Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Chính sách phát triển nông nghiệp của Campuchia. pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.47 KB, 25 trang )

Chính sách phát triển nông
nghiệp của Campuchia.
Lời mở đầu
Campuchia là một trong những quốc gia trực thuộc Đông Nam Á có nền
kinh tế đang trên đà phát triển. Trong gần 1 thập kỉ tăng trưởng, Campuchia đã đạt
được một sự tiến bộ vượt bậc trong thu nhập bình quân đầu người, tăng gấp đôi từ
288 USD năm 2000 đến 900 USD năm 2009, và trong khoảng thời gian từ 1998
đến 2007 được xem là nước xếp thứ 2 trên thế giới về tốc độ tăng trưởng.
Một trong những nhân tố đóng góp vào thành công đó của Campuchia là sự
phát triển nhanh chóng của ngành nông nghiệp, một trong những ngành đang có
nhiều đóng góp nhất vào tổng thu nhập quốc dân của Campuchia. Với diện tích đất
rộng lớn và hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, Campuchia có tiềm năng trở
thành một đầu mối xuất khẩu gạo quan trọng trên thế giới. Để đạt được những
thành tựu đặc sắc đó, chính sách phát triển nông nghiệp của Campuchia đóng vai
trò hàng đầu, tiên quyết.
Văn bản sau đi sâu vào việc phân tích thực trạng ngành nông nghiệp và các
chính sách hỗ trợ phát triển ngành nông nghiệp của Campuchia.
Sự cần thiết phải nghiên cứu
Thành công hay thất bại của những nỗ lực nhằm chuyển biến nền nông
nghiệp không những phụ thuộc vào khả năng và kĩ năng của người dân trong việc
nâng cao năng suất cây trồng và năng suất lao động mà quan trọng hơn còn phụ
thuộc vào sự hỗ trợ của chính phủ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm của nông dân.
Trong nền nông nghiệp truyền thống, người dân không muốn và cũng không
có điều kiện áp dụng kĩ thuật mới, mà đây lại là yếu tố quyết định chuyển động của
nông nghiệp. Do đó, chính phủ cần có chính sách giúp đỡ về kĩ thuật (giống mới,
biện pháp canh tác mới ) và hướng dẫn họ thực hiện những biện pháp này.
Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ, hình thức trang trại hộ gia
đình là chủ yếu. Do đó họ không có khả năng xây dựng cơ sở hạ tầng. Để giúp họ
đầu tư theo mô hình lớn như hệ thống điện, đường xá, thủy lợi , chính phủ cần có
chính sách hỗ trợ cho họ dưới nhiều hình thức đầu tư để tạo điều kiện phát triển


sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu chính sách phát triển kinh tế Campuchia giúp hiểu rõ hơn về sự
tăng trưởng kinh tế to lớn của Campuchia trong những thập niên gần đây, từ đó rút
ra được bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về việc vận dụng những thế mạnh,
khắc phục điểm yếu, sửa chữa những sai sót còn tồn đọng trong bộ máy quản lý
cũng như tránh được những sai lầm mà Campuchia đã gặp phải trong quá trình
phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng.
Đối tượng nghiên cứu
Văn bản sau tiến hành nghiên cứu về thực trạng phát triển nông nghiệp của
Campuchia trong những thập kỉ gần đây để đánh giá một cách toàn diện những
thành tựu cũng như hạn chế trong quá trình phát triển đó, sau đó đi sâu vào tìm
hiểu những chính sách, quan điểm, đường lối cũng như cách thức quản lý, vận
dụng chúng vào thực tiễn của chính phủ để hiểu sâu sắc và toàn diện hơn những
yếu tố tạo nên sự biến chuyển của nền nông nghiệp Campuchia.
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu hiện trạng phát triển của nền nông nghiệp Campuchia từ trước
đến nay, các thành tựu cũng như hạn chế, sau đó đối chiếu với chính sách phát triển
nông nghiệp của Campuchia trong giai đoạn 3 thập kỉ trước trở về đến nay, đặc
biện chú ý vào giai đoạn 5 năm gần đây.
Phương pháp nghiên cứu
Văn bản sau sử dụng phương pháp biện chứng, nghĩa là căn cứ trên một hiện
trạng có thực đã qua kiểm chứng trong một khoảng thời gian xác đinh để rút ra
những kết luận về hiệu quả và tính khả thi của một chính sách. Đồng thời có sự kết
hợp giữa phương pháp định lượng, dựa trên những số liệu có thực và định tính, dựa
trên quan điểm và hiểu biết của nhà nghiên cứu để đưa ra kết luận chính xác nhất.
Kết cấu: Kết cấu văn bản bao gồm 3 chương chính
- Chương 1: Một số đặc điểm cơ bản ảnh hường đến chính sách phát triển
ngành nông nghiệp của Campuchia.
- Chương 2: Thực trạng phát triển ngành nông nghiệp Campuchia.

- Chương 3: Định hướng phát triển nông nghiệp của Campuchia và khả năng
hợp tác với Việt Nam
Chuơng 1: Một số đặc điểm cơ bản ảnh hưởng đến chính
sách phát triển ngành nông nghiệp của Campuchia
1.1. Khái quát chung về chính sách phát triển nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Chính sách phát triển nông nghiệp là hệ thống các quan điểm, mục tiêu,
nguyên tắc, công cụ và biện pháp do Nhà nước hoạch định và thực hiện để đièu
chỉnh các hoạt động nông nghiệp của quốc gia trong một thời gian nhất định nhằm
đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó.
1.1.2. Vai trò của chính sách phát triển nông nghiệp
Việc phát triển kinh tế vùng nông thôn sẽ góp phần tích cực xóa đói, giảm nghèo,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao đời sống của nhân dân và từng
bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
1. Chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn là một hệ
thống các biện pháp, chính sách của Nhà nước nhằm khuyến khích các tổ
chức tín dụng cho vay, đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nhằm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn, xây dựng cơ sở hạ
tầng, xóa đói giảm nghèo và từng bước nâng cao đời sống nhân dân.
2. Việc thực hiện chính sách cho vay theo vùng đến tận thôn, làng thông qua
hình thức tổ vay vốn; kết hợp tuyên truyền về dịch vụ ngân hàng, dịch vụ
vay tiền, hàng năm đều tổ chức Hội nghị khách hàng để đối thoại, điều chỉnh
chiến lược kinh doanh phù hợp giúp cơ chế tín dụng được nhân dân tin
tưởng; khách hàng vay vốn đã sử dụng mục đích, quản lý và phát triển đồng
vốn tốt; các đối tượng vay vốn biết cách sử dụng nguồn vốn để phát triển mô
hình sản xuất và có nhiều khách hàng còn dư nợ đã ăn nên làm ra.
3. Chính sách tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn và nông giúp nông
nghiệp phát triển cả bề rộng và chiều sâu, giúp người dân có điều kiện về
vốn sản xuất, thoát nghèo vươn lên làm giàu chính đáng, góp phần vào công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng.

