Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

QUẢN LÝ DỰ ÁN BẰNG TOÀN NÃO BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.68 KB, 11 trang )

QUẢN LÝ DỰ ÁN BẰNG TỒN NÃO BỘ
Khơng nghi ngờ gì rằng hầu hết các bạn đã nghe về định hướng suy nghĩ của
não trái và não phải. Não trái thiên về phân tích, logic, chuỗi suy nghĩ nối tiếp
(sequential) hơn não phải, cái mà thiên về dãy suy nghĩ song song (parallel
thinking), trực giác, tồn diện.
Liệu nó có ảnh hưởng gì với nhà quản lý dự án? Nếu như vậy, bạn sử dụng nó
như thế nào?
Để trả lời câu hỏi này, tôi sẽ chia sẻ kinh nghiệm với bạn. Một khi tôi đã thuê
một kỹ sư, người mà làm việc cho một cơng ty uy tính. Anh ta được yêu cầu
thiết kế thiết bị liên lạc (communications equipment). Tôi hỏi anh ta một số
câu hỏi trong suốt buổi phỏng vấn về công nghệ thông tin, anh ta trả lời một
cách hồn hảo. Khơng may thay, anh ta khơng biết làm cách nào áp dụng lý
thuyết vào hoạt động thiết kế (design practice). Nói cách khác, đồ án (design)
của anh ta không xứng đáng (inadequate).
Tại thời điểm này, tôi chưa được huấn luyện ở lĩnh vực tâm lý học, nên tơi
khơng nhận ra có cái gì đó khơng ổn. Tuy nhiên, tơi biết vị trí trước đây của
anh ta là kỹ sư sản xuất, anh ta giúp giải quyết những vấn đề của sản phẩm cái
đang được sản xuất ra. Tôi cung cấp cho anh ta một công việc tương đương
trên nền tảng rằng nếu anh ta hồn thành cơng việc thỏa đáng thì anh ta sẽ làm
việc tốt với chúng tơi.
Anh ta cho rằng mình bị giáng chức và từ chối nó. Sau đó, anh ta làm việc
cho một nhà quản lý dự án khác trước khi trở lại với dự án của tôi. Người
quản lý dự án kia gặp tình trạng tương tự với anh ta.
Biểu hiện của anh ta bù lại sự thiếu hụt từ đầu óc (His performance deficit
finally came to a head). Chúng tôi cho anh ta lựa chọn: tìm cơng việc khác,
chấp nhận thun chuyển hoặc loại bỏ anh ta. Anh ta đã chọn tìm cơng việc
khác.
Cái mà tơi khơng hiểu sau đó, nhưng bây giờ thì đã hiểu rồi, là cơng việc
được chỉ định đòi hỏi suy nghĩ khác việc hổ trợ sản xuất sản phẩm. Người kỹ
sư thiết kế phải có khả năng suy nghĩ về mặt tổng hợp, trong khi đó kỹ sư sản
xuất phải suy nghĩ một cách phân tích hơn. Tổng hợp thuộc về não phải và


phân tích thuộc về não trái. Nên thật ra tôi đã mướn sai người cho cơng việc
dựa trên sự u thích của anh ta (và khả năng). Bây giờ, chính xác nó nghĩa là
gì?
Cách suy nghĩ?
Ned Herrmann là người quản lý huấn luyện (training manager) ở General
Electric’s Crotonville Management Training Center. Ned được giáo dục một
cách chính thức để trở thành nhà vật lý học, nhưng lại có hứng thú với khoa
học cộng đồng (social sciences), đặc biệt là nghệ thuật. Anh ta là họa sỹ tài
năng.


