Tải bản đầy đủ (.docx) (149 trang)

Phương hướng và giải pháp hoàn thiện kế toán dự phòng trong các doanh nghiệp việt nam luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.91 KB, 149 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TƠ HỒNG THIÊN

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HỒN
THIỆN KẾ TỐN DỰ PHÒNG TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.Hồ Chí Minh, năm 2006


1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đổi
mới của nền kinh tế, hệ thống kế toán Việt Nam đã
không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Cùng với
sự phát triển của hệ thống kế toán Việt Nam, vấn đề
trích lập và hạch toán dự phòng ngày càng hoàn thiện.
Sau quyết định 1141TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995 của Bộ
Tài chính ban hành hệ thống chế độ kế toán doanh
nghiệp, lần lượt các thông tư 64 TC/TCDN 15/9/1997, 107/
2001/TT- BTC cũng được ban hành nhằm hướng dẫn việc
trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng
giảm giá đầu tư ngắn hạn và dài hạn, dự phòng nợ
khó đòi và gần đây nhất Bộ Tài Chính vừa ban hành
thông tư 13/2006/TT-BTC ngày 27/2/2006 hướng dẫn chế


độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng, trong đó
có bổ sung thêm về dự phòng bảo hành sản phẩm,
hàng hoá và công trình xây lắp. Tuy nhiên, so với
Chuẩn mực quốc tế về kế toán cũng như qua nghiên
cứu kinh nghiệm của một số quốc gia phát triển như
Mỹ, Pháp, các quy định và hướng dẫn liên quan đến
việc trích lập và hạch toán dự phòng trong kế toán của
Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Vì vậy, việc hoàn
thiện hạch toán dự phòng trong kế toán Việt Nam là
một trong những vấn đề cấp bách hiện nay nhằm giúp
cho Việt Nam sớm hội nhập vào nền kinh tế thế giới,
hệ thống kế toán Việt Nam được quốc tế thừa nhận,
báo cáo tài chính trình bày trung thực và hợp lý.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Qua phân tích những nội dung chuẩn mực quốc tế
về kế toán có liên quan đến vấn đề trích lập dự phòng
trong kế toán cùng với việc tham khảo những kinh


2
nghiệm về phương pháp trích lập dự phòng của các
nước, đối chiếu với những


thực trạng ở Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp
hoàn thiện về việc trích lập và hạch toán dự phòng
trong kế toán Việt Nam.
3. ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU:
Chỉ tập trung vào kế toán các doanh nghiệp, không
tập trung vào kế toán thuộc lónh vực hành chánh sự

nghiệp. Luận văn chỉ tập trung vào nghiên cứu các
phương pháp trích lập và hạch toán dự phòng về giảm
giá tài sản và dự phòng nợ phải trả.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp sử dụng chủ yếu để nghiên cứu đề
tài là phương pháp biện chứng duy vật, bên cạnh đó
còn sử dụng một số phương pháp khác như:
- Phương pháp phân tích định lượng,
- Phương pháp so sánh và đối chiếu,
- Phương pháp phân tích và tổng hợp v.v…
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN:
Những đóng góp của luận văn bao gồm:
- Hệ thống hoá những nội dung của các chuẩn mực
quốc tế về kế toán liên quan đến dự phòng trong kế
toán, phân tích các phương pháp trích lập hạch toán dự
phòng từ kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế
giới nhằm đưa ra được những bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
- Hệ thống hoá quá trình đổi mới của hệ thống kế
toán Việt Nam nói chung và phương pháp trích lập và
hạch toán dự phòng trong kế toán nói riêng. Từ đó
phân tích những ưu và nhược điểm của các quy định hiện
hành.
- Từ việc phân tích thực trạng, tiến hành đề ra các
giải pháp hoàn thiện kế toán dự phòng trong các doanh
nghiệp Việt Nam.


