Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.2 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC DUY TÂN

BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Tên đề tài:
VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VÀ PHÁT HUY
NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA VÀ HIỆN
ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Lớp: PHI 150 AI

Đà Nẵng 12/2021


THÀNH VIÊN NHĨM

STT
1
2
3
4
5
6
7
8

Họ và tên
Đào Nguyễn Khải Hà (Trưởng nhóm)
Nguyễn Thị Hồi Mỹ (Phó nhóm)
Nguyễn Thị Châu Bình
Ngơ Thị Thanh Trúc
Trần Nguyễn Khánh Nam


Bạch Thị Cẩm Nhung
Nguyễn Hồng Ngọc
Hồ Thị Bích Ngọc

2

Mã sinh viên
27202541898
27202541104
27202537803
27202645367
27212501489
27203841767
27212536678
27202539438


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người là một trong những đối tượng và vấn đề trung tâm (cùng với giới
tự nhiên và xã hội) của triết học; thành tựu nghiên cứu, khám phá và hiểu biết về
bản chất và những nội dung căn cốt của vấn đề con người cũng như chính bản thân
con người gắn liền với lịch sử nhận thức và phát triển lâu dài của tất cả các ngành
khoa học, trong đó có triết học. Trong các hệ thống tư tưởng đó, vấn đề con người
trong triết học Mác – Lênin được nghiên cứu và trình bày một cách bao quát, đặc
sắc và mang tính khoa học nhất. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã kết luận: con người
không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, đóng vai trị quyết định trong
sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà con người cịn là chủ thể của q trình lịch
sử, của sự tiến bộ xã hội. Đặc biệt khi xã hội lồi người ngày càng phát triển và đạt
đến trình độ văn minh cao cấp như hiện nay.

Qua hàng ngàn năm nghiên cứu, tìm kiếm, khám phá, nhận thức về vấn đề
con người, triết học đã tích lũy được kho tàng tri thức vô cùng phong phú, “nhận
biết” ngày càng sâu sắc về con người. Trong các điều kiện và nguồn lực để phát
triển kinh tế - xã hội. Nhân tố con người (nguồn nhân lực) ln giữ một vai trị vơ
cùng quan trọng trong sự phát triển đó. Nguồn nhân lực có dồi dào, có đủ mạnh về
tri thức để thúc đẩy sự phát triển hay không? Trên thế giới, các quốc gia có nền
kinh tế phát triển mạnh như Hoa Kỳ, Nhật Bản, các nước Tây Âu Đều là những
quốc gia có nhân tố con người có trình độ tri thức rất cao để đáp ứng nhu cầu phát
triển cơng ngiệp và hiện đại hóa đất nước. Với các quốc gia chậm phát triển và
đang phát triển thì nhân tố con người càng có vai trị quan trọng trong tiến trình
CNH – HĐH đất nước.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển và đang thực hiện mạnh mẽ quá
trình CNH - HĐH đất nước. Con người Việt Nam với rất nhiều tố chất và năng lực
tốt đẹp đã được chứng minh trong lịch sử dân tộc và cho đến ngày nay. Với những
lý luận về vấn đề con người được trình bày khoa học trong triết học Mác – Lênin
và được đúc kết sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề đặt ra là Đảng và
Nhà nước ta đã vận dụng những lý luận khoa học trên như thế nào? Để phục vụ
cho sự nghiệp CNH – HĐH ở Việt Nam. Căn cứ vào tình hình thực tế Việt Nam,
tôi đã quyết định chọn đề tài tiểu luận triết học là: “Vấn đề con người trong triết
học Mác – Lênin và phát huy nhân tố con người trong sự ngiệp cơng nghiệp
hóa và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay”. Với những hiểu biết cá nhân, nhóm tơi
hy vọng sẽ có những đóng góp nhỏ cho lý luận về vấn đề này. 
3


2. Mục đích nghiên cứu
Với việc nghiên cứu đề tài tiểu luận triết hoc: “Vấn đề con người trong triết học
Mác – Lênin và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước” nhằm đạt được mục đích đối với cá nhân và với nội dung đề
tài đó là củng cố những kiến thức triết học từ thời đại học và nâng cao tầm nhìn và

hiểu biết về mơn triết học ở bậc sau đại học, rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa
học dựa trên việc tìm kiếm và tham khảo nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Tìm hiểu
khái quát những quan điểm về vấn đề con người được đề cập trong triết học Mác –
Lênin. Quan điểm của Đảng ta về nhân tố con người. Tìm hiểu vai trị và nhiệm vụ
xây dựng cơ bản của con người trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tham khảo và chọn lọc tài liệu từ nhiều nguồn.
Nghiên cứu lý luận về vấn đề con người trong triết học Mác – Lênin và quan
điểm của Đảng về nhân tố con con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện
đại hóa.
Vận dụng lý luận về con người trong triết học Mác – Lênin để xây dựng mục
đích phát triển con người Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi
Con người trong triết học Mác - Lênin và phát huy nhân tố con người và trong
sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sưu tầm và tổng hợp tài liệu: Từ những kiến thức đã học, tham
khảo nhiều nguồn tài liệu như các bài báo, bài viết và trên mạng internet. Từ các
nguồn tài liệu tham khảo đã trích dẫn và tổng hợp thành một bài hồn chỉnh.
Phương pháp luận vấn đề: Nghiên cứu những quan điểm chung nhất của Triết
học Mác – Lê nin về vấn đề con người. Xem xét những quan điểm chỉ đạo của
Đảng ta, phân tích vai trị, vị trí của con người Việt Nam hiện nay. Cuối cùng, đưa
ra những nhiệm vụ cụ thể cho sự phát triển con người. Từ những triết lý chung
nhất, phổ biến nhất, tìm hiểu đến những cái riêng và chi tiết của vấn đề.
Phương pháp tư duy biện chứng: Vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận
cơ bản của phép biện chứng duy vật để tìm hiểu vai trị của nhân tố con người
trong sự nghiệp CNH – HĐH ở nước ta, để từ đó vận dụng những quan điểm triết

4



học Mác –Lênin đưa ra nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phù hợp với giai
đoạn hiện nay.
6. Kết cấu tiểu luận
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
I.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI
1.1. Một số quan điểm về con người ngoài triết học Mác – Lênin
1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học Phương Đông
1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học Phương Tây
1.2. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người
1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã
hội
1.2.2. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
1.2.3. Bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
1.3. Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là sự phát triển toàn diện của con người
II.
PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CƠNG
NGHIỆP HĨA – HIỆN ĐẠI HĨA (CNH – HĐH) ĐẤT NƯỚC
2.1. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về nhân tố con người
2.2. Phát huy vai trị của nhân tố con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa
và hiện đại hóa đất nước
2.2.1. Trên phương diện con người là sự phát triển của động lực xã hội
2.2.2. Trên phương diện con người là mục tiêu của động lực xã hội
2.2.3. Vai trò của con người trong quá trình CNH – HĐH đất nước
2.3. Những nhiệm vụ cơ bản xây dựng con người trong q trình cơng nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước
2.3.1. Xây dựng tư tưởng đạo dức và lối sống
2.3.2. Phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo

2.3.3. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
2.3.4. Xây dựng mơi trường văn hóa
III.

Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SINH VIÊN

PHẦN KẾT LUẬN

5


PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI 
1.1. Một số quan điểm về con người ngoài triết học Mác – Lênin
1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học Phương Đơng
Có thể nói rằng, lịch sử của khoa học nói chung, của triết học nói riêng là
lịch sử nghiên cứu về con người. Tuy nhiên, mỗi khoa học tiếp cận vấn đề con
người theo một phương pháp riêng, phù hợp với đối tượng và đặc điểm của
mình. Các khoa học khác nghiên cứu vấn đề con người bằng cách chia hệ thống
thành yếu tố, còn triết học nghiên cứu vấn đề con người bằng cách tổng hợp các
yếu tố thành hệ thống. Do vậy, quan hệ giữa triết học với các khoa học khác là
quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Từ thời cổ đại, các trường phái triết học đều tìm cách lý giải vấn đề bản
chất con người, quan hệ giữa con người đối với thế giới xung quanh.
Các trường phái triết học tôn giáo Phương Đông như Phật giáo, Hồi giáo
nhận thức bản chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí hoặc nhị
nguyên luận. Trong triết học Phật giáo, con người là sự kết hợp giữa danh và
sắc (vật chất và tinh thần). Đời sống con người trên trần thế chỉ là ảo giác hư
vơ. Vì vậy, cuộc đời con người còn sống chỉ là sống gửi, là tạm bợ. Cuộc sống
vĩnh cửu phải hướng tới cõi niết bàn, nơi tinh thần con người được giải thoát để

trở thành bất diệt. Như vậy, con người trong học thuyết tôn giáo Phương Đông
đều phản ánh sai lầm về bản chất con người, hướng con người tới thế giới thần
linh.
Khổng Tử cho bản chất con người do "Thiên mệnh" chi phối quyết định,
đức "Nhân" chính là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là người quân tử.
Mạnh Tử quy tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng
của phong tục tập quán xấu mà con người bị nhiễm cái xấu, xa rời cái đẹp. Vì
vậy, phải thơng qua tu dưỡng, rèn luyện để giữđược đạo đức của mình.

6


Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ
đạo đức để dẫn dắt con người hướng tới các giá trị đạo đức tốt đẹp.
Triết học Tuân Tử lại cho rằng, bản chất con người khi sinh ra là ác,
nhưng có thể cải biến được, phải chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt được.
Trong triết học phương đơng, cịn có quan niệm duy tâm cho rằng trời và
con người có thể hồ hợp với nhau (thiên nhân hợp nhất). Đổng Trọng Thư,
một người kế thừa Nho giáo theo khuynh hướng duy tâm cực đoan quan niệm
trời và con người có thể thơng hiểu lẫn nhau (thiên nhân cảm ứng).
Lão Tử, người mở đầu chi trường phái Đạo gia, cho rằng con người sinh
ra từ "Đạo" do vậy con người cần phải sống "vô vi", theo lẽ tự nhiên, thuần
phác, không hành động một cách giả tạo, gò ép, trái với tự nhiên. Quan niệm
này biểu hiện tư tưởng duy tâm chủ quan của triết học Đạo gia.
Triết học phương đông biểu hiện tính đa dạng và phong phú, thiên về vấn
đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức.
1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học Phương Tây
Các học thuyết triết học duy tâm tuyệt đối hoá hoạt động của đời sống
tinh thần, coi toàn bộ thế giới tinh thần bao gồm t ư t ưởng, tình c ảm, khát v ọng
của con người như một thực thể bị chia cắt khỏi quá trình tâm sinh học. Các

quan niệm duy tâm về bản chất con người tìm thấy sự hồn thi ện c ủa mình
trong hệ thống triết học duy tâm của Hê-Ghen. Công lao của Hê-Ghen trong
lĩnh vực nghiên cứu con người làở chỗông là người đầu tiên đặt vấn đề xem xét
cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần. Theo Ông con người là hiện thân của ý
niệm tuyệt đối, là bước cuối cùng của cuộc diễu hành của ý ni ệm tuy ệt đối trên
trái đất. Hê-Ghen phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần
cá nhân, quy luật đó là: Trong sự phát triển của đời sống tinh th ần cá nhân c ần
thiết và tất yếu phải lặp lại trong hình thái rút ngắn và cơ đọng những trình độ
cơ bản mà đời sống tinh thần xã hội đã phải trải qua. Hê-Ghen đã nghiên cứu
bản chất quá trình của tư duy và khái quát các quy luật c ơ b ản c ủa q trình đó
trình bày nó trong hình thức hệ thống.
Phoi-ơ-Bắc kết án Hê-Ghen là giải thích duy tâm siêu nhiên v ề b ản ch ất
con người, Pho-ơ-Bắc quan niệm rằng: Vấn đề mối quan hệ tư duy và t ồn t ại là
vấn đề bản chất của con người, vì chỉ có con người mới biết tư duy ông đem
những thành tựu của khoa học tự nhiên, đặc biệt là sinh lý, tâm thần h ọc c ủa
thời đại mình để chứng minh mối liên hệ không chia cắt được của tư duy với
những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể của con ng ười. Tuy nhiên, bên
7


cạnh những thành tựu đã đạt được trong sự phê phán quan niệm duy tâm của
Hê-Ghen về bản chất con người Phoi-Ơ-Bắc mắc phải sai lầm tuyệt đối hoá mặt
sinh học của con người, chia cắt con người khỏi các quan hệ xã hội hiện thực
(điều đó được thể hiện trong quan niệm của Ông: con người chỉ là tác phẩm của
giới tự nhiên).
Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết h ọc tr ước
Mác, dù là đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, Nhị ngun luận hoặc duy
vật siêu hình, đều khơng phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung, các
quan niệm trên đều xem xét con người một cách trừu trượng, tuyệt đối hoá m ặt
tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên sinh học mà không

thấy mặt xã hội trong đời sống con người. Tuy vậy, m ột số tr ường tri ết h ọc
phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học
để hướng con người tới tự do. Đó là những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình
thành tư tưởng về con người của triết học Mácxít
1.2. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người
1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã
hội
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những
thành tựu của khoa học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào,
triết học Mác đã khẳng định con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của
giới tự nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người. Con
người là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học với yếu tố xã hội – là thực thể sinh
vật -xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản
phẩm của giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính
sinh học, tính lồi. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy
định sự tồn tại của con người.
Như chúng ta đã biết, tự nhiên là cái có trước con người, sinh ra con
người. Con người muốn tồn tại và phát triển thì phải biết sống vào tự nhiên,
phải biết tác động cải tạo tự nhiên đem lại sản phẩm thoả mãn nhu c ầu c ủa
mình. Con xã hội xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con ng ười. Nh ưng nó l ại
đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong quá trình hình thành con ng ười. Ti ền đề
vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người tự nhiên là con người mang t ất c ả
bản tính sinh học, tính lồi. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện 10 đầu
tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, giới t ự nhiên là "thân th ể vô c ơ
của con người" con người là một bộ phận của tự nhiên.
8


Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn lồi, con người là sản phẩm
của q trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên và là "một động vật

có tính xã hội" với tất cả nội dung văn hố, lịch sử. Đó là điểm xuất phát để tiếp
cận con người của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy
nhất quy định bản chất của con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt của con
người với thế giới lồi vật là mặt xã hội. Tính xã hội của con người biểu hiện
trong hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con
người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ nhu cầu cuộc sống của
mình; Hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi
vậy lao động chính là yếu tố quyết định bản chất xã hội của con người, đồng
thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Theo Mác, xã hội
suy cho cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa người với người. Con
người tạo ra xã hội, là thành viên của xã hội. Mọi biểu hiện sinh hoạt của con
người là biểu hiện và là khẳng định của xã hội.
Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu
cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như: nhu c ầu ăn, m ặc,
ở, nhu cầu tái sản xuất, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các
giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh h ọc và nhu c ầu xã h ội
trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tự nhiên của con
người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật.
Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người
tự nhiên - xã hội.
1.2.2. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Khơng có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn t ại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự ti ến hoá lâu dài, c ủa
giới hữu hình song điều quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là chủ thể của
lịch sử, xã hội. Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho r ằng
con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết
ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hồn cảnh và bản thân nhà

giáo dục cũng cần phải được giáo dục".
Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động
vào tự nhiên cải biến giới tự nhiên đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển
của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều ki ện có s ẵn c ủa t ự
nhiên con người thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú
9


thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo m ục đích c ủa mình.
Hoạt động lao động sản xuất vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và
bộ mặt xã hội. Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong
mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Mặc dù là "t ổng hoà các quan h ệ
xã hội" con người có vai trị tích cực trong tiến trình lịch sử v ới t ư cách là ch ủ
thể sáng tạo. Bởi vậy, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù h ợp,
mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự v ận động
và biến đổi của bản chất con người.
Để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hồn cảnh ngày càng mang tính người. Con người và hồn cảnh sống tác động
qua lại lẫn nhau. Bởi vậy, muốn xem xét vấn đề con người một cách khoa học
nhất, đúng đắn nhất thì phải nghiên cứu con người trong tính thống nhất giữa
mặt sinh học và mặt xã hội. Mỗi mặt có một chức năng khác nhau, khơng thể
thay thế cho nhau. Trong đó mặt xã hội chi phối sự hình thành b ản ch ất con
người.
Những luận điểm đúng đắn về con người của chủ nghĩa Mác có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong việc định hướng cho giáo dục với mục đích vì con
người, phục vụ con người, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong
nước ta hiện nay, chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành thế giới quan và nhân sinh
quan của hàng triệu con người, là hệ tư tưởng đang thống trị trong xã hội ta.
Do sự thay đổi của tình hình thế giới nói chung và do sự khủng hoảng
trầm trọng của hệ thống xã hội chủ nghĩa nói riêng, trong đó có sự khủng hoảng

kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời gian qua, ảnh hưởng của nó ít nhiều bị
giảm xuống cho rằng, chủ trương "dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng b ằng, v ăn
minh" hợp với lịng dân. Chính chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc sẽ là
động lực tinh thần mạnh mẽ để đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên của công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
1.2.3. Bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
Con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập
với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành
bản chất của con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người,
C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất con
người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tỉnh hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ những quan hệ xã hội".
Theo luận đề trên thì khơng có con người trừu tượng, thốt ly mọi điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của lịch sử và xã hội. Luận đề đã khẳng định bản chất xã
10


hội khơng có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Trái lại,
điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và giới động vật trước
hết là bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu sót của những nhà
triết học trước Mác, không thấy được bản chất xã hội của con người.
Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, là cái mang tính quy
luật. Vì vậy cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng
của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
Con người là sản phẩm của giới tự nhiên, song con người khơng hồn
tồn phụ thuộc vào giới tự nhiên mà đã vươn lên, tách xa thế giới động vật, trở
thành con người của xã hội, sáng tạo ra lịch sử. Với vai trò là chủ thể của lịch
sử con người phải được tự do, hạnh phúc, phải được phát triển các khả năng của
mình. Nhưng khơng phải lúc nào và ở đâu con người cũng có đủ điều kiện để
phát triển tồn diện. Vì vậy, một vấn đề đã và đang đặt ra là các quốc gia nói

riêng, nhân loại nói chung, phải coi con người là mục tiêu của sự phát triển của
xã hội.
Con người trong triết học Mác biểu hiện ra là một "sinh vật" có tính lồi,
là một "sinh vật" mang trong mình cái sinh học và cái xã h ội. V ậy b ản ch ất con
người do mặt sinh học hay mặt xã hội quyết định? Mác khẳng định: "Bản chất
con người là tổng thể các quan hệ xã hội" song giữ vai trị quyết định nhất
chính là quan hệ sản xuất vì tất cả những quan hệ khác đều tr ực ti ếp ho ặc gián
tiếp chịu sự quyết định của quan hệ này.
1.3.

Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là sự phát triển tồn diện của con người

Xây dựng một xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh..., mọi người có cuộc
sống tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân là mục tiêu cao
cả của XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tơi chỉ có một ham muốn,
ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân tộc ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".
Chế độ Chủ Nghĩa Xã Hội đã trải qua bước phát triển quanh co, đầy thử
thách của lịch sử, nhưng đang vững bước đi lên và đạt nhiều kết quả trong mục
tiêu vì sự phát triển toàn diện của con người. Nước ta là một nước nghèo đang
trong giai đoạn quá độ đi lên CNXH. Tuy vậy, Đảng và nhà nước luôn coi trọng
con người, coi con người là mục tiêu của sự phát triển của xã hội, thể hiện ở các
nhiệm vụ phát triển sau: Đưa đất nước ra khỏi tình trạng đói nghèo, kém phát
triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Thực hiện công
bằng trong phân phối, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội. Bằng nhiều
giải pháp tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Phát triển kinh tế phù hợp
với các vùng, miền nhiều khó khăn, thực hiện chương trình xố đói giảm
nghèo. Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của nhân
11



dân.Đẩy mạnh hoạt động của thể dục thể thao, nâng cao thể trạng tầm vóc của
con người Việt Nam. Nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện, phấn đấu vì sự
công bằng xã hội.
Những mục tiêu trên đang được Đảng và nhân dân ta thực hiện nhằm xây
dựng một xã hội dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

II. PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
CƠNG NGHIỆP HĨA – HIỆN ĐẠI HĨA (CNH – HĐH) ĐẤT
NƯỚC
II.1. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về nhân tố con người
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước,
chúng ta ngày càng nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc hơn ý nghĩa quan
trọng và tính chất phức tạp của vấn đề xây dựng con người. Rất nhiều vấn đề
mới đặt ra, địi hỏi chúng ta phải có quan điểm và phương pháp đánh giá đúng
thực trạng, phân tích đúng những nguyên nhân, có biện pháp giải quyết kịp th ời
đồng thời hoạch định chính sách lâu dài và cơ bản.
Ngay từ những ngày đầu xây dựng CNXH, Đảng ta đã khẳng định “Con
người là vốn quý nhất” và “Muốn xây dựng thành cơng XHCN thì phải có con
người XHCN”. Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, lợi ích riêng và lợi ích
chung.
Đại hội lần thứ VII của Đảng: “Mục tiêu và động lực chính của sự phát
triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động”.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng: “Lấy việc phát huy yếu tố con người là
nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
Đại hội lần thứ IX của Đảng: “Nguồn lực con người yếu tố cơ bản của sự
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm xây dựng

và phát huy nguồn lực con người. Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng đã nêu:
“Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn
diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có tinh
thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm
cao trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong cơng nghiệp, có ý
thức cộng đồng, tơn trọng nhân nghĩa, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hịa
trong gia đình và cộng đồng xã hội”.

12


II.2. Phát huy vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước
2.2.1. Trên phương diện con người là sự phát triển của động lực xã hội
Khi phê phán quan điểm duy tâm của Hê-Ghen về con người, ngay từ
năm 1843, Mác đã quan niệm con người là một thực thể hiện th ực. "Con
người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ngồi thế giới.
Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội". Con ng ười là
trung tâm của mọi sự phát triển xã hội. Chính bởi vậy, mà khi nói đến ngu ồn
nhân lực, tức là nói đến những chủ thể tham gia vào q trình cơng nghiệp
hố, hiện đại hố. Tuy nhiên, đó khơng phải là những chủ thể bi ệt l ập, riêng
rẽ, mà là những chủ thể được tổ chức thành lực lượng thống nhất về tư tưởng
và hành động. Hay nói một cách khác, nguồn nhân lực của cơng nghiệp hố,
hiện đại hố là tổng hợp những chủ thể với những phẩm chất nhất định tham
gia vào q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Động lực của cơng nghiệp hố, hiện đại hố là những gì thúc đẩy quá
trình này vận động, phát triển. Vì vậy, khi nói “nguồn nhân lực với tính cách
là động lực của cơng nghiệp hố, hiện đại hố” là chủ yếu nói đến những
phảm chất tích cực của tổng hợp những chủ thể được bộc lộ trong q trình
đó và thúc đẩy q trình đó vận động và phát triển.

2.2.2. Trên phương diện con người là mục tiêu của động lực xã hội
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin con người vừa
làđiểm khởi đầu vừa làđiểm kết thúc, đồng thời lại vừa là trung tâm c ủa m ọi
biến đổi lịch sử. Nói một cách khác, con người là chủ thể chân chính của các
q trình xã hội. Trước đây, con người thường được xem xét, đánh gía và
giáo dục trên phương diện "con người-tập thể", " con người-giai cấp"; "con
người-xã hội". Tính tích cực của con người với tư cách là chủ thểđược tập
trung chúý khai thác, bồi dưỡng chủ yếu ở những phẩm chất: cần cù, trung
thành, nhiệt tình, quyết tâm cách mạng…
Trong xã hội con người khơng chỉ tạo ra các hệ thống và các quá trình
khác nhau của xã hội (giai cấp, đảng phái, nhà nước, sản xuất, văn hố...) mà
họ cịn làm người. Chính họđã in đậm dấu ấn trong tiến trình l ịch s ử. B ởi vì,
lịch sử suy cho cùng cũng chính là lịch sử phát triển cá nhân c ủa con ng ười,
dù họ có nhận thức được điều đó hay khơng. Từđó, cho phép tách ra m ột
bình diện đặc biệt trong việc xem xét "con người chủ thể", bình diện "con
người-cá nhân". Cần nhấn mạnh rằng bước chuyển từ "cái xã hội " sang "cái
cá nhân" có nghĩa là nâng nhận thức lên một trình độ mới, quan niệm "cái cá

13


nhân" làsự thể hiện một cách cụ thể sinh động của "cái xã hội" khi con người
trở thành chủ thể của q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Mặt khác trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, con người khơng
chỉ nhận được sự tác động tích cực mà cịn cả những tác động tiêu cực.
Chính vì thế, trong mỗi người ln có những "giằng xé" bởi những cực:
"Chủ-tớ", "giàu-nghèo", "thiện-ác"... trong điều kiện này cần xem xét "con
người-chủ thể" với những phẩm chất nghề nghiệp chuyên môn cụ thể trong
những hồn cảnh cụ thể.
Bên cạnh đó, ta thấy rằng cơng nghiệp hố, hiện đại hố là q trình

cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộđời sống xã hội. Nóđịi hỏi rất cao đối với
"con người-chủ thể". Khơng chỉ có sự cần cù, lịng trung thành, nhiệt huyết
cách mạng mà cần phải có cả trí tuệ khoa học, ý chí chi ến th ắng nghèo nàn,
lạc hậu, bản lĩnh lãnh đạo... Bởi vậy, trong điều kiện mới c ần xem xét, đánh
giá, bồi dưỡng" con người-chủ thể" không chỉ trên bình diện "con người-chủ
thể" mà cịn trên bình diện "con người-cá nhân" hơn nữa là "con ngườichuyên môn nghề nghiệp" nhất định.
Qua đó, ta có thể nói rằng: Chủ thể của q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hốđất nước chính là con người vơí những phẩm chất nhất định
tham gia vào q trình này. Đó là những con người nhất định, gắn bó với tập
thể, với cộng đồng bằng mn vàn các mối quan hệ.
2.2.3. Vai trị của con người trong quá trình CNH – HĐH đất nước
Con người là nguồn lực lớn nhất và quan trọng nhất trong các ngu ồn
lực phát triển xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế-xã h ội th ực ch ất là chi ến
lược con người.
Những năm kết thúc thế kỷ XX, mởđầu thế kỷ XXI ở nước ta đánh
dấu một mốc phát triển cực kỳ quan trọng, mở ra thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Để đảm bảo cho sự nghiệp này thành
công, phải "lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho s ự
phát triển nhanh và bền vững". Đây là một quan điểm cơ bản chỉ đạo toàn bộ
sự phát triển đất nước. Nói một cách khác, chăm lo bồi dưỡng, đào tạo lại,
đào tạo mới và phát huy nguồn lực con người là một yếu tố quyết định làm
cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Nhân tố con người là
nhân tố quyết định mọi sự phát triển.
Quan điểm cơ bản đó tiếp nối và phát huy một tư tưởng truy ền th ống
của Việt Nam: luôn coi con người là vốn quý nhất và trong th ời k ỳ đổi mới
ngày nay, tư tưởng truyền thống đó đã được nâng lên một tầm cao mới, phù
hợp với tư duy khoa học của thời đại. Tạp trí" Vận mệnh" (1994) ở Mỹ đã
gọi sự phát triển nguồn lực con người ngày nay là một cuộc cách mạng trong
14



