Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật Hợp tác xã 2012 so với Luật Hợp tác xã năm 2003 (tối thiểu là năm điểm mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.3 KB, 18 trang )

Trường Đại học Luật Hà Nội

Mục Lục

Mục Lục................................................................................................................0
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................1
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ.........................................................................................1
1. Khái niệm hợp tác xã.......................................................................................................................1
2. Đặc điểm của hợp tác xã.................................................................................................................2
3. Nguyên tắc tổ chức hoạt động của hợp tác xã................................................................................3
II. MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT HỢP TÁC XÃ NĂM 2012 SO VỚI LUẬT HỢP TÁC XÃ
NĂM 2003...............................................................................................................................................4
1. Về bản chất tổ chức của hợp tác xã................................................................................................5
2.Tên gọi, điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã.........................................................................6
3. Về điều lệ của hợp tác xã.................................................................................................................7
4.. Chấm dứt tư cách thành viên.........................................................................................................8
5. Hoàn thiện về quyền và nghĩa vụ của hợp tác xã, thành viên hợp tác xã.....................................9
6. Về tổ chức quản lý hợp tác xã.......................................................................................................10
7. Quy định lại mức góp vốn tối đa của thành viên khi tham gia hợp tác xã..................................14

KẾT LUẬN.........................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................16

Trần Văn Sử-391705

0


Trường Đại học Luật Hà Nội


MỞ ĐẦU
Hiện nay, để thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, việc phát triển kinh tế tập thể nói chung và kinh
tế hợp tác xã đã trở thành đòi hỏi bức xúc và là quá trình phát triển tất yếu khách
quan. Trong những năm qua, trước sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của công cuộc
đổi mới đến nền kinh tế hợp tác và phong trào hợp tác hóa, một mặt cho thấy tuyệt
đại đa số các hợp tác xã kiểu cũ đã bộc lộ tính khơng phù phù với u cầu mới.
Xuất phát từ yêu cầu đó, trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật Hợp tác xã năm
2003, Luật Hợp tác xã năm 2012 đã góp phần hồn thiện khung pháp lý về hợp tác
xã, phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành, đặc biệt là hệ thốngpháp luật kinh tế,
cũng như phù hợp với pháp luật về hợp tác xã.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề trên em xin chọn đề tài “Phân tích và đánh giá
một số điểm mới của Luật Hợp tác xã 2012 so với Luật Hợp tác xã năm 2003 (tối
thiểu là năm điểm mới)” làm bài tập lớn học kỳ cho mình.
Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ
1. Khái niệm hợp tác xã
Hợp tác xã là loại hình kinh tế tập thể, do những người lao động và các tổ
chức có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của
pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp đỡ nhau
thực hiện hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, và cải thiện đời
sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Theo Điều 1 Luật Hợp tác xã 2003: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do
các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi
ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát
huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực
hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật
Trần Văn Sử-391705


1


Trường Đại học Luật Hà Nội
chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Hợp tác xã hoạt
động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy của các
nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.
Theo định nghĩa tại Khoản 1 Điều 3 Luật Hợp tác xã năm 2012 thì: “Hợp tác
xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07
thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên
cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”.
2. Đặc điểm của hợp tác xã
Thứ nhất, về góc độ kinh tế, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế cơ bản và quan
trọng nhất của thành phần kinh tế tập thể, dựa trên sở hữu của các xã viên và sở hữu
tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp nhỏ và vừa, thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực
và địa bàn từ đó mới phát sinh các quan hệ tổ chức quản lí và quan hệ phân phối
tương ứng. Trong hợp tác xã có sự phối hợp, hỗ trọ giúp đỡ lẫn nhau để kêt hợp sức
mạnh của tập thể giải quyết tốt hơn những vấn đề sản xuất kinh doanh cũng như đời
sống kinh tế và mục tiêu xa hơn nữa là nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của
mỗi xã viên.
Thứ hai, về góc độ xã hội, hợp tác xã mang tính xã hội sâu sắc. Tính xã hội
của hợp tác xã thể hiệ ở việc hợp tác xã không chỉ quan tâm đến mục tiêu kinh tế
mà cịn chú trọng đến lợi ích, điều kiện sống của các thành viên. Điều đó thể hiện
trong tồn bộ nguyên tắc tổ chức, hoạt động của mình. Với việc tạo điều kiện cho
những người lao động, những người sản xuất nhỏ khơng những có thể trụ vững
trong thị tường cạnh tranh mà còn đẩy mạnh sự phát triển, xóa bớt một số gánh

nặng về thất nghiệp, chất lượng cuộc sống,... cho xã hội. Hợp tác xã là một tổ chức
kinh tế, do những người lao động thành lập ra để cùng nhau thực hiện hoạt động sản
xuất kinh doanh. Trong hợp tác xã, những người lao động cùng nhau thực hiện hoạt
động sản xuất kinh doanh để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng người, làm
cho hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

