thụ tăng hàng năm:150 triệu lít năm 1991 (quy ra
sữa tơi), 200 triệu lít năm 1993, năm 1997 tăng lên 275 triệu lít và năm 2000
khoảng 460 triệu lít. Trong đó, thị phần nội địa của sữa sản xuất trong nớc tăng từ
57% trong năm 1991 lên 92% trong năm 1995. Còn cơ cấu sản phẩm hiện nay có
thể chia thành 8 nhóm sản phẩm cơ bản:
1.Nhóm sản phẩm sữa tơi thanh trùng.
2. Nhóm sản phẩm sữa tơi tiệt trùng.
3. Nhóm sản phẩm sữa đặc có đờng.
4. Nhóm sản phẩm sữa bột.
5. Nhóm sản phẩm bột dinh dỡng.
6. Nhóm sản phẩm sữa chua.
7. Nhóm sản phẩm các loại kem cao cấp.
8. Nhóm các sản phẩm khác từ sữa (nh bơ, phomát ).
Hiện tại các sản phẩm sữa tiêu thụ trên thị trờng nội địa có thể phân biệt tơng
đối rõ nh sau:
*Sữa đặc chiếm lĩnh thị trờng nông thôn và miền núi, những đối tợng sử dụng
chủ yếu là chẻ nhỏ, ngời ốm, ngời già yếu; một phần dùng làm nguyên liệu trong
các nhà máy bánh kẹo.
*Sữa bột tiêu thụ chính tại khu vực thành thị, đối tợng chính là trẻ thơ, ngời
ốm và già yếu tại khu vực dân c này.
*Sữa tơi và sữa chua cho mọi lứa tuổi trong khu vực thành thị vầ công nghiệp.
Nh phân tích ở chơng I, sữa nói chung là sản phẩm tiêu dùng thông thờng khi
thu nhập tăng sẽ làm tăng nhu cầu sử dụng về loại hàng này, hiện nay hệ số co dãn
Nguyễn Thị Minh Trang
13
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
của loại hàng hoá này theo thu nhập của nhóm chuyên gia của tổ chức phát triển
liên hợp quốc giúp Việt Nam nghiên cứu năm ngành công nghiệp (công nghiệp chế
bién thực phẩm, công nghiệp dệt may, công nghiệp điện tử, công nghiệp ôtô và
công nghiệp cơ khí) thời kỳ 1990 - 1995 hệ số này là 1,42 (do xuất phát điểm
năm1990 của Việt Nam quá thấp, lợng tiêu thụ chỉ đạt 31 triệu lít). Thời kỳ 1996 -
2000 con số này là 0,75 và hiện nay con số này đạt khoảng 0,95 và tơng đối ổn
định, tất nhiên là sẽ không cao đợc nhiều nh thời kỳ 1990 - 1995, nhng cũng không
thấp nh thời kỳ 1996 - 2000 do chịu nhiều biến động kinh tế nh cuộc khủng hoảng
tài chính năm 1998.
Xét về sự thay đổi trong cơ cấu về chủng loại sản phẩm : Việt Nam là nớc
nghèo, có mức thu nhập bình quân đầu ngời thuộc loại thấp nhất thế giới, vì lẽ đó
trong nhiều năm qua ngời dân cha có điều kiện tiêu dùng sữa một cách rộng rãi.
Sau những năm đổi mới kinh tế tăng trởng đều và ở mức cao, thu nhập bình quân
đầu ngời khá hơn nhất là đối với khu vực thành thị và các khu tập trung công
nghiệp, nhu cầu tiêu dùng trong dân đã có mức tăng đột biến, thể hiện rõ nhất trong
giai đoạn 5 năm 1990 - 1995 và 1996 - 2000. Nh vậy là tăng trởng thu nhập quốc
dân có liên quan chặt chẽ đến mức tiêu dùng sữa của ngời dân.