bối cảnh xã hội đang biến động mạnh mẽ và hợp tác cùng cạnh tranh toàn
cầu. Khẩu hiệu của cuộc cách mạng đó là: "Con người là vốn quý báu quan
trọng của chúng ta". Ở Việt Nam, trong các văn kiện của Đảng và Nhà n ước
đã khẳng định: "Con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế
- xã hội"
Con người tham gia vào qúa trình sản xuất với tư cách là m ột y ếu t ố
của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là lực lượng do xã hội tạo ra để
cải tạo thế giới.
Khi phân tích về lực lượng sản xuất. Mác đã viết "trong tất c ả các lực
lượng sản xuất, lực lượng sản xuất lớn nhất là giai cấp cách mạng. Nh ư v ậy,
Mác đã khẳng định con người là yếu tố có vai trị to lớn nhất, quy ết định
trong lực lượng sản xuất. Cũng vấn đề này, Lênin viết, "lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động". Bác Hồ
kính yêu đã nhắc nhở: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có
con người xã hội chủ nghĩa".
Nhân tố con người đóng một vai trị hết sức quan trọng trong qúa trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Nó khơng chỉ là yếu tố quyết định
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước mà cịn là động lực của
cơng nghiệp, hố hiện đại hoá nước ta.
II.3. Những nhiệm vụ cơ bản xây dựng con người trong q trình cơng
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước
2.3.1. Xây dựng tư tưởng đạo dức và lối sống
Xây dựng con người là mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước nên nó phải là kết quả tổng hợp của tất cả những hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của chúng ta. Song ở đây, chúng ta chỉ
bàn đến những nhiệm vụ cơ bản trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa tác động
đến sự hình thành con người trong q trình Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa
đất nước, cụ thể như sau:
Xây dựng tư tưởng đạo đức và lối sống: “Nghị quyết hội nghị lần thứ

V Ban Chấp Hành Trung Ương khóa VIII về xây dựng đời sống văn hóa,
tinh thần của nhân dân ta đã chỉ rõ: tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống
văn hóa được coi là những lĩnh vực quan trọng nhất hiện nay cần đặc biệt
quan tâm”.
Định hướng xây dựng con người, yếu tố tư tưởng, đạo đức lối sống là
yếu tố cơ bản nhất trong phẩm chất tinh thần của con người Việt Nam hiện
nay.Trong đó, “hệ tư tưởng là cốt lõi của văn hóa, là định hướng cơ bản cho
đời sống tinh thần xã hội”. Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
15


đó là tư tưởng: độc lập dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội dựa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tuyên truyền giáo dục cho nhân dân hiểu biết đầy đủ sâu sắc chủ
nghĩa Mác-Lênin củng cố lòng tin của nhân dân và tư tưởng Hồ Chí Minh đã
lựa chọn. Xây dựng tinh thần yêu nước có ý chí xây dựng đất nước vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Biến tinh thần
đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây thành tinh thần phục hưng đất
nước trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Quyết tâm xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa,
vì hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc và của mỗi con người. Xây dựng đạo
đức và lối sống mới phấn đấu vì lợi ích con người với tư cách là mỗi cá nhân
và cả cộng đồng, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích của cộng đồng, ở từng
cơ sở, từng địa phương và trong cả nước. Hình thành lối sống mới, lối sống
văn minh tác phong công nghiệp, trật tự kỷ cương và trách nhiệm.
2.3.2. Phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục và đào tạo
với quan điểm: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm
thì phải trồng người". Để phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong thời gian
tới chúng ta cần: Đẩy mạnh cải cách hệ thống giáo dục vàđào tạo để giáo

dục - đào tạo thực hiện tốt nhiệm vụ “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và
bồi dưỡng nhân tài”. Coi giáo dục - đào tạo là một trong những quốc sách
hàng đầu, là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực, tạo nền tảng để
thực hiện mơ hình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá rút ng ắn và phát tri ển kinh
tế tri thức. Cụ thể, những giải pháp đó là:
Một là, từng bước hiện đại hoá hệ thống giáo dục ưu tiên cho việc
thiết lập cơ sở hạ tầng cho hệ thống giáo dục - đào tạo như cơ sở vật chất,
trường lớp, thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục đào tạo… Điều chỉnh cơ cấu đào tạo các bậc đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và các trường dạy nghề một cách hợp lý, phù hợp với yêu cầu
của thị trường lao động. Hiện đại hoá các cơ sở dạy nghề và nâng cấp các
trường đào tạo theo sát hơn với công nghệ mới nhằm hình thành nên một đội
ngũ người lao động có tay nghề chun mơn cao, có các tri thức cơ bản, hiện
đại, có khả năng tiếp thu và sử dụng công nghệ mới, công nghệ cao.
Hai là, tăng mạnh đầu tư công nghệ mới, công nghệ cao cải cách nội
dung và phương pháp giáo dục. Đầu tư cho giáo dục có ý nghĩa chiến lược
lâu dài, mang lại hiệu quả nhất. Vì vậy, ngân sách nhà n ước c ần ph ải đầu t ư
tăng thêm cho giáo dục. Mặt khác, việc giao chỉ tiêu và cấp kinh phí cho
16


giáo dục - đào tạo, việc phân bổ các đề tài nghiên cứu ở nước ta cần đổi mới,
tránh mang tính bình qn, bao cấp.
Ba là, nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng kịp thời nhu cầu thực tiễn.
Thực trạng về số lượng sinh viên, tri thức trẻ tốt nghiệp khơng có việc làm
ngày càng tăng lên cho thấy hai mặt của một vấn đề, đó là những b ất c ấp
trong cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề đào tạo và chất lượng đạo tạo chưa
sát thực tiễn cuộc sống. Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo theo hướng
chuẩn hoá, hiện đại hoá, tránh khuân cứng, giáo điều, mang tính thụ động,
thừa nhận. Xác định đúng đối tượng đào tạo để có chương trình, nội dung,
phương pháp đào tạo có hiệu quả.