Anh ta đã nghe nói đến nghiên cứu đề cập đến hai bán cầu não có vẻ như điều
khiển những dạng khác nhau của suy nghĩ, và tự hỏi bằng cách nào mà sự
khác biệt của chúng ảnh hưởng đến việc học tập (learning), quản lý
(management), sáng tạo (creativity) và những khía cạnh khác trong hoạt động
của con người (human performance). Bởi vì lĩnh vực này cịn trong thời kỳ
thai nghén, Ned đã phải tự làm rất nhiều nghiên cứu, anh ta nhận ra rằng sự
phân đôi não trái/phải không đủ để giải thích sự khác biệt trong suy nghĩ. Anh
ta đưa ra hệ trục dựa vào não/thuộc về suy nghĩ (cerebal/limbic thinking)
(Herrmann, 1995, 1996). Khi các chiều (A B C D) được thêm vào, bạn có bốn
lối suy nghĩ thuần túy (pure thinking styles), để khi kết hợp lại sẽ tạo ra một
loạt các lối suy nghĩ khác nhau. Ned phát triển công cụ này để ước lượng lối
suy nghĩ nào nổi trội hơn, được gọi là Herrmann Brain Dominance Instrument
(HBDI). Người trả lời nhận được một nhóm đặc điểm giống như đồ thị 5.1

Figure 5.1
Trong nhóm đặc điểm là 4 vòng tròn đồng tâm hay vòng (band), chia ra
khoảng 33 điểm mỗi vịng, nên điểm số thơ (raw scores) trong khoản từ 0133. Tuy nhiên, để đưa ra điểm số của một con người dựa trên đo đạc chính
xác là khơng thể, nên Ned chọn cách phân loại để thay thế. 2 vịng ngồi cùng
được xếp vào loại 1, nghĩa là người đó có sự ưu tiên đặc biệt cho suy nghĩ

trong một phương thức cụ thể. Vòng tròn tiếp theo thuộc vào loại 2, là những


người có suy nghĩ yếu hơn nhưng vẫn rất đáng kể. Cuối cùng, vòng tròn trong
cùng là loại 3. Thật ra, điểm số trong vòng này chi ra rằng cá nhân này sẽ bác
bỏ phương thức suy nghĩ này trong hầu hết thời gian. Khơng tồn tại nhóm số
0, là những người sử dụng cả bốn phương thức cho vài mức độ (degree). Ghi
nhớ rằng công cụ này chỉ để đo đạc mức độ ưu tiên (preferences), không phải
kỹ năng hay khả năng.
Tuy nhiên, có sự tương quan giữa mức độ ưu tiên và kỹ năng. Nếu bạn có sự
ưu tiên cao cho cách thức suy nghĩ cụ thể bạn sẽ có xu hướng làm việc đó
thường xuyên nên sẽ khá tốt tại lĩnh vực đó. Nên theo thời gian, mức độ ưu
tiên có lẽ sẽ ảnh hưởng đến kỹ năng.
Herrmann tin rằng sự ưu tiên trong nhiều phương thức suy nghĩ dựa trên sinh
lý học của não, cái mà liên quan đến cả hóa học và di truyền, nhưng nó có
đúng khơng vẫn là một câu hỏi mở. Trong tháng 1 năm 2005, hệ thống khoa
học của Mỹ (Scientific American) đặc biệt cung cấp những thơng tin về trí óc,
nghiên cứu được công bố bởi nhóm người Đức bằng cách dùng MRI, tốt hơn
EKG tiêu chuẩn (standard EKG), để quan sát hoạt động của não bộ. Bọn họ
phát hiện rằng có những vùng đặc biệt của não bộ khơng thực sự tương quan
với những dạng suy nghĩ khác nhau. Hơn nữa, có nhiều phần của não bộ được
kích thích cùng một lúc. Nên, ý tưởng về bán cầu trái phải và những vùng
khác nhau của não bộ để xác định lối suy nghĩ là khơng chính xác, nhưng nó
khơng quan trọng cho mục đích của chúng ta. Sự thật là bốn bản năng của lối
suy nghĩ đã được xác định, HBDI đã làm rất tốt công việc để đo đạc chúng.
Lúc đó, dữ liệu quốc tế của Herrmann bao gồm hơn nửa triệu nhóm đặc điểm
(profiles) của những người đã thử qua HBDI. Hầu hết những sự ước lượng
này đại diện cho họ khá tốt. Hiếm khi có ai đó nói rằng:” Đó khơng phải tơi”.
Đặc điểm
Như bạn từng mong chờ, mỗi cá nhân có thể ưu tiên suy nghĩ theo một trong