Từ năm 1976, sản phẩm sữa chế biến của ngời dân chủ yếu là sữa bột và sữa
đặc có đờng, đối tợng tiêu thụ chủ yếu là trẻ em, ngời già, ngời ốm. Đến năm 1982,
danh mục các sản phẩm chế biến từ sữa bắt đầu đợc mở rộng phuc vụ cho nhiều đối
tợng tiêu dùng. Trong cơ cấu thu nhập, khoảng các thu nhập cũng dẫn đến đòi hỏi
về hàng hoá là khác nhau. Ngời nông thôn có thu nhập thấp hơn không những số l-
ợng sữa tiêu thụ thấp hơn mà loại sản phẩm họ mua cũng khác, chủ yếu là sữa đặc
có đờng. Sản phẩm này giá rẻ, thuận tiện cho việc phân phối bảo quản tiêu dùng ở
nông thôn và vùng sâu vùng xa.
Trên thị trờng những ngời có thu nhập cao hơn, họ dùng nhiều sữa hơn và
những họ cũng đòi hỏi nhiều chủng loại để lựa chọn hơn. Những sản phẩm đợc a
Nguyễn Thị Minh Trang
14
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
chuộng chủ yếu là: sữa tơi tiệt trùng, sữa chua, các loại ken cao cấp và các sản
phẩm khác từ sữa nh bơ, phomat
Khoảng cách thu nhập đa tạo ra sự phong phú cho các chủng loại của sản
phẩm sữa để đáp ứng những mảng thị trờng khác nhau.
Thứ hai là tại sao phần lớn những sản phẩm có chất lợng tốt hơn hay sự đòi hỏi
cao từ phía ngời tiêu dùng chủ yếu tập trung ở các khu vực thành thị phát triển. Phải
nói rằng, một trong những lý do tác động đến sự phân chia chủng loại sản phẩm đó
là kiến thức ngời tiêu dùng, sự tiếp cận của các khách hàng này tới sản phẩm này là
thờng xuyên. Mức sống cao họ đò hỏi chất lợng nhiều hơn số lợng, thông tin đại
chúng đợc thờng xuyên cập nhập, thông thờng trong một ngày đêm có ít nhất là 10
lần có mặt sản phẩm sữa đợc quảng cáo trên truyền hình, các dịch vụ khách hàng
giới thiệu sản phẩm của công ty đợc phát triển rộng rãi.
Đồng thời dân trí cao khiến những ngời tiêu dùng này chở nên khó tính hơn,
hiểu biết hơn trong việc lựa chọn sản phẩm cho bản thân. Nhất là đối với một số
loại sản phẩm đặc biệt đặc biệt từ sữa nh: sữa cho trẻ em, cho phụ nữ mang thai,
cho ngời ốm, ngời bị bệnh tiểu đờng Sản phẩm không chỉ đến tay ng ời tiêu dùng
thông qua các đại lý phân phối hay cơ sở bán lẻ mà nó còn xuất hiện rất nhiều hình
thức nh thông qua chuyên gia t vấn dinh dỡng, qua sự hớng dẫn của bác sĩ, qua các
hớng dẫn của giáo viên trong các nhà trẻ. Các sản phẩm loại này hiện nay tăng rất
mạnh về nhu cầu, không những thế giá của nó thuộc vào loại cao nhất trong những
sản phẩm chế biến từ sữa. Nó có khả năng đem lại lợi nhuận cao cho các doanh
nghiệp có thế mạnh trong hoạt động Marketing chăm sóc khách hàng tốt. Điều này
cũng phản ánh sự không thuận lợi cho các sản phẩm nội địa hiện nay còn kém xa
về các hoạt động này so với sản phẩm nhập khẩu của các nớc có thơng hiệu nổi
tiếng trên thế giới.
Tóm lại, thị trờng tiêu thụ sữa Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, nhu
cầu đang ban đầu đợc mở rộng nhanh chóng do có nhiều khách hàng mới tham gia
vào thị trờng. Điều này có tác động đến mức độ cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh
Nguyễn Thị Minh Trang
15
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
tranh trong ngành (ở đây là với sản phẩm nhập khẩu), nó đa đến nhiều cơ hội cho
phát triển ngành, giảm sứa ép cạnh tranh giữa các đối thủ. Do sự cạnh tranh còn
yếu, nên sự tăng mạnh về cầu cho phép các công ty nội địa tăng doanh số và lợi
nhuận mà không cần phải thôn tính thị trờng của đối thủ cạnh tranh ngay trong nớc
cũng nh đối thủ nhập khẩu. Các sản phẩm nội địa cũng nh nhập khẩu đều có thể mở
rộng hoạt động. Đây là khoảng cách cần thiết cho các công ty trong nớc tận dụng
nắm lấy thuận lợi của điều kiện thị trờng trong giâi đoạn này là sự cạnh tranh tơng
đối hoà dịu để chuẩn bị cho sự cạnh tranh quyết liệt sau này.
