Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đề tài " Sự giống và khác nhau giữa mô hình kinh tế thị trường Thụy Điển và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.12 KB, 19 trang )

ĐỀ TÀI
Sự giống và khác
nhau giữa mô hình
kinh tế thị trường
Thụy Điển và kinh tế
thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
1
MỤC LỤC

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 5
3. Kết cấu của tiểu luận 5
1.1. Những vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường 6
1.1.1. Khái niệm: 6
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau
theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị
trường 6
1.1.2. Ưu điểm: 6
Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả
hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng
cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì có tỷ suất lợi nhuận cao
hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía
những người sản xuất có hiệu quả. Ngược lại những người sản xuất có cơ chế sản xuất
kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức
cạnh tranh kém sẽ bị đào thải 6
1.1.3. Nhược điểm: 6
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng. Đấy
là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không
hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các khoảng thời
gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không linh hoạt dẫn tới khoảng cách


giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp, lạm
phát 6
1.2. Tính quy luật và sự hình thành kinh tế thị trường 6
Trong kinh tế có các quy luật kinh tế khách quan như: 6
1.2.1. Các quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường 7
1.2.2. Các bước phát triển của nền kinh tế thị trường trong đổi mới tư duy 7
Bước 1: 8
Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là kinh tế thị trường.
Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ không phải nói về toàn bộ đặc
điểm, tính chất và nội dung của nền kinh tế. Do đó, trong khi phê phán nghiêm khắc cơ
chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp và đề ra chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế (một bộ phận của đường lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI khẳng định: “thực chất của
cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển thêm một bước,
Đại hội VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của nhà nước” 8
Bước 2: 9
Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản đối lập với chủ
nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) nhận
định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang trở thành cơ chế vận hành của
nền kinh tế. Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, còn cơ chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ chế thị
2
trường có sự quản lý của Nhà nước. Cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của
Bộ Chính trị về công tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường không
phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại”.
Theo nhận định này, thị trường, kinh tế thị trường đã từng tồn tại và phát triển qua những
phương thức sản xuất khác nhau. Nó có trước chủ nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản

và cả sau chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản nó vận động và phát triển ở mức
khởi phát, manh nha, còn ở trình độ thấp thì trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nó đạt tới
đỉnh cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho
người ta nghĩ rằng nó chính là chủ nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường tồn tại là tất yếu. Vấn đề ở đây là
liệu kinh tế thị trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội không, và liệu việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội có đi đến phủ định kinh tế thị trường để rồi tạo nên một nền kinh tế hoàn
toàn khác nền kinh tế vận động theo các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội hay
không? Câu trả lời là không. Quan điểm này cũng chính là quan điểm của Đại hội VIII
(1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định
hướng, xã hội chủ nghĩa” 9
Bước 3: 10
Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX(2001)của Đảng ghi rõ: Đảng và Nhà nước ta
chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất,
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu,
quản lý và phân phối. Kinh tế thị trường có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Theo Nghị quyết của Đại hội IX, các
thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó bao gồm cả kinh
tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản
nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 10
Bước 4: 10
Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trường toàn cầu, hội nhập kinh tế

quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn. Đại hội X của Đảng chủ trương: “Tiếp tục hoàn
thiện các thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bốn nội dung quan
trọng nhất là: nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta, nâng cao
vai trò quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các
loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần
kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh doanh với chủ đề: “Tích cực và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế”, Đại hội đã quyết định đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập
sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy
phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Việc Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của WTO vào tháng 1-2007 đánh dấu một bước phát triển cao của quá trình
hàng chục năm thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta 10
CHƯƠNG 2: SỰ GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở THỤY ĐIỂN VÀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM 11
2.1. Một số mô hình kinh tế thị trường 11
2.2. Sự giống nhau giữa kinh tế thị trường ở Thụy Điển và kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam 12
3
2.3. Sự khác nhau giữa kinh tế thị trường ở Thụy Điển và kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam 13
2.3.1. Kinh tế thị trường Thụy Điển 13
2.3.1.1. Đặc trưng 13
2.3.1.2. Chính sách thực hiện 14
2.3.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 14
2.3.2.1. Khái niệm 15
2.3.2.2. Đặc trưng 15
2.3.2.3. Chính sách thực hiện 16
KẾT LUẬN 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
4