Trần Văn Sử-391705

2


Trường Đại học Luật Hà Nội
Thứ ba, về góc độ pháp lí, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp
nhân. Về tổ chức, hợp tác xã bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người nhiều
vốn và người ít vốn (thực hiện nguyên tắc đối nhân), cùng góp vốn và góp sức trên
cơ sở tơn trọng ngun tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lí dân chủ.
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế được thành lập theo thủ tục pháp lí nhất định, có đăng
kí kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có
tài sản tách biệt so với tài sản của các xã viên, có thẩm quyền nhân danh mình tham
gia các quan hệ pháp luật.
Thứ tư, về tổ chức quản lí, hợp tác xã hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự
chịu trách nhiệm. Hợp tác xã hoạt động lấy lợi ích kinh tế là chính, bao gồm lợi ích
của các thành viên hợp tác xã và lợi ích của tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã
hội của các thành viên. Hợp tác xã luôn tôn trọng quyền độc lập, tự chủ kinh tế của
thành viên hợp tác xã. Sự hình thành và phát triển của hợp tác xã khơng phá vỡ tính
độc lập, tự chủ về kinh tế của các thành viên hợp tác xã. Khi thành viên hợp tác xã
là một hộ gia đình hay thậm chí là một tổ chức, pháp nhân thì khi trở thành thành
viên của hợp tác xã sẽ phải thực hiện những quy định trong điều lệ hợp tác xã và
hợp tác xã khơng có bất kì sự can thiệp nào ngồi những quy định trong điều lệ của
mình.

Thứ năm, về phân phối, kinh tế hợp tác xã thực hiện phân phối theo lao động,
theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ. Hợp tác xã được coi là tổ chức kinh tế
hoạt động như doanh nghiệp. Hợp tác xã được quyết định khơng phải bởi số vốn
góp mà là yếu tố thành viên của hợp tác xã. Việc phân phối trong hợp tác xã không
chỉ dựa theo nguyên tắc vốn góp mà cịn theo lao động và tùy thuộc mức độ sử
dụng dịch vụ của hợp tác xã.
3. Nguyên tắc tổ chức hoạt động của hợp tác xã
Theo Luật Hợp tác xã 2003 thì nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã là:
Tự nguyện: Mọi cá nhân, gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của
Luật hợp tác xã, tán thành Điều lệ hợp tác xã đều có quyền gia nhập hợp tác xã và
cũng theo đó cá nhân hộ xã viên có quyền ra khỏi hợp tác xã theo quy định của Điều
lệ hợp tác xã.

Trần Văn Sử-391705

3


Trường Đại học Luật Hà Nội
Dân chủ, bình đẳng và cơng khai: Xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra
giám sát hợp tác xã và có quyền ngang nhau trong biểu quyết, thực hiện công khai
phương hướng sản xuất kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy
định trong Điều lệ hợp tác xã.
Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: Hợp tác xã tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, tự quyết về phân phối thu nhập.
Mục đích thành lập hớp tác xã nơng nghiệp chủ yếu là phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp của hộ nơng dân. Vì vậy, sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang
trải các khoản lỗ của hợp tác xã, lãi được trích một phần vào các quỹ của hợp tác xã,
một phần chia theo vốn góp và cơng sức đóng góp của xã viên, phần cịn lại chia cho
xã viên theo mức sử dụng dịch vụ của hợp tác xã.

Hợp tác và phát triển cộng đồng: Xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây
dựng tập thể và hợp tác với nhau trong hợp tác xã, trong cộng đồng xã hội; hợp tác
giữa các hợp tác xã trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Có tư cách pháp nhân, và bình đẳng trước pháp luật: Đây là một trong những
nguyên tắc nhằm đẳm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của mình, có tư cách pháp nhân đó
là điều kiện cần để tiến tới việc thành lập và đảm bảo quyề lợi của hợp tác xã như
một doanh nghiệp, bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh.

II. MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT HỢP TÁC XÃ NĂM 2012 SO VỚI
LUẬT HỢP TÁC XÃ NĂM 2003
Luật Hợp tác xã năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2004) cùng với các văn bản hướng dẫn (Nghị
định 177/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004, Nghị định 77/2005/NĐ-CP
ngày 09 tháng 6 năm 2005, Nghị định 87/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005,
Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 và các văn bản khác có liên
quan) đã thể chế hóa một bước quan điểm mới của Nghị quyết số 13/NQ-TW Hội
nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương (Khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.

Trần Văn Sử-391705

4


Trường Đại học Luật Hà Nội
Sau 9 năm thực hiện, nhìn chung Luật hợp tác xã 2003 đã giúp đạt được một
số kết quả, tạo thuận lợi hơn cho các tổ chức kinh tế tập thể phát triển so với khung
pháp luật thời kỳ trước đây, có đóng góp đáng kể trong việc phát triển kinh tế tập
thể, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, góp phần vào việc hoàn thiện quan hệ sản xuất,

và vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, Luật Hợp tác
xã 2003 cịn có một số bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm thúc đẩy phát triển
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã một cách vững chắc hơn.
Xuất phát từ mục tiêu khắc phục một số bất cập từ Luật Hợp tác xã 2003,
nhằm khuyến khích và phát triển mạnh mẽ mơ hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
kiểu mới, đồng thời định hướng phát triển các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hiện
có hoạt động theo đúng bản chất hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; đưa khu vực hợp
tác xã, liên hiệp hợp tác xã nói riêng và thành phần kinh tế tập thể nói chung trở
thành lực lượng to lớn, phát triển rộng khắp và có vị trí quan trọng trong nền kinh tế
nước ta; bảo đảm quyền và lợi ích của hàng chục triệu hộ nông dân, hàng chục triệu
người tiêu dùng, hộ kinh doanh cá thể, ngày 20 tháng 11 năm 2012 tại kỳ họp thứ 4
Khóa XIII, Quốc hội đã thơng qua Luật Hợp tác xã năm 2012 (số 23/2012/QH13).
Luật Hợp tác xã năm 2012 được xây dựng trên cơ sở tiếp tục thể chế hóa sâu
sắc chủ trương của Đảng, tham khảo kinh nghiệm quốc tế về phát triển hợp tác xã
nhằm phục vụ nhu cầu, nguyện vọng của thành viên. Bên cạnh kế thừa những quy
định cũ, Luật Hợp tác xã năm 2012 đã bổ sung nhiều điểm mới so với Luật Hợp tác
xã 2003 ở một số phương diện như sau:
1. Về bản chất tổ chức của hợp tác xã
Luật Hợp tác xã 2003 ngay phần mở đầu đã quy định, “hợp tác xã là doanh
nghiệp…”. Đây là một hạn chế cơ bản dẫn đến các cấp, các ngành, lãnh đạo các địa
phương và đặc biệt là người dân chưa có nhận thức đầy đủ về bản chất và tính ưu
việt của tổ chức hợp tác xã kiểu mới. Sau gần 10 năm thực hiện, mơ hình hợp tác xã
kiểu mới ở nhiều nơi đã bị biến tướng hoặc bị lợi dụng để trục lợi từ chính sách.
Phần lớn hợp tác xã mua bán đổi mục tiêu hoạt động, quan tâm kinh doanh để tạo lợi
nhuận trả lương cho cán bộ nhân viên là xã viên, ít chú tâm phục vụ người tiêu dùng
là xã viên cũ. Vì vậy các xã viên là các hộ dân trước đây không muốn tham gia hợp
tác xã, xã viên tự nguyện góp vốn chủ yếu là những cán bộ nhân viên làm việc tại
Trần Văn Sử-391705

5



Trường Đại học Luật Hà Nội
hợp tác xã. Do đó, trong Luật hợp tác xã năm 2012 đã xác định rõ bản chất của hợp
tác xã đó là hợp tác xã không phải là Doanh nghiệp, điểm khác nhau cơ bản nhất của
hợp tác xã với Doanh nghiệp đó là hợp tác xã là một tổ chức được ít nhất là 07 người
thành lập ra phục vụ cho chính mình là đặc điểm lơn nhất của hợp tác xã, Doanh
nghiệp được thành lập ra phục vụ cho cộng đồng, cho người khác, mục tiêu hợp tác
xã đó là “ hợp tác xã nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự
chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”; “phân
phối của hợp tác xã chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên;
theo công sức lao động, phần cịn lại chia theo vốn góp”. Khẳng định này nhằm
mục đích xóa bỏ tình trạng doanh nghiệp "đột lốt" hợp tác xã. Trên thực tiễn, hợp tác
xã và các loại hình doanh nghiệp đều là các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân.
Hai loại hình tổ chức này có đặc điểm giống nhau như được thành lập hợp pháp, có
điều lệ, có cơ cấu tổ chức, có tài sản và tự chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản.
Theo đó, hợp tác xã cũng phải được quản trị như doanh nghiệp nhằm tiến hành hoạt
động kinh doanh của mình có hiệu quả. Tuy nhiên, hợp tác xã có những đặc điểm
riêng khác với Doanh nghiệp về bản chất. Mục đích hoạt động của hợp tác xã là tối
đa hóa lợi ích cho thành viên thông qua việc đáp ứng nhu cầu chung của thành viên
về sản phẩm, dịch vụ hoặc tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho thành viên một cách
hiệu quả hơn so với việc để từng thành viên đơn lẻ thực hiện.
Hoạt động của hợp tác xã có thể đem lại lợi nhuận cho các thành viên nhưng lợi
nhuận chỉ là phương tiện để hợp tác xã thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi ích cho
thành viên và thơng qua lợi ích đó để tối đa hóa lợi nhuận cho từng thành viên.
Trong khi đó, mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp và cổ đông doanh nghiệp là lợi
nhuận. Hoạt động của Doang nghiệp thông thường không tác động đến hoạt động
kinh tế của các cổ đông mà chỉ tác động tới vốn góp nhằm mục tiêu lợi nhuận cho
mỗi cổ đơng. Vì vậy, Luật Hợp tác xã 2012 bỏ quy định “hợp tác xã hoạt động như
một loại hình doanh nghiệp”

2.Tên gọi, điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã
Theo Luật hợp tác xã năm 2003 thành viên hợp tác xã được gọi là “xã
viên”còn theo Luật hợp tác xã năm 2012 thành viên hợp tác xã được gọi là “thành