Bốn là, thực hiện xã hội hố cơng tác giáo dục - đào tạo, thu hút m ọi
nguồn lực cho phát triển giáo dục - đào tạo. Giáo dục - đào tạo phải theo nhu
cầu xã hội, đa dạng hố các loại hình đào tạo. Hình thành m ạng l ưới các
trường tư thục bên cạnh hệ thống các trường cơng lập và cần có cơ chế giám
sát chặt chẽđối với các loại hình trường ngồi cơng lập.
Năm là, tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong giáo dục đào tạo, nhất là hệđại học và sau đại học. Tuyển chọn và đưa đi đào tạo ở
các nước tiến tiến số lượng lớn cán bộ khoa học - kỹ thuật thuộc các lĩnh vực
ưu tiên chiến lược. Nhà nước cần có cơ chế quản lý thích hợp nhằm phát huy
tính chủđộng sáng tạo của các cơ sở giáo dục - đào tạo, đồng th ời tránh tình
trạng “thương mại hố” giáo dục.
Bên cạnh đó cần có những giải pháp để nâng cao sức khoẻ thể chất
của con người. Cần phát triển thể năng của con người để có khả năng lao
động, làm việc với nhịp độ cao và chính xác. Phát triển thể năng cân bằng
linh hoạt trong các dạng hoạt động khác nhau.
2.3.3. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Văn hóa có vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của con
người và xã hội lồi người. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, định
hướng cho sự phát triển bền vững của xã hội. Văn hóa thấm sâu vào các lĩnh
vực của đời sống xã hội và mọi hành vi của con người, điều chỉnh suy nghĩ
và hành vi của con người. Trong suốt chặng đường hơn 83 năm lãnh đạo
nhân dân tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
hiện nay, Đảng ta luôn nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trị của văn hóa và
thường xuyên quan tâm lãnh đạo, phát huy sức mạnh văn hóa đối với sự phát
triển bền vững của đất nước. 
17


       Đảng ta xác định: "Văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính

trị, văn hóa", vì vậy, "phải hồn thành cách mạng văn hóa mới hồn thành
được cơng cuộc cải tạo xã hội" và "Đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hóa
tiên phong"; đồng thời, đề ra ba nguyên tắc cuộc vận động văn hóa mới: Dân
tộc, đại chúng, khoa học. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ba nguyên tắc của
cuộc vận động văn hóa mới đã trở thành ngọn cờ cổ vũ, động viên, tập hợp
đơng đảo đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ vào Hội Văn hoá cứu quốc và soi
đường cho các hoạt động của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, tạo thành sức
mạnh tinh thần to lớn, động viên, cổ vũ nhân dân ta tiến hành cuộc Tổng
khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, lập nên nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa và Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu. Trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, Đảng đã lãnh đạo đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức quán triệt sâu sắc
nguyên tắc tính dân tộc, tính đại chúng, tính khoa học của Đề cương Văn
hóa Việt Nam; kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
của dân tộc qua mấy nghìn năm dựng và giữ nước, đồng thời tiếp thu chọn
lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại, sáng tạo ra những tác phẩm văn hóa nghệ
thuật kiệt xuất, phục vụ kịp thời cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Sức mạnh nội sinh của văn hóa đã được phát huy mạnh mẽ, tiếp thêm sức
mạnh cho dân tộc, trở thành niềm cổ vũ, động viên to lớn đối với quân và
dân hai miền Nam - Bắc; nâng cao tinh thần yêu nước, thôi thúc mạnh mẽ
phong trào thi đua giữa tiền tuyến và hậu phương, quyết tâm thực hiện lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”,
góp phần giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hội nghị lần
thứ 5 Ban Chấp hành Đảng Trung ương (khóa VIII) tháng 7 năm 1998, đã ra
Nghị quyết chuyên đề về: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc", xác định những quan điểm cơ bản: 
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan
điểm chỉ rõ vai trò to lớn của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc
và tương lai đất nước. văn hóa khơng phải là kết quả thụ động, yếu tố

đứng bên ngoài, bên cạnh hoặc đi sau kinh tế, phụ thuộc hồn tồn
vào trình độ phát triển kinh tế mà văn hóa vừa là mục tiêu, vừa động
lực thúc đẩy kinh tế. “Văn hóa thấm sâu vào tồn bộ đời sống và hoạt
động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng
đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người,
tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp". 
Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ, trong
18


đó, cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH theo chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì
hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người
trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và
tự nhiên. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị truyền thống tốt đẹp,
bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được
vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Đó là, lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - Tổ quốc; lịng nhân
ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao
động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong cuộc sống; dũng cảm,
kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm … 
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa
dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đây là tư tưởng tiến bộ
và nhân văn, phù hợp với thực tiễn của cộng đồng 54 dân tộc đang
sinh sống ở Việt Nam và xu thế chung của cộng đồng quốc tế đang
hướng tới xây dựng một cơng ước quốc tế về đa dạng văn hóa hiện
nay. 
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn
dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng.

Quan điểm xác định trách nhiệm của mọi người dân Việt Nam đều
tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa nước nhà; cơng
nhân, nơng dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, đồng thời là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ gắn bó
với nhân dân, giữ vai trò quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Năm là, văn hóa là một mặt trận. Xây dựng và phát triển văn
hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách
mạng và sự kiên trì thận trọng. Quan điểm chỉ rõ: Cuộc đấu tranh giai
cấp trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa hiện nay đang diễn ra hết sức
nóng bỏng, quyết liệt, phức tạp. Văn hóa là một lĩnh vực hết sức nhạy
cảm và khác với các hoạt động kinh tế. Tuy không trực tiếp tạo ra của
cải vật chất, nhưng các hoạt động văn hóa ln mang ý nghĩa chính trị
- xã hội, có tác động sâu sắc đối với đời sống tư tưởng, tình cảm, tâm
lý, tập quán cộng đồng. Vì vậy, cần phải tiến hành một cách kiên trì,
thận trọng, tránh nóng vội, chủ quan, duy ý chí; phát huy tinh thần tự
nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong xây
dựng và phát triển văn hóa; đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết
19


xây dựng đời sống văn hóa”, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ
đời sống và hoạt động của xã hội, vào từng con người, từng gia đình,
từng tập thể và cộng đồng, cũng như mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan
hệ con người trong xã hội. 

2.3.4. Xây dựng mơi trường văn hóa
Trong lịch sử dân tộc, ở mọi thời đại, tư tưởng, đạo đức, lối sống và
môi trường văn hóa là nội dung quan trọng trong xây dựng nhân cách con

người, hình thành lối sống, nếp sống chuẩn mực, là yếu tố nền tảng để xây
dựng một xã hội tốt đẹp, nhân văn, đồng thời phản ánh sự tiến bộ xã hội.
Trong thời kỳ đổi mới, nội dung xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và
môi trường văn hóa là nhiệm vụ hết sức to lớn và quan trọng trong đường lối
chiến lược của Đảng và đời sống thực tiễn cả trước mắt và lâu dài. Nhiệm vụ
này khơng phải của riêng ngành văn hóa, mà là yêu cầu đối với cả hệ thống
chính trị, là trách nhiệm của tồn xã hội.
Xét trên tổng thể, mơi trường văn hóa là một bộ phận quan trọng của
mơi trường sống, gắn bó hữu cơ, mật thiết với mơi trường tự nhiên và môi
trường xã hội do con người tạo nên. Mơi trường văn hóa là kết quả của phép
ứng xử của con người với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và với
chính bản thân mình. Vì vậy, xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh cũng
đồng thời là cải thiện và nâng cao chất lượng của môi trường sinh thái tự
nhiên, môi trường xã hội nhân văn, hình thành và ni dưỡng nhân cách con
người. Với ý nghĩa đó, xây dựng mơi trường văn hóa khơng tách rời với việc
xây dựng nhân cách cá nhân và xây dựng lối sống, nếp sống văn hóa của
cộng đồng.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường văn
hóa, trong những năm qua, việc xây dựng mơi trường văn hóa bước đầu đã
đạt được những kết quả nhất định, cụ thể:
Thứ nhất, hệ thống văn bản quản lý nhà nước về văn hóa ngày
càng được hồn thiện.
Xây dựng mơi trường văn hóa đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm,
lãnh đạo, chỉ đạo bằng những định hướng cơ bản quan trọng, thông
qua hệ thống văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc qua các nhiệm
kỳ đại hội Đảng và thông qua các nghị quyết chuyên đề, chuyên biệt
về văn hóa, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII
về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
20