CHƯƠNG 1


TỔNG QUAN VỀ DỰ PHÒNG VÀ KẾ TOÁN
DỰ PHÒNG
1.1. TỔNG QUAN VỀ DỰ PHÒNG TRONG KẾ TOÁN:
1.1.1 ĐỊNH NGHĨA VỀ DỰ PHÒNG:
Theo Ủy ban thuật ngữ của Hội đồng quốc gia về
kế toán của Pháp, dự phòng được định nghóa như sau:
“Dự phòng là việc xác nhận về phương diện kế toán,
sự giảm giá trị của một tài sản hay sự gia tăng công
nợ, xác thực về bản chất nhưng mang tính ước tính về
mặt giá trị. Việc thiết lập dự phòng thường dựa trên
bằng chứng xác thực xảy ra xung quanh thời điểm khoá
sổ kế toán.
Như vậy có thể nói , đặc điểm chủ yếu của dự
phòng là một ước tính của kế toán, nó vừa mang tính
chất dự đoán, vừa mang tính chất tạm thời.
Việc lập dự phòng là do nguyên tắc thận trọng
trong kế toán, khi có những vấn đề chưa rõ ràng, cần
phải xét đoán thận trọng để không làm cho tài sản
và thu nhập bị thổi phồng, cũng như nợ phải trả và chi
phí bị giấu bớt.
1.1.2. CÁC LOẠI DỰ PHÒNG TRONG KẾ TOÁN:
Nhằm cung cấp hình ảnh trung thực về tình hình tài
chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh, tuân thủ
nguyên tắc thận trọng, nguyên tắc phù hợp, vào cuối
niên độ kế toán trước khi lập báo cáo tài chính, kế
toán thường lập các loại dự phòng: Dự phòng giảm giá
đầu tư ngắn hạn, dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn,
dự phòng nợ khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn
kho, dự phòng nợ phải trả.
1.1.2.1.

Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn và
dài hạn:


Loại dự phòng này nhằm phản ánh một bộ phận
giá trị dự tính bị giảm giá của các chứng khoán đầu
tư ngắn hạn và dài hạn. Lập dự phòng nhằm ghi


nhận các khoản lỗ có thể phát sinh nhưng chưa chắc
chắn và đồng thời nhằm phản ánh giá trị thuần có
thể thực hiện của chứng khoán.
Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn và dài hạn
được ghi vào cuối niên độ kế toán trước khi lập báo
cáo tài chính, nếu có những bằng chứng tin cậy về sự
giảm giá thường xuyên của các chứng khoán đầu tư
ngắn hạn và dài hạn.
1.1.2.2.

Dự phòng nợ khó đòi:

Loại dự phòng này nhằm phản ánh số tiền có
khả năng không thu hồi được của khoản nợ phải thu
trong niên độ kế toán.
Trong thực tế hoạt động kinh doanh có những khoản
phải thu mà con nợ khó hoặc không có khả năng trả
nợ, hoặc vì lý do nào đó không xác định được người
nợ. Để cung cấp hình ảnh trung thực về tình hình tài
chính, cần ước tính các khoản nợ phải thu khó đòi. Các
khoản nợ phải thu khó đòi được xem như là một khoản

lỗ hoặc chi phí của doanh nghiệp.
Nói cách khác, dự phòng nợ khó đòi là việc ước
tính những tổn thất về các khoản phải thu khó đòi có
thể xảy ra nhằm tuân thủ nguyên tắc thận trọng vàø
đảm bảo sự phù hợp giữa doanh thu và chi phí trong kỳ.
1.1.2.3.

Dự phòng giảm giá hàng tồn kho:

Dự phòng giảm giá hàng tồn kho là số tiền
phản ánh một phần giá trị hàng tồn kho bị giảm sút
so với giá gốc do sự sụt giảm giá bán, do hàng tồn kho
bị mất phẩm chất, lỗi thời... Khoản dự phòng được ghi
nhận như chi phí phát sinh trong kỳ. Dự phòng giảm giá
hàng tồn kho được lập vào cuối niên độ kế toán
nhằm tuân thủ nguyên tắc thận trọng trong kế toán


vàø đảm bảo sự phù hợp giữa doanh thu và chi phí trong
kỳ.
1.1.2.4.