Trần Văn Sử-391705

6


Trường Đại học Luật Hà Nội
viên”, việc thay đổi tên gọi như vậy là phù hợp với mơ hình quản lý trong điều kiện
mới.
Về điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã thì theo Luật hợp tác xã năm
2003 cá nhân Việt Nam từ 18 tuổi thì có thể trở thành thành viên hợp tác xã, còn
theo Luật hợp tác xã năm 2012 thì cá nhân Việt Nam phải đủ 18 tuổi mới có thể trở
thành thành viên hợp tác xã. Việc quy định cá nhân đủ 18 tuổi mới có thể trở thành
thành viên hợp tác xã là hoàn toàn hợp lý phù hợp với quy định của pháp luật vì
theo quy định của pháp luật Dân sự thì cá nhân từ đủ 18 tuổi mới có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ vì khi đó về mặt pháp lý cá nhân đó mới khả năng nhận thức đầy
đủ về hành vi của mình cho nên có thể tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật
và tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình (mặc dù Nghị định số 177/2004/NĐ-CP
hướng dẫn Luật hợp tác xã năm 2003 cũng hướng dẫn cá nhân đủ 18 tuổi mới có
thể trở thành thành viên của hợp tác xã nhưng đây lại là văn bản dưới luật và so
sánh hai văn bản Luật hợp tác xã năm 2003 và 2012 thì đã có quy định khác nhau).
Luật hợp tác xã năm 2012 còn cho phép cá nhân là người nước ngoài cư trú hợp
pháp tại Việt Nam và đáp ứng các điều kiện chung thì cũng có thể trở thành thành
viên hợp tác xã. Quy định này tạo điều kiện cho cá nhân nước ngoài cư trú ở Việt
Nam nếu có nhu cầu góp vốn, góp sức có thể tham gia vào hợp tác xã, đồng thời
cũng tạo thêm khả năng phát triển của hợp tác xã khi có điều kiện mở rộng giao lưu
với người nước ngồi. Mặt khác, đối với hợp tác xã tạo việc làm thành viên chỉ có

thể là cá nhân.
3. Về điều lệ của hợp tác xã
Luật hợp tác xã năm 2012 có quy định thêm ba nội dung trong điều lệ của hợp
tác xã đó là:
Thứ nhất, điều lệ của hợp tác xã phải quy định về “mức độ thường xuyên sử
dụng sản phẩm, dịch vụ; giá trị tối thiểu của sản phẩm, dịch vụ mà thành viên, hợp
tác xã thành viên phải sử dụng; thời gian liên tục không sử dụng sản phẩm, dịch vụ
của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhưng không quá 03 năm; thời gian liên tục
không làm việc cho hợp tác xã đối với hợp tác xã tạo việc làm nhưng không quá 02
năm” (khoản 5 Điều 21). Việc quy định như vậy sẽ nâng cao trách nhiệm của các

Trần Văn Sử-391705

7


Trường Đại học Luật Hà Nội
thành viên trong việc sử dụng sản phẩm, dịch vụ đồng thời cũng là căn cứ để chấm
dứt tư cách thành viên theo quy định tại Điều 16.
Thứ hai, điều lệ của hợp tác xã phải quy định về “nội dung hợp đồng dịch vụ
giữa hợp tác xã với thành viên, giữa liên hiệp hợp tác xã với hợp tác xã thành viên
bao gồm nghĩa vụ cung ứng và sử dụng sản phẩm, dịch vụ; giá và phương thức
thanh toán sản phẩm, dịch vụ. Đối với hợp tác xã tạo việc làm, nội dung hợp đồng
dịch vụ giữa hợp tác xã và thành viên là nội dung hợp đồng lao động giữa hợp tác
xã và thành viên” (khoản 12 Điều 21). Việc quy định về nội dung hợp đồng dịch vụ
cũng sẽ nâng cao ý thức của các thành viên trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình
và có căn cứ để giải quyết khi có tranh chấp phát sinh.
Thứ ba, điều lệ của hợp tác xã phải quy định về “việc cung ứng, tiêu thụ sản
phẩm, dịch vụ, việc làm mà hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cam kết cung ứng, tiêu
thụ cho thành viên, hợp tác xã thành viên ra thị trường. Tỷ lệ cung ứng, tiêu thụ sản

phẩm, dịch vụ, việc làm mà hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cam kết cung ứng, tiêu
thụ cho thành viên, hợp tác xã thành viên ra thị trường cho từng lĩnh vực, loại hình
theo quy định của Chính phủ” (khoản 13 Điều 21). Theo đó Chính phủ sẽ quy định
cụ thể tỷ lệ cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm nhằm tránh tình trạng
cung ứng khơng đủ hoặc thừa không phù hợp với thực tiễn.

4.. Chấm dứt tư cách thành viên
So với Luật hợp tác xã năm 2003 thì Luật hợp tác xã năm 2012 có thêm hai
trường hợp chấm dứt tư cách thành viên, đó là trong trường hợp: “thành viên, hợp
tác xã thành viên không sử dụng sản phẩm, dịch vụ trong thời gian liên tục theo quy
định của điều lệ nhưng không quá 03 năm. Đối với hợp tác xã tạo việc làm, thành
viên không làm việc trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ nhưng không
quá 02 năm; tại thời điểm cam kết góp đủ vốn, thành viên, hợp tác xã thành viên
khơng góp vốn hoặc góp vốn thấp hơn vốn góp tối thiểu quy định trong điều lệ”
(Điều 16 Luật hợp tác xã năm 2012). Hợp tác xã được thành lập dựa trên việc góp
vốn, góp sức của các thành viên vì vậy khi tham gia vào hợp tác xã các thành viên
phải sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã để tăng thêm thu nhập cho hợp
tác xã và đây cũng chính là mục tiêu của hợp tác xã, đồng thời việc phân phối thu
Trần Văn Sử-391705