ii/đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm sữa việt
nam:
Nếu nhận định tổng quát theo tình hình tiêu thụ trên thị trờng nội địa, thì hiện
nay sản phẩm sữa Việt Nam có những biểu hiện khả năng cạnh tranh rất cao, dựa
vào các chỉ tiêu về thị phần và tốc độ tăng thị phần của sản phẩm sữa nội địa.
Dựa theo số liệu của hai bảng dới đây, cho thấy sản phẩm nội địa nhanh chóng
chiếm lĩnh thị trờng từ 57% năm1991 cho đến nay đã chiếm lĩnh áp đảo sản phẩm
nhập khẩu là 92% thị trờng nội địa. Trong khi đó, sản phẩm nhập khẩu ngày càng
giảm từ 43% thị phần hiện nay chỉ còn chiếm có 3 - 5% thị phần nội địa.
Bảng 2: Thị phần sữa năm 1991 trên thị trờng Việt Nam
(Đơn vị:%)
Nguồn gốc sản xuất của sản phẩm sữa Thị phần
Tổng 100%
Các sản phẩm sản xuất trong nớc 57%
Các sản phẩm nhập khẩu 43%
Bảng 3: Thị phần sữa hiện nay trên thị trờng Việt Nam (từ năm 1995 )
Nguyễn Thị Minh Trang
16
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Đơn vị:%
Nguồn gốc sản xuất của sản phẩm sữa Thị phần
Tổng 100%
Công ty Vinamilk 70 - 75%
Dutch Lady, Nestle, các doanh nghiệp khác
và các cơ sở bán lẻ
Khoảng 22%
Các sản phẩm nhập khẩu 3 - 5%
(Nguồn của cả hai bảng: Theo đánh giá của Viện
Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp)
Đồng thời, dựa vào bảng 3, cho thấy sản phẩm của Công ty Vinamilk là có sức
cạnh tranh cao nhất, thị phần của công ty này luôn chiếm đến 70 - 75% thị trờng
tiêu thụ cả nớc. Tức là, nếu quan sát qua thị phần nh vậy ta có thể cho rằng khả
năng cạnh tranh cao nhất là thuộc về sản phẩm sữa của các công ty nội địa, trong
đó mạnh nhất là Vinamilk, còn sản phẩm nhập khẩu chỉ chiếm một số phân đoạn
thị trờng nhỏ hẹp, hay nói cách khác sức cạnh tranh của sản phẩm nhập ngoại là rất
thấp.
Bây giờ chúng ta xét đến thị phần theo nhóm sản phẩm để thấy đợc sản phẩm
nào chúng ta có thế mạnh nhất và sản phẩm nào chúng ta còn bị hạn chế trong cạnh
tranh trên thị trờng nội địa.
Bảng 4: Thị phần theo sản phẩm
Đơn vị:%
Thị phần
Sữa đặc có đờng Sữa bột Sữa tơi
Tổng 100% 100% 100%
Vinamilk 66-70% 40% 90 - 98%
Dutch Lady, Nestle và các
doanh nghiệp trong nớc khác
30 - 35% 35-40% 2 - 6%
Sản phẩm nhập khẩu <1% 20% 2 - 3%
Nguyễn Thị Minh Trang
17
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
(Nguồn: Tính toán dựa theo số liệu của Viện Quy
hoạch và thiết kế nông nghiệp)
Theo số liệu trên thì Vinamilk gần nh độc quyền đối với sản phẩm sữa tơi,
chiếm phầm lớn thị phần của sản phẩm sữa đặc và sản phẩm sữa bột cũng chiếm
đến một nửa thị trờng. Tức là trong cơ cấu sản phẩm, sản phẩm nội địa cũng chiếm
thế áp đảo đối với mọi nhóm sản phẩm ngành sữa, trong đó có mạnh nhất có lẽ là
sản phẩm sữa tơi.
