Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TTHCM về vấn đề con người và bài học Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.5 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MƠN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tên đề tài: Đề 21: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vấn đề đặt ra
trong việc thực hiện lời dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người” trong giai đoạn hiện nay.

Họ và tên:
Mã sinh viên:
Lớp:


Hà Nội, 07/2021


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU: Lý do chọn đề tài
PHẦN NỘI DUNG
I.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trị của con người
3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”

II.

Vấn đề đặt ra trong việc thực hiện lời dạy: “Vì lợi ích mười năm thì


phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” trong giai
đoạn hiện nay.
1. Triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh - định hướng cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển giáo dục nước nhà
2. Giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - nhìn từ thực tiễn
3. Tăng cường đổi mới giáo dục đại học trong thời kỳ mới

PHẦN KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo


PHẦN MỞ ĐẦU: Lý do chọn đề tài
Mặc dù Hồ Chí Minh khơng có tác phẩm nào bàn riêng về con người, nhưng
trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề con người có một vị trí đặc biệt,
được coi trọng như mục tiêu thiêng liêng, cao cả của sự nghiệp cách mạng, nó
thấm đượm và thường trực trong tồn bộ cuộc đời hoạt động của Người, nó
được tỏa sáng trong từng việc làm, cử chỉ, hành vi ân cần, tôn trọng, quan tâm
đến từng người và mọi người.
Trong cơng cuộc đổi mới tồn bộ đất nước, tầm quan trọng của nhân tố con
người theo định hướng XHCN càng được thể hiện ở mọi lĩnh vực trên con
đường CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Tại Đại hội VI của Đảng và
các Đại hội VII, VIII, IX, X, XI đều có nghị quyết về vấn đề nói ở trên. Đến đại
hội XII Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực
và phát triển sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết, tăng cường quản lý, phát triển
xã hội, đảm bảo an ninh xã hội, an ninh con người, bảo đảm an sinh xã hội,
nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”, “Phát huy nhân tố con
người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tập trung xây dựng con người về
đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc, xây dựng mơi trường

văn hóa lành mạnh” (Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII).
Chính vì tầm quan trọng đó, em xin chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người và vấn đề đặt ra trong việc thực hiện lời dạy: “Vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” trong giai đoạn hiện
nay”.


PHẦN NỘI DUNG
I.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người

1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ “con người là một sinh vật xã hội”; “một chỉnh thể
thống nhất giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội”. Bằng lao động, con người
biến đổi tự nhiên và từng bước hình thành ý thức con người, ý thức đó dần dần
thay thế bản năng, hay bản năng đã được ý thức. Ở con người, cái sinh vật đã
được cải tạo, nhưng không hề bị xóa bỏ. Q trình “người hóa” là q trình diễn
ra sự tương tác giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội. Tuy nhiên, nhìn một cách
tổng quát thì “trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hịa
những quan hệ xã hội”.
Tuyệt đối hóa mặt này, mặt kia đều bị bác bỏ. Mác phê phán những quan điểm
tuyệt đối hóa bản chất con người sinh vật dẫn tới chủ nghĩa tự do, lối sống thực
dụng, nhấn mạnh mặt bản năng, phủ nhận vai trò quyết định của yếu tố xã hội,
tách con người khỏi những quy luật xã hội, xa rời những vấn đề về tư tưởng,
đạo đức, lối sống, kỷ cương, phép nước. Ông cũng khơng chấp nhận tuyệt đối
hóa con người xã hội, khơng thấy tính đa dạng, chiều sâu tâm hồn con người,
làm mất tính người.
Hồ Chí Minh cho rằng con người là một chinh thể, thống nhất về trí lực, tâm