8


Trường Đại học Luật Hà Nội
nhập cũng chủ yếu dựa vào mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên đó.
Cho nên nếu một thành viên khơng sử dụng sản phẩm, dịch vụ trong thì gian dài thì
khơng làm cho hợp tác xã phát triển và cũng không được chia lợi nhuận và cũng
không làm đúng nghĩa vụ của mình cho nên sẽ bị chấm dứt tư cách thành viên.
Hoặc trong trường hợp đến thời hạn cam kết góp đủ vốn mà thành viên khơng góp
vốn hoặc góp vốn thấp hơn vốn góp tối thiểu quy định trong điều lệ sẽ bị chấm dứt

tư cách thành viên bởi vì thành viên đó khơng góp hoặc góp khơng đủ có thể sẽ gây
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã, đồng thời hợp tác xã
cũng được thành lập trên việc góp vốn của các thành viên mà lại khơng góp thì sẽ bị
chấm dứt tư cách thành viên (trừ trường hợp khơng góp vốn nhưng khơng cam kết
góp mà có thể góp sức thì vẫn là thành viên hợp tác xã), hơn nữa đây cũng là hành
vi vi phạm nghĩa vụ của thành viên. Như vậy, Luật hợp tác xã năm 2012 đã bổ sung
thêm các hai trường hợp chấm dứt tư cách thành viên trong trường hợp thành viên
khơng góp hoặc khơng góp đủ vốn hoặc không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp
tác xã, việc quy định như vậy sẽ giúp cho hợp tác xã có thêm căn cứ pháp lí để có
thể chấm dứt tư cách thành viên đối với các thành viên vi phạm. Tuy nhiên, Luật
hợp tác xã năm 2012 không đề cập đến việc chấm dứt tư cách thành viên trong
trường hợp “xã viên đã chuyển hết vốn góp và các quyền lợi, nghĩa vụ của mình
cho người khác theo quy định của Điều lệ hợp tác xã” (điểm c khoản 1 Điều 20
Luật hợp tác xã năm 2003), trong trường hợp này thì thành viên sẽ đương nhiên
chấm dứt tư cách thành viên, tuy nhiên cần quy định trong luật để có căn cứ pháp lí
khi giải quyết vụ việc cụ thể.
5. Hoàn thiện về quyền và nghĩa vụ của hợp tác xã, thành viên hợp tác xã
Luật hợp tác xã năm 2012 đã quy định rõ và đầy đủ hơn quyền của thành viên
HTX với tư cách là người chủ của hợp tác xã. Cụ thể tại Điều 14 Luật hợp tác xã
năm 2012 đã bổ sung nhiều quyền lợi của thành viên hợp tác xã so với các quy định
trong Luật hợp tác xã năm 2003. Theo đó, thành viên hợp tác xã có quyền yêu cầu
hợp tác xã cung ứng dịch vụ, sản phẩm theo nhu cầu của mình. Điều này là hồn
tồn phù hợp bởi hợp tác xã được hình thành xuất phát từ nhu cầu đáp ứng các lợi
ích của các thành viên, từ nguyên tắc của hợp tác xã là hoạt động để đáp ứng nhu
cầu của thành viên, nhiệm vụ của hợp tác xã là phải chăm lo, quan tâm đến thực
Trần Văn Sử-391705

9



Trường Đại học Luật Hà Nội
trạng lao động của các thành viên của mình. Như vậy, quy định này đã giúp đảm
bảo quyền lợi hợp pháp đáng có của các thành viên hợp tác xã mà Luật hợp tác xã
năm 2003 chưa làm được.
Bên cạnh đó, Luật hợp tác xã cũng bổ sung quy định về nghĩa vụ của các
thành viên hợp tác xã là phải có nghĩa vụ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã.
Luật hợp tác xã năm 2003 khơng có quy định về nghĩa vụ đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của hợp tác xã đối với xã viên và các nghĩa vụ của các xã viên nên đã dẫn
đến tình trạng hợp tác xã tùy tiện cung cấp dịch vụ ra bên ngồi, phục vụ lợi ích của
xã viên thì ít, phục vụ cho bên ngồi thì nhiều. Đây là một khuyết điểm rất lớn của
Luật hợp tác xã năm 2003. Khắc phục những hạn chế này, Luật hợp tác xã năm
2012 đã quy định cụ thể là thành viên hợp tác xã phải sử dụng các sản phẩm, dịch
vụ của hợp tác xã cung cấp. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định hợp tác xã phải đảm
bảo việc phục vụ lợi ích của các thành viên. Chỉ khi các nhu cầu về lợi ích của các
thành viên đã được đáp ứng, hợp tác xã mới được quyền cung ứng dịch vụ ra bên
ngoài. Đây là quy định rất mới, rất phù hợp để đảm bảo việc bảo vệ quyền và lợi ích
của thành viên hợp tác xã cũng như chính việc duy trì hoạt động hợp tác xã.
6. Về tổ chức quản lý hợp tác xã
Theo Luật Hợp tác xã năm 2003 thì cơ cấu tổ chức của hợp tác xã bao gồm:
Đại hộ xã viên, ban quản trị ( cơ quan quản lý), chủ nhiệm hợp tác (người quản
ly),ban kiểm soát. Cơ cấu tổ chức hợ tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012 khơng
có gì thay đổi đáng kể mà chỉ đổi tên, bao gồm: Đại hội thành viên, hội đồng quản
trị, giám đốc (tổng giám đốc) và ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên. Tuy nhiên, theo
luật hợp tác xã năm 2003 thì cơ quan quản lý và cơ quan điều hành của hợp tác xã
có thể được tổ chức theo một trong hai mơ hình hợp tác xã thành lập một bộ máy
vừa quản lý vừa điều hành (Điều 27) hoặc hợp tác xã thành lập riêng bộ máy quản
lý và bộ máy điều hành (Điều 28), còn theo quy định của Luật hợp tác xã 2012 về
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong hợp tác xã thì có thể hiểu hợp tác xã sẽ
chỉ tổ chức theo một mơ hình đó là thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều
hành. Quy định này là hồn tồn phù hợp, bởi vì nếu thành lập một bộ máy vừa