4. Hỗ trợ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn, góp phần thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nông thôn mới
trên toàn quốc.
1.2. Một số đặc điểm cơ bản ảnh hường đến chính sách phát triển
ngành nông nghiệp của Campuchia
1.2.1. Đặc điểm về địa lý, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
1. Campuchia là một quốc gia tại Đông Nam Á, nằm bên bờ vịnh Thái Lan và
nằm giữa các nước Thái Lan, Việt Nam và Lào. Do đó, đất nước này nằm
hoàn toàn trong vùng khí hậu nhiệt đới. Đồng thời, giống như phần còn lại
của châu Á, khí hậu Campuchia chịu ảnh hưởng của gió mùa, trở thành vùng
nhiệt đới ẩm và khô theo mùa một cách rõ rệt, mùa khô và mùa mưa kéo dài
trong một khoảng thời gian tương đối bằng nhau. Nhiệt độ và độ ẩm thường
ở mức cao quanh năm. Đây là một trong những điều kiện tự nhiên tương đối
thuận lợi để phát triển nông nghiệp lúa nước.
Tuy vậy, Campuchia cũng là quốc gia đứng thứ hai trên thế giới về mức độ
bị ảnh hưởng do biến đổi khí hậu trong năm 2011, đứng thứ 28 trong khoảng
thời gian từ năm 1992 đến năm 2012. Báo cáo cho biết Campuchia nằm
trong số các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong năm 2011, chỉ sau
Thái Lan.
Campuchia bị coi là một quốc gia dễ bị tổn thương từ tác động của biến đổi
khí hậu do nền kinh tế sản xuất nông nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào lượng
nước tự nhiên canh tác trên nền đất thấp và thiếu cơ sở hạ tầng cũng như
công nghệ thích hợp để đối phó với các hiệu ứng biến đổi khí hậu. Những
biểu hiện của tác hại biến đổi khí hậu như mực nước biển dâng cao và gia
tăng lũ lụt, bão lốc, mưa lớn bất thường, cường độ cao cũng như các hậu quả
tác động đến môi trường tự nhiên đều thể hiện rõ nét tại Campuchia.
2. Ngoài ra, Campuchia nằm ở trung tâm Đông Nam Á, một khu vực có nền
kinh tế phát triển nhanh và năng động với một thị trường đầy tiềm năng của
trên 550 triệu dân. Đầu tư vào Campuchia, các nhà đầu tư không chỉ được
hưởng lợi từ thị trường nội địa của Campuchia mà còn có cơ hội xâm nhập

thị trường ASEAN và được ưu đãi tiếp cận thị trường Châu Âu và các nước
phát triển khác vì Campuchia là thành viên của WTO.
3. Campuchia là quốc gia có nhiều đất nông nghiệp và lâm nghiệp, hải đảo,
vùng duyên hải dài đẹp, cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên khá phong
phú. Ở Campuchia có các mỏ đá vôi, cao lanh, thiếc, bạc, vàng, quặng sắt và
thậm chí cả đá quý ở Pailin và Bokeo. Gần đây còn phát hiện có dầu mỏ
ngoài khơi và tại khu vực TSB. Do điều kiện tự nhiên cũng như đất đai
thuận lợi, sản phẩm nông nghiệp chính của Campuchia, cũng như nhiều
quốc gia Đông Nam Á khác, là lúa nước. Việc sản xuất lúa bên cạnh việc
phục vụ cho nhu cầu trong nước còn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Campuchia. Những mặt hàng nông nghiệp rất nổi tiếng khác của
Campuchia, bên cạnh lúa nước là ngô, lạc, đậu Ngoài ra, Campuchia còn
được biết đến với cây cao su, được trồng rộng rãi và đóng vao trò quan trọng
đối với xuất khẩu, đem lại một khoản lợi nhuận lớn hàng năm. Đồng thời,
đất đai của Campuchia rất phù hợp để tiến hành trồng nhiều loại cây công
nghiệp khác.
Tuy vậy, sự màu mỡ và phong phú về đất đai lại tương phản với khả năng
khai thác của chính quyền và người dân trong nước. Trữ lượng đất được
nông dân sử dụng trong quá trình sản xuất nông nghiệp là không nhiều, chủ
yếu bao gồm khoảng 2,8 triệu hecta (ha) đất canh tác, tương đường 20%
diện tích đất được sử dụng làm đất nông nghiệp, trong đó 91% được dành để
trồng lúa, 11% và 9% là dành cho thực phẩm khác, cùng với các cây công
nghiệp (chủ yếu là cao su). Vì thế, đất nhiều nơi bỏ hoang hay canh tác
không hết năng suất.
Theo báo cáo của Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu và phát triển Nông
nghiệp Campuchia, nước này hiện có khoảng 6 triệu mẫu đất có thể canh tác
được. Trong đó, 1,8 triệu gia đình nông dân chỉ được làm chủ 1/2 phần diện
tích đất này, tính ra, trung bình mỗi hộ canh tác chưa tới 2 mẫu. Đất ít, điều
kiện canh tác khó khăn, khiến người nông dân không thể đủ ăn trên mảnh
đất của mình. Họ buộc phải bán đất để giải quyết tình trạng khó khăn trước

mắt. Và chính điều này đẩy họ vào cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, bán
đất, thiếu đất canh tác, đói nghèo. Trong khi đó, các quan chức chính quyền
cũng xẻ những mảnh đất màu mỡ của dân bán cho các công ty giàu có nước
ngoài kiếm lời, tạo ra nạn bán đất ở đất nước Chùa Tháp.
Khi có nhu cầu của nhà đầu tư bên ngoài, việc bán đất trở thành phong trào
nhất thời rộng khắp, chính quyền bán theo chính quyền, dân bán theo dân, và
có tình trạng mua đi bán lại để kiếm lợi của số thương nhân chớp thời cơ. Từ
đây cũng xảy ra kiện cáo liên tục, tranh chấp đất có khi đổ máu, chết người
giữa dân với dân, giữa dân với người có thế lực.
4. Campuchia có đường bờ biển dài 443 km, giáp vịnh Thái Lan. Sông
Mekong, con sông dài thứ hai trên thế giới, chảy dọc từ bắc đến nam đất
nước. Campuchia có một hồ lớn ở vùng đồng bằng được tạo nên bởi sự ngập
lụt. Đó là hồ Tonle Sap (TSB), có diện tích khoảng 2.590 km² trong mùa khô
tới khoảng 24.605 km² về mùa mưa. Phần lớn (khoảng 75%) diện tích đất
nước nằm ở cao độ dưới 100 mét so với mực nước biển, ngoại trừ dãy núi
Cardamon (điểm cao nhất là 1.771 m), phần kéo dài theo hướng bắc-nam về
phía đông của nó là dãy Voi (cao độ 500-1.000 m) và dốc đá thuộc dãy núi
Dangrek(cao độ trung bình 500 m) dọc theo biên giới phía bắc với Thái Lan.
Đồng thời, Campuchia có một mạng lưới sông ngòi phong phú không kém
gì Việt Nam. Do đó, đất nước này nghiễm nhiên thừa hưởng rất nhiều các
nguồn lợi thủy sản của sông Mekong và TSB, một trong những đặc điểm đã
đưa Campuchia trở thành đất nước có ngành thủy hải sản nước ngọt phát
triển vào bậc nhất trên thế giới.
5. Nguồn lực của đất nước càng ngày càng thu hẹp. Đất đai ở nhiều khu vực có
xu hướng thoái hóa vĩnh viễn không hồi phục. Hơn nữa, việc tưới tiêu gặp
trở ngại do nguồn nước hạn chế. Là một quốc gia với địa hình bằng phẳng
và có ít vùng núi hoặc lưu vực sông, Campuchia không có nhiều khu vực có
thể sử dụng để lưu trữ nước tưới. Tài nguyên nước ngầm cũng hạn chế đáng
kể. Hoạt động thủy lợi mùa khô bị giới hạn trong chỉ 7% diện tích canh tác.
Hậu quả là sản xuất lúa gạo chỉ tiến hành được vào mùa mưa hàng năm,