Nh vậy, nếu chỉ quan sát qua thị trờng tiêu thụ sữa mà đánh giá khả năng cạnh
tranh của sản phẩm sữa thì rõ ràng sản phẩm sữa nội địa hiện nay của Việt Nam rất
cao, nhất là đối với các sản phẩm sản xuất từ doanh nghiệp Nhà nớc. Vậy điều đó
có thể hiện đúng bản chất của sức cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nạm
hay không. Để làm đợc thế, chúng ta phải sử dụng các tiêu chí phản ánh khả năng
cạnh tranh của nhóm sản phẩm này để đánh giá, đó là tiêu chí về giá và chất lợng.
Từ đó mới có kết luận chính xác là ngành sản phẩm sữa Việt Nam thực sự có khả
năng cạnh tranh thuần thuý và lâu dài hay không, hay là nó chỉ cạnh tranh đợc nhờ
sự thuận lợi không bền vững từ các yếu tố ngoài ngành khác, đặc biệt là sự bảo hộ
từ phía Chính phủ.
1.Khả năng cạnh tranh về giá của sản phẩm sữaViệt Nam:
Nhìn chung, trên thị trờng sữa hiện nay, giá sản phẩm sữa sản xuất trong nớc
luôn rẻ hơn giá sữa sản phẩm nhập khẩu cùng loại từ 50 - 60%.
Ta chia sản phẩm sữa ra làm ba nhóm sản phẩm gồm: sản phẩm sữa bột, sản
phẩm sữa đặc có đờng và sản phẩm sữa tơi để phân tích giá.
Sản phẩm sữa bột, bột dinh dỡng: Đối thủ cạnh tranh của chúng ta gồm có
Pháp, Hà Lan, Bỉ, Nhật Bản, Mỹ. Các sản phẩm nhập khẩu này đợc bán trên thị tr-
ờng với giá cao hơn giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nớc từ 50-100% tập
trung tiêu thụ chủ yếu ở các thành phố lớn nh Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải
Phòng,
Nguyễn Thị Minh Trang
18
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Sản phẩm sữa đặc có đờng: Đối với sản phẩm sữa đặc có đờng nhập ngoại đã
giảm nhiều trong những năn gần đây vì khó cạnh tranh đợc với sản phẩm của
Vinamilk và Dutch Lady. Do giá sản phẩm này trong nớc luôn thấp hơn nhập khẩu
30%. Hiện nay sản phẩm này gần nh không nhập khẩu vào đợc Việt Nam.
Sản phẩm sữa tơi: Đối thủ cạnh tranh mặt hàng nay gồm có Pháp và New
Zealand, hiện nay giá một lít sữa tơi của sản phẩm nội địa khi bán cho ngời tiêu
dùng vào khoảng 11.000đ/lít, giá bán của hàng nhập khẩu vào khoảng 17.000đ/lít
Nếu xét về giá nh trên thì sản phẩm sữa trong nớc có khả năng cạnh tranh về
giá. Nhng thực ra, trong cơ cấu giá trên có đến 30% là thuế Chính phủ đánh vào
sản phẩm nhập khẩu. Nh vậy, nếu tính ra giá sản phẩm sữa bột, bột dinh dỡng nhập
khẩu sẽ cao hơn từ 20-60%, giá sản phẩm sữa tơi nhập khẩu sẽ cao hơn khoảng
1.000 đ/lít, sản phẩm của chúng ta vẫn có thể có cạnh tranh về giá ngay cả khi bỏ
qua việc bảo hộ của Chính phủ, nhng sức cạnh tranh về giá là rất thấp, bấp bênh và
không ổn định nhất là khi giá nguyên liệu đầu vào nhập khẩu đang có xu hớng tăng
nh hiện nay. Liệu trong mối tơng quan với chất lợng chúng ta có thể cạnh tranh đợc
hay không.
