Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TTHCM về đoàn kết dân tộc, độc lập dân tộc, tự chủ, tự cường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.78 KB, 18 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MƠN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tên đề tài: Đề 16: Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
và vấn đề nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường trong thời kỳ hội
nhập.

Hà Nội, 07/2021


2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU: Lý do chọn đề tài
PHẦN NỘI DUNG
I.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1. Vai trị của đại đồn kết dân tộc
1.1 Đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết
định thành cơng của cách mạng
1.2 Đại đồn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng Việt Nam
2. Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc
2.1 Chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc
2.2 Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc
3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
4. Hình thức, nguyên tắc tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc – Mặt


trận dân tộc thống nhất
4.1 Mặt trận dân tộc thống nhất
4.2 Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống
nhất
5. Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
II.
vấn đề nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường trong
thời kỳ hội nhập.
1. Những vấn đề trọng yếu để giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường trong
hội nhập quốc tế.
2. Một số vấn đề có tính ngun tắc, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ,
tự lực, tự cường trong thời kỳ hội nhập khi tham gia hội nhập quốc
tế.
PHẦN KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo


3

PHẦN MỞ ĐẦU:
Lý do chọn đề tài
Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì quý
báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghàn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý nhân
sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai,
địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt
Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã sớm hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đồn kết dân tộc.
Trong đó tư tưởng về đại đồn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị
trường tồn đối với q trình phát triển của dân tộc ta và của

tồn nhân loại. Đấy là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong
tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và
đã trở thành chiến lược cách mạng của Đảng ta, gắn liền với
những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Đặc biệt là trong thời kì
hội nhập quốc tế hiện nay, tư tưởng về đồn kết dân tộc càng
phải được đề cao trước những biến động hay tác động tiêu cực
của hội nhập quốc tế. Chính vì lí do trên, em xin chọn đề tài
“Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc và vấn đề nêu cao
tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường trong thời kỳ hội nhập”.


4
PHẦN NỘI DUNG:
I.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1. Vai trị của đại đồn kết dân tộc
1.1 Đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết
định thành công của cách mạng
Vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến
lược lâu dài và xun suốt tiến trình cách mạng. Đại đồn kết tồn dân tộc
khơng chỉ có ý nghĩa trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mà cịn có ý
nghĩa cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, trong thời đại
mới, để đánh bại các thế lực đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần
u nước thì chưa đủ. Cách mạng muốn thành công và thành công “đến nơi”,
phải tập hợp tẩt cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng được khối đại đoàn
kết toàn dân tộc một cách bền vững.
Hồ Chi Minh chỉ ra rằng, muốn quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn
kết tồn dân tộc, cẩn có chính sách và phương pháp phù hợp với tìmg đối
tượng. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác

nhau, chính sách và phương pháp tập hợp đại đồn kết có thể và cần thiết phải
điều chinh cho phù hợp với tímg đối tượng khác nhau, song khơng bao giờ
được thay đổi chủ trương đại đồn kết dân tộc, vì đó là vấn đề sống còn, quyết
định thành bại của cách mạng. Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách mặt trận
đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh, đã xây dựng
thành cơng khối đại đồn kết dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam giành được
nhiều thắng lợi to lớn. Từ bài học thành công của cách mạng, Hồ Chí Minh đã
tổng kểt những quan điểm mang tính chân lý về vai trị của nhân dân, của khối
đại đoàn kết: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta” , “Đồn kết là một lực lượng
vơ địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi” , “Đoàn kết là
sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi” , “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của
thành cơng” , “Bây giờ cịn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm
này mà thực hiện tốt thi đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết”. Người kết
luận:
“Đoàn kết, đoàn kết. đại đoàn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”
1.2 Đại đồn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng Việt Nam