Dự phòng nợ phải trả:

Dự phòng nợ phải trả là khoản dự phòng có thể
phân biệt được với các khoản nợ phải trả như: các
khoản nợ phải trả người bán, phải trả tiền vay,… là


các khoản nợ phải trả được xác định gần như chắc

chắn về giá trị và thời gian, còn các khoản dự phòng
là các khoản nợ phải trả chưa chắc chắn về giá trị
hoặc thời gian.
Ví dụ như các khoản phải trả người bán, số tiền
và thời gian trả thông thường được qui định trong hợp
đồng mua bán, còn đối với khoản bảo hành phải trả
cho khách hàng, thì không xác định được chính xác số
tiền sẽ phải trả và thời gian trả cụ thể mặc dù trách
nhiệm bảo hành là trách nhiệm hiện tại của doanh
nghiệp.
Các khoản dự phòng thường gặp bao gồm dự
phòng bảo hành sản phẩm, dự phòng hợp đồng rủi ro
lớn, dự phòng tái cơ cấu doanh nghiệp.
1.2. KẾ TOÁN DỰ PHÒNG THEO CHUẨN MỰC QUỐC
TẾ VỀ KẾ TOÁN:
Tính đến nay, y ban chuẩn mực kế toán quốc tế
IASB đã ban hành được 41 chuẩn mực áp dụng cho báo
cáo tài chính của mọi loại hình doanh nghiệp (phụ lục 1
trình bày danh sách 41 chuẩn mực kế toán quốc tế đã
được ban hành).
Các chuẩn mực kế toán có liên quan đến việc lập
dự phòng theo hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế có
thể kể ra bao gồm:
1.2.1.

CHUẨN MỰC CHUNG:

Chuẩn mực trình bày những vấn đề chung nhất có
ảnh hưởng đến phương pháp lập và hạch toán dự phòng
là chuẩn mực chung.

Một số nội dung liên quan đến việc lập dự phòng là:
1.2.1.1.
Các giả định kế toán ảnh hưởng đến
việc lập dự phòng:


Theo khuôn mẫu của Ủy Ban tiêu chuẩn kế toán
quốc tế, báo cáo tài chính được lập trên các giả định:
1.2.1.1.1. Giả định hoạt động liên tục:


Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả
định là doanh nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ
tiếp tục hoạt động kinh doanh trong tương lai có thể thấy
được, nghóa là doanh nghiệp không có ý định cũng như
không buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp
đáng kể quy mô hoạt động của mình. Trường hợp thực
tế khác với giả định hoạt động liên tục thì báo cáo
tài chính phải lập trên một cơ sở khác và phải giải
thích cơ sở đã sử dụng để lập báo cáo tài chính.
Như vậy, theo giả định này, đơn vị sẽ tiếp tục hoạt
động hoạt động trong thời gian có thể thấy được do
vậy, các tài sản của đơn vị không cần thiết phải
đánh giá theo giá thị trường mà ghi nhận theo giá gốc
(nếu giá thị trường thấp hơn giá gốc, đơn vị phải lập dự
phòng).
1.2.1.1.2. Giả định dồn tích:
Theo giả định này, các nghiệp vụ kinh tế được hạch
toán khi chúng phát sinh chứù không phải vào thời
điểm thực tế thu hoặc chi tiền và chúng được trình bày

trong báo cáo tài chính của kỳ mà chúng phát sinh.
Nói cách khác, mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính
của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả,
nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi
sổ kế toán vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào
thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc khoản
tương đương tiền.
1.2.1.2.
Các đặc điểm chất lượng của báo cáo
tài chính:
- Tính có thể tin cậy được:
Để báo cáo tài chính có thể tin cậy được, cần
tuân thủ nguyên tắc trình bày trung thực, nội dung hơn
hình thức, trung lập, thận trọng và đầy đủ. Trong các


nguyên tắc nêu trên, nguyên tắc quan trọng nhất ảnh
hưởng đến lập dự phòng là nguyên tắc thận trọng.
- Thận trọng:
Khuôn mẫu của IAS đã đề cập về thận trọng nhö sau:


Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán
cần thiết để lập các ước tính kế toán trong các điều
kiện không chắc chắn sao cho tài sản hay thu nhập
không được khai cao, công nợ và chi phí không được đánh
giá thấp.
1.2.1.3.