MỞ ĐẦU
Mỗi sinh viên khi nghiên cứu về đề tài kinh tế thì giúp trả lời được
những câu hỏi: Phải chăng mỗi một quốc gia muốn có được tăng trưởng kinh
tế và năng suất lao động cao, muốn sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã
hội thì nhất thiết phải sử dụng mô hình kinh tế thị trường? Vì sao mô hình
kinh tế thị trường lại đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia? Kinh tế thị trường hình thành và phát triển như thế nào? Bối cảnh
nền kinh tế thị trường Việt Nam ra đời và quá trình hoạt động của nó diễn ra
như thế nào? Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có đặc điểm gì giống và khác so với nền kinh tế thị trường của các nước khác
trên thế giới? hay cụ thể là với mô hình kinh tế thị trường Thụy Điển.
Tiểu luận kết thúc môn Kinh tế Chính trị với đề tài “Sự giống và khác
nhau giữa mô hình kinh tế thị trường Thụy Điển và kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” sẽ giúp cho chúng ta hiểu được
về nền kinh tế thị trường với những ưu điểm và nhược điểm của nó, đồng thời
thấy được thực tế của nền kinh tế thị trường qua những sự so sánh này, từ đó
có được cái nhìn tổng quát và thực tế hơn và nó dần hình thành cho chúng ta
một tư duy phân tích lôgic về những hiện tượng kinh tế xã hội và những biện
pháp cụ thể đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho đất nước.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục tiêu: Nghiên cứu được sự giống và khác nhau của kinh tế thị trường
Thụy Điển và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhiệm vụ:
Nhiệm vụ 1: Nghiên cứu về nền kinh tế thị trường;
Nhiệm vụ 2: Phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa kinh tế thị trường ở
Thụy Điển và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chử nghĩa ở Việt
Nam.
3. Kết cấu của tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm hai chương:
Chương 1: Nền kinh tế thị trường.

Chương 2: Sự giống và khác nhau giữa mô hình kinh tế thị trường ở Thụy
Điển và mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội ở Việt Nam.
5
CHƯƠNG 1: NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Những vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Khái niệm:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán
tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số
lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
1.1.2. Ưu điểm:
Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng
cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích
người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu
quả hơn, thì có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và
do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất có hiệu
quả. Ngược lại những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có
tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh
kém sẽ bị đào thải.
1.1.3. Nhược điểm:
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất
bình đẳng. Đấy là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể dẫn tới
việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể
không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều
chỉnh cung cầu không linh hoạt dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng
cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát.
Trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo,
cũng như không có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền kinh
tế Bắc Triều Tiên). Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà
các yếu tố thị trường nhiều hay ít. Trong thương mại quốc tế, mức độ thị
trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu chí trong xác định điều

kiện thương mại giữa quốc gia.
1.2. Tính quy luật và sự hình thành kinh tế thị trường.
Trong kinh tế có các quy luật kinh tế khách quan như:
 Quy luật giá trị
 Quy luật cung-cầu
 Quy luật ích dụng giảm biên
 Quy luật hiệu suất giảm dần
6
 Quy luật chi phí thay thế tăng
 Quy luật ảnh hưởng nhất định của lượng tài nguyên tối thiểu
1.2.1. Các quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường.
 Xu hướng bảo toàn cân bằng của hệ thống
 Mâu thuẫn phát triển của hệ thống
 Tính chu kỳ của hệ thống
 Sức chứa biên của thị trường
 Giá trị sử dụng của hàng hóa
 Sự kích thích quyền lợi nhà sản xuất
 Phân phối thu nhập theo lao động
 Sự thay thế và tái tạo tài nguyên vật chất và tài nguyên lao động
 Hiệu quả tối ưu của sở hữu hoàn toàn.
1.2.2. Các bước phát triển của nền kinh tế thị trường trong đổi mới tư duy.
Trước đổi mới, chúng ta coi kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế tư bản
chủ nghĩa (hay kinh tế thị trường) là hai phương thức kinh tế khác nhau về
bản chất và đối lập với nhau cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân
phối và mục đích phát triển. Kinh tế xã hội chủ nghĩa vận động theo các quy
luật của chủ nghĩa xã hội, còn kinh tế tư bản chủ nghĩa thì vận động theo các
quy luật của chủ nghĩa tư .
Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự thay đổi so với
trước. Nhìn khái quát đã có những sự thay đổi lớn như sau:
Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế

độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể) đã đi đến quan niệm nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có ba chế
độ sở hữu cơ bản là toàn dân, tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành nhiều
hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế
tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa phải nhanh chóng hoàn thành việc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh
tế cá thể tiểu chủ là những thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa đã đến quan
niệm rằng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, còn cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất
thiết phải phù hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
7
Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với
việc xóa bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa đã đi đến
quan niệm rằng muốn cho hai thành phần kinh tế ấy ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc thì nhất thiết phải trải qua một quá trình dài xây dựng, đổi mới
và phát triển với những bước thích hợp; trong khi đó khuyến khích phát triển
các thành phần kinh tế tư nhân, coi thành phần này là động lực quan trọng của
phát triển kinh tế và phát triển lực lượng sản xuất.
Từ quan niệm nhà nước phải chỉ huy toàn bộ nền kinh tế theo một kế
hoạch tập trung, thống nhất với những chỉ tiêu có tính pháp lệnh áp đặt từ trên
xuống, đã đi đến phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ
sở hữu tài sản công là thuộc nhà nước, còn chức năng quản lý kinh doanh thì
thuộc về doanh nghiệp. Từ chỗ tuyệt đối hóa vai trò của kế hoạch, phủ nhận
vai trò của thị trường đã đi đến thừa nhận thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối
tượng của kế hoạch; kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt trên
bình diện vĩ mô, còn thị trường giữ vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị
kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh
doanh.

Từ chỗ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là
phân phối theo lao động đã đi đến quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân
phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng
thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất kinh
doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Công bằng xã hội thể hiện
không phải ở chủ nghĩa bình quân trong kinh tế mà là ở chỗ phân phối hợp lý
tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ
hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Không ngăn cấm mọi sự làm
giàu mà trái lại khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng theo đúng pháp
luật, đồng thời thực hiện xóa đói giảm nghèo, hạn chế phân cực.
Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của chúng ta
cũng được đổi mới qua nhiều bước.
Bước 1:
Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là kinh
tế thị trường. Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ
không phải nói về toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh tế. Do
đó, trong khi phê phán nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao
8
cấp và đề ra chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (một bộ phận của
đường lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI khẳng định: “thực chất của cơ chế
mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển
thêm một bước, Đại hội VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta
là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Bước 2:
Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản
đối lập với chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII (tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang hình
thành. Và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã

hội chủ nghĩa đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế. Có nghĩa là
nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, còn cơ chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết
của Bộ Chính trị về công tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị
trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung
của văn minh nhân loại”. Theo nhận định này, thị trường, kinh tế thị trường
đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản xuất khác nhau. Nó
có trước chủ nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ nghĩa tư bản.
Nếu trước chủ nghĩa tư bản nó vận động và phát triển ở mức khởi phát, manh
nha, còn ở trình độ thấp thì trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nó đạt tới đỉnh cao
đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho
người ta nghĩ rằng nó chính là chủ nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường tồn tại là tất
yếu. Vấn đề ở đây là liệu kinh tế thị trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội
không, và liệu việc xây dựng chủ nghĩa xã hội có đi đến phủ định kinh tế thị
trường để rồi tạo nên một nền kinh tế hoàn toàn khác nền kinh tế vận động
theo các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội hay không? Câu trả lời là
không. Quan điểm này cũng chính là quan điểm của Đại hội VIII (1996) khi
Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà
nước theo định hướng, xã hội chủ nghĩa”.
9
Bước 3:
Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX(2001)của Đảng ghi rõ:
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích là phát

triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng
sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả
ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Kinh tế thị trường có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc. Theo Nghị quyết của Đại hội IX, các thành phần kinh tế kinh
doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó bao gồm cả kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh
tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Bước 4:
Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trường toàn cầu,
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn. Đại hội X của Đảng
chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Bốn nội dung quan trọng nhất là: nắm vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta, nâng cao vai trò quản lý của Nhà
nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành
phần kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh doanh với chủ đề: “Tích cực và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Đại hội đã quyết định đẩy mạnh hoạt
động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh
tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục
tiêu cao nhất. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO vào
tháng 1-2007 đánh dấu một bước phát triển cao của quá trình hàng chục năm
thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
10
CHƯƠNG 2: SỰ GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA MÔ HÌNH KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở THỤY ĐIỂN VÀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.