bản sắc dân tộc” và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về
“Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước”; được thể hiện, thể chế hóa thơng
qua cơ chế, chính sách của Nhà nước. Qua đó, nhận thức của các cấp,
các ngành, các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trị của mơi trường văn
hóa và xây dựng mơi trường văn hóa từng bước được nâng lên. Ngành
văn hóa, thể thao và du lịch đã chủ động phối hợp với các ngành, các
địa phương trong cả nước tham mưu xây dựng và ban hành các văn
bản, các chủ trương, chính sách, phát động các phong trào văn hóa
nhằm xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh. Cơng tác quản lý nhà
nước về văn hóa được tăng cường với phương châm quản lý đi đôi với
phát triển, kết hợp hài hòa giữa hai nhiệm vụ căn bản “xây” và
“chống”. Hệ thống văn bản quản lý nhà nước về văn hóa ngày càng
được hồn thiện: Một số luật, nghị định và văn bản liên quan để điều
chỉnh các hoạt động văn hóa phù hợp với sự phát triển của đất nước
được ban hành, sửa đổi, bổ sung kịp thời, trong đó có các nội dung về
xây dựng mơi trường văn hóa, quản lý, bảo tồn các di sản, các giá trị
văn hóa truyền thống, quản lý và tổ chức lễ hội, quy hoạch phát triển
hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở...
Thứ hai, phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hóa” đạt được nhiều kết quả tích cực
 Phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa” (từ tháng
4-2000) kế thừa những thành tựu, kinh nghiệm, kết quả đạt được từ
các phong trào “Đời sống mới” (năm 1961), xây dựng “Gia đình văn
hóa”, “Làng văn hóa” (năm 1991) và phong trào “Tồn dân đồn kết
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” (năm 1995). Phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” là sợi dây đan kết các
phong trào hiện có, như phong trào “Người tốt, việc tốt”, “Uống nước,
nhớ nguồn”, “Đền ơn, đáp nghĩa”, “Xóa đói, giảm nghèo”, xây dựng

“Gia đình văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”, “Tồn
dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”...
Kể từ khi phát động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”, tại các địa phương, ngày càng xuất hiện nhiều nhân tố
mới về điển hình tiên tiến trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Phong trào đã mang tính tồn diện, được khẳng định trong cuộc sống
và có ý nghĩa chính trị - xã hội, nhân văn sâu sắc; đồng thời, góp phần
quan trọng nâng cao nhận thức của tồn xã hội về vai trị và động lực
của văn hóa đối với sự phát triển bền vững đất nước; nâng cao nhận
thức của các cấp ủy, chính quyền, các ngành, đoàn thể, các tầng lớp
21


nhân dân và toàn xã hội về trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ phát triển
văn hóa, xây dựng nơng thơn mới trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và
phát triển. Nhiều giá trị văn hóa, các quy định pháp luật và quy chế,
quy tắc ứng xử văn hóa ngày càng thẩm thấu vào đời sống, tạo dựng
môi trường sống lành mạnh cho cộng đồng dân cư, mỗi gia đình và cá
nhân.
Phong trào đã có tác động tích cực đến phát triển kinh tế và văn hóa xã hội một cách bền vững. Truyền thống đoàn kết và đạo lý dân tộc
được phát huy, trở thành nội lực giúp nhau “xóa đói, giảm nghèo”,
“đền ơn, đáp nghĩa”; xây dựng con người về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, nếp sống được chú trọng, vai trị và vị trí của gia đình
và cộng đồng được nâng lên; tình làng, nghĩa xóm được củng cố.
Nhiều giá trị văn hóa dân tộc được bảo tồn và phát huy, làm phong
phú đời sống văn hóa của người dân.
Kết quả đạt được của phong trào đã góp phần nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân, thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ gìn an
ninh, trật tự xã hội, ổn định chính trị, xóa đói, giảm nghèo; làm lành
mạnh mơi trường văn hóa, nâng cao dân trí cho mọi người; giúp đỡ,

tương trợ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư, làng, xóm; làm cho chất
lượng cuộc sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, góp phần
đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Những nội dung, tiêu chí xây dựng và cơng
nhận danh hiệu gia đình, làng, tổ dân phố văn hóa, xã đạt chuẩn nông
thôn mới, phường đạt chuẩn văn minh đô thị cùng với nội dung quy
ước, hương ước văn hóa được xây dựng và thực hiện trên các địa bàn
cơ sở trong cả nước đang là những chuẩn mực về lối sống, đạo đức,
xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh cho toàn xã hội.
Thứ ba, xây dựng nếp sống văn hóa, đạo đức, lối sống ngày càng
được chú trọng và phát huy hiệu quả.
Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội
trên địa bàn cả nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, kịp thời đáp
ứng yêu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, hạn chế và đẩy
lùi những hiện tượng tiêu cực, những hủ tục. Nhiều địa phương đã tổ
chức cưới, tang văn minh, tiết kiệm, gọn nhẹ, giảm bớt các hủ tục
phiền hà. Nhiều nét văn hóa mới được phát huy, như tổ chức các đám
cưới không hút thuốc, xuất hiện mơ hình tổ chức các đám cưới tập
thể. Nhiều địa phương đã chú trọng chỉ đạo lồng ghép nội dung thực
hiện nếp sống văn minh trong việc tang với các nội dung xây dựng gia