quản lý vừa điều hành theo Luật hợp tác xã năm 2003 thì trưởng Ban quản trị đồng
thời là chủ nhiệm hợp tác xã (Điều 6 Nghị Định số 177/2004/NĐ-CP) vừa thực hiện
Trần Văn Sử-391705

10


Trường Đại học Luật Hà Nội
chức năng quản lý vừa thực hiện chức năng điều hành, nếu một người cùng một lúc
đảm nhận hai công việc như vậy sẽ làm hạn chế khả năng quản lý cũng như điều
hành. Cho nên, Luật hợp tác xã năm 2012 đã quy định hợp tác xã sẽ thành lập bộ
máy quản lý riêng bộ máy điều hành, theo đó Hội đồng quản trị sẽ là cơ quan quản
lý hợp tác xã (Điều 35). Với việc quy định như vậy sẽ giảm bớt được gánh nặng cho
một cơ quan, công việc sẽ được chia đều cho hai cơ quan khác nhau, điều này sẽ
giúp cho hoạt động quản lý, điều hành của hợp tác xã được tốt hơn.
6.1 Đại hội thành viên
So với Luật hợp tác xã năm 2003 thì Luật hợp tác xã năm 2012 có thêm một
số điểm mới về tổ chức đại hội thành viên bất thường và điều kiện để tiến hành địa
hội.
Thứ nhất, về tỷ lệ đại biểu tham dự đại hội đại biểu thành viên. Theo Điều
11 Nghị định số 177/2004/ĐN-CP thì “các hợp tác xã có từ trên 100 đến 500 xã
viên thì tỷ lệ đại biểu tham dự đại hội không thấp hơn 30% tổng số xã viên; các hợp
tác xã có từ trên 500 xã viên thì tỷ lệ đại biểu tham dự đại hội không thấp hơn 20%
tổng số xã viên”. Việc quy định số lượng đại biểu tham dự địa hội như vậy là chưa
cụ thể đối với từng hợp tác xã bởi vì nếu hợp tác xã có trên 1000 thành viên mà chỉ
có 20% số đại biểu tham gi thì q ít và khó giải quyết được vấn đề của hợp tác xã.
Do đó, Luật hợp tác xã năm 2012 đã quy định cụ thể hơn về số lượng đại biểu tham
gia đại hội xã viên “khơng được ít hơn 30% tổng số thành viên đối với hợp tác xã
có từ trên 100 đến 300 thành viên, khơng được ít hơn 20% tổng số thành viên đối
với hợp tác xã có từ trên 300 đến 1000 thành viên, khơng được ít hơn 200 đại biểu

đối với hợp tác xã có trên 1000 thành viên”. (Khoản 4 Điều 30). Việc quy định cụ
thể số lượng đại biểu tối thiếu tham gia đại hội thành viên như vậy sẽ giúp cho hợp
tác xã có thể giải quyết tốt cơng việc của từng hợp tác xã với số lượng thành viên
khác nhau.
Để Đại hội thành viên có thể tiến hành thì thay vì phải có ít nhất 2/3 tổng số
thành viên hoặc đại biểu xã viên tham dự (Luật hợp tác xã năm 2003) thì Luật hợp
tác xã năm 2012 quy định cụ thể hơn, Đại hội thành viên được tiến hành khi có ít
nhất 75% tổng số thành viên hợp tác xã hoặc đại biểu thành viên tham dự, nếu
không đủ sẽ tiến hành lần hai nhưng chỉ cần có ít nhất 50% tổng số thành viên hợp
Trần Văn Sử-391705

11


Trường Đại học Luật Hà Nội
tác xã hoặc đại biêu thành viên, nếu không đủ số lượng sẽ tiếp tục họp lần ba nhưng
làn này sẽ không phụ thuộc vào số thành viên tham dự. Việc quy đinh như vậy sẽ
tránh được trường hợp có người khơng muốn tham gia Đại hội mà làm ảnh hưởng
đến quyền lợi của các thành viên khác.
Thứ hai, về các trường hợp triệu tập Đại hội thành viên bất thường của Hội
đồng quản trị, Ban kiểm soát và theo yêu cầu của thành viên hợp tác xã. Theo Luật
hợp tác xã năm 2012 thì hội đồng quản trị không chỉ triệu tập Đại hội thành viên
trong trường hợp “giải quyết những vấn đề vượt quá thẩm quyền của Hội đồng
quản trị hoặc Ban kiểm sốt và trường hợp theo đề nghị của ít nhất một phần ba
tổng số thành viên hợp tác xã mà không được giải quyết theo quy định” mà Hội
đồng quản trị còn được triệu tập Đại hội thành viên trong trường hợp Hội đồng
quản trị không tổ chức được cuộc họp định kỳ sau hai lần triệu tập hoặc theo đề
nghị của ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên (Điều 31). Cịn Ban kiểm sốt được
triệu tập Đại hội thành viên trong trường hợp quá 03 tháng, kể từ ngày kết thúc năm
tài chính mà hội đồng quản trị khơng triệu tập đại hội thường niên, bỏ trường hợp