Các yếu tố của báo cáo tài chính:


- Tài sản:
Tài sản là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và
hy vọng mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai phát sinh.
Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản là
tiềm năng đóng góp trực tiếp hoặc gián tiếp tới các
nguồn tiền và các khoản tương đương tiền của doanh
nghiệp.
Tài sản được ghi nhận khi chắc chắn mang lại lợi ích
kinh tế trong tương lai và giá trị của tài sản đó được
xác định một cách đáng tin cậy.
- Thu nhập:
Là sự gia tăng về lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán
dưới hình thức các khoản tiền thu vào hoặc gia tăng
tài sản hoặc giảm bớt công nợ dẫn đến việc gia tăng
vốn chủ sở hữu nhưng không phải do cổ đông đóng
góp.
Chỉ được ghi nhận thu nhập khi có bằng chứng chắc
chắn về khả năng thu được lợi ích kinh tế.
1.2.2. CHUẨN MỰC CỤ THỂ:
Do dự phòng bao gồm nhiều loại có nội dung và
tính chất khác nhau, vì vậy trong hệ thống chuẩn mực
kế toán quốc tế, không có chuẩn mực kế toán riêng
trình bày về dự phòng. Mỗi loại dự phòng được trình bày
trong các chuẩn mực kế toán có liên quan đến khoản
mục cần lập dự phòng, mà cụ thể là:
1.2.2.1.

Dự phòng giảm giá hàng tồn kho :



Chuẩn mực kế toán giải quyết các nội dung liên
quan đến dự phòng giảm giá hàng tồn kho là chuẩn
mực IAS 02.


Đoạn 6, chuẩn mực IAS 02, yêu cầu: giá trị hàng
tồn kho trình bày trên báo cáo tài chính được tính theo
giá trị thấp hơn giữa giá gốc và giá trị thuần có thể
thực hiện được. Mục đích của yêu cầu này là nhằm
tuân thủ nguyên tắc thận trọng trong kế toán. Giá trị
hàng tồn kho trình bày trên báo cáo không thể cao hơn
giá trị có thể thu hồi từ việc bán tài sản này.
Đoạn 25 đến 30, chuẩn mực IAS 02 đề cập đến lập
dự phòng như sau: 25.Giá trị hàng tồn kho không thu hồi
đủ khi hàng tồn kho bị hư hỏng, lỗi thời, giá bán bị
giảm, hoặc chi phí hoàn thiện, chí phí để bán hàng tăng
lên. Việc ghi giảm giá gốc hàng tồn kho cho bằng với
giá trị thuần có thể thực hiện được là phù hợp với
nguyên tắc tài sản không được phản ánh lớn hơn giá
trị thực hiện ước tính có thể thực hiện được từ việc bán
hay sử dụng chúng.
26.Cuối kỳ kế toán năm, khi giá trị thuần có thể thực
hiện được của hàng tồn kho nhỏ hơn giá gốc thì phải
lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho. Số dự phòng
giảm giá hàng tồn kho được lập là số chênh lệch giữa
giá gốc của hàng tồn kho và giá trị thuần có thể
thực hiện được của chúng. Việc lập dự phòng giảm giá
hàng tồn kho được thực hiện trên cơ sở từng mặt hàng
tồn kho. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, có thể tính

cho nhóm mặt hàng tương tự. Đây là trường hợp là
những mặt hàng liên quan đến cùng một sản phẩm
có cùng mục đích, được sản xuất và bán trong cùng
vùng địa lý và trong thực tế không thể tách riêng với
khoản mục khác. Tuy nhiên, sẽ không đúng khi lập dự
phòng cho từng loại hàng như từng chủng loại hay tất cả
các hàng tồn kho trong một đơn vị. Công ty cung cấp
dịch vụ thường tập hợp chi phí liên quan đến từng dịch