22


đình văn hóa, làng (thơn, ấp, bản), tổ dân phố văn hóa, khu dân cư tiên
tiến.
Việc xây dựng đạo đức, lối sống ngày càng được chú trọng; xuất hiện
nhiều tấm gương đạo đức, hành động xả thân vì xã hội, dũng cảm cứu
người trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thiên tai, lũ lụt, dịch
bệnh COVID-19,...
Thứ tư, giữ gìn và phát huy các giá trị di sản văn hóa ngày càng đi

vào chiều sâu.
Các giá trị, chuẩn mực cốt lõi của văn hóa, của mơi trường văn hóa
được gìn giữ, phát huy; các giá trị mới, chuẩn mực mới từng bước
được hình thành, hồn thiện; nhiều giá trị di sản văn hóa vật thể và
văn hóa phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán
của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục
dựng; hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh
của nhân dân được quan tâm; truyền thống văn hóa gia đình, dịng họ,
cộng đồng được phát huy; các sản phẩm văn hóa ngày càng phong
phú, đa dạng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của các
tầng lớp nhân dân; cơng tác xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng
được mở rộng, đẩy mạnh, góp phần đáng kể vào việc xây dựng, từng
bước hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thiết
chế văn hóa cơ sở; nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp
phần xây dựng mơi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh. Hệ thống
di sản văn hóa được khai thác, gắn kết việc đẩy mạnh xây dựng mơi
trường văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội
một cách bền vững.
Thứ năm, xây dựng và từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của các thiết chế văn hóa.
Thiết chế văn hóa có vai trị quan trọng để tổ chức các hoạt động văn
hóa cho nhân dân, đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt chung của cộng
đồng; qua đó, cộng đồng tổ chức xây dựng và tổ chức thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương. Thiết chế văn hóa cơ sở cịn
là yếu tố gắn kết cộng đồng, điều chỉnh các mối quan hệ ở địa bàn dân
cư; tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến
với mọi người dân; cổ vũ nhân dân thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã
hội, an ninh, quốc phịng. Hiện nay, tồn quốc có 72 thiết chế văn hóa
cấp tỉnh, gồm 60 trung tâm văn hóa, 3 nhà văn hóa, 4 trung tâm thơng
tin - triển lãm và 5 thiết chế văn hóa khác. Với độ bao phủ và sự năng

23


động, tích cực trong việc phát huy vai trị của các thiết chế, hệ thống
thiết chế văn hóa, thể thao từ tỉnh đến cơ sở ở nhiều nơi đã thực sự trở
thành trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, bồi dưỡng nghiệp vụ, là
hạt nhân có tác động tích cực nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho
các tầng lớp nhân dân trên địa bàn; góp phần vào việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy kinh tế, văn hóa, xã hội phát
triển, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an tồn xã hội,... phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, định hướng thẩm mỹ lành mạnh cho nhân
dân.

III. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SINH VIÊN
Trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa hội nhập quốc tế hiện
nay sinh viên đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong sự nghiệp đất nướn, thế
hệ sinh viên là thế hệ trẻ năng nổ, nhiệt huyết, sáng tạo và là "thế hệ vàng"
quyết định sự phồn vinh của đất nước.
Trong thời đại 4.0, thời đại công nghệ thông tin tiên tiến và phát triển
như vũ bão thế hệ sinh viên càng phải phấn đấu nhiều hơn nữa, sáng tạo hơn
nữa, học hỏi hơn nữa nhằm góp một phần cơng sức bé nhỏ của mình vào sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin giúp chúng ta từng bước
xây dựng và hình thành thế giới quan khoa học, có phương pháp tiếp thu
một cách hiệu quả lý luận mới, những thành tựu khoa học - công nghệ của
nhân loại, có niềm tin vào sứ mệnh lịch sử của đất nước, có cơ sở khoa học
chống lại tư tưởng lạc hậu, phản động.
Hiểu và nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi người có điều kiện
hiểu rõ mục đích, con đường, lực lượng, cách thức bước đi của sự nghiệp
giải phóng con người, khơng sa vào tình trạng mị mẫm, mất phương hướng,

chủ quan, duy ý chí. Có cách nhìn xa trơng rộng, chủ động sáng tạo trong
cơng việc, khắc phục chủ nghĩa giáo điều, máy móc, tư tưởng nơn nóng đốt
cháy giai đoạn và các sai lầm khác.
Học tập các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin giúp sinh viên có
động cơ học tập đúng đắn, thái độ nghiêm túc trong rèn luyện đạo đức công
dân, ý thức nghề nghiệp của người lao động trong tương lai. Để đạt được
mục đích đó người học cần chú ý liên hệ từng nguyên lý, có ý thức trách
nhiệm trong học tập, rèn luyện, từng bước vận dụng vào đời sống, xây dựng
tập thể, góp phần lớn nhất vào sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
24


Kiến thức: sinh viên nắm được vai trò của con người trong xã hội và
nắm được kiến thức cơ bản những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về
chủ nghĩa xã hội, thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam và sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Kĩ năng: sinh viên biết vận dụng những
tri thức đã học vào phân tích những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tư tưởng: sinh viên
có niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa, luôn tin và ủng hộ đường lối mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.

PHẦN KẾT LUẬN
Trải suốt mấy nghìn năm hình thành và phát triển c ủa lịch s ử tri ết h ọc, v ấn
đề con người luôn được các nhà triết học đặt ra và xem nó là v ấn đề trung tâm mà
triết học cần nghiên cứu. Trong q trình đó triết học ln ln phải giải đáp các
câu hỏi: Bản chất con người là gì? Nguồn gốc con người do đâu? chính từ các cách
giải đáp khác nhau về vấn đề này mà làm nảy sinh nhiều trường phái tri ết h ọc đối

lập nhau, đấu tranh gay gắt với nhau, mang tính chất duy tâm, b ảo th ủ hay duy v ật,
tiến bộ bộc lộ rõ ràng. Qua tìm hiểu chúng ta th ấy r ằng, d ưới d ạng t ổng quát, khái
niệm “nguồn gốc” được hiểu là toàn bộ các yếu tố cả về vật chất lẫn tinh th ần đã,
đang và sẽ có khả năng tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong nh ững đi ều ki ện
thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một quốc gia, dân t ộc. Ngh ĩa là,
khái niệm nguồn lực có phạm vi bao quát rộng nó hàm chứa không ch ỉ nh ững y ếu
tốđã vàđang tạo ra sức mạnh trên thực tế, mà cả nh ững y ếu t ố m ới ở d ạng s ức
mạnh tiềm năng; nó khơng chỉ nói lên sức mạnh mà còn chỉ ra n ơi b ắt đầu, n ơi
phát sinh hoặc nơi có thể cung cấp sức mạnh; nó phản ánh khơng ch ỉ s ố l ượng mà
cịn cả chất lượng các yếu tố, đồng thời nói lên sự biến đổi không ngừng của các
yếu tố.
Trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm về vấn đề
con người trong triết học là sợi chỉ xuyên suốt trong lịch sử triết học và tr ở thành
động lực bên trong của sự phát triển tư tưởng triết học. Chủ nghĩa duy tâm xem
bản chất con người là do linh hồn bất tử hay ý niệm tuyệt đối t ạo nên, do Th ượng
đế hay lực lượng siêu nhiên nào đó ban cho và khơng bị thay đổi trong cu ộc s ống.
Còn chủ nghĩa duy vật đã xem con người như một vũ trụ thu nhỏ, xem con người
như như một sản phảm cao nhất do tự nhiên ban tặng. Họ luôn phủ nh ận sự t ồn t ại

25


×