“khi có hành vi vi phạm pháp luật về hợp tác xã, Điều lệ, Nội quy, Quy chế của hợp
tác xã và Nghị quyết Đại hội xã viên, Ban kiểm soát đã yêu cầu mà Ban quản trị
không thực hiện hoặc thực hiện khơng có kết quả các biện pháp ngăn chặn” (Điều
12 Nghị định số 177/2004/NĐ-CP). Việc quy định như vậy sẽ tạo điều kiện tốt hơn
cho Hội động quản trị và Ban kiểm soát trong việc tiến hành Đại hội để giải quyết
kịp thời các công việc của hợp tác xã.
Theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 177/2004/NĐ-CP thì trong trường hợp
Ban kiểm sốt khơng triệu tập Đại hội xã viên bất thường khi Ban quản trị không
triệu tập Đại hội xã viên khi nhận được yêu cầu của ít nhất 1/3 số xã viên thì sau 15
ngày xã viên gửi đơn đến cơ quan đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã đề nghị can
thiệp, trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày cơ quan đăng ký kinh doanh có văn bản
yêu cầu mà hợp tác xã vẫn không tổ chức Đại hội xã viên bất thường thì cơ quan
đăng ký kinh doanh báo cáo Uỷ ban nhân dân nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh để làm thủ tục giải thể bắt buộc đối với hợp tác xã. Như vậy, theo Luật
hợp tác xã năm 2003 thì nếu Đại hội xã viên khơng được tiến hành theo yêu cầu của
ít nhất 1/3 số xã viên sẽ tiếp tục yêu cầu cơ quan quản lý đăng ký kinh doanh can
Trần Văn Sử-391705

12


Trường Đại học Luật Hà Nội
thiệp, nếu Đại hội xã viên vẫn khơng được tiến hành thì hợp tác xã sẽ bị giải thể.
Tuy nhiên, theo Luật hợp tác xã năm 2012 nếu Hội đồng quản trị hoặc Ban kiểm
soát không tổ chức Đại hội thành viên theo yêu cầu của ít nhất 1/3 thành viên hợp
tác xã thì thành viên đại diện cho ít nhất 1/3 tổng số thành viên có quyền triệu tập
đại hội (khoản 4 Điều 31). Như vậy, thay vì gửi đơn đề nghị đến cơ quan đang ký
kinh doanh thì các thành viên có thể cử người đại diện tổ chức Đại hội thành viên,
việc quy định như vậy sẽ tạo điều kiện đảm bảo quyền lợi cho thành viên và hợp tác
xã có thể giải quyết nhanh chóng thay vì phải đợi u cầu của cơ quan đăng ký kinh

doanh, mặt khác việc không tiến hành Đại hội thành viên mà dẫn đến giải thể có lẽ
chưa phù hợp vì có thể vì nếu giải thể thì có thể làm mất việc làm của các thành
viên trong khi họ lại không muốn như vậy. Cho nên trao quyền cho các thành viên
có thể tự tổ chức Đại hội thành viên trong trường hợp nhất định là hoàn toàn phù
hợp.
Thứ ba,về việc biểu quyết trong Hội đồng thành viên thì Luật hợp tác xã năm
2012 quy định thêm một trường hợp chỉ được tiến hành khi có ít nhất 75% tổng số
đại biểu tán thành, đó là việc “đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn
50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của hợp tác xã”
(khoản 1 Điều 34), đây là việc liên quan đến tài sản lớn của hợp tác xã vì vậy cần
phải số lượng lớn đại biểu tán thành chứ không thể thực hiện qua 50% số đại biểu
tán thành như Luật hợp tác xã năm 2003.
Ngoài ra, về việc chuẩn bị đại hội thì người triệu tập đại hội phải gửi giấy mời
họp phải kèm theo chương trình, tài liệu liên quan đến nội dung đại hội thành viên ít
nhất 07 ngày trước ngày đại hội thành viên khai mạc thay vì chậm nhất là mười
ngày như trước. Và nội dung chương trình đại hội có thể thay đổi khi có ít nhất một
phần ba tổng số thành viên hợp tác xã hoặc đại biểu thành viên trở lên kiến nghị
điều chỉnh về cùng một nội dung bằng văn bản.
6.2. Hội đồng quản trị
Theo Luật hợp tác xã năm 2012 thì số lượng thành viên hội đồng quản trị do
điều lệ quy định nhưng tối thiểu là 03 người, tối đa là 15 người. Hội đồng quản trị
hợp định kỳ theo quy định của điều lệ nhưng ít nhất 03 tháng một lần thay vì họp
mỗi tháng một lần như trước bởi vì nếu mỗi tháng họp một lần thì sẽ ít cơng việc để
Trần Văn Sử-391705