vụ để có thể tính riêng giá bán. Do vậy, dự phòng
giảm giá hàng tồn kho được tính theo từng loại dịch vụ
có mức giá riêng biệt.
27.Việc ước tính giá trị thuần có thể thực hiện được
của hàng tồn kho phải dựa trên bằng chứng tin cậy thu
thập được tại thời điểm ước tính. Việc ước tính này


phải tính đến sự biến động của giá cả hoặc chi phí trực
tiếp liên quan đến các sự kiện diễn ra sau ngày kết
thúc năm tài chính, mà các sự kiện này được xác nhận
với các điều kiện hiện có ở thời điểm ước tính.
28.Khi ước tính giá trị thuần có thể thực hiện được phải
tính đến mục đích của việc dự trữ hàng tồn kho. Ví dụ,
giá trị thuần có thể thực hiện được của lượng hàng
tồn kho dự trữ để đảm bảo cho các hợp đồng bán
hàng hoặc cung cấp dịch vụ không thể hủy bỏ phải
dựa vào giá trị trong hợp đồng. Nếu số hàng đang tồn
kho lớn hơn số hàng cần cho hợp đồng thì giá trị thuần
có thể thực hiện được của số chênh lệch giữa hàng

đang tồn kho lớn hơn số hàng cần cho hợp đồng được
đánh giá trên cơ sở giá bán ước tính.
29.Nguyên liệu, vật liệu và công cụ, dụng cụ dự trữ
để sử dụng cho mục đích sản xuất sản phẩm không
được đánh giá thấp hơn giá gốc nếu sản phẩm do
chúng góp phần cấu tạo nên sẽ được bán bằng hoặc
cao hơn giá thành sản xuất của sản phẩm. Khi có sự
giảm giá của nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ
mà giá thành sản xuất sản phẩm cao hơn giá trị thuần
có thể thực hiện được, thì nguyên liệu, vật liệu, công
cụ, dụng cụ tồn kho được đánh giá giảm xuống bằng
với giá trị thuần có thể thực hiện được của chúng.
Trong trường hợp này, giá thay thế là phương pháp xác
định đáng tin cậy. 30. Cuối kỳ kế toán năm tiếp theo
phải thực hiện đánh giá mới về giá trị thuần có thể
thực hiện được của hàng tồn kho cuối năm đó. Trường
hợp cuối kỳ kế toán năm nay, nếu khoản dự phòng
giảm giá hàng tồn kho phải lập thấp hơn khoản dự
phòng giảm giá hàng tồn kho đã lập ở cuối kỳ kế
toán năm trước thì số chênh lệch lớn hơn phải được


hoàn nhập (Theo quy định ở đoạn 24) để đảm bảo cho
giá trị của hàng tồn kho phản ánh trên báo cáo tài
chính là theo giá gốc (nếu giá gốc nhỏ hơn giá trị
thuần có thể thực hiện được) hoặc theo giá trị thuần
có thể thực hiện được (nếu giá gốc lớn hơn giá trị
thuần có thể thực hiện được).



1
0
1.2.2.2.

Dự phòng nợ phải thu khó đòi:

Dự phòng nợ phải thu khó đòi là khoản phát sinh
từ các khoản phải thu thương mãi, đó là số tiền mà
khách hàng còn nợ doanh nghiệp do việc bán hàng hóa
hay cung cấp dịch vụ cũng như các loại nợ phải thu khác
như thương phiếu phải thu, các công cụ tài chính.
Chuẩn mực kế toán quốc tế có liên quan để
giải quyết vấn đề này là chuẩn mực IAS 39. Đoạn 75
của IAS 39 cho rằng: vào cuối thời khóa, khoản cho vay
và phải thu được đánh giá theo giá gốc có chiết khấu
(Amortised cost). Giá gốc có chiết khấu được tính theo
giá gốc trừ các khoản dự phòng về nợ không thu hồi
được.
Về phương pháp ước tính và ghi nhận nợ phải thu
khó đòi, trong chuẩn mực kế toán quốc tế không có
hướng dẫn riêng. Tuy vậy, trong thực tế kế toán của
các quốc gia, thông thường, người ta có thể sử dụng 2
phương pháp:
1. Phương pháp ghi trực tiếp: theo phương pháp này, khi
có bằng chứng rỏ ràng về nợ không thu hồi được,
người ta xóa sổ khoản nợ không thu hồi được. Phương
pháp này khá đơn giản nhưng có nhược điểm là vi phạm
nguyên tắc phù hợp, có nghóa không tương xứng giữa
doanh thu và chi phí.
2. Phương pháp lập dự phòng: Để đáp ứng nguyên