khiến cho các gia đình nông dân trồng lúa (kéo theo là gần như toàn bộ dân
số) không đủ khả năng tự cung tự cấp.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế, chính trị và xã hội
1. Campuchia là một nước tương đối nhỏ với dân số ít ỏi (vào khoảng 14 triệu
người), với 70% dân số làm nghề nông. Trải qua 3 thập kỉ đầy hỗn loạn về
chính trị với những cuộc nội chiến diễn ra liên miên, Campuchia được liệt
vào danh sách một trong những nước nghèo nhất trên thế giới. Sau khi đạt
được sự ổn định chính trị trong thời gian gần đây, Campuchia bắt đầu bước
vào thời kì tăng trưởng kinh tế nhanh chóng với tốc độ GDP tăng bình quân
hàng năm xấp xỉ 10,3% kể từ năm 2004 trở đi. Tuy vậy, những triển vọng to
lớn về phát triển kinh tế vẫn bị trì trệ bởi sự hạn chế về trình độ học vấn của
dân cư, thiếu sót về kĩ năng chuyên môn cũng như kinh nghiệm lao động, và
thiếu đầu tư, một phần là do rủi ro cao.
Từ trước đến giờ, phần lớn dân số Campuchia vẫn là những nông dân trồng
lúa kiếm thêm thu nhập từ việc đánh bắt cá, hay ngược lại, ngư dân bổ sung
thu nhập thông qua việc trồng lúa. Thêm vào đó, ở một vài vùng trên đất
nước (như lưu vực TSB), chăn nuôi gia súc đóng một vai trò quan trọng
trong thu nhập từng hộ dân và là tài sản chính của kinh tế hộ gia đình.
2. Nguồn lợi thủy sản ở TSB, dù rất phong phú và là nguồn cung cấp protein
chính cho toàn quốc, dường như đã đạt khả năng sản xuất tối đa. Phần lớn
dân số sống ở nông thôn do đó bị kẹt trong tình trạng tự cung tự cấp, việc cải
thiện cuộc sống cũng như nâng cao quy mô sản xuất cũng bị giới hạn. Tuy
vậy, trợ cấp từ bên ngoài kèm theo những công nghệ mới có thể giúp nâng
cao việc khai thác thủy sản nước ngọt mà vẫn bảo tồn được trữ lượng tài
nguyên cần thiết.
3. Việc khó tiếp cận thị trường là hậu quả của cơ sở hạ tầng nông thôn nghèo
nàn lạc hậu, nhu cầu thị trường hạn chế do dân số ở thành thị ít ỏi, tín dụng
nông thôn không được phổ cập rộng rãi (cho đến khi Luật Đất đai 2001 được
thông qua gần đây), khả năng tổ chức quản lý và việc thực thi quyền lợi yếu
kém. Trong hoàn cảnh đó là không có gì đáng ngạc nhiên khi ngành A&RD

ở Campuchia, một đất nước thuộc khu vực CLMV đã không đạt được sự
linh động và định hướng thị trường như hai ông bạn láng giềng to lớn ở phía
Đông (Việt Nam) và phía tây (Thái Lan), mà lại giống người bạn phía Bắc
Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào hơn.
4. Hai mặt hàng xuất khẩu nổi tiếng của Campuchia là lúa nước và cao su, một
trong số những mặt hàng được ưa chuộng nhất trên thế giới đã mở ra tiềm
năng xuất khẩu của Campuchia trong tương lai. Bên cạnh sản phẩm lúa và
cao su, những mặt hàng khác đang được Campuchia tích cực xúc tiến đẩy
mạnh, bao gồm việc nghiên cứu để trồng thêm nhiều loại cây công nghiệp và
nông nghiệp khác, cũng như tăng cường khai thác thủy sản trong các vùng
lãnh hải thuộc quyền quản lý của quốc gia. Tuy vậy, như đã nói ở trên,
những khó khăn về cơ sở vật chất, hạ tầng, kèm theo đó là những hạn chế
sẵn có về tự nhiên, tâm lí nông dân đã khiến cho công cuộc mở rộng mặt
hàng nông nghiệp xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, có nguy cơ tụt hậu so với
các nước láng giềng.
5. Tuy đối mặt với nhiều vấn đề trong sản xuất kinh tế nói chung và nông
nghiệp nói riêng, tình hình an ninh chính trị của Campuchia lại có những
thành tựu đáng mừng. Chính trị, an ninh được cải thiện đáng kể, nền kinh tế
thị trường được thiết lập tốt. Campuchia thực hiện chính sách tự do kinh tế
và được coi là một trong những nền kinh tế cởi mở nhất ở châu Á.
1.2.3. Vấn đề khu vực và quốc tế
1. Campuchia là một thành viên của Nhóm Khu vực tiểu vùng sông Mekong và
đã tham gia vào một số hoạt động thuộc phạm vi tiểu khu vực do ADB tài
trợ, chủ yếu liên quan đến lĩnh vực giao thông và điện lực. Thứ hai, từ sau
khi có Hiệp định Hoà bình về Campuchia năm 1991, quan hệ của
Campuchia với các nước tài trợ, với giới kinh doanh đặc biệt là khu vực tư
nhân được duy trì tốt. Các nhà tài trợ luôn dành cho Campuchia những cam
kết viện trợ đáng kể. Trung bình mỗi năm Campuchia nhận được 500 triệu
USD tiền viện trợ từ các nước tài trợ (năm 2006 được 601 triệu USD). Có
thể nói, việc tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế khu vực đã đem cho

Campuchia rất nhiều lợi thế cũng như tiềm năng phát triển kinh tế nói chung
và nông nghiệp nói riêng trong tương lai.
Tuy vậy, tình trạng hiện thời của Campuchia, một đất nước nhỏ bé với 14
triệu dân, kẹp giữa hai cường quốc kinh tế mang tầm khu vực, cũng có nghĩa
là nền kinh tế của Campuchia sẽ bị hai nước kia nuốt chửng. Hai người hàng
xóm lân cận cũng tiến hành phát triển và xuất khẩu những mặt hàng nông
nghiệp tương tự, và họ làm việc đó một cách thuần thục và hiệu quả hơn
hẳn. Ngành sản phẩm nông nghiệp của Campuchia mà không được sử dụng
để phục vụ cho mục đích tiêu dùng trong nước tạo thành một phần nền kinh
tế nông nghiệp của các nước láng giềng. Tất cả các cao su được sản xuất tại
Campuchia đều được quảng bá và buôn bán sang Việt Nam (với giá thành
thấp hơn 20% so với giá chuẩn trên thị trường quốc tế), trong khi phần gạo
thằng dư của Campuchia được tiếp thị thẳng sang Thái Lan (từ các tỉnh phía
Bắc) hoặc Việt Nam (từ các tỉnh phía Nam). Điều này đã gây nên những tác
động tiêu cực rất nghiêm trọng về giá cả hàng hóa trong những tháng cao
điểm về kinh doanh vì phần lớn phần sản xuất thặng dư đã được bán cho các
đại lý Thái Lan hoặc Việt Nam tại thời điểm thu hoạch, và người tiêu dùng
sau đó sẽ phải mua lại với giá cao hơn rất nhiều so với giá thành trên thị
trường thông thường.
2. Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2004 với tư cách là một
nước kém phát triển tương đương với việc Campuchia có thể duy trì thuế
nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp ở các cấp độ cao hơn thông qua đàm
phán gia nhập, nhưng cuối cùng Campuchia đã không làm như vậy. Tuy
nhiên, xét riêng về xuất khẩu, Campuchia đã thực hiện một cam kết ràng
buộc trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp ở mức không và không áp dụng
các khoản trợ cấp này trong tương lai. Điều này có nghĩa rằng Campuchia
(vì mục tiêu hiệu quả lâu dài) đã quyết định không thực hiện quyền sử dụng
xuất khẩu nông nghiệp trợ cấp theo như Hiệp định về Nông nghiệp của Tổ
chức Thương mại Thế giới, công cụ mà các nước thành viên kém phát triển
nhất được quyền sử dụng.