2.Khả năng cạnh tranh về chất lợng của sản phẩm sữaViệt Nam:
Mặc dù với công nghệ sản xuất tơng đối hiện đại đủ khả năng để chế biến các
sản phẩm sữa đảm bảo chất lợng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Sản phẩm của Công ty Sữa
Việt Nam đợc các cơ qua chuyên trách về chuyên trách trong và ngoài nớc xác
nhận về chất lợng (Vinacontrol, Viện Kiểm tra Đo lờng chất lợng của áo ). Tuy
nhiên xét về tổng thể, Việt Nam vẫn cha xây dựng đợc bộ tiêu chuẩn hoàn chỉnh
cho các sản phẩm sữa từ sữa nguyên liệu nhập khẩu đến sữa thành phẩm. Tức là,
chất lợng sản phẩm nội địa đợc thả nổi, không đợc đảm bảo bởi bất kỳ một tổ chức
có uy tín nào, mà phụ thuộc vào cách làm của từng công ty. Hơn nữa sản phẩm sữa
trong nớc chủ yếu đơc sản xuất từ sữa bột nhập khẩu, mà để sản phẩm chế biến từ
nguồn sữa bột nhập đạt đợc chất lợng nh sản phẩm tạo ra từ nguồn sữa tơi tại chỗ
Nguyễn Thị Minh Trang
19
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
thì trong quá trình chế biến phải bổ xung thêm vi lợng vi lợng các khoáng chất,
vitamin, béo
Trong khi chúng ta so sánh với các đại gia sản xuất sữa trên thế giới, chất lợng
sản phẩm luôn đợc đảm bảo bởi các hiệp hội có uy tín trên thế giới. Từ trớc đến nay
đã luôn đợc ngời tiêu dùng tin cậy, ngay cả ngời tiêu dùng trong nớc, đối với các
sản phẩm nhập ngoại này giá rất cao ngay cả khi bị chịu thuế vẫn có ngời tiêu
dùng, nếu không bị hạn chế bởi thuế và hạn ngạch của Chính phủ thì sản phẩm sữa
trong nớc có khả năng sẽ bị đè bẹp ngay trên thị trờng nội địa.
Kết luận nhỏ: Từ phân tích trên ta đánh giá tổng quát về sức cạnh tranh chung
của toàn ngành nh sau: chúng ta có khả năng cạnh tranh về giá nhng là rất thấp và
không ổn định do không chủ động đợc nguồn nguyên liệu đầu vào, còn khả năng
cạnh tranh về chất lợng thì chúng ta không có. Tức là nhìn chung khả năng cạnh
tranh của sản phẩm sữa Việt Nam so với hàng nhập khẩu là rất thấp. Do vậy chúng
đi sâu vào phân tích khả năng cạnh tranh của từng nhóm ngành nhỏ để có những
nhận định chi tiết và chính xác hơn. Nếu không có khả năng cạnh tranh chung để
phát triển toàn ngành chúng ta có thể đi vào định hớng đầu t phát triển vào những
nhóm sản phẩm có năng lực cạnh tranh.
*Phân tích khả năng cạnh tranh theo từng nhóm sản phẩm trong
ngành sản phẩm sữa:
Kết hợp cả việc phân tích về giá và chất lợng teo nhóm sản phẩm, chúng ta có
xét những nhóm sản phẩm chủ yếu sau:
1.Sữa tơi thanh trùng: sản phẩm này chế biến từ sữa bò tơi đợc gia nhiệt
thanh trùng ở nhiệt độ 70
0
C, sau đó đóng gói bằng bao BBIST và đa ra thị trờng.
Đặc điểm của sản phẩm là luôn phải bảo quản lạnh.
Loại sản phẩm này hiện nay trên thị trờng chỉ có các công ty trong nớc, gần
nguồn nguyên liệu tại chỗ cung cấp. Nh đã nói ở trên sản phẩm từ sữa bò tơi giá trị
dinh dỡng cao, chỉ thanh trùng ở nhiệt độ 70
0
C nên rất chóng hỏng, hạn sử dụng
Nguyễn Thị Minh Trang
20
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
ngắn, phơng pháp chế biến đơn giản nhng bảo quản không thuận tiện. Tơng tự nh
điều kiện sản xuất, thị trờng tiêu thụ sản phẩm này cũng phải gần thị trờng thì mới
không làm tăng giá do chi phí bảo quản. Do vậy, không có mặt hàng này nhập
khẩu.