2.1. Một số mô hình kinh tế thị trường.
Sản xuất hàng hóa và sau đó tiền tệ ra đời, đánh dấu sự phát triển về chất
của kinh tế nhân loại. Đồng thời, dưới tác động của tiến bộ khoa học, kỹ
thuật, của lực lượng sản xuất; sản xuất, lưu thông trao đổi hàng hóa ngày càng
phát triển và kéo theo sau đó là sự xuất hiện ngày càng đa dạng các loại thị
trường; cơ chế thị trường hoạt động ngày càng linh hoạt, rộng khắp. Khi nền
kinh tế vận động theo cơ chế thị trường thì gọi là nền kinh tế thị trường hoặc
mô hình kinh tế thị trường, hay kinh tế thị trường. Đến thời điểm ngày nay, dù
kinh tế thị trường có những khuyết tật bản chất của nó, nhưng đây vẫn là mô
hình kinh tế ưu việt nhất.
Lịch sử phát triển kinh tế thị trường nhân loại, tới hôm nay, ở góc độ
tổng quát có thể phân thành hai mô hình: mô hình kinh tế thị trường ”cổ điển“
và mô hình kinh tế thị trường “hiện đại”.
Đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế thị trường “cổ điển“ là duy trì, và
khuyến khích rộng rãi tự do cạnh, tự do trao đổi, tự do tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh trên cơ sở tín hiệu và sự điều tiết của thị trường. Do
vậy, hoạt động của mọi chủ thể kinh tế, sự vận động của giá cả đều chịu tác
động trực tiếp của hệ thống quy luật kinh tế thị trường, mà A.Smit gọi là “Bàn
tay vô hình“. Trong giai đoạn vận động, phát triển của kinh tế thị trường “cổ
điển“, Nhà nước chỉ đóng vai trò “giữ nhà“, nghĩa là Nhà nước can thiệp rất
hạn chế và mang tính gián tiếp vào các hoạt động kinh tế. Tiêu biểu của mô
hình này là nền kinh tế Tây Âu từ thế kỷ XVI đến gần cuối thế kỷ XIX.
Ưu điểm nổi bật của mô hình kinh tế thị trường “cổ điển“ là nền kinh tế
phát triển năng động, linh hoạt. Nhưng sự tồn tại và vận động của nền kinh tế
theo mô hình này đến một giai đoạn nhất định, khi trình độ xã hội hóa của lực
lượng sản xuất cao, thì những khuyết tật của thị trường bộc lộ một cách mạnh
mẽ, mâu thuẫn nội tại trong phát triển ngày càng gay gắt, khủng hoảng kinh tế
bột phát với sức tàn phá nặng nề. Mà cuộc khủng hoảng 1929-1933 là một
minh chứng.
Khuyết tật và mâu thuẫn trong phát triển kinh tế thị trường “cổ điển“ đã