lực, thể lực, đa dạng bởi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội (quan hệ gia đình,
dịng tộc, làng xã, quan hệ giai cấp, dân tộc...) và các mối quan hệ xã hội (quan
hệ chính trị, văn hóa, đạo đức, tơn giáo...). Trong mỗi con người đều có tính tốt
và tính xấu. Người giải thích “chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ
hàng, bè bạn; nghĩa rộng là đồng bào cả nước; rộng hơn nữa là cả lồi người”.
Con người có tính xã hội, là con người xã hội, thành viên của một cộng đồng xã
hội.
Cũng như Mác, Hồ Chí Minh cho ta những hiểu biết về yếu tố sinh vật của con
người như cần phải ăn, uống. Theo Người, mọi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng phài thề hiện được sự quan tâm cái ăn, mặc, ở, học hành cho
nhân dân.
Trong thực tiễn, con người có nhiều chiều quan hệ: quan hệ với cộng đồng xã
hội (là một thành viên); quan hệ với một chế độ xã hội (làm chủ hay bị áp bức);
quan hệ với tự nhiên (một bộ phận không tách rời).


Xa lạ với con người trừu tượng, phi nguồn gốc lịch sử, Hồ Chí Minh nhìn nhận
con người lịch sử - cụ thể về giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, vị trí,
dâng viên, cơng dân..., trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Nét đặc sắc trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người là nhìn nhận đặc
điểm con người Việt Nam với những điều kiện lịch sử, những cấu trúc kinh tế,
xã hội
cụ thẻ. Cách tiép cận này đi đến việc giài quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp
rất sáng tạo, không chỉ về mặt đường lối cách mạng mà cả về mặt con người.
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trị của con người
Con người là mục tiêu của cách mạng. Nó được cụ thể hóa trong ba giai đoạn
cách mạng: giải phóng dân tộc - xây dựng chế độ dân chủ nhân dân - tiến lên xã
hội chủ nghĩa, để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
Giải phóng dân tộc là xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc

lập cho dân tộc. Con người trong giải phóng dân tộc là cả cộng đồng dân tộc
Việt Nam. Phạm vi thế giới là giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Giải phóng xã hội là đưa xã hội phát triển thành một xã hội khơng có chế độ
người bóc lột người, một xã hội có nền sản xuất phát triển cao và bền vững, văn
hóa tiên tiến, mọi người là chủ và làm chủ xã hội, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, một xã hội văn minh, tiến bộ. Xã hội đó phát triển cao nhất là xã hội
cộng sản, giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Giải phóng giai cấp là xóa bỏ sự áp bức, bóc lột của giai cấp này đối với giai
cấp khác; xóa bỏ sự bất cơng, bất bình đẳng xã hội; xóa bỏ nền tảng kinh tế-xâ
hội đẻ ra sự bóc lột giai cấp; dằn dần thủ tiêu sự khác biệt giai cấp, các điều
kiện dẫn dến sự phân chia xã hội thành giai cấp và xác lập một xã hội khơng có
giai cấp. Con người trong giải phóng xã hội là các giai cấp cần lao, trước hết là
giai cấp công nhân và giai cấp nơng dân. Phạm vi thế giới là giải phóng giai cấp
vơ sản và nhân dân lao động các nước.
Giải phóng con người là xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nơ dịch con người;
xóa bỏ các điều kiện xã hội làm tha hóa con người, làm cho mọi người được
hưởng tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát huy sáng tạo, làm chủ xã hội, làm
chủ tự nhiên và làm chủ bản thân, phát triển toàn diện theo đúng bản chất tốt


đẹp của con người. Con người trong giải phóng con người là cá nhân mỗi con
người. Phạm vi thế giới là giải phóng lồi người.
Các giải phóng kết hợp chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc đã có một phần
giải phóng xã hội và giải phóng con người; đồng thời nối tiếp nhau, giải phóng
dân tộc mở đường cho giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người.
Con người là động lực của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, con người là vốn
quý nhất, là động lực, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng.
Người nhấn mạnh '’mọi việc đều do người làm ra”; “trong bầu trời khơng gì
q bằng nhân dân, trong thế giới khơng gì mạnh bằng sức mạnh đồn kết của