5
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đồn kết khơng chỉ là khẩu hiệu chiến lược,
mà cịn là mục đích của cách mạng. Chính vì thế, theo Người, đại đồn kết toàn
dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đàng, phải được quán
triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách tới hoạt
động thực tiễn của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đàng Lao động
Việt Nam, ngày 3-3-1951. Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước tồn
thế dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong tám chữ
là: ĐỒN KẾT TỒN DÂN, PHỤNG SỰ TỐ QUỐC”’.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ hảng đầu của Đảng, cũng lả nhiệm vụ

hàng đầu của mỗi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là nhấn mạnh
đến vai trò của thực lực cách mạng. Bởi cách mạng muốn thành công nếu chỉ có
đường lối đúng thì chưa đủ, mà trên cơ sở cùa đường lối đúng, Đảng phải cụ thể
hoá thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với
từng giai đoạn để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng.
Thực lực đó chính là khối đại đồn kết dân tộc. Năm 1963, khi nói chuyện với
cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì
nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một
là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để địi độc lập.Chỉ đơn giản
thế thơi. Bây giờ mục đích của tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết, Hai
là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thổng nhất nước nhà” .
Đại đoàn kết là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi khách
quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng. Từ trong
phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần
chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và hợp tác, Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh
thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi
hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những địi hỏi tự giác, thành hiện
thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong
cuộc đấu tranh vì độc lập củaa dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho
con người. Do đó, đại đồn kết tồn dân tộc chính là hợp điểm của “Ý Đảng” và
“Lòng dân”.
2. Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc
2.1 Chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc
Chủ thể cùa khối đại đoàn kết dân tộc theo quan điểm của Hồ Chí Minh là toàn
thể nhân dân, tất cả những người Việt Nam yêu nước. Đứng trên lập trường giai


6
cấp cơng nhân và quan điểm quần chúng, Hồ Chí Minh đề cập vấn đề nhân dân

một cách rõ ràng, tồn diện. Nội hàm về nhân dân có biên độ rất rộng, Hồ Chí
Minh thường dùng khái niệm này để chỉ “Mọi con dân nước Việt”, “Mỗi một
người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu sổ, có tín
ngưỡng hay khơng tín ngưỡng, khơng phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo,
quý tiện”. Như vậy, nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa được hiểu với tư
cách là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần
chúng nhân dân, với những mối liên hệ cả quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của
khối đại đoàn kểt dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực chất là tập hợp lực lượng
tồn dân.
Nói tới đại đồn kết tồn dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất cà mọi
người dân vào trong cuộc đấu tranh chung. Theo ý nghĩa đó, nội hàm khái niệm
đại đồn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, bao gồm nhiều tầng,
nhiều cấp độ các quan hệ liên kết qua lại giữa các thành viên, các bộ phận, các
lực lượng xã hội của dân tộc từ dân tộc đa số đến dân tộc thiểu số, từ thấp đến
cao, từ trong ra ngồi, từ trên xuống dưới...Hồ Chí Minh nhiều lần nói: “Đồn
kết của ta khơng những rộng rãi mà cịn đồn kết lâu dài... ta đồn kết để đấu
tranh cho thống nhất và bảo vệ Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước
nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân
thì ta đồn kết với họ”.
Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ, trong q trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa giai cấp, dân tộc để tập hợp lực lượng, khơng được phép bỏ sót
một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lịng trung thành và sẵn sàng bảo vệ
Tổ quổc, không là Việt gian, không phản bội lại quyền lợi của dân chúng. Với
tinh thần đại đồn kết rộng rãi như vậy, Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc
xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt
Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2.2

Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc


Dân tộc, nhân dân là những khái niệm chỉ một cộng đồng, một khối người.
Muốn xây dựng khối đại đồn kết dân tộc thì phải xác định rõ đâu là nền tảng
của khối đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên nền tảng đó. Người
chi rõ;
“Đại đồn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số
nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là


7
nền, gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã
có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác” ; “Lực
lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh
công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất” . Người cịn nêu rõ, lấy
liên minh cơng nhân - nơng dân – lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại
đoàn kết dân tộc. Nền tảng càng được củng cố vũng chắc thì khối đại đồn kết
tồn dân tộc càng có thể mở rộng, khơng e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm
suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đại đoàn kết toàn dân tộc cịn phải đồn kết và thống nhất trong Đàng. Sự đoàn
kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cở sờ lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác
- Lênin; cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng; điều lệ Đảng; nghị quyết
của tổ chức đảng các cấp. Đồng thời, muốn đoàn kết thống nhất trong Đảng,
phải thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ
nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải sống với nhau có tình có
nghĩa. Có đồn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và
hành động.Sự đoàn kết trong Đảng là cơ sờ vững chắc để xây dựng sự đoàn kết
trong Mặt trận. Đảng đoàn kết, dân tộc đồn kết và sự gắn bó máu thịt giữa
Đảng đối với nhân dân sẽ tạo nên sức mạnh bên trong, để dân tộc vượt qua mọi
khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng cùa cách mạng.