đặt ra yêu cầu khách quan về sự can thiệp, điều tiết sâu, rộng hơn của Nhà
11
nước vào nền kinh tế. Và mô hình kinh tế mới xuất hiện – mô hình kinh tế thị
trường hiện đại, hay còn gọi là nền kinh tế “hỗn hợp“. Đặc trưng cơ bản của
kinh tế thị trường hiện đại là có “hai người“ tham gia điều tiết nền kinh tế, đó
là thị trường điều tiết ở tầm vi mô, Nhà nước điều tiết ở tầm vĩ mô; có “hai
người” thực hiện các hoạt động đầu tư là Nhà nước và tư nhân. Khó khăn lớn
nhất trong kinh tế thị trường hiện đại là xác định giới hạn sự can thiệp, điều
tiết giữa thị trường và Nhà nước với tính khoa học, khả thi trong những công
cụ mà Nhà nước sử dụng để điều tiết kinh tế. Vì giới hạn sự can thiệp và điều
tiết của Nhà nước cũng như của thị trường ở những giai đoạn phát triển khác
nhau của nền kinh tế không phải là bất biến. Trong khi đó, nếu Nhà nước can
thiệp quá sâu, chính sách của Nhà nước không khoa học và thiếu khả thi thì sẽ
làm triệt tiêu những ưu thế, những động lực của thị trường. Ngược lại, nếu
Nhà nước can thiệp không đủ liều lượng thì sẽ tạo điều kiện cho những
khuyết tật của thị trường phát sinh tác động tiêu cực mạnh mẽ. Tương tự,
trong lĩnh vực đầu tư, nếu kinh tế Nhà nước và phạm vi độc quyền của kinh tế
Nhà nước quá rộng, sẽ hạn chế tính năng động, sáng tạo và khả năng thu hút
nguồn lực của kinh tế tư nhân. Ngược lại, nếu tiềm lực kinh tế của Nhà nước
quá yếu, cũng sẽ hạn chế hiệu quả can thiệp, điều tiết của Nhà nước khi cần
thiết và sự thiếu hụt hàng hóa công cộng sẽ trầm trọng.
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường trong lịch sử kinh tế
thị trường nhân loại rất đa dạng, phong phú. Cụ thể có một số mô hình điển
hình sau:
- Mô hình kinh tế thị trường Bắc Âu.
- Mô hình kinh tế thị trường Nhật Bản.
- Kinh tế thị trường ở các quốc gia và vùng lãnh thổ NICS Châu Á.
- Kinh tế thị trường ở Trung Quốc.
2.2. Sự giống nhau giữa kinh tế thị trường ở Thụy Điển và kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

Cả hai mô hình kinh tế này đều mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của
nền kinh tế thị trường, cụ thể là:
Thị trường và cơ chế thị trường là yếu tố khách quan, từng doanh nghiệp
không thể làm thay đổi thị trường mà họ phải tiếp cận và tuân theo thị trường.
Qua thị trường doanh nghiệp có thể tự đánh giá lại mình và biết được mình
làm ăn hiệu quả không.
12
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh
nghiệp biểu hiện qua việc mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thái độ
cư xử của từng thành viên tham gia thị trường là hướng tìm kiếm lợi ích của
mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
Trong cơ chế thị trường, những vấn đề có liên quan đến việc phân bổ và
sử dụng nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn,…về cơ bản
được giải quyết khách quan thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế
đặc biệt là quy luật cung cầu.
Khách hàng giữ vị trí trung tâm trong nền kinh tế thị trường; quyết định
sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tìm mọi
cách để thu hút thoả mãn nhu cầu của khách hàng với phương châm “khách
hàng là thượng đế”.
Tất cả các mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá. Tiền tệ
trở thành thước đo hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận là yếu tố trung tâm, là động lực thúc đẩy phát triển sản xuất,
tăng năng suất lao động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua các quy luật kinh tế đặc biệt là sự linh hoạt trong giá cả nền
kinh tế thị trường luôn duy trì sự cân bằng giữa cung- cầu của các loại hàng
hoá, dịch vụ, hạn chế xảy ra khan hiếm hàng hoá.
Đồng thời cũng mang đầy đủ những đặc trưng của nền kinh tế thị trường
hiện đại, đó là: Có sự thống nhất giữa mục tiêu Kinh tế với mục tiêu Chính trị
- Xã hội.
- Có sự quản lý của Nhà nước.