13


Trường Đại học Luật Hà Nội
giải quyết thậm chí là ko có việc gì, hơn nữa việc quản lí được tiến hành trong thời

gian dài để có thể nắm bắt được những thiếu sót để sửa đổi. Ngồi ra Luật hợp tác
xã năm 2012 quy định thêm về só lượng thành viên tham gia cuộc họp, cuộc họp
hội đồng quản trị được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên hội
đồng quản trị tham dự, mặt khác luật còn quy định về việc xem sét tư cách thành
viên khi khơng tham dự họp nhằm có biện pháp xử lí. Việc quy định như vậy sẽ tạo
điều kiện cho hội đồng quản trị có thể tiến hành thuận lợi để giải quyết các công
việc phát sinh đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm cho thành viên hội đồng quản
trị.
6.3. Ban kiểm soát
Theo quy định tại Điều 39 Luật hợp tác xã năm 2012 thì hợp tác xã có từ 30
thành viên trở lên phải bầu ban kiểm sốt, đối với hợp tác xã có dưới 30 thành viên
việc thành lập ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên do điều lệ quy định. Việc quy định
như vậy đã buộc hợp tác xã phải tiến hành thành lập ban kiểm soát nhằm kiểm tra,
giám sát các hoạt động của hợp tác xã tránh tình trạng một số hợp tác xã khơng
thành lập ban kiểm sốt nhằm tiết kiệm chi phí tổ chức.
7. Quy định lại mức góp vốn tối đa của thành viên khi tham gia hợp tác xã
Luật Hợp tác xã 2012 Quy định mức góp vốn tối đa của thành viên khi tham gia
hợp tác xã không quá 20% vốn điều lệ; Luật Hợp tác xã 2003 quy định vốn góp tối
đa của xã viên (thành viên) không quá 30% vốn điều lệ.
Việc quy định mức góp vốn tối đa của một thành viên ở một mức hợp lý và mức
vốn góp khơng q chênh lệch giữa các thành viên là cần thiết, nhằm đề cao ngun
tắc bình đẳng “mỗi người có 1 phiếu biểu quyết như nhau khơng phụ thuộc mức vốn
góp” trong quản lý hợp tác xã, khuyến khích nhiều thành viên góp vốn thay vì chỉ
huy động vốn góp của một số ít thành viên, tránh rủi ro cao cho hợp tác xã khi phụ
thuộc vào vốn góp của một hoặc một số ít thành viên. Vốn góp vào vốn điều lệ hợp
tác xã chủ yếu xác nhận tư cách thành viên của hợp tác xã. Thực tế, việc quy định
mức vốn góp tối đa cho thành viên nhằm ghi nhận sự khác biệt giữa hợp tác xã với
các loại hình Doanh nghiệp, đặc biệt là để đề cao và bảo đảm thực hiện sự bình đẳng
trong quản lý hợp tác xã. Trường hợp cần huy động vốn đầu tư, hợp tác xã ưu tiên
vay vốn từ các thành viên hợp tác xã, nhất là thành viên có nhiều vốn trên cơ sở thỏa

Trần Văn Sử-391705

14


Trường Đại học Luật Hà Nội
thuận hai bên. Vốn góp tối đa của thành viên không vượt quá 20% trong Luật Hợp
tác xã 2012 (thay vì 30% Luật Hợp tác xã 2003) đối với hợp tác xã và không vượt
quá 30% đối với liên hợp tác xã.

KẾT LUẬN
Hợp tác xã khơng chỉ là một mơ hình tổ chúc mà cịn là một tư tưởng, một
thực tiễn sinh động ở nước ta. Vì vậy việc nghiên cứu về hợp tác xã cũng như thực
hiện phát triển hợp tác xã tại Việt Nam là rất cần thiết. Việc tăng cường hồn thiện
khn khổ pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác xã phát triển không chỉ là yêu
cầu thiết thực mà còn là một phần nội dung của chiến lược phát triển. Chúng ta
hoàn toàn tin tưởng rằn khung pháp lý thuận lợi hợp tác sẽ phát huy tiềm năng của
mình và góp phần xứng đáng trong các mặt chính trị, văn hóa – xã hội nói chung và
nền kinh tế nói riêng của đất nước.

Trần Văn Sử-391705

15


Trường Đại học Luật Hà Nội

Trần Văn Sử-391705

16



Trường Đại học Luật Hà Nội

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại_ Tập 1, Nxb.
CAND,Hà Nội, 2006.
2. 2. Ts. Nguyễn Thị Dung, Ts. Đồn Trung Kiên, Ths. Vũ Phương Đơng, Ths.
Trần Quỳnh Anh, Nguyễn Như Chính, Hỏi & đáp Luật Thương mại, Nxb.
Chính trị - hành chính, Hà Nội, 2011.
3. Luật hợp tác xã năm 2003.
4. Luật hợp tác xã năm 2012.
5. Luật Doanh nghiệp năm 2003.
6. Nghị định 177/2004/NĐ-CP ngày 12/10/2004 quy định chi tiết một số điều
của Luật hợp tác xã năm 2003.
7. Nghị định của Chính phủ số 87/2005/NĐ-CP ngày 21/07/2005 về đăng ký
kinh doanh hợp tác xã.
8. Nghị định của Chính phủ số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 quy định chi
tiết một số điều của Luật hợp tác xã năm 2012.
9. />10. />Organization=lmhtx&MenuID=5701&ContentID=14568
11. />12. />
Trần Văn Sử-391705

17



×