3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phải lấy lợi ích chung làm điểm quy
tụ, đồng thời phải tơn trọng các lợi ích khác biệt chính đáng. Phải chú ý xử lý
các mối quan hệ lợi ích rất phong phú trong xã hội Việt Nam. Chỉ có xử lý tốt
quan hệ lợi ích trong xã hội thì mới tìm ra những điểm tương đồng để đoàn kết
lực lượng yêu nước, cách mạng. Mặt trận là tổ chức tập hợp đông đảo quần
chúng với lợi ích vừa tương đồng, vừa khác biệt. Muốn Mặt trận hoạt động lâu
dài và bền chặt thì phải đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết. Lợi ích tối
cao của dân tộc Việt Nam và cũng là nguyên tắc “bất di bất dịch” của cách
mạng Việt Nam chính là độc lập, tự do. Vấn đề cịn lại là ở chỗ phải làm thế nào
để tất cả mọi người thuộc bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong Mặt trận
cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên hết, trước hết, vì lợi ích tối cao của dân
tộc được bảo đảm thì lợi ích cơ bản của mỗi bộ phận, mỗi người đều được thực
hiện.


8
Trên cơ sở bảo đàm lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi cơ bản của các
tầng lớp nhân dân cũng được cụ thể hóa sao cho phù hợp với lợi ích dân tộc, với
từng đối tượng và điều kiện thực tiễn.
Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải kế thừa
truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của toàn dân tộc. Truyền thống
này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và
giữ nước hàng ngàn năm của cà dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu
vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền
qua các thế hệ từ thời các vua Hùng dựng nước, tới Bà Trưng, Bà Triệu, Trần
Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung...Đó chính là cội nguồn sức mạnh vơ địch để
cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng thiên tai địch họa, lảm cho đất nước được
trường tồn, cốt cách dân tộc dược giữ vừng.
Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong

mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm, mặt
tốt, mặt xấu...Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lịng khoan dung
độ lượng, trân trọng phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi người thì mới có thể tập hợp,
quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người viết: “Sông to, biền rộng bao nhiêu nước
cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một
chút nước đầy tràn, vì độ lượng nỏ hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng
như cái chén, cái đĩa cạn”.Theo Người, năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài,
nhưng cả năm ngón đều thuộc về một bàn tay, “trong mấy triệu người cũng có
người thế này thế khác, nhưng thế này hay thể khác đều dòng dõi của tổ tiên ta.
Vậy nên ta phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng
thi ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm
đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hố họ. Có như thế mới thành đồn
kết, có đại đồn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”
Lịng khoan dung độ lượng ở Hồ Chí Minh khơng phải là một sách lược nhất
thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối phát triển truyền thống nhân ái,
bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng mà Người suốt đời
theo đuổi. Đó là một tư tưởng nhất quán, được thể hiện trong đường lối, chính
sách cùa Đảng đối với những người làm việc dưới chế độ cũ và những người
nhất thời lầm lạc biết hối cải. Người tuyên bố: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành
hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống
chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ” .