nhân dân”. “Ý dân là ý trời”. “Dễ mười lần khơng dân cũng chịu, khó trăm lần
dân liệu cũng xong”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là
những người sáng tạo chân chính ra lịch sử thơng qua các hoạt động thực tiễn
cơ bản nhất như lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, sáng tạo ra các
giá trị văn hóa. Nói đến nhân dân là nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lịng
tốt, niềm tin, đó chính là gốc, động lực cách mạng.
3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người
Hồ Chí Minh khẳng định: “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách,
vừa lâu dài của cách mạng. Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự
phát triển, vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với
nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp…
Trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, “trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa”. Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây
dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội
chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Đây là một q trình lâu dài, phải khơng
ngừng hồn thiện, nâng cao; là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình và
của chính bản thân mỗi người.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa gồm hai mặt
gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người
truyền thống (Việt Nam và phương Đơng). Hai là, hình thành những phẩm chất
mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đao đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ
và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên…); có tác phong
xã hội chủ nghĩa; có lịng nhân ái, vị tha, độ lượng. Chiến lược “trồng người” là
một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.


Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục
và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính
thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh
hưởng xấu đến thanh niên. Nội dung và phương pháp giáo dục phải tồn diện,

cả đức, trí, thể, mỹ; phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống
xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. “Trồng người” là công việc “trăm năm”, khơng
thể nóng vội “một sớm một chiều”, “việc học khơng bao giờ cùng, cịn sống cịn
phải học”.
II.

Vấn đề đặt ra trong việc thực hiện lời dạy: “Vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” trong giai
đoạn hiện nay.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trị to lớn của giáo dục:
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”, suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm đến công tác giáo dục và đào tạo, xem đây là quốc sách hàng
đầu, động lực then chốt để phát triển đất nước. Trong đó, giáo dục đại học có
nhiệm vụ quan trọng để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân
tài, góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển nhanh, bền vững.
1. Triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh - định hướng cho sự nghiệp
xây dựng và phát triển giáo dục nước nhà
Về vai trị và vị trí của giáo dục: Giáo dục đóng vai trị quan trọng trong việc
cải tạo, phát triển, hoàn thiện cả về tư tưởng, tâm lý và nâng cao trình độ tri
thức cho mỗi con người. Khi bàn về giáo dục, một trong những tư tưởng nổi bật
và xuyên suốt, đồng thời cũng là mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “ai
cũng được học hành”. Theo Người, con đường ngắn nhất thốt khỏi tình trạng
kém phát triển chỉ có thể thơng qua giáo dục: “Non sơng Việt Nam có trở nên
tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở
cơng học tập của các em”. Sự nghiệp giáo dục phải phục vụ nhân dân, vì sự tiến
bộ và phát triển của nhân dân, do nhân dân thực hiện. Người nhấn mạnh, thông
qua giáo dục, “tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”.

Về mục tiêu của giáo dục: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu trọng tâm và
xuyên suốt của nền giáo dục là vì con người, cho con người và hướng tới việc


xây dựng con người mới - con người xã hội chủ nghĩa. Người đã chỉ ra mục
đích và sứ mệnh của nền giáo dục là “đào tạo các em nên những cơng dân hữu
ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng
lực sẵn có của các em”; “phải đào tạo ra những cơng dân tốt và cán bộ tốt cho
nước nhà”. Nền giáo dục phải thực hiện dạy và học theo hướng: “Học để làm
việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân,
Tổ quốc và nhân loại”. Đó là mục đích, lý tưởng sáng ngời và là triết lý giáo
dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Về nội dung của giáo dục: Chủ tịch Hồ Chí Minh ln chú trọng đến giáo dục
tồn diện cả về đức, trí, thể, mỹ và đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của con
người. Người thường xuyên nhắc nhở: “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với
thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”,
lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đơi với hành chỉ có thế mới trang bị,
cung cấp kiến thức, phát triển năng lực tư duy, mở mang trí tuệ cho người học
đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước.
Về phương châm, phương pháp dạy và học: Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đưa ra những quan niệm mới, hiện đại về cách dạy và học. Người chỉ rõ:
“Trong một trường học, các thầy nên thi nhau tìm cách dạy sao cho dễ hiểu, dễ
nhớ, nhanh chóng và thiết thực… Phải dùng những lời lẽ giản đơn, những thí dụ
thiết thực mà giải thích”, khơng ngừng đổi mới nội dung, phương pháp giảng
dạy, tìm kiếm, sáng tạo những cách dạy hay, hiệu quả, phải gắn lý thuyết với
thực hành, quan tâm nhiều hơn tới việc dạy tri thức làm người. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: “Phương pháp giáo dục thì theo nguyên tắc tự nguyện tự
giác, giải thích, bàn bạc, thuyết phục, chứ khơng gị bó”. Phải lấy người học
làm trung tâm, phải tùy vào hoàn cảnh, tùy vào từng đối tượng mà có phương
pháp giáo dục khác nhau. Người căn dặn khi dạy phải gắn chặt lý luận với thực