bốn lối suy nghĩ. Đặc điểm HDBI cho người như vậy người, gọi là singledominant (cốt yếu), nhìn hơi giống một con diều. Chúng tơi đơi khi xem đây
là đặc điểm dạng con diều. Chỉ có khoảng 5% dân số có dạng đặc điểm này.


Khi mỗi người thích suy nghĩ bằng trên cả 2 phương diện (modes), dạng đặc
điểm này được gọi là double-dominant, và có 2 dạng có thể nằm ở dạng diều.
Một dạng, 2 phần ưu tiên của vòng tròn nằm cạnh nhau (the two preferred
quadrants are side by side). Dạng còn lại, 2 phần tư của vòng tròn sẽ chéo với
nhau. Hai dạng trên được trình bày ở hình 5.3. Một cách tự nhiên, những cái
ưu tiên (preferences) cạnh nhau có thể ở cả bên trái, cả bên phải, cả bên trên,
cả bên dưới của phần tư vòng tròn, và cái chéo nhau thì có thể từ A đến C và
B đến D. Dạng double-dominant chiếm 56% dân số.


Dạng đặc điểm triple-dominant có thể là bất kỳ ¾ vòng tròn cạnh nhau. Một
cách tương đối 36% dân số thuộc vào dạng này.Đặc điểm triple-dominant
được mơ tả trong hình 5-4.


Cuối cùng chỉ khoảng 3% dân số ưu tiên suy nghĩ trong cả 4 phần của vòng
tròn, và tất nhiên gọi là quadruple-dominant. Những cá nhân như vậy được
gọi là multidominant translators, và Ned tin rằng bọn họ sẽ trở thành những
CEOs xuất sắc vì họ có thể tương tác một cách hiệu quả với những người có
cách suy nghĩ thuộc vào những phần tư vịng trịn khác nhau. Nó có lẽ rất khó
để chứng minh, vì số lượng người thuộc nhóm quadruple-dominant thì rất ít
và chỉ một lượng nhất định trở thành CEOs- nên chúng tôi không bao giờ biết
rằng liệu họ có phải những ứng cử viên xuất sắc hay không. Hơn nữa, sự ưu
tiên suy nghĩ của một người khơng đảm bảo rằng người đó sẽ có khả năng
giải quyết hiệu quả những cái khác, nên việc suy nghĩ chỉ là một phần của bức
tranh.



Điểm khác biệt nào giữa 4 nhóm trên, và bằng cách nào mà sự khác nhau đó
tác động lên cơng việc khác nhau trong mỗi dự án? Bởi vì kiểu mẫu là một
lưới bao gồm 4 phần tư của vòng tròn, mỗi phần tư lại đại diện cho một lối
suy nghĩ, chúng ta sẽ bắt đầu từ phía trên bên trái hay gốc phần tư A, sự giải
thích cho mỗi phần tư sẽ được tiến hành theo ngược chiều kim đồng hồ. Ghi
chú rằng, quá trình là A-B-C-D và rằng,trong mỗi đặc điểm được nhận bởi
người trả lời, mỗi góc phần tư sẽ được tơ màu, trình tự là lam-lục-đỏ-vàng.
Gốc phần tư A.
Lối suy nghĩ liên quan tới gốc phần tư A có thể miêu tả là logical, phân tích
(analytical), thuộc kỹ thuật (technical),thuộc toán học (mathematical) , và giải
quyết vấn đề. Những suy nghĩ như vậy có thể được hiểu là giải quyết sự việc
(facts) và số liệu (figures). Có vẻ hợp lý rằng những người thích giải quyết sự
việc và số liệu sẽ bị thu hút bởi công việc và nghề nghiệp cái mà đòi hỏi
những suy nghĩ như vậy và nó đúng. Ví dụ những nghề nghiệp như thuộc
phạm vi kỹ thuật, pháp luật và kinh tế (bao gồm cả kế tốn và luật thuế), kỹ
sư, cơng nghệ thơng tin, khoa học, tốn học, và khía cạnh phân tích của việc
quản lý.