Giá sản phẩm này trên thị trờng đợc bán với giá khoảng 9.500 đồng/lít (gồm
cả chi phí bán hàng ) và cha kể thuế giá trị giá tăng. Nếu lấy giá nguyên liệu sữa
hiện nay trong nớc là 3.550 đồng/lít thì giá thành 1 lít sữa tơi đã qua chế biến là
8.176 đồng/lít. Tức là so với giá bán ở trên thì các cơ sở chế biến gần nh cha có lãi
ở loại sản phẩm này.
2.Sữa tơi tiệt trùng (UHT) và Sữa chua:
Hai loại sản phẩm này về cơ bản có thể biểu diễn lu trình công nghệ sản xuất
nh sau:
Hình 1: Lu trình công nghệ sản xuất sữa tơi tiệt trùng
và sữa chua dạng uống.
(Nguồn: Theo quy hoạch phát triểnngành công nghiệp sữa Việt Nam).
Nớc Bột sữa
Sữa tiệt trùng
Sữa chua dạng uống
Nguyễn Thị Minh Trang
21
Trao đổi nhiệt
Hoà trộn Hoà trộn
Làm lạnh
Thùng chứa
Thanh trùng
Đồng hoá
Tiệt trùng UHT
Lưu 3 giây
Làm nguội
Rót & đóng gói Rót & đóng gói
Kho chứa
Lên men sữa
chua
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Sữa tơi tiệt trùng (UHT) Sản phẩm đợc chế biến từ sữa bò tơi, gia nhiệt tiệt
trùng ở nhiệt độ cao 150
0
C trong thời gian từ 1-2 giây sau đó đóng bằng bao
BBIST. Đặc điểm của sản phẩm có thời hạn sử dụng lâu (có thể đợc 12 tháng) trong
điều kiện nhiệt độ bình thờng, thuận tiện khi vận chuyển phân phối và sử dụng nên
các nớc Châu á trong đó có Việt Nam rất a chuộng loại sản phẩm này. Sản phẩm
sữa tơi tiệt trùng nếu đợc sản xuất từ nguồn nguyên liệu sữa tơi tại chỗ thì bỏ qua
công đoạn hoà trộn
Sữa chua: sản phẩm đợc chế biến sữa bò (sữa bột hoặc sữa tơi) + dầu bơ + đ-
ờng đợc đồng hoá - thanh trùng - làm nguội - cấy men- ủ - làm lạnh - đóng hộp PE.
Sản phẩm đợc bảo quản ở nhiệt độ 5
0
C. Đặc điểm của sản phẩm có nhiều chất
bổ dỡng, kích thích tiêu hoá, thích hợp cho mọi tầng lớp ngời tiêu dùng tại mọi thị
trờng.
Hai loại sản phẩm này hiện nay là sản phẩm chủ lực của công ty Vinamilk,
Dutch Lady, hiện đợc tiêu thụ rộng rãi và rất đợc ngời tiêu dùng a chuộng. Canh
tranh với các doanh nghiệp trong nớc ở nhóm sản phẩm này có sản phẩm sữa tơi
tiệt trùng của Pháp và New Zealand. Các sản phẩm này có hơng vị thơm ngon hơn
Nguyễn Thị Minh Trang
22
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
sản phẩm của chúng ta, do đợc sản xuất từ sữa cha tác bơ tại bản địa, cũng vì vậy
nên có thành phần dinh dỡng tơng đối đầy đủ tơng tự nh sữa tơi nguyên chất. Giá
của các sản phẩm nhập khẩu này luôn có giá cao hơn sản phẩm trong nớc 50%.