- Có sự chi phối mạnh mẽ của phân công và hợp tác quốc tế trong sx và đời
sống, tạo ra 1 nền KTTT mang tính quốc tế, vượt ra khỏi biên giới quốc gia
động và mở, tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3. Sự khác nhau giữa kinh tế thị trường ở Thụy Điển và kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam.
2.3.1. Kinh tế thị trường Thụy Điển.
2.3.1.1. Đặc trưng.
Mô hình kinh tế thị trường Bắc Âu có thể phân thành hai “nhánh”. Một
nhánh là kinh tế thị trường “Xã hội phúc lợi“ và “kinh tế thị trường thương
lượng”. Ở Thụy Điển tồn tại kinh tế thị trường “ xã hội phúc lợi” từ những
năm 30 của thế kỷ XX. Với các đặc trưng cơ bản:
13
- Ra đời trong bối cảnh của nước Đức sau chiến tranh thế giới thứ hai và là kết
quả của sự thỏa hiệp giữa 4 trường phái lớn theo đuổi những chủ trương khác
nhau về khôi phục nền kinh tế nước Đức thời hậu chiến.
- Mô hình kinh tế thị trường xã hội là một dạng biến thể của mô hình kinh tế thị
trường tự do. Nhưng nó có nội dung thực chất là sự gắn kết trên cơ sở thị
trường một cách hợp lý giữa các mặt kinh tế - xã hội và chính trị.
- Coi các thị trường chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ và coi
luật pháp, nhà nước, đạo đức, không hề kém quan trọng hơn so với các chính
sách kinh tế, tài chính.
- Coi trọng vai trò điều tiết của nhà nước và phúc lợi xã hội.
2.3.1.2. Chính sách thực hiện.
Mô hình này được xây dựng dựa trên lý thuyết “Ngôi nhà chung cho mọi
người“ của phái Xã hội-Dân chủ, mà đại diện là cựu Thủ tướng Thụy Điển
P.A.Hanson; xuất phát từ mục tiêu của “Chủ nghĩa xã hội chức năng“, với
khẩu hiệu: ”bình đẳng, đảm bảo xã hội, hợp tác và sẵn sàng giúp đỡ“. Trong
mô hình này, sự phát triển được thực hiện kết hợp hài hòa giữa mở rộng phúc
lợi xã hội với kinh tế thị trường tư nhân. Thực hiện mô hình này, Thụy Điển
đã đạt được những thành công nhất định, đưa Thụy Điển từ một trong những

nước nghèo nhất Châu Âu trở thành một trong những quốc gia giàu nhất Châu
lục này. Trong nền kinh tế, kinh doanh lớn tuy nằm trong tay một nhóm nhỏ,
nhưng sự phân hóa giàu – nghèo đần dần được thu hẹp.
Tuy vậy, việc giữ mức phúc lợi xã hội cao cho mọi công dân dần dần trở
thành gánh nặng cho nền kinh tế; phúc lợi xã hội “nuốt“ mất 1/3 GNP; sự
thiếu hụt ngân sách và cán cân thanh toán luôn trầm trọng; năng suất lao động
và khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp giảm; lạm phát cao. Do đó,
từ giữa những năm 70 đến những năm 90 (thế kỷ XX) nền kinh tế ngày càng
trở nên trì trệ. Do vậy, sau gần 50 năm thực hiện mô hình kinh tế thị trường
“Xã hội phùc lợi“ với mức tiền lương cao và chế độ tiền lương mang tính
bình quân, đến những năm 90, Thụy Điển đã phải đặt mục tiêu giảm lạm phát
lên trên mục tiêu đảm bảo toàn dụng công nhân; giảm thuế thu nhập từ 72%
xuống còn 50%; tăng thuế gián thu; cắt giảm bớt các khoản trợ cấp phúc lợi;
tư nhân hóa trong các lĩnh vực dịch vụ. Nghĩa là một số đặc trưng của mô
hình đã bị loại bỏ.
2.3.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
14
2.3.2.1. Khái niệm.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi một hệ thống
kinh tế được Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và chủ trương triển khai
tại Việt Nam từ thập niên 1990.
Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa
có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một
nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguyên nhân của tình trạng này là hệ
thống kinh tế này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Thêm vào
đó, công tác lý luận ở Việt Nam về hệ thống kinh tế này còn chưa theo kịp
thực tiễn. Gần 20 năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt
động vẫn chưa có đầy đủ. Mãi tới hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, Đảng mới ra nghị quyết số 21-
NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và, mãi tới ngày 23 tháng 9 năm
2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW.
2.3.2.2. Đặc trưng.
Hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc
trưng sau:
• Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị
trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền
kinh tế thị trường được tôn trọng, các mạch máu kinh tế và các ngành trọng
yếu (khai mỏ, ngân hàng, quốc phòng ) được nhà nước quản lý. Các thông
lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được vận dụng một cách hợp
lý. Nền kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
• Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai
thuộc sở hữu toàn dân.
15
• Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội
nhập kinh tế thành công.
• Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân
phối lại qua phúc lợi xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến
hành theo hướng nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng
cách phát triển giữa các địa phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công
bằng xã hội; công bằng xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính sách
phát triển.

• Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
• Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân
được khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
2.3.2.3. Chính sách thực hiện.
• Chủ trương khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện trong thực tế
bằng việc thành lập hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước lớn như các tập
đoàn kinh tế nhà nước, các tổng công ty 90, tổng công ty 91. Tuy nhiên, hiện
không ít doanh nghiệp nhà nước lớn này hoạt động không hiệu quả hoặc
thua lỗ triền miên, dẫn tới yêu cầu phải tái cấu trúc và cổ phần hóa các
doanhnghiệp này.
• Với việc thực hiện chính sách này, nước ta tuy đã đạt được những thành
tựu quan trọng, nhưng nhìn chung chúng ta vẫn chưa thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội, vẫn là một nước nghèo, kém phát triển, năng suất lao
động và tích luỹ còn thấp, kỹ thuật công nghệ lạc hậu. Việc chuyển dịch cơ
cấu còn chậm, lao động nông nghiệp vẫn chiếm khoảng 75%, dân số và
việc làm luôn là vấn đề gay gắt, đời sống của một bộ phận dân cư còn gặp
khó khăn, nhất là khu vực nông thôn và miền núi, cho đến nay, về cơ bản,
cơ cấu kinh tế vẫn theo sự phân bổ tự nhiên, chưa có các giải pháp có hiệu
quả để sớm hình thành các ngành, vùng kinh tế trọng điểm. Cơ sở hạ tầng
yếu kém, hệ thống giao thông xuống cấp. Nền tài chính quốc gia còn yếu
và thất thoát, lãng phí lớn. Khả năng kiềm chế lạm phát chưa vững chắc.
Ngân sách còn mất cân đối lớn giữa thu và chi. Kinh tế quốc dân chậm
được đổi mới, kinh tế tư nhân chưa được tháo gỡ những trở ngại cho sự
phát triển, mặt khác thiếu hướng dẫn, quản lý. Tình trạng rối loạn trong sản
16
xuất kinh doanh và đời sống xã hội cũng như sự yếu kém và tệ quan liêu,
tham nhũng trong bộ máy Nhà nước khá nghiêm trọng. Phân hóa giàu
nghèo trở nên sâu sắc trong hoàn cảnh tranh tối, tranh sáng.
Cho đến nay, thị trường nước ta vẫn là thị trường sơ khai, còn những rối

loạn và nhiều yếu tố tự phát (mới chỉ có thị trường hàng hoá, còn thị trường
tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động chưa hoặc mới ở dạng manh
nha). thị trường tiền tệ và thị trường vốn vẫn tách biệt. Thị trường sức lao
động có phần chưa thoát khỏi chế độ biên chế, hoặc tự phát. Thị trường thiếu
và còn những rối loạn, cùng với tình trạng luật lệ Nhà nước vừa thiếu vừa bất
hợp lý: còn những gò bó và cả những sơ hở, thủ tục hành chính phiền hà, nạn
tham nhũng tràn lan là môi trường bất lợi cho thị trường phát triển. Trong khi
đó, để đánh giá mức độ phát triển của bất kì nền kinh tế nào, trước hết người
ta nhìn vào thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Tuy đã có định hướng để xây
dựng một thị trường đồng bộ, nhưng trên thực tế chuyển biến rất chậm.
Nguyên nhân chủ yếu là sự thiếu nhất quán về chính sách, thể chế, nhất là
trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, đầu tư, thương mại, tỷ giá, lãi suất. Chúng ta
chủ trương xây dựng một thị trường thống nhất, thông suốt, nhanh chóng hoà
nhập với thị trường thế giới, song nhiều thủ tục hành chính phiền hà còn gây
khá nhiều cản trở. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trước hết là do hậu
quả của cơ chế cũ để lại, từ những quan niệm giản đơn trong việc bố trí cơ
cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cho đến việc duy ý chí trong việc hoạch định chính
sách kinh tế, đặt ý chí chủ quan vào đời sống kinh tế - xã hội không phù hợp
với lợi ích của quần chúng. Tuy có những bước tiến, nhưng về cơ bản các
chính sách kinh tế vĩ mô chưa theo kịp sự phát triển.
Mặt khác phải thừa nhận một thực tế, đây là một sự chuyển đổi khá phức
tạp, là quá trình mà độ dài phải tính bằng thập kỉ mới có thể đi vào quỹ đạo.
Do đó không tránh khỏi thời kì đầu phải chấp nhận tình trạng thị trường
thiếu, rối loạn, tiêu cực, trong khi các nhân tố có sứ mệnh tạo trật tự là hệ
thống ngân hàng, tài chính, bộ máy nhà nước, doanh nghiệp lớn còn yếu kém
và tiêu cực, còn đang ở bước thích nghi.
17
KẾT LUẬN
Nói tóm lại nền kinh tế thị trường là công cụ để phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Để đạt được những mục tiêu về kinh tế thì điều đặt ra cho một