Người giám đốc dự án thuộc single-dominant A được cho rằng sẽ rất logic,
hứng thú với vấn đề kỹ thuật ảnh hưởng đến dự án, nghiêng về phân tích tình
trạng của những báo cáo một cách cẩn thận, và muốn giải quyết các vấn đề.
Những người quản lý dự án như vậy được coi là lạnh lùng (cold), thiếu sự
quan tâm giúp đỡ (uncaring), và chỉ hứng thú đến những vấn đề liên quan đến
dự án. Tuy nhiên, vì chỉ có 5% dân số thuộc single-dominant, những người
quản lý dự án như vậy tương đối hiếm.
Gốc phần tư B.
Gốc phần tư B tương tự như gốc phần tư A, nhưng có những khác biệt đáng

kể. Những từ để miêu tả gốc phần tư B là có tổ chức (organizational), có sự
quản lý (administrative), thận trọng (conservative),lối suy nghĩ kiểm soát
(controlled) và có kế hoạch (planning). Đó là lối suy nghĩ của nhiều nhà quản
lý (managers), quản trị viên (administrators), nhà lập kế hoạch (planners), thủ
thư (bookkeepers), đốc công (foremen), và nhà sản xuất (manufacturers).
Những cá nhân có đặc điểm single-dominant thuộc gốc phần tư B được cho
rằng quan tâm tới những kế hoạch chi tiết của một dự án và giữ cho mọi thứ
có tổ chức và được kiểm sốt. Ghi chú rằng những cá nhân với lợi tức tài
chính (financial interests) người mà có điểm có ưu thế ở gốc phần tư A có khả
năng là nhà quản lý tài chính, trong khi những người có ưu thế ở gốc phần tư
B sẽ bị thu hút bởi kiểm toán chi phí (cost accounting).
Nếu bạn muốn ai đó tập trung vào chi tiết, bạn muốn ai đó người đại diện cho
gốc phần tư này. Nếu họ có đặc điểm single-dominant , tuy nhiên,bọn họ sẽ
thấy những cái cây mà không nhận khu rừng.


Gốc phần tư C.
Những người với đặc điểm single-dominant ở gốc phần tư A và B có lẽ sẽ
nhìn những người thuộc gốc phần tư C là dễ cảm động (touchy-feely: Very 

emotionally open. A touchy feely person wants to share their thoughts and emotions and have 
others share theirs. Touchy feeling information is too personal, sensitive, reflective, sentimental. 
Sometimes referring to religious content/ideas. Typically referring to something negatively. ).

Những từ để miêu tả gốc phần tư này là hướng ngoại (interpersonal), nhiều
cảm xúc (emotional),có xu hướng âm nhạc (musical), tin vào tâm linh
(spiritual), và lắm lời (talkative).