tắc phù hợp, khoản nợ khó đòi cần được ghi nhận
trong thời khóa kế toán phát sinh doanh thu. Tuy nhiên,
do không thể chắc chắn về số không thu được vì vậy
cần tiến hành ước tính.
Có 2 phương pháp ước tính thông thường nhất
thường được sử dụng là ước tính dựa trên tỷ suất


1
doanh thu và tính tuổi khoản
0 nợ. Cả 2 phương pháp đều
được chấp nhận rộng rãi.
a.Phương pháp tính tỷ suất giữa doanh thu với nợ khó đòi:


1
1
Theo phương pháp này, cần dựa vào số liệu quá
khứ về việc không thu hồi được nợ để phân tích mối
liên hệ giữa số bán chịu và nợ khó đòi và từ đó
ước tính tỷ suất nợ không thu hồi được. Tỷ suất này
sẽ được áp dụng cho năm hiện hành để ước tính nợ
không thu hồi được.
b.Phương pháp tính tuổi nợ:
Theo phương pháp này, cần tiến hành phân tích tài
khoản phải thu theo số ngày hay số tháng nợ tồn đọng.
Sau đó, dựa trên kinh nghiệm quá khứ hay các số
thống kê có giá trị khác để ước tính tỷ suất nợ
không thu hồi được cho từng nhóm tuổi. Mức dự phòng
nợ khó đòi sẽ tính bằng số dư nợ của từng nhóm tuổi

nhân với tỷ lệ nợ không thu hồi được của từng nhóm
tuổi.
1.2.2.3.

Dự phòng Nợ phải trả:

Chuẩn mực kế toán liên quan đến loại dự phòng
này là chuẩn mực IAS 37- Dự phòng, tài sản và nợ tiềm
tàng.
Chuẩn mực này phân biệt rõ các khoản dự phòng
với các khoản nợ tiềm tàng, như sau:
a) Các khoản dự phòng là các khoản đã được ghi nhận
là các khoản nợ phải trả (giả định đưa ra một ước tính
đáng tin cậy) vì nó là các nghóa vụ về nợ phải trả
hiện tại và chắc chắn sẽ làm giảm sút các lợi ích kinh
tế để thanh toán các nghóa vụ về khoản nợ phải trả
đó; và
b) Các khoản nợ tiềm tàng là các khoản không được
ghi nhận là các khoản nợ phải trả thông thường, vì:
Các khoản nợ phải trả thường xảy ra, còn khoản nợ
tiềm tàng thì chưa chắc chắn xảy ra.
 Tiêu chuẩn ghi nhận:


1
Một khoản dự phòng chỉ
2 được ghi nhận khi thoả mãn
các điều kiện sau:
a) Doanh nghiệp có nghóa vụ nợ hiện tại (nghóa vụ pháp
lý hoặc nghóa vụ liên đới) do kết quả từ một sự kiện