quốc gia là phải biết lựa chọn mô hình kinh tế thị trường và vận dụng nó sao
cho phù hợp với tình hình cũng như hoàn cảnh của nước mình.
Tuy kinh tế thị trường ra đời từ thời kì tư bản chủ nghĩa, bên cạnh những
mặt tích cực nó còn biểu hiện mặt tiêu cực (mặt trái). Và chúng ta không thể
đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Mô hình kinh tế thị trường
là mô hình chung cho cả Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội. Muốn sử
dụng nó một cách hiệu quả thì không chỉ phát huy những tác động tích cực
mà nó đem lại cho nền kinh tế, mà còn đòi hỏi phải biết hạn chế một cách tối
đa những mặt tiêu cực mà nó gây ra. Vì vậy khi một nền kinh tế áp dụng theo
mô hình kinh tế thị trường thì cần phải có sự kết hợp giữa sự tự điều tiết nền
kinh tế của thị trường và sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế. Điều đó
có nghĩa là Nhà nước phải luôn quan tâm đến những yếu tố cấu thành nên cơ
chế thị trường: giá cả, cung cầu hàng hoá, cạnh tranh, tiền tệ và lợi nhuận và
những quy luật của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu,
quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ… Để từ đó có những biện pháp
chính sách phù hợp để điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển
một cách nhanh chóng và vững mạnh.
Đối với nước ta, quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường tuy có hơi
muộn nhưng nó cũng đem lại những thành tựu hết sức to lớn cho đất nước
trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta đã thấy được những hạn chế
của mô hình kế hoạch hoá tập trung và cũng thấy được vai trò quan trọng của
kinh tế thị trường đối với nền kinh tế. Điều quan trọng hơn cả là chúng ta đã
chấp nhận nó - như một công cụ để phát triển, để đạt được những mục tiêu
cao hơn - đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta cũng đã định hướng cho nó để
phù hợp với chiến lược, phương hướng mà Đảng, Nhà nước đã chọn. Một nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những cái chung của nền
kinh tế thị trường và nó cũng có những cái khác biệt so với nền kinh tế thị
trường của các nước khác. nó mang bản sắc riêng thể hiện đường lối lãnh đạo,
cũng như chủ trương phát triển kinh tế của nước ta sao cho phù hợp với
nguyện vọng của quần chúng nhân dân cũng như xu hướng tất yếu hiện nay

18
của thế giới.
Tuy nền kinh tế thị trường Việt Nam đang trong giai đoạn hình thành và
phát triển, đang còn gặp nhiều khó khăn nhưng chúng ta đều tin rằng với sự
lãnh đạo của Đảng, sự điều tiết kinh tế của Nhà nước cũng như sự đoàn kết,
thống nhất và quyết tâm của nhân dân ta nó sẽ phát triển lên một trình độ cao
và sẽ là công cụ quan trọng để chúng ta hoàn thành quá trình đi lên Chủ nghĩa
Xã hội.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo giáo trình Mác- Lênin 1997.
2. Các Mác- Ăng ghen toàn tập, NXB CTQG HN 1995.
3. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần VI.
4. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần VIII.
5. Nghị quyết đại hội IX.
6. Thời báo kinh tế.
7. Tạp chí kinh tế Việt Nam.
20

×