Những cá nhân thuộc gốc phần tư C với đặc điểm single-dominant rất xúc

cảm và có tính định hướng người khác. Họ thường là y tá (nurses), người làm
việc xã hội (social workers), nhạc sỹ (musicians), giáo viên (teachers), cố vấn
(counselors), bộ trưởng (ministers).
Người quản lý dự án với đặc điểm single-dominant C sẽ tự nhiên quan tâm
đến khía cạnh hướng ngoại của dự án, có lẽ sẽ gây ảnh hưởng (thiệt hại
detriment) đến việc hồn thành cơng việc. Những cá nhân này sẽ bị thu hút
bởi sự phối hợp của hoạt động dự án với những người trong và ngồi nhóm,
và sẽ là những người xây dựng các mối quan hệ (relationship builder). Đó sẽ
là một xu hướng tốt cho dự án chính trị, miễn là những thành viên khác của
nhóm tập trung làm việc của họ.
Thật ra, bạn sẽ nhớ rằng chúng tơi đã nói nhiều lần rằng những dự án là con
người, và thỏa hiệp với con người là 1 khía cạnh của quản lý dự án, cái mà
nhiều cá nhân cảm thấy bực mình. Nên bạn có thể cho rằng khía cạnh này
của cơng việc sẽ phiền lịng (bother) những người với có điểm ở gốc phần tư
C thấp theo HBDI. Tư vấn của tôi là bạn có thể phát triển kỹ năng nếu bạn có
mong muốn thực hiện nó, nhưng có điểm ở gốc phần tư C thấp tự nhiên có
nghĩa là đây khơng phải việc dễ dàng với bạn. Nên bạn phải làm việc cật lực
với khía cạnh này của cơng việc nếu bạn muốn quản lý dự án.
Có một phát hiện thú vị rằng chúng ta hành xử theo lối mà chúng ta ít nổi trội
hơn. Tơi có sự nổi trội lớn ở gốc phần tư D, với B là phần tơi ít nổi trội hơn.
Có nghĩa là tơi thích phát triển khái niệm (concepts) và khơng thích làm cơng
việc chi tiết. Tuy nhiên, nếu tôi phải làm công việc chi tiết để mà dùng một
trong những ý tưởng của tôi một cách ép buộc, thì tơi sẽ rất có động lực để
làm. Nó có nghĩa là bạn có thể được thúc đẩy để giải quyết cái xúc cảm
(“touchy-feely” stuff) nếu bạn đạt được thành công trên những mặt khác của
hướng suy nghĩ nổi trội (thinking preferences).
Gốc phần tư D.
Những từ để miêu tả gốc phần tư này là nghệ thuật (artistic), toàn diện
(holistic), giàu trí tưởng tượng (imaginative), tổng hợp (synthesizers), người
đưa ra ý tưởng (conceptualizer). Những cá nhân có đặc điểm single dominant

ở gốc phần tư D bị thu hút bởi nghề nghiệp liên quan đến nổ lực kinh doanh,
tiện lợi, quảng cáo, tư vấn, hoặc trở thành lãnh đạo doanh số( sale leaders)
hay nghệ sỹ (artist). Đây là ý tưởng cho mọi người trong nhóm, họ là những
người tổng hợp ý tưởng từ nhiều nguồn để tạo nên cái gì đó. Đây là khả năng
tự nhiên của người được nhận ra để sáng tạo. Ở điểm đầu của chương chúng
ta đã bàn luận nhu cầu của suy nghĩ sáng tạo trong dự án. Nên bạn có thể kết
luận rằng nếu bạn cơ bản là người suy nghĩ theo não trái có sự ưu tiên cho gốc
phần tư A B, và ít ưu tiên cho gốc phần tư D, bạn thật khơng may mắn. Nó chỉ
ra rằng, dễ dàng cho người suy nghĩ bằng não trái học cách đưa ra ý tưởng
hoặc suy nghĩ sáng tạo hơn cho những người đưa ra ý tưởng học cách phân
tích và suy nghĩ chi tiết.


Nhà quản lý dự án với đặc điểm single dominant gốc phần tư D được cho là
một bức tranh lớn trong suy nghĩ của họ- họ làm việc đầy mạo hiểm bởi việc
chỉ nhìn thấy khu rừng mà khơng nhận ra nó gồm những cái cây riêng biệt.
Họ thường giỏi ở việc suy nghĩ chiến lược, nên trong việc kế hoạch hóa dự án
người ở gốc phần tư D sẽ phát triển kế hoạch (gameplan) nhưng sẽ cần sự trợ
giúp của người suy nghĩ theo gốc phần tư B để làm cho nó có thể thực hiện
được.



×