tiễn, “phải thực hiện tốt phương châm giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,
tránh lối dạy nhồi sọ. Chương trình dạy học hiện nay cịn có chỗ q nhiều, q
nặng”.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh u cầu, người học “khơng nên học gạo,
học vẹt”, cần có phương pháp học tập phù hợp, phải biết tự giác học tập, “phải
nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào
sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách” và “điều gì
chưa thơng suốt, thì hỏi, bàn cho thơng suốt”. Nghĩa là, Người địi hỏi phải
chống kinh viện, giáo điều, phải rèn luyện tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
quá trình học tập.


Như vậy, triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là sự tiếp nối mạch
nguồn triết lý giáo dục Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, góp phần tạo nên
triết lý giáo dục riêng của dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta không ngừng
nghiên cứu, vận dụng sáng tạo triết lý giáo dục Hồ Chí Minh vào việc đổi mới
căn bản, tồn diện, phát triển giáo dục và đào tạo, đặc biệt là trong việc xây
dựng và phát triển giáo dục đại học, để giáo dục thực sự trở thành nền tảng và
động lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
2. Giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - nhìn từ thực tiễn
Triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nền giáo dục Việt Nam vận
dụng vào thực tiễn đạt được những kết quả to lớn. Triết lý ấy được thể hiện nhất
quán trong đường lối, chủ trương phát triển giáo dục của Đảng ta. Nghị quyết
số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI “Về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế” đã nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu
tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội”. Đến Đại hội XII, Đảng ta nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ

và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát
triển phẩm chất, năng lực của người học”. Kế thừa tinh thần các kỳ đại hội
trước, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng
với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát
triển đất nước. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình,
phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập
quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát
triển kinh tế - xã hội, khoa học và cơng nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng
cơng nghiệp lần thứ tư”.
Những năm qua, giáo dục và đào tạo nước ta đã có những chuyển biến tích cực,
chất lượng từng bước được nâng lên. Trong đó, vai trị và vị trí các cơ sở giáo
dục, nhất là giáo dục đại học dần được khẳng định, tính tự chủ, tự chịu trách
nhiệm được đề cao; chất lượng đào tạo từng bước được cải thiện, chú trọng phát
triển các phẩm chất, năng lực cho sinh viên. Cơng tác giáo dục chính trị tư
tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho sinh viên được đẩy mạnh... Một số
trường đại học đã triển khai đào tạo hiệu quả nguồn nhân lực theo các chương
trình tiên tiến được chuyển giao từ các nước phát triển như các ngành tự động
hóa, cơng nghệ thơng tin, khoa học máy tính, cơng nghệ phần mềm, an toàn


thơng tin, trí tuệ nhân tạo, quản lý hệ thống thông tin, công nghệ nano, vật liệu
mới và kết cấu tiên tiến.... Ngồi ra, nhà trường cịn đẩy mạnh việc triển khai
thực hiện hỗ trợ khởi nghiệp đối với sinh viên. Điều đó cho thấy, giáo dục đại
học của Việt Nam đang đi đúng hướng, bắt nhịp được với xu thế của thời đại.
Chất lượng giáo dục đại học từng bước được thế giới công nhận thông qua kiểm
định và xếp hạng đại học quốc tế. Hiện nay, Việt Nam có 11 cơ sở giáo dục đại
học được xếp hạng trong số 634 cơ sở giáo dục đại học được tổ chức giáo dục
QS (Quacquarelli Symonds) đánh giá là tốt nhất trong toàn châu Á; nhiều
ngành, lĩnh vực đào tạo được đứng trong tốp 500 thế giới. Trong đó, Đại học
Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2020