3. Một hiện tượng mới diễn ra trong lĩnh vực nông nghiệp trong suốt 2 năm
qua là việc ký kết đầu tư trực tiếp nước ngoài và các hợp đồng thỏa thuận
mua bán nông sản với các tổ chức tư nhân mang tầm khu vực đến từ các
nước thuộc khu vực sông Mekong. Hai phương thức trao đổi này đã góp
phần giúp cung cấp trực tiếp đầu vào, vốn và thị trường cho ngành nông
nghiệp Campuchia, nhưng từ đó cũng làm nảy sinh các vấn đề về quyền sử
dụng đất và sự thống trị thị trường. Cho đến nay, hình thức đầu tư có vẻ là
hình thức phổ biến nhất trong bộ phận dân cư thưa thớt, cô lập ở Đông Bắc
và Tây Bắc của đất nước. Tuy nhiên, trong vấn đề rủi ro chính trị, hợp đồng
canh tác là một yếu tố rất đáng để tâm. Tình trạng pháp lý của đầu tư trực
tiếp nước ngoài có đôi lúc là không chắc chắn. Thêm vào đó, do mối quan hệ
của Campuchia với hai nước láng giềng lớn hơn đôi khi diễn ra trong tình
trạng căng thẳng, một phần những nhà đầu tư của những quốc gia này đã
tiến hành cung cấp vốn trực tiếp vào lĩnh vực đất đai và sản phẩm nông
nghiệp ở Campuchia trong trạng thái miễn cưỡng, trái ngược hẳn so với lĩnh
vực trao đổi sản phẩm nông nghiệp.
Chương 2: Thực trạng ngành Nông nghiệp Campuchia và
biện pháp khắc phục
2.1. Thực trạng nông nghiệp Campuchia
2.1.1. Đóng góp của nông nghiệp trong nền kinh tế Campuchia
Campuchia là nước có nền kinh tế đang phát triển, nằm trong khu vực kinh
tế sôi động là Châu Á - Thái Bình Dương. Nền kinh tế Campuchia bắt đầu phát
triển từ những năm 90 khi có nền kinh tế thị trưởng. Campuchia vẫn là nước nông
nghiệp (20% diện tích đất nông nghiệp, 70% dân số làm nghề nông). Kể từ năm
1991 đến nay, Campuchia luôn đạt được tốc độ phát triển kinh tế khá cao. Trung
bình từ năm 1991 đến 2008, GDP hàng năm tăng trưởng bình quân 8.14%, trong
đó khu vực nông nghiệp tăng trưởng 4.2%.
Năm 2009, chịu tác động mạnh của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế thế giới, GDP của Campuchia suy giảm 2.4%. Các ngành công nghiệp và xây
dựng, du lịch đều giảm mạnh so với năm 2008, trong khi đó, khu vực nông nghiệp

vẫn duy trì được mức tăng 4%, tương đương với những năm trước đó.
Tăng trưởng GDP của Campuchia giai đoạn 1991- 2009
Cơ cấu kinh tế Campuchia cũng đang có những bước dịch chuyển khá tích
cực. Khu vực công nghiệp và dịch vụ đang ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ
cấu nền kinh tế, trong khi khu vực nông nghiệp đang có xu hướng giảm dần.
Cụ thể, khu vực nông nghiệp đóng góp 50.7% GDP vào năm 1991 nhưng
năm 2008 chỉ còn 32.5%. Tương tự, mức đóng góp của khu vực công nghiệp tăng
từ 12.3% vào năm 1991 lên đến 22.4%, khu vực dịch vụ tăng từ 37% lên 45.1%
trong năm 2008.
Tuy vậy, sự dịch chuyển về cơ cấu kinh tế đang bị chậm lại trong những năm
gần đây, sau một thời gian có chuyển biến khá mạnh. So với các nền kinh tế đang
phát triển khác, đóng góp của tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ vào kinh tế
Campuchia vẫn đang ở mức rất thấp. Chủ yếu trong giai đoạn gần đây, đóng góp
của nông nghiệp trong cơ cấu GDP vẫn chiếm tỉ trọng lớn. Bộ trưởng Nông - Lâm
- Ngư nghiệp Chan Sa Run tại hội nghị về vai trò của nông nghiệp trong phát triển
kinh tế tổ chức mới đây, nhấn mạnh lĩnh vực nông nghiệp đóng vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo ở nước này.
Ông Chan Sa Run cho biết các lĩnh vực du lịch, dệt may, đặc biệt là nông
nghiệp đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế Campuchia, nâng cao thu nhập cho người
dân và giảm mạnh số hộ nghèo trong thời gian qua.
Sự phát triển của lĩnh vực này trong thời gian qua đã giúp Campuchia giảm
trên 1% tỷ lệ hộ nghèo mỗi năm, từ 47% năm 1994 xuống 34% năm 2004. Thu
nhập của người dân cũng tăng 6%/năm từ 247 USD/người năm 1994 lên 513
USD/người năm 2006.
Ông Chan Sa Run nêu rõ để tăng thu nhập cho nông dân và giảm mạnh tỷ lệ
hộ nghèo trong thời gian tới, Chính phủ Campuchia sẽ tiếp tục các biện pháp hỗ
trợ, khuyến khích nông dân trong sản xuất nông nghiệp, phát triển các mô hình sản
xuất liên kết.
2.1.2. Chiến lược phát triển nông nghiệp của Campuchia
Nhận thức được vai trò của Nông nghiệp trong xoá đói giảm nghèo và

những đóng góp của nó đối với nền kinh tế, Chính phủ hoàng gia Campuchia đã
khẳng định nông nghiệp là một trong những ưu tiên hàng đầu trong Chiến lược tứ
giác (RGC). Để đẩy mạnh phát triển lĩnh vực nông nghiệp, trong giai đoạn II
(2008-2013) của RGC, Chính phủ nứoc này đã nêu lên mục tiêu chủ yếu: nâng cao
năng suất và đa dạng hoá nông nghiệp, cũng như cải cách ruộng đất, ngư nghiệp và
lâm nghiệp, bằng cách giải quyết tổng thể các vấn đề kỹ thuật nông nghiệp, cơ sở
hạ tầng nông thôn như đường xá, hệ thống thuỷ lợi, điện năng, tiền vốn, thị trường
và công nghệ chế biến, đặc biệt đối với việc xuất khẩu nông sản. Việc này đòi hỏi
phải có cơ chế ở các cơ quan ban ngành và sự phối hợp, hợp tác hiệu quả, để phát
triển ngành theo cả chiều rộng và chiều sâu.
Mặt 1: Nâng cao năng suất và đa dạng hoá nông nghiệp
Giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp tăng trung bình 7,2% hàng năm
kể từ năm 2003 - 2007, so với mức tăng 1,6% trong suốt những năm 1998 - 2002
và 4,9% trong năm 1993 - 1997. CPC đã đạt 2,5 tấn thóc /1 hecta trong năm 2005 -
2007, sản lượng tăng cao nhất trong lịch sử, do đầu tư vào hệ thống thuỷ lợi tăng,
cải tiến quản lý nguồn nước, tăng các khoản vay tín dụng từ các ngân hàng thương
mại và các cơ quan tài chính vi mô dành cho lĩnh vực này, và do biết cách áp dụng
canh tác hiệu quả hơn. Phát triển nông nghiệp đã có những nền tảng cơ bản vững
chắc. Hơn nữa, giá cả các sản phẩm như bắp, đậu, sắn và cao su tăng, càng tạo ra
động lực để thực hiện chính sách đa dạng hoá nông nghiệp.
Chính phủ Hoàng gia tiếp tục giành sự ưu tiên cho việc tăng năng suất và đa
dạng hoá nông nghiệp, cũng như xúc tiến các ngành công nông nghiệp. Hoàng gia
Campuchia sẽ tiếp tục giành sự quan tâm hơn nữa để tăng sản lượng bằng cách
thay đổi từ mở rộng diện tích trồng trọt sang thâm canh trên ruộng đất hiện có, để
làm tăng sản lượng, việc làm và thu nhập nhà nông, đảm bảo an ninh lương thực
cũng như tăng xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt ở dạng thành phẩm như
gạo.
Hơn nữa, Campuchia sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi để thu hút các nhà
đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài, hoan nghênh sự chia sẻ từ các tổ chức
phi chính phủ, đồng ý chuyển giao bí quyết và công nghệ mới cho người nông dân