Nên các sản phẩm cùng loại của chúng ta cạnh tranh đợc chủ yếu về giá. Song sản
phẩm nhập khẩu có mức giá cao nh vậy phần lớn là do thuế, thuế này đánh 30%
vào sản phẩm sữa nhập khẩu. Nói chung hiện nay, sản phẩm nhập khẩu hơn hẳn
chúng ta nếu xét về chất lợng sản phẩm, chúng hiện chỉ có khả năng cạnh tranh về
giá mà một phần lớn là dựa vào sự bảo hộ của Chính phủ. Nếu sản trong nớc chế
biến từ nguồn sữa bột nhập đạt đợc chất lợng nh sữa nhập khẩu thì trong quá trình
chế biến phải bổ xung thêm vi lợng các chất khoáng, vitamin, béo Điều đó sẽ làm
giảm đáng kể lợi nhuận cho nhà sản xuất. Nếu Nhà nớc ban hành Tiêu chuẩn chất
lợng thống nhất cho sản phẩm sữa thì quá trình bổ xung thêm vi lợng các chất
khoáng, vitamin, béo trong chế biến từ nguyên liệu sữa bột mới đợc coi trọng, điều
này sẽ làm tăng chi phí sản xuất dẫn đến làm tăng giá sản phẩm trong nớc. Khi đó,
sản phẩm của chúng ta chất lợng cao hơn sẽ không còn khả năng cạnh tranh về giá
nữa.
Trong tình trạng chất lợng nh hiện giờ khi không có thuế can thiệp, sản phẩm
nhập ngoại chỉ cao hơn của chúng ta gần 10%. Tức là nếu tính theo giá bán 1 lít sản
xuất trong nớc là 11.000 đồng/lít thì sản phẩm nhập khẩu là 12.000 đồng/lít, với t-
ơng quan chất lợng nh vậy liệu sản phẩm sản xuất trong nớc có còn chỗ đứng ngay
trên thị trờng nội địa hay không.
Xét trong cơ cấu giá thành của sản phẩm này, chi phí trong nớc chỉ chiếm có
24%, trong khi đó chi phí ngoại tệ chiếm đến 76%, thế nhng một điều thật ngạc
nhiên là không phải phần lớn chi phí ngoại tệ dùng để nhập khẩu nguyên liệu sữa
bột gầy mà là chi phí bao bì, chi phí này chiếm 62,5% trên tổng chi phí, tức là
nguyên liệu sữa nhập khẩu chỉ chiếm 13,5%. Vậy chúng ta phân tích xem nhóm
sản phẩm này của chúng ta có khả năng giảm giá hay tăng chất lợng hay không.
Nguyễn Thị Minh Trang
23
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
Nếu muốn giảm giá, thì giải pháp tốt nhất là phải có hớng giảm chi phí bao bì
xuống, tức là chuyển hớng tìm nhà cung cấp bao bì trong nớc. Đây là phơng hớng
khả quan, hiện đã có nhiều công ty tham gia vào lĩnh vực sản xuất này.
Nếu muốn nâng cao chất lợng, chúng ta có hai cách: sử dụng nguyên liệu sữa
tơi trong nớc hoặc sử dụng nguyên liệu sữa bột ngoại nhập. Sữa nhập khẩu chúng ta
sử dụng giao động trong khoảng 0,15-0,21 USD/kg, trong khi giá thu mua của nông
dân về đến nhà máy 1kg sữa với giá 3.550 đồng tơng đơng 0,23 USD. Nếu sử dụng
nguyên liệu sữa tơi tại chỗ trong nớc, sản phẩm sẽ có chất lợng cao nhng sẽ làm
tăng chi phí sản phẩm lên khoảng 0,02-0,08 USD, tức là giá mỗi lít sữa nội địa tăng
thêm khoảng 400-1.200 đồng/lít sữa trên thị trờng. Tơng đối bằng giá sản phẩm
nhập ngoại khi không có tác động của thuế.Còn nếu sử dụng nguyên liệu nhập khẩu
thì phải bổ xung thêm một số chất dinh dỡng, điều này làm giá thành sản phẩm cao
hơn cả việc sử dụng nguyên liệu trong nớc nhng lại chiếm phần lớn vì hiện nay
nguyên liệu trong nớc mới chỉ đáp ứng đợc 13% tổng nhu cầu nguyên liệu sử dụng
trong ngành.
Giải pháp trên là cần thiết trong điều kiện sắp tới khi Nhà nớc đã có các Tiêu
chuẩn kiểm định chất lợng không buông lỏng nh hiện nay.