đã xảy ra;


b) Sự giảm sút về những lợi ích kinh tế có thể xảy ra
dẫn đến việc yêu cầu phải thanh toán nghóa vụ nợ; và
c) Đưa ra được một ước tính đáng tin cậy về giá trị của
nghóa vụ nợ đó.
 Chuẩn mực lưu ý rằng:
- Rất ít trường hợp không thể chắc chắn rằng liệu doanh
nghiệp có nghóa vụ nợ hay không. Trong trường hợp này
một sự kiện đã xảy ra được xem là phát sinh ra nghóa vụ
nợ khi xem xét tất cả các chứng cứ đã có chắc
chắn xác định được nghóa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ
kế toán năm.
- Trong hầu hết các trường hợp đều có thể xác định rõ
được rằng một sự kiện đã xảy ra có phát sinh một
nghóa vụ nợ hay không. Một số ít trường hợp không chắc
chắn được rằng một số sự kiện xảy ra có dẫn đến một
nghóa vụ nợ hay không. Ví dụ: Trong một vụ xét xử, có
thể gây ra tranh luận để xác định rằng những sự kiện
cụ thể đã xảy ra hay chưa và có dẫn đến một nghóa
vụ nợ hay không. Trường hợp như thế, doanh nghiệp phải
xác định xem liệu có tồn tại nghóa vụ nợ tại ngày kết
thúc kỳ kế toán năm hay không thông qua việc xem
xét tất cả các chứng cứ đã có, bao gồm cả ý kiến
của các chuyên gia. Chứng cứ đưa ra xem xét phải tính
đến bất cứ một dấu hiệu bổ sung nào của các sự
kiện xảy ra sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Dựa
trên cơ sở của các dấu hiệu đó:
a) Khi chắc chắn xác định được nghóa vụ nợ tại ngày kết

thúc kỳ kế toán năm, thì doanh nghiệp phải ghi nhận
một khoản dự phòng (nếu thoả mãn các điều kiện
ghi nhận); và
b) Khi chắc chắn không có một nghóa vụ nợ nào tại
ngày kết thúc kỳ kế toán năm, thì doanh nghiệp phải


trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính một
khoản nợ tiềm tàng, trừ khi khả năng giảm sút các lợi
ích kinh tế rất khó có thể xảy ra.


- Chỉ có những nghóa vụ nợ phát sinh từ các sự kiện
đã xảy ra độc lập với các hoạt động trong tương lai của
doanh nghiệp mới được ghi nhận là các khoản dự
phòng, ví dụ chi phí phạt hoặc chi phí xử lý thiệt hại do
vi phạm pháp luật về môi trường, đều làm giảm sút
các lợi ích kinh tế và tất yếu sẽ ảnh hưởng đến các
hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp. Tương tự,
doanh nghiệp phải ghi nhận một khoản dự phòng cho
những chi phí, như chi phí tháo dỡ trang thiết bị khi di
chuyển hoặc tái cơ cấu doanh nghiệp. Các chi phí phát
sinh do áp lực về thương mại hoặc qui định của pháp
luật mà doanh nghiệp dự định phải chi tiêu như trường
hợp đặc biệt trong tương lai thì không được lập dự phòng
(Ví dụ: Lắp thêm các thiết bị lọc khói cho một nhà
máy). Các biện pháp dự định thực hiện trong tương lai
của doanh nghiệp có thể tránh được chi phí (Ví dụ: Doanh
nghiệp dự định thay đổi phương thức hoạt động), doanh
nghiệp sẽ không phải chịu nghóa vụ hiện tại cho các

khoản chi phí trong tương lai và cũng không phải ghi
nhận bất kỳ một khoản dự phòng nào.
- Một sự kiện không nhất thiết phát sinh nghóa vụ nợ
ngay lập tức mà có thể sẽ phát sinh sau này do những
thay đổi về pháp luật hoặc do hoạt động của doanh
nghiệp dẫn đến nghóa vụ nợ liên đới. Ví dụ: Khi xảy ra
thiệt hại về môi trường có thể sẽ không phát sinh ra
nghóa vụ nợ để giải quyết các hậu quả gây ra. Tuy
nhiên, nguyên nhân gây ra thiệt hại sẽ trở thành một
sự kiện hiện tại khi có một qui định mới yêu cầu các
thiệt hại hiện tại phải được điều chỉnh hoặc khi doanh
nghiệp công khai thừa nhận nghóa vụ của mình trong việc
xử lý các thiệt hại đó như là nghóa vụ nợ liên đới.
+ Ước tính dự phòng nợ phải trả:


×