trong việc trồng trọt và chăn nuôi gia súc. Hoàng gia Campuchia sẽ cố gắng hơn
nữa kết nối người nông dân với thị trường nông sản khu vực và thế giới, bằng cách
xây dựng cơ chế thưc hiện cần thiết, và sự cố gắng nỗ lực để tạo ra các sản phẩm
nông nghiệp đạt chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Mặt 2: Cải cách ruộng đất và rà phá bom mìn
Chương trình cải cách ruộng đất của Hoàng gia Campuchia đã tập trung vào
các biện pháp để tăng cường quản lý ruộng đất, phân đất và sử dụng đất, nhằm đảm
bảo quyền sử dụng đất hợp pháp, xoá bỏ chiếm dụng đất đai bất hợp pháp, và ngăn
chặn việc đất chưa sử dụng tập trung vào tay một số người. Cải cách đất đai cũng
quan trọng đối với sự gia tăng và phân bổ đất nông nghiệp, trên cơ sở cấp đất cho
người nông dân, nhằm tăng năng suất và đa dạng hoá nông nghiệp. Đăng ký đất đai
đã có nhiều tiến bộ đáng kể thông qua việc hoàn thành việc đăng ký có hệ thống ở
175 phường, xã của 11 tỉnh, thành, và đã cấp hơn một triệu giấy chứng nhận đất
đai.
Trong nhiệm kỳ 4, Hoàng gia Campuchia sẽ tiếp tục thực hiện cải cách đất
đai trên cơ sở Luật đất đai và chính sách đất đai hiện hành bằng cách xây dựng
thêm khung luật định như Luật quốc hữu hoá, Luật về phát triển đất đai và ưu tiên
quyền sở hữu đất cho người có công khai hoang, Luật xây dựng, đô thị hoá và Tiêu
chuẩn xây dựng quốc gia.
Mặt 3: Cải cách ngư nghiệp
Cá, một nguồn lợi phục hồi tự nhiên, chủ yếu đối với cuộc sống mưu sinh
của người Campuchia, nó là nhu yếu phẩm cần thiết và thu nhập của người dân.
Hoàng gia Campuchia đã phân vùng đánh bắt cá cho người dân, và đã xây dựng
509 làng chài cả ở vùng biển lẫn nước ngọt. Mục tiêu của Campuchia là duy trì ổn
định và đảm bảo sự tái tạo nguồn tự nhiên, bao gồm bảo tồn nguồn cá để góp phần
phát triển kinh tế, cũng như đảm bảo kế sinh nhai của các làng chài.
Hoàng gia Campuchia tiếp tục dành quyền ưu tiên để hỗ trợ và khuyến khích
các làng chài tham gia vào việc dự thảo các kế hoạch và quản lý nguồn tài nguyên
thiên, bằng cách hướng dẫn và đào tạo kỹ thuật, để bảo đảm việc quản lý nguồn
thuỷ sản hữu hiệu, dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật. Để đạt mục tiêu, Hoàng gia

Campuchia sẽ đảm bảo việc phân vùng đánh bắt phù hợp.
Để giá cả thuỷ hải sản phản ánh giá trị đúng của nó, Hoàng gia Campuchia
sẽ xây dựng một cơ chế thị trường thuỷ sản, phù hợp coi thuỷ sản vừa là nguồn thu
nhập vừa là nguồn chi tiêu của người nghèo. Cơ chế thị trường này sẽ tính đến việc
thực hiện đấu thầu khai thác vùng đánh bắt rõ ràng hơn, và tăng tính hiệu quả trong
quản lý những vùng đánh bắt, đồng thời làm tăng nguồn thu cho Chính phủ.
Hoàng gia Campuchia sẽ tăng cường hơn nữa việc bảo tồn nguồn tài nguyên
quốc gia, đặc biệt xúc tiến vấn đề bảo tồn với du lịch - kinh tế. Hoàng gia
Campuchia sẽ tiếp tục dùng những hành động nghiêm khắc đối với việc xâm lấn
phi pháp rừng ngập mặn, sử dụng đánh bắt phi pháp, và ngăn chặn tất cả các hành
động đánh bắt lộn xộn, để cố gắng bảo tồn, bằng cách khuyến khích các cấp có
thẩm quyền và địa phương liên quan cùng tham tham gia.
Phát triển thuỷ sản là cần thiết để gìn giữ nguồn cá, Hoàng gia Campuchia
sẽ dành phần hỗ trợ đặc biệt cho ngư dân như kỹ thuật, con giống, tiền vốn và thị
trường. Hoàn thiện các văn bản pháp lý thông qua thực hiện tiếp cơ chế ưu tiên
hiện có của Campuchia trong việc gìn giữ và bảo tồn nguồn lợi từ cá.
Mặt 4: Cải cách lâm nghiệp
Chính sách lâm nghiệp của Hoàng gia Campuchia là nhằm đảm bảo việc quản lý
và sử dụng rừng hiệu quả, để cải thiện cuộc sống của người dân vùng nông thôn và
góp phần tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh việc cấm chặt hạ gỗ như hiện nay, Hoàng
gia Campuchia đã thành lập bảo vệ những khu bảo tồn đa dạng sinh thái, cam kết
tái trồng rừng, thành lâp cộng đồng dân cư gắn với rừng, đã khoanh vùng khu vực
ưu tiên và đưa ra những biện pháp nghiêm khắc để ngăn chặn, giảm bớt và xoá dần
việc xâm chiếm đất rừng trái pháp luật.
Hoàng gia Campuchia coi cộng đồng dân cư gắn với rừng là một nhân tố quan
trọng để quản lý rừng. Vì vậy, Campuchia sẽ tiếp tục giám sát và đánh giá tính hiệu
quả và hiệu lực chương trình này trong điều kiện cải thiện cuộc sống của người dân
vùng nông thôn, đảm bảo nguồn tài nguyên rừng và xây dựng thêm những khu
kiểm lâm. Hơn nữa, Campuchia sẽ khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân thành lập
những vùng trồng cây kinh tế ở những vùng rừng khô trọc, dựa trên tiêu chuẩn kỹ