Nh vậỵ, nếu kết hợp cả hai phơng pháp trên hoặc sản phẩm sản xuất bằng
nguồn nguyên liệu trong nớc đợc giảm bớt thuế và thì có thể cạnh tranh đợc về giá
so với sản phẩm nớc ngoài mà chất lợng vẫn đảm bảo. Vậy chúng ta có khả năng
phát triển nguồn nguyên liệu hay tự túc đợc về bao bì sản phẩm hay không, nếu có
thì mới có thể tiếp tục phát triển nhóm sản phẩm này.
3.Sữa đặc có đờng: Sản phẩm chế biến từ sữa bột (hoặc sữa bò tơi), trộn với
bơ (hoặc dầu thực vật) cùng với đờng kính và nớc đợc đồng hoá-thanh trùng-cô đặc
làm nguội-đóng trong hộp thiếc. Sản phẩm sữa đặc có đờng thuận tiện cho ngời tiêu
dùng ở nông thôn và vùng xa.
Riêng loại sản phẩm này cúng ta lại rất có khả năng cạnh tranh về giá, vì nhu
cầu nhóm sản phẩm này co dãn với giá rất lớn. Do chịu nhiều chí phí vận chuyển
Nguyễn Thị Minh Trang
24
Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam
và bảo quản, lợi nhuận đem lại sản phẩm này lại không cao nên các sản phẩm nhập
khẩu hiện nay không có mặt trên thị trờng.
4.Sữa bột: Sản phẩm đợc chế biến từ sữa bột + dầu bơ + dầu thực vật +
Maltodestrin + Lactore đợc đồng hoá - thanh trùng - cô đặc - sấy phun - tạo hạt,
trộn thêm đờng kính và các vitamin - đóng trong hộp thiếc. Sản phẩm sữa bột thích
hợp với các đối tợng nh trẻ em, ngời già, đợc tiêu thụ nhiều ở thành thị và xuất
khẩu.
Đối thủ cạnh tranh với chúng ta bao gồm các nớc bao gồm: Pháp, Hà Lan, Bỉ,
Đan Mạch, New Zealand, Nhật Bản, Mỹ.
Trong cơ cấu giá thành sản phẩm này chi phí nội địa chỉ chiếm 32% trên tổng
chi phí còn 68% là chi phí nguyên liệu vật t nhập khẩu. Trong đó khoảng 42% giá
thành là chi phí nhập sữa bột gầy, tức là bao gói và các chất bổ sung chỉ chiếm
26%. Phần chi phí nguyên liệu chiếm quá lớn trong cơ cấu chi phí sản phẩm này
nên việc chúng ta cạnh tranh là rất khó.
Vì sản phẩm này phục vụ cho nhóm khách hàng tơng đối khó tính, đòi hỏi
nhiều về thành phần dinh dỡng. Các sản phẩm nhập khẩu luôn có thế mạnh hơn
trong việc cạnh tranh nhóm sản phẩm này. Ngoài công nghệ sản xuất hiện đại mà
chúng ta không thể theo kịp, phải nói rằng các sản phẩm nhập khẩu này đều đợc
các tổ chức có uy tín trên thế giới đánh giá cao và công nhận về chất lợng. Mặc dù
giá sản phẩm nhập khẩu này cao hơn rất nhiều so với giá sản phẩm tơng tự trong n-
ớc nhng vẫn đợc ngời mua sử dụng. Nếu không bị hạn chế bởi thuế và hạn ngạch
thì sản phẩm này sẽ áp đảo các sản phẩm nội địa, nhất là những doanh nghiệp
không có tên tuổi trên thị trờng quốc tế Bên cạnh đó cũng phải nói rằng, khả năng
cạnh tranh cao
5.Bột dinh dỡng: Sản phẩm chế biến từ bột sữa + sữa đậu nành + dầu thực vật
+ bột ngũ cốc + đờng kính + các loại vitamin sau đó trộn đều và thực hiên đồng hoá
- thanh trùng - sấy phun - tạo hạt - làm nguội - đóng hộp. Sản phẩm ăn liền, tiện lợi
cho việc nuôi dỡng trẻ em.
Nguyễn Thị Minh Trang
25