được vào nhóm 101-150 trường đại học trẻ thành lập dưới 50 năm có chất
lượng giáo dục hàng đầu thế giới, theo xếp hạng của Tổ chức QS. Riêng Trường
Đại học Bách khoa Hà Nội lần đầu và là đại diện duy nhất của Việt Nam xuất
hiện trong nhóm 200 của bảng xếp hạng các trường đại học trong “độ tuổi
vàng” (The Best ‘Golden Age’ Universities)... Cũng trong năm 2020, lần đầu
Tạp chí Vật liệu và linh kiện tiên tiến (JSAMD) của Đại học Quốc gia Hà Nội
được xếp vào nhóm những tạp chí khoa học uy tín thế giới, về lĩnh vực vật liệu
composite và vật liệu từ, điện tử, quang. Đó là kết quả từ sự nỗ lực vươn lên của
giáo dục đại học Việt Nam.
Nền giáo dục đại học Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng
vẫn tồn tại khơng ít hạn chế:
Thứ nhất, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới giáo dục đại học còn thiếu hệ thống. Nội
dung chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy ở nhiều cơ sở giáo dục
đại học chưa được hiện đại hóa, cịn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành. Đào
tạo vẫn thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu
của thị trường lao động. Chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và
kỹ năng người học. Giáo dục kỹ năng mềm, đạo đức, lối sống cho sinh viên
chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ hai, công tác quản lý giáo dục đại học chậm đổi mới. Một số trường đại
học chưa công khai các chỉ tiêu hoạt động của trường, đặc biệt những chỉ tiêu
liên quan đến việc đánh giá xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học trong khu vực
cũng như thế giới. Hiện nay, các trường mới chỉ tập trung vào công tác tuyên
truyền, tuyển sinh đầu vào, giới thiệu chuyên ngành đào tạo, khoa đào tạo, sứ
mệnh, tầm nhìn của trường. Nhưng vẫn có những trường chưa tập trung nhiều
vào cơng tác nghiên cứu khoa học, chưa có nhiều bài báo khoa học trên các tạp


chí uy tín của thế giới; tỷ lệ bài có trích dẫn trên các tạp chí thế giới khơng
nhiều; chưa thống kê theo dõi tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm…, trong khi
đây lại là những tiêu chí đánh giá quan trọng, thường xuyên được các trường

đại học trong khu vực cũng như trên thế giới quan tâm.
Thứ ba, hệ thống cơ chế, chính sách thực hiện tự chủ đại học chưa đồng bộ, một
số văn bản khung về cơ chế tự chủ đang sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp
với các quy định mới của pháp luật, nên gây một số khó khăn nhất định trong
việc thực hiện tự chủ đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo. Bên cạnh đó, nhận
thức của một số cơ sở giáo dục đại học về tự chủ và năng lực quản lý, điều hành
của một số cán bộ quản lý, cịn hạn chế; tiềm lực tài chính chưa đủ mạnh.
3. Tăng cường đổi mới giáo dục đại học trong thời kỳ mới
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của nước ta, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đặc
biệt trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ.
Trước những yêu cầu mới của thời đại, trên cơ sở vận dụng triết lý giáo dục của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, để nâng cao chất lượng, giáo dục đại học nước ta cần có
sự chuyển biến, đổi mới sáng tạo, tập trung thực hiện một số giải pháp:
Một là, các trường cần xác định rõ phương thức của giáo dục đại học trong tình
hình mới. Phát triển giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược phát triển
nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực. Điều này địi hỏi
các trường phải đi trước đón đầu, mở những ngành học mới theo nhu cầu xã hội
và xu thế phát triển kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, như chương trình
tiên tiến, chất lượng cao, liên kết quốc tế. Gắn trách nhiệm xã hội của giáo dục
đại học với sứ mệnh “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực chất lượng cao và bồi
dưỡng nhân tài”, phục vụ sự phát triển đất nước trước yêu cầu mới.
Hai là, đổi mới nội dung, chương trình giáo dục đại học theo xu hướng hội nhập
quốc tế. Với mục đích “đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng
lực người học”, yêu cầu đặt ra đối với các trường đại học ngoài việc “gắn kết
chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu
khoa học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc”, các