thuật cho phép.
Hoàng gia Campuchia sẽ tiếp tục giám sát việc giao khoán rừng nhằm đảm bảo
phù hợp với thông lệ quốc tế thông qua việc tìm kiếm tranh thủ sự hỗ trợ về tài
chính và chuyên môn bên ngoài, sự tham gia tích cực của người dân trong việc
giám sát thực hiện. Campuchia sẽ thực thi nghiêm túc Luật Lâm nghiệp và sử dụng
những biện pháp mạnh hơn nữa để chống lại những kẻ phạm pháp và sẽ tiếp tục
giáo dục người dân nhận thức rõ bổn phận và trách nhiệm của mình để ngăn chặn
và chấm dứt nạn xâm chiếm rừng bất hợp pháp.
Vì rừng đóng vai trò quan trọng cuộc sống người dân, Campuchia Hoàng gia sẽ
tăng cường quản lý rừng hiệu quả những khu rừng phòng hộ và duy trì sự bảo hộ
và phát triển phù hợp, kể cả du lịch - sinh thái, để tạo việc làm và thu nhập thêm
cho người dân. Hơn nữa, Campuchia sẽ đặc biệt quan tâm quản lý rừng phòng hộ.
Campuchia sẽ tập trung mọi nguồn lực, hỗ trợ và tài chính để tham gia vào nỗ lực
với toàn cầu để giải quyết những khó khăn do thay đổi khí hậu.
2.1.3. Thực trạng nông nghiệp Campuchia trong những năm gần đây
Năm 2009: Campuchia đạt vụ mùa bội thu
Tại Đại hội nông dân toàn quốc, Bộ trưởng Nông, Lâm và Ngư nghiệp
Campuchia, ông Chan Sarun cho biết, nước này đã có một vụ mùa bội thu trong
năm 2009, đạt sản lượng 7,037 triệu tấn thóc, tăng 130.000 tấn so với năm 2008.
Theo Bộ trưởng Chan Sarun, kết quả trên là nhờ diện tích canh tác lúa đã
được mở rộng từ 2,25 triệu hécta vào năm 2008 lên 2,68 triệu hécta trong năm
2009.
Bên cạnh đó, phát triển nông nghiệp được chính phủ quan tâm và hỗ trợ
nhiều hơn, coi là một trong những ưu tiên trong Chiến lược phát triển “Tứ giác”
giai đoạn hai nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xóa nghèo.
Chính phủ Campuchia đã triển khai các chương trình hỗ trợ nông dân vốn
vay để tăng năng suất cây trồng và tìm kiếm thị trường tiêu thụ.
Bộ Nông, Lâm và Ngư nghiệp (MAFF) Campuchia đang đẩy mạnh việc xây
dựng hệ thống thủy nông để tăng thêm diện tích canh tác lúa, huấn luyện nông dân
kỹ thuật canh tác tiên tiến để thúc đẩy trồng nhiều loại giống lúa cao sản nhập khẩu

trên diện rộng.
Hiện nay, diện tích canh tác lúa của Campuchia mới chỉ chiếm gần 50% diện
tích trong tổng số 6 triệu hécta đất canh tác nông nghiệp. Hệ thống thủy nông hiện
có chỉ đáp ứng nhu cầu tưới tiêu của 40% diện tích này và số còn lại phụ thuộc vào
nước mưa tự nhiên.
Năm 2010: Kinh tế Campuchia có dấu hiệu khôi phục. Nông nghiệp tiếp tục tăng
trưởng.
Trong 9 tháng đầu năm 2010, nền kinh tế Campuchia đã có dấu hiệu phục
hồi và đang có nhiều biến chuyển tích cực. Sự phục hồi của một số ngành kinh tế
chủ chốt như nông nghiệp, du lịch và may mặc đã giúp nền kinh tế Campuchia đạt
được những bước tiến đáng kể.
Vụ sản xuất năm 2009 - 2010 bảo đảm được diện tích gieo cấy hơn 2,6 triệu
ha, năng suất đạt 2,57 tấn/ha; tổng sản lượng đạt hơn 7,58 triệu tấn. Sau khi cân đối
bảo đảm an ninh lương thực và tiêu dùng trong nước còn dư thừa gần 3,5 triệu tấn
để xuất khẩu. Số thóc này phần lớn là bán sang Việt Nam, Thái Lan để chế biến.
Campuchia chỉ chế biến xuất khẩu được khoảng 10 ngàn tấn gạo trong nửa đầu
năm 2010 vừa qua. Tháng 8/2010, Thủ tướng Hunsen đã chính thức công bố chính
sách mới của Campuchia về thúc đẩy sản xuất lúa và xuất khẩu gạo. Với chính
sách này, Campuchia đặt mục tiêu xuất khẩu hơn 1 triệu tấn gạo vào năm 2015.
Năm 2011-2012: Vụ sản xuất năm 2011 - 2012, ngành nông nghiệp của
Campuchia đạt thành tích cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây
Năm 2011 là năm thứ 4 Campuchia triển khai thực hiện chiến lược tứ giác
phát triển kinh tế giai đoạn 2 của Chính phủ Hoàng gia Campuchia. Bộ Nông Lâm
Ngư nghiệp Campuchia đã tổng kết kết quả thực hiện của Vụ sản xuất năm 2011 -
2012 và bàn phương hướng sản xuất năm 2012 - 2013.
Mặc dù vụ sản xuất năm 2011 - 2012 Campuchia gặp một số thiên tai như lũ
lụt và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng năm 2011 - 2012 Campuchia vẫn đảm
bảo diện tích gieo cấy được 2,96 triệu ha (diện tích thu hoạch được 2,76 triệu ha),
đạt năng suất trung bình 3,17 tấn/ha với sản lượng thu hoạch được 8,77 triệu tấn
thóc, tăng 6,82% so với Vụ sản xuất năm 2010 - 2011 và đạt sản lượng cao nhất

trong vòng 10 năm qua (tính từ năm 2002). Sau khi cân đối đảm bảo lương thực
tiêu dùng trong nước, Campuchia dư thừa 4,34 triệu tấn thóc, tương đương với
2,78 triệu tấn gạo (Vụ mùa mưa gieo cấy được 2,09 triệu ha, vụ mùa khô gieo cấy
0,87 triệu ha).
Đối với các lĩnh vực khác như chăn nuôi, trồng hoa màu và trồng cây công
nghiệp cũng có sự phát triển mạnh mẽ. Từ năm 2007 đến năm 2011 ngành chăn
nuôi bò tăng 1,1%, trâu giảm 1,74%, gia cầm tăng 37% từ 15 triệu gia cầm lên đến
21,6 triệu gia cầm.
Lĩnh vực cây công nghiệp như cao su, điều, cây ăn quả, trang trại gia đình
đều có sự tăng trưởng mạnh cả về sản lượng lẫn diện tích, cụ thể năm 2011 diện
tích trồng cao su đạt 213.104 ha, tăng 17,5% so với năm 2010, đặc biệt là trồng cao
su theo mô hình gia đình, quy mô vừa phải ngày càng phát triển.
Lĩnh vực lâm nghiệp được kiểm soát trên nguyên tắc bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường. Năm 2011 đã trồng mới được 33.550 ha rừng, trong
đó ngành lâm nghiệp trồng được 1.820 ha, các công ty tư nhân trồng được 30.365
ha và thành lập được 561 Hiệp hội lâm nghiệp để quản lý 481.779 ha rừng.
Lĩnh vực thủy sản: ngành chăn nuôi thủy sản nước ngọt tăng 10% từ
405.000 tấn thủy sản (năm 2010) tăng lên đến 445.000 tấn (năm 2011). Đánh bắt
thủy sản nước mặn đạt 91.000 tấn hải sản, tăng 7%, chăn nuôi thủy sản như cá,
tôm, cá sấu, cá giống đạt 72.000 tấn, tăng 20% so với năm 2011, quản lý và cấp
phép được 324 trong tổng số 469 hiệp hội đánh bắt cá.
Cùng với những thành tựu trên, năm 2011- 2012 Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp
Campuchia đã thực hiện nhiều chiến dịch tuyên truyền, phổ biến, chuơng trình
khuyến nông đến tất cả bà con nông dân về các chủ trương, chính sách của Chính
phủ trong việc phát triển nông nghiệp, các biện pháp áp dụng kỹ thuật mới, giống
mới trong trồng trọt, chăn nuôi, đầu tư nâng cấp và cải tạo và làm mới hệ thống
thủy lợi,
Chính phủ Hoàng gia Campuchia coi trọng và ưu tiên coi sản xuất nông
nghiệp, phấn đấu đạt mức tăng trưởng trung bình từ 3 - 4%/năm và coi nông
nghiệp là một trong những ngành quan trọng nhằm góp phần phát triển kinh tế,