9
Để thực hiện đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc, cần có niềm tin vào nhân dân. Với
Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của
nhân dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống
dân tộc “Nước lấy dân làm gốc”, “Chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”, đồng
thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý mácxít “Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng”. Trong tư tưởng của Người, dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là

nguồn sức mạnh vô tận và vơ địch của khối đại đồn kết, quyết định thắng lợi
của cách mạng, là nền, gốc và chủ thể của mặt trận dân tộc thống nhất.
4. Hình thức, nguyên tắc tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc – Mặt
trận dân tộc thống nhất
4.1 Mặt trận dân tộc thống nhất
Theo Hồ Chí Minh hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là mặt
trận dân tộc thống nhất. Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến việc đưa
quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp,
tầng lớp, từng giới, tùng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tơn giáo. Đó là các hội
ái hữu, tương trợ, cơng hội, nơng hội, đồn thanh niên, hội phụ nữ, đội thiếu
niên nhi đồng, hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Cơng giáo u nước, các
nghiệp đồn ... nhưng bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận
dân tộc thống nhất chính là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập
hợp mọi người dân nước Việt Nam, không chỉ ở trong nước mà cịn cả những
người Việt Nam định cư ở nước ngồi.
Do yêu cầu và nhiệm vụ của từng chặng đường lịch sử, Mặt trận dân tộc thống
nhất đã có những tên gọi khác nhau: Hội Phản đế đồng minh (năm 1930); Mặt
trận Dân chủ Đông Dương (năm 1936); Mặt trận Nhân dân phản đế Đông
Dương (1939); Mặt trận Việt Minh (năm 1941); Mặt trận Liên Việt (năm 1951);
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (năm 1960); Liên minh các
lực lượng dân tộc, dân chủ và hịa bình Việt Nam (năm 1968); Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (các năm 1955, 1976)...Tuy nhiên, dù có nhiều tên gọi khác nhau
nhưng thực chất chi là một, là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông
đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức, cá nhân yêu
nước ở trong và ngoài nước, phẩn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất
cùa Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
4.2 Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống
nhất



10
- Trên nền tảng liên minh công nông (trong xây dựng chế độ
xã hội mới có thêm lao động trí óc) dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ
lấy việc thống nhất lợi ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở
để củng cố và khơng ngừng mở rộng.
- Đồn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành,
thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau
của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” – Lấy cái chung, đề cao
cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt.
Đầu năm 1951, tại hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt toàn
quốc, Người vạch rõ: “ Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn
kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân,
nông dân và các tầng lớp lao động khác… Bất kỳ ai mà thật thà
tán thành hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những
người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật
thà đoàn kết với họ”. Người ch rõ: “Đoàn kết là một chính sách
dân tộc, khơng phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để
đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta cịn phải
đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có
lịng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với
họ”. Người cịn nhấn mạnh: ”Đoàn kết rộng rại, chặt chẽ, đồng
thời phải củng cố. Nền có vững, nhà mới chắc chắn, gốc có tốt
thì cây mới tốt tươi. Trong chính sách đồn kết phải chống hai
khuynh hướng sai lầm: cơ độc, hẹp hịi và đồn kết vơ ngun
tắc”.
Cũng tại Đại hội đó, Người chỉ rõ: “Tôi rất sung sướng được lãnh
cái trách nhiệm kết thúc lễ khai mạc của Đại hội thống nhất

Việt Minh – Liên Việt. Lòng sung sướng ấy là của chung tồn
dân, của cả Đại hội, nhưng riêng cho tơi là một sự sung sướng
không thể tả, một người đã cùng các vị tranh đấu trong bấy
nhiêu năm cho khối đại đồn kết tồn dân. Hơm nay, trơng
thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ của
nó đang ăn sâu lan rộng khắp tồn dân, và nó có một cái tương
lai “trường xuân bất lão”. Vì vậy cho nên lịng tơi sung sướng vơ


11
cùng.” Người đã nói lên khơng ch niềm vui vơ hạn trước sự lớn
mạnh của Mặt trận dân tộc thống nhất, mà còn là sự cần thiết
phải mở rộng và củng cố Mặt trận cũng như niềm tin vào sự
phát triển bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc lâu dài về
sau. Điều này được thể hiện trong toàn bộ tiến trình cách mạng
Việt Nam.
5. Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
- Một là, làm tốt cơng tác vận động quần chúng (dân vận)
Hồ Chí Minh coi đại đoàn kết như một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu. Để
thực hiện mục tiêu đó thì phải làm tốt công tác vận động quần chúng. Vận động
quần chúng để thu hút quần chúng chính là để đồn kết mọi người, tạo ra động
lực phát triển kinh tế - xã hội và văn hoá. Theo Người, để phát huy đầy đủ vai
trị, trí tuệ, khả năng to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước cũng
như mọi cán bộ, đảng viên phải biết làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền,
hướng dẫn, giúp đỡ và vận động quần chúng nhân dân thực hiện mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước: phải giúp
nhân dân hiểu đẩy đủ, sâu sắc về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của người
công dân đối với Đảng, với Tổ quốc và với dân tộc, từ đó họ tích cực, chủ động,
tự giác phấn đấu và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Người dặn: "cần phải

chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng: những việc đó là vì ích lợi của
họ mà phải làm" . Theo Hồ Chí Minh, mọi phương pháp tiếp cận và vận động
quẩn chúng đều phải phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng; đồng
thời phải xuất phát từ thực tế trình độ dân trí và văn hố, theo cả nghĩa rộng và
nghĩa hẹp, bao gồm cả phong tục, tập quán và cụ thể đối với từng địa phương,
từng đối tượng của nhân dân.
- Hai là, thành lập các đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đổi
tượng để tập hợp quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, để tập quần chúng nhân dân một cách có hiệu quả, cần phải
tổ chức ra các đoàn thể, tổ chức quần chúng. Đây là những tổ chức để tập hợp,
giáo dục, rèn luyện quần chúng cho phù hợp từng giai cấp, dân tộc, tơn giáo,
lứa tuồi, giới tính, vùng miền ... như các tổ chức: Cơng đồn, Hội Nơng dân,
Đồn Thanh niên, Hội phụ nữ...Các đồn thể, tố chức quần chúng có nhiệm vụ
giáo dục, động viên và phát huy tính tích cực của các tầng lớp nhân dân, góp
phần thực hiện nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn.


12
Các đoàn thể, tổ chức quần chúng ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, có nhiệm
vụ tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân
tham gia cách mạng, đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Chính vì vậy
mà trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, xây dựng và bảo vệ đất nước, các
tổ chức, đồn thể khơng ngừng lớn mạnh về số lượng, hoạt động ngày càng có
hiệu quả, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng, là hạt nhân của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
- Ba là, các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong
Mặt trận dân tộc thống nhất.
Theo Hồ Chí Minh, các đồn thể, tổ chức quần chúng hợp thành Mặt trận dân
tộc thống nhất. Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, càng chặt chẽ, thống
nhất bao nhiêu thì khối đại đồn kết tồn dân tộc càng mạnh mẽ, càng bền vững

bấy nhiêu. Các đoàn thể, tổ chức quần chúng và Mặt trận dân tộc thống nhất là
sợi dây gắn kết Đảng với nhân dân. Người khẳng định: "Những đoàn thể ấy là
tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết
nhân dân với Chính phủ". Như vậy, bản chất của đoàn thể nhân dân, các tổ chức
quần chúng là tổ chức của dân, do đó vai trị của Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân là phải vận động quần chúng bao gồm các giai cấp, các tầng lớp trong xã
hội tham gia vào các tổ chức của mình. Cơng tác vận động quần chúng phải dựa
trên chiến lược:
"Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng!".
Đối với các đồn thể, tồ chức quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng được tập hợp
và đồn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất, do vậy đều có sự chỉ đạo trong
cơng tác vận động, thu hút, tập hợp quần chúng tham gia sinh hoạt trong tổ
chức của mình. Người chỉ rõ: "Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong
những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam...Phải đoàn kết tốt các đảng
phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp
tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn kết các dân tộc anh
em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc... Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương
và đồng bào các tơn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hịa thuận ấm no, xây
dựng Tổ quốc".
II.