trường đại học cần phải trang bị được cho người học kỹ năng thu thập, xử lý và
kiểm sốt thơng tin, trải nghiệm học tập đồng hành với thực tiễn, thực tập và


các cơng nghệ mới. Chương trình đào tạo phải chuyển đổi phù hợp với xu thế
liên ngành, xuyên ngành, nhất là những ngành khoa học tự nhiên, công nghệ kỹ thuật, kinh tế... Thực hiện sự đổi mới trên chính là làm theo triết lý giáo dục
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Sinh viên đại học đã đến tuổi trưởng thành, thì cần
kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học kỹ
thuật tiên tiến của thế giới kết hợp với thực tiễn nước ta để thiết thực giúp cho
công cuộc xây dựng nước nhà”.
Ba là, các trường đại học tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong
việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính. Đây là điều kiện
cho các trường đại học đổi mới, nâng cao năng lực quản trị nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo. Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý về tự chủ, đồng thời kiện
toàn hội đồng trường theo đúng quy định của pháp luật; xây dựng và hoàn thiện
hệ thống quy chế nội bộ, tăng cường phân cấp, phân quyền và công khai, minh
bạch để thực hiện hiệu quả mơ hình quản trị theo cơ chế tự chủ trong các trường
đại học.
Bốn là, nhà trường nhanh chóng đổi mới tư duy quản lý giáo dục. Các đơn vị
trong các trường đại học cần đặt ra những tiêu chuẩn, tiêu chí chặt chẽ để đánh
giá việc thực hiện nhiệm vụ, thực hiện sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên các
lĩnh vực như tài chính, cơ sở vật chất, thực hiện nguyên tắc và chế độ trong
quản lý, trong công việc, trong đào tạo… Xây dựng đội ngũ viên chức quản lý
và giảng viên có phẩm chất đạo đức, đủ về số lượng, có trình độ chun mơn
cao, phong cách giảng dạy tiên tiến và hiện đại; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ giảng viên về chuyên mơn và nghiệp vụ sư phạm, có cơ chế khuyến
khích giảng viên nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy. Chủ động đổi mới
nội dung chương trình và phương pháp dạy học theo hướng mở, nội dung giảng
dạy gắn với yêu cầu thực tiễn.



PHẦN KẾT LUẬN
“Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một
chiều”, khơng thể làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay
đến đó. Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong
suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã
Hội.Vì vậy khơng được coi nhẹ, sao nhãng sự nghiệp giáo dục. Cả cuộc đời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hình mẫu con người nhân văn của thời đại mới.
Trong con người Hồ Chủ tịch là sự thống nhất giữa lòng yêu thương con người
với lòng tin, sự tơn trọng và ý chí cùng hành động triệt để giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán
với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy được thể hiện qua
đường lối lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương chính sách của Đảng trong
suốt q trình Đảng lãnh đạo cơng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, tư
tưởng đó tiếp tục được Đảng ta quán triệt vận dụng và phát triển. Con người
Việt Nam đang là trung tâm trong "chiến lược phát triển toàn diện"; đang là
động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới với mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
Tài liệu tham khảo
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr.
528
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 156, 35, 315, 34
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 11, tr. 528
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 6, tr. 208
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 14, tr. 402

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 5, tr. 120
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 10, tr. 378


Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 14, tr. 746, 402
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.11, tr. 98
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr. 226
Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013, của Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI, “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2016, tr. 115, 115
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 136, 138
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 4, tr. 615




×