tăng tổng sản phẩm cho xã hội, tạo công ăn việc làm, khai thác và tận dụng tiềm
năng sẵn có của đất nước, góp phần nâng cao và cải thiện đời sống của hơn 80%
dân số là nông dân.
2.2. Những hạn chế của ngành nông nghiệp Campuchia và biện
pháp khắc phục
2.2.1. Những hạn chế của ngành nông nghiệp Campuchia
1. Nông sản, chủ yếu là lúa là một trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Campuchia. Mục tiêu của Chính phủ Campuchia là sẽ đạt mức xuất khẩu
gạo hơn 1triệu tấn và năm 2015. Tuy nhiên,theo quan chức Campuchia,
với tốc độ tăng trưởng về xuất khẩu gạo chỉ đạt khoảng 2%/năm như hiện
nay thì nước này khó đạt được mục tiêu 1 triệu tấn gạo xuất khẩu vào
năm 2015. Con số thống kê cho thấy, Campuchia chỉ xuất khẩu được hơn
205 nghìn tấn gạo xuất khẩu, tăng 1.9% so với năm 2011.
2. Hiện nay, Campuchia xuất khẩu gạo tới 58 quốc gia, chủ yếu là châu Âu.
Pháp là khách hàng lớn nhất với lượng mua hơn 47 nghìn tấn, tiếp sau là
Ba Lan với hơn 34 nghìn tấn, Malaysia với 25 nghìn tấn.Theo Hun Lắc,
Giám đốc công ty Me Kong Oriza Rice Exporter (MKORE), Tổng thư ký
Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Campuchia, tốc độ xuất khẩu gạo của
Campuchia trong năm qua đã giảm sút,do gặp phải sự cạnh tranh từ
Việt Nam về giá cả các mặt hàng gạo dài và gạo trắng tại thị trường
châu Âu.
3. Bên cạnh đó, các khách hàng lớn còn lựa chọn Việt Nam, vì Campuchia
vẫn còn hạn chế về khả năng cung ứng với số lượng lớn. Hạn chế về
năng lực thương mại, công nghệ chế biến lạc hậu, hệ thống thu mua,
kho hàng chưa hoàn thiện và thiếu vốn là những rào cản lớn cho lĩnh
vực xuất khẩu gạo, dù những năm gần đây, Campuchia thường đạt
lượng sản xuất lúa dư thừa lên tới 3-4 triệu tấn/năm. Các quan chức
ngành nông nghiệp Campuchia thừa nhận, dù còn 2 năm nữa để nâng cao
khả năng xuất khẩu thì mức 1 triệu tấn gạo xuất khẩu trực tiếp vào năm
2015 của Campuchia là một mục tiêu khó khăn.

4. Ngoài ra, do nền sản xuất nông nghiệp còn thiếu vốn,cho nên việc mở
rông sản xuất nông nghiệp,nâng cấp hệ thống tưới tiêu cũng gặp phải
không ít khó khăn.
2.2.2. Giải pháp
1. Tăng cường hơn nữa các hoạt đông sản xuất,chế biến xuất khẩu gạo để
hoàn thành mục tiêu xuất khẩu gạo đạt 1 triệu tấn vào năm 2015.
2. Chính phủ Campuchia nên có các chính sách bảo lãnh rủi ro cho các ngân
hàng thương mại làm nhiệm vụ cho vay vốn để sản xuất, chế biến và dự
trữ gạo, sau khi các ngân hàng cho rằng gặp rủi ro cao khi tham gia cấp
vốn trong lĩnh vực nông nghiệp.
3. Nâng cao cơ sở vật chất kĩ thuật,xây dựng hệ thống tưới tiêu phù hợp,áp
dung công nghệ hiện đại trong lĩnh vực nông nghiệp không chỉ đối với
lúa gạo mà còn đối với cây trồng,hoa màu và chăn nuôi.
4. Tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế để tranh thủ nguồn vốn đầu tư
vào hoạt động sản xuất nông nghiệp trong nước.
Chương 3: Định hướng phát triển ngành nông nghiệp của
Campuchia và khả năng hợp tác với Việt Nam
3.1. Định hướng phát triển ngành nông nghiệp của Campuchia
3.1.1. Tập trung phát triển nông thôn
Do hầu hết của người nghèo đang sống ở nông thôn và vùng sâu, vùng xa,
đầu tư nhiều hơn nên tập trung phát triển nông thôn và hỗ trợ cho phát triển nông
nghiệp như cung cấp hệ thống thủy lợi, tín dụng lãi suất thấp đầu vào nông nghiệp
như phân bón và hạt giống. Thủy lợi và đường nông thôn phải được cải thiện để
nâng cao tỷ lệ đa canh và cải thiện tiếp cận thị trường trong nước và quốc tế. Trả
tiền bản quyền tới từ dầu khí ngoài khơi ở Campuchia, có xác nhận của Chính
phủ, có thể được một phần sử dụng để phát triển Campuchia là nông nghiệp, cùng
với tăng cường giáo dục ở các khu vực nông thôn. Thủy lợi, đường giao thông,
nghiên cứu nông nghiệp và phát triển, giáo dục nông thôn đã được chứng minh là
nâng cao năng suất quan trọng nhất và giảm đói nghèo ở Campuchia.
3.1.2. Sản xuất gạo với quy mô lớn và chất lượng thế giới

Gạo mùa khô phải thúc đẩy trong cả nước, đặc biệt là bắt đầu với các khu
vực mà họ đang có gần nguồn nước. Điều quan trọng là cho nông dân để biết
những gì sắp xếp của các loài lúa và chất lượng được yêu cầu của các thị trường
địa phương và quốc tế để chúng ta có thể định hướng cho gạo của CPC sản xuất
để trả lời những yêu cầu này. Tiêu chuẩn quốc gia trong các chuyên mục khác
nhau của gạo cần được hoàn thành bởi Viện Tiêu chuẩn của Cam-pu-chia (ISC) để
Campuchia có thể có tiêu chuẩn riêng của mình để tiếp cận thị trường. Hiện đã có
lập luận cho rằng xuất khẩu lúa là dễ dàng hơn vì không có nhu cầu để thực hiện
hải quan và thủ tục thương mại . Nhưng chúng ta cũng sẽ thấy rằng kết quả xuất
khẩu lúa mất giá trị do được thêm vào công cụ như cám gạo, bộ phận bị hỏng,
vỏ Nó đã được nghiên cứu và ước tính có một số 600 triệu đô la Mỹ mất nếu
chúng tôi đã xuất khẩu một số tiền của ba triệu tấn gạo trong các hình thức trồng
lúa. Do đó, phải cho CPC thay đổi tình hình, theo đó tất cả các công cụ giá trị gia
tăng sẽ được giữ lại trong nước. Nông dân như nông dân trồng lúa nên hình thành
"hội nông dân" hoặc "sản xuất lúa cộng đồng" để làm cho lớn quy mô sản xuất và
đảm bảo cùng một hạt giống và chất lượng. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi
tiếp cận với vay ngân hàng là tốt.
Đa dạng hóa các thị trường mới và sản phẩm mới: Các ngành gạo có thể có
một tiềm năng lớn so sánh của ngành dệt may về giá trị xuất khẩu và giá trị gia
tăng tạo ra trong suốt chuỗi cung ứng bao gồm việc làm. Cam-pu-chia cần phải
xây dựng trên khả năng hiện tại của mình và phát triển những cái mới như là một
bước tiến đa dạng hóa nền kinh tế của mình. Tăng trưởng kinh tế đáng chú ý trong
thập kỷ qua có thể được duy trì chỉ khi Campuchia làm tăng khả năng cạnh tranh
và đa dạng hóa xa của nó hiện tại hẹp dựa trên hình thức của sự tăng trưởng.
3.1.3. Cần bổ sung với các ngành mới
Nông nghiệp là quan trọng, nhưng cần phải được bổ sung bởi sự phát triển
trong các lĩnh vực khác.
1. Ngành nông nghiệp ở khu vực nông thôn, tức là các hoạt động phi nông
nghiệp (ví dụ như xay xát gạo, thương mại) nên là nguồn chính của sự tăng
trưởng.