Vấn đề nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường trong
thời kỳ hội nhập


13
1. Những vấn đề trọng yếu để giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường trong
hội nhập quốc tế.
Đáp ứng yêu cầu giữ vững độc, lập tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế thực

chất là việc xử lý tốt mối quan hệ quan trọng này, Đảng ta đã chỉ đạo sâu sát, cụ
thể để xử lý mối quan hệ này một cách hài hịa, vừa góp phần tạo nên những
thành tựu to lớn của đất nước, vừa tránh được các tác động tiêu cực trong khi
hội nhập. Việc xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đã
được chỉ đạo một cách bài bản, khoa học trên mấy phương diện sau:
- Trên lĩnh vực chính trị và đối ngoại:
Trong cả ba mơi trường quốc tế, khu vực và toàn cầu, xử lý mối quan hệ này
cần hiểu rõ sâu sắc các nhân tố quan trọng sau đây trong quá trình phát huy độc
lập, chủ quyền quốc gia: Thứ nhất, phải nắm chắc và xử lý tốt môi trường khu
vực. Sự ổn định và phát triển, hay trái lại bất ổn và khủng hoảng tại Đông Nam
Á và rộng hơn là chấu Á – Thái Bình Dương có ảnh hưởng trực tiếp đến quan
hệ đối ngoại của nước ta và ảnh hưởng tới việc bảo vệ độc lập, tự chủ khi hội
nhập. Thứ hai, về môi trường quốc tế, độc lập và tự chủ về đối ngoại của Việt
Nam luôn chịu ảnh hưởng trong tương quan và quan hệ chiến lược giữa các
nước lớn, các trung tâm quyền lực quốc tế. Việc Việt Nam có thể khai thác lợi
ích từ hội nhập đến đâu tùy thuộc vào sự ổn định, phát triển trong nước, cũng
như năng lực xử lý quan hệ với các nước lớn, các trung tâm quyền lực thế giới
bảo đảm cân bằng lợi ích của nước ta trong quan hệ với họ. Thứ ba, về mơi
trường tồn cầu, hội nhập và mở cửa tạo cơ hội cho đất nước phát triển nhưng
cũng là điều kiện để một số thế lực thù địch bên ngoài nhân danh nhân quyền,
dân chủ, tự do tôn giáo can thiệp vào công việc nội bộ, thực hiện “diễn biến hịa
bình”, kích động, xúi giục các hoạt động bạo loạn, lật đổ, đe dọa an ninh quốc
gia.
- Trên lĩnh vực kinh tế:
Đảng và Nhà nước đã xác định việc xử lý mối quan hệ này theo 4 nội dung chủ
yếu. Thứ nhất, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và tích
cực với việc ký kết chính thức và thực hiện có hiệu quả các hiệp định hợp tác
kinh tế quốc tế; xây dựng các thể chế kinh tế hướng tới hội nhập quốc tế trên cơ
sở bảo đảm độc lập, tự chủ. Thứ hai, luôn giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong nền kinh tế thị trường. Thứ ba, bảo đảm nền kinh tế đất nước

không bị lệ thuộc vào bên ngoài. Thứ tư, điều cốt lõi nhất để giữ vững độc lập,
tự chủ là quốc gia phải có thực lực, cụ thể là có một nền kinh tế độc lập, tự chủ.


14
Đó là nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần
thiết; nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất
nhập khẩu cân đối; cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tỷ lệ các mặt hàng
cơng nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế; cơ cấu thị trường quốc tế và
đối tác đa dạng, tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu, một vài đối
tác.
- Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội:
Để bảo đảm chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, khâu then chốt
nhất là không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả
quản lý văn hóa, xã hội của Nhà nước. Thứ nhất, xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người mới giàu lòng yêu nước, sáng
tạo; làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, truyền thơng, khơng gian mạng.
Thứ hai, các chính sách văn hóa – xã hội, dân tộc, tơn giáo phải được coi trọng,
tránh để các thế lực thù địch kích động, gây chia rẽ; khơng ngừng củng cố đồng
thuận xã hội, khối đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng
cao chất lượng và hiệu quả hệ thống cung cấp các dịch vụ công, tăng cường
hiệu lực tư pháp, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng. Thứ ba, Việt Nam đã trở
thành một đất nước có thu nhập trung bình nên trọng tâm cơng tác xã hội
chuyển dần từ vấn đề xóa đói, giảm nghèo sang quản trị và an sinh xã hội, do đó
cần tăng cường vai trò của Nhà nước pháp quyền, từng bước thực hành dân chủ,
mở rộng sự tham gia của người dân vào hoạt động của Nhà nước.
- Trên phương diện quốc phòng – an ninh:
Để giữ vững độc lập, tự chủ khi hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng –
an ninh, Đảng ta đã chỉ rõ những vấn đề cốt yếu sau: Ở trong nước, cùng với
việc xây dựng tiềm lực quốc phịng, an ninh, ln chú trọng giải quyết mối

quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa phát triển kinh tế - xã hội với
bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữa nhiệm vụ quốc phịng, an ninh với cơng tác
đối ngoại. Quan hệ với bên ngồi, trước hết cần dự báo đúng tình hình quốc tế
và khu vực, những điều chỉnh chiến lược và các quan hệ của các nước lớn có
liên quan đến nước ta, để dự liệu những khả năng, những tình huống xảy ra và
từ đó tính đến các phương án đối phó.
2. Một số vấn đề có tính ngun tắc, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ,
tự lực, tự cường trong thời kỳ hội nhập khi tham gia hội nhập quốc
tế
Đảng ta đã xác định một số vấn đề có tính ngun tắc khi xử lý mối quan hệ:


15
- Thứ nhất, lợi ích quốc gia được đặt ở vị trí số một trong mục tiêu, chính
sách đối nội cũng như đối ngoại và hội nhập quốc tế.
- Thứ hai, phải thực hiện một chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, không
lệ thuộc vào sự chi phối từ bên ngoài.
- Thứ ba, coi trọng, củng cố và thiết lập quan hệ ngoại giao với các quốc
gia láng giềng, xây dựng một mơi trường xung quanh hịa bình, thân
thiện, hữu nghị, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác đối ngoại và
hội nhập quốc tế.
- Thứ tư, xây dựng một nền quốc phòng vững mạnh, hiện đại, coi đó là
một trong những cơ sở quan trọng để bảo vệ chủ quyền quốc gia và thực
thi đường lối đối ngoại.
- Thứ năm, trên lĩnh vực kinh tế cần tuyệt đối tránh tình trạng bị lệ thuộc.
- Thứ sáu, coi trọng và phát triển quan hệ với các nước lớn vì trong bất cứ
bối cảnh nào nước lớn ln có vai trị ảnh hưởng đến đời sống quan hệ
quốc tế, đến hịa bình và ổn định của khu vực và thế giới.
- Thứ bảy, xây dựng và thiết lập nền ngoại giao đa phương. Cùng với việc
mở rộng ngoại giao song phương với các chủ thể là quốc gia dân tộc, các

nước cịn tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế và khu vực, coi đó là
biện pháp hữu hiệu để hiện thực hóa lợi ích quốc gia, cũng như tăng
cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, giữ gìn an ninh và hịa bình khu
vực cũng như trên thế giới.
- Thứ tám, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.


16
PHẦN KẾT LUẬN
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước
ngồi đều ln ln tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm
thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức
mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến
lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo,
quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức
thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy
liên minh cơng nơng và trí thức làm nòng cốt do Đảng cộng sản
lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của tổ quốc, tự do, hạnh phúc
của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị
bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong
sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện
nay.
Cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn mới có sự khác biệt
về chất so với thời kỳ đấu tranh bảo vệ tổ quốc và giải phóng
đất nước, thậm chí cũng đã khác rất nhiều so với thời kỳ trước
đổi mới, đó là thời kỳ hội nhập khu vực và quốc tế. Đại hội XI
của Đảng ta xác định: Hơn bao giờ hết cần phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm

của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam hồ bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm
điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ,
thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không
trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc,
truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tập hợp, đoàn kết
mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội.
Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài
hồ quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết
trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền
phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý
kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin


17
dân, tơn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt cơng tác
dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày ý chính kiến,
nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình.


18
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chinh trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.392.
Hồ Chi Minh:Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hả Nội, 2011, t.7, tr.397.
Hồ Chí Minh:Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,1.11, tr.22.
Hồ Chí Minh:Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Há Nội. 2011. t.l 1, tr.154.

Hồ Chí Minh:Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t-8, tr.392.
Hồ Chí Minh:Tốn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,1.10, tr.607.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chinh trị quốc gia, Hả Nội, 2011, t.6, tr. 183.
Hồ Chí Minh: Tồn tạp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.438.



×