2. Nhà đầu tư nước ngoài có thể mang lại quyền truy cập vào các chuỗi giá trị
toàn cầu, công nghệ, và tài chính - đầu tư trong hợp đồng nông sản cần được
khuyến khích và thu hút.
3. Mối liên kết thị trường cho các sản phẩm cá, cá và đầu tư công nghệ chế
biến, và khả năng sản xuất được chứng nhận quốc tế về an toàn thực phẩm.
4. Đảm bảo nguồn bổ sung tài chính cho sản xuất và xuất khẩu. Tài chính
Campuchia chủ yếu từ tiết kiệm nước ngoài, làm nổi bật bất lợi tác động
đến tăng trưởng ở Campuchia như là một kết quả của điều kiện chặt chẽ hơn
trong thị trường tài chính quốc tế
3.1.4. Cần cho quan hệ đối tác nhiều mũi nhọn
Việc quản lý các nguồn tài nguyên nông nghiệp tạo ra các cơ hội cho sự
tăng trưởng trong lĩnh vực này, được kích thích bởi những chính sách tốt và quản
trị sắp xếp và kết hợp với áp lực bên ngoài từ các trình điều khiển quốc tế và các
nhà đầu tư nước ngoài, là rất quan trọng.
1. Với các đối tác vốn nước ngoài: đầu tư lớn đã rất khó khăn để thực hiện mà
không có quan hệ đối tác với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong lĩnh vực lúa
gạo, nghiêm túc và sự tham gia của nước ngoài đáng tin cậy trong việc xuất
khẩu đã bắt đầu xuất hiện.
2. Với các đối tác đối thoại quốc gia: Việc áp dụng gần đây của chính sách
xuất khẩu gạo cung cấp các khuyến khích phát triển một quan hệ đối tác tay
trong tay giữa chính phủ và ngành công nghiệp xay xát.
3. Diễn đàn Khu vực tư nhân Chính phủ Campuchia có thể mô phỏng thành
lĩnh vực cụ thể hoặc sắp xếp sản phẩm cụ thể, mà đã đạt được tăng trưởng
nhanh chóng như ngành hàng may mặc. Hành động tập thể sắp xếp thuộc
Chính phủ và Diễn đàn tư nhân có thể cung cấp cho khu vực tư nhân một
cảm giác an toàn cho đầu tư của họ trong lĩnh vực nông nghiệp.
3.1.5. Cần phải tích hợp các sản phẩm của Campuchia trong chuỗi giá trị trong
toàn cầu hoặc ít nhất là khu vực
Địa lý là một động lực chính của sự phát triển và Campuchia có cơ hội để
tiếp tục khai thác sự năng động của các nước láng giềng. Khu vực hội nhập cũng

có thể giúp tạo ra nền kinh tế của quy mô cho chuỗi cung ứng và giúp đỡ
Campuchia trong khám phá của mình về những gì nó có thể sản xuất. Triển vọng
ngắn hạn ít.
Khuyến khích cho môi trường thương mại toàn cầu và bế tắc trong việc hiện
hành của WTO Phát triển. Tuy nhiên, sự suy giảm của thương mại toàn cầu làm
gia tăng sự ưu tiên tăng cường hội nhập của Campuchia, đặc biệt là trong khu vực
Đông Á.
Có nhiều cơ hội để tăng cường thương mại tiểu khu vực trong sông Tiểu
vùng sông Mekong (GMS), Cam-pu-chia là cầu nối giữa hai trong những thành
phố lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á, TP Hồ Chí Minh và Bangkok.
1. Những nỗ lực ưu tiên tập trung vào việc kết nối các công ty nông
nghiệp Campuchia vào tiểu khu vực chuỗi cung ứng bằng cách thu hút các
công ty Việt Nam, Thái Lan, và Trung Quốc xác định vị trí các nhà máy chế
biến của họ tại Campuchia. Lĩnh vực xuất khẩu gạo có mở đầu trong xuất
khẩu sang EU thông qua thuế quan không cho các nước kém phát triển sáng
kiến "Tất cả mọi thứ trừ vũ khí".
2. Thực hiện các thỏa thuận vận chuyển hiện qua biên giới với nước
láng giềng các nước sẽ tiếp tục kích thích dòng buôn bán qua biên giới.
3.1.6. Xây dựng năng lực cho các doanh nghiệp xuất khẩu
Nguồn nhân lực vẫn là khó khăn chính cho phần lớn các các công ty xuất
khẩu trung bình của Cam-pu-chia. Cần có chiến lược xây dựng năng lực dựa vào
mạng lưới. Tất cả các thành phần, cả công cộng và tư nhân, cần phải được đưa ra
trong một đào tạo phiên để khám phá tất cả các kịch bản giả thuyết xung quanh
một vài trường hợp xuất khẩu. Vai trò của các học viên trong một cơ quan chính
phủ cụ thể càng nhiều càng những người của các đại lý vận chuyển và Cảng là rất
quan trọng để giải quyết các vấn đề xung quanh các thủ tục xuất khẩu và hồ sơ.
Như một kết quả của một trao đổi thông tin hiệu quả và hiệu quả cộng đồng
thương mại và vận tải sẽ được hưởng lợi từ nhanh hơn thời gian đưa ra thị trường,
tiết kiệm đáng kể chi phí và tăng khả năng cạnh tranh đa cấp.
3.7. Xây dựng năng lực về điều kiện tiếp cận thị trường

Các tổ chức khu vực như ESCAP, IFC, ADB cần tiếp tục tham gia và thực
hiện các dự án thương mại hỗ trợ Campuchia hứa hẹn các công ty xuất khẩu bằng
cách giúp họ, lần đầu tiên, để hiểu được cơ hội xuất khẩu cụ thể phát sinh từ
thương mại khu vực và tiểu khu vực nhiều thỏa thuận và để hiểu các quy tắc và
các quy định xuất khẩu và các thủ tục các khía cạnh của thương mại quốc tế. Huy
động của các diễn viên gạo khu vực tư nhân. Có một nhu cầu rõ ràng để huy động
thêm chính thức vô số các cơ quan đại diện khu vực tư nhân mà sẽ được ở một vị
trí tốt hơn để trình bày một quan điểm chung và lợi ích của các thành viên của họ
để đối phó với chính phủ có liên quan để tạo thuận lợi cho thương mại cụ thể vấn
đề và phát triển của ngành công nghiệp xuất khẩu gạo như một toàn thể.
Tóm lại để phát triển nông nghiệp, Chính phủ không thể thực hiện một
mình, nó cần sự tham gia của Tổ chức khu vực tư nhân, phi chính phủ, và phát
triển đối tác. Tất cả các thành viên phải làm việc cùng nhau với sự hợp tác tốt và
hỗ trợ từ thành viên khác với quy hoạch và chiến lược rõ ràng.
Tiềm năng cho sự tăng trưởng trong nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng do
những nỗ lực của Chính phủ, khu vực tư nhân, cộng đồng địa phương, các tổ chức
phi chính phủ và các đối tác phát triển thúc đẩy nông nghiệp và phát triển nông
thôn trong các lĩnh vực.
Campuchia thực sự có tiềm năng cho các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu,
đặc biệt là gạo. Tuy nhiên, để di chuyển từ sản xuất lương thực tự cung tự cấp
hoặc vừa đủ sống để xuất khẩu thực phẩm không phải là một nhiệm vụ dễ dàng.
Nó là một công việc tốn thời gian và dai dẳng. Thay đổi người hành vi từ doanh
nghiệp tư nhân và gia đình để cộng đồng doanh nghiệp hoặc sản xuất thương mại
vẫn còn là một nhiệm vụ khó khăn.
3.2. Hợp tác với Việt Nam
Việt Nam và CPC có điều kiện địa lý khá tương đồng, là hai nước đang trên
đà phát triển, cùng đi lên từ nền nông nghiệp lúa nước, là điều kiện để hai nước
phát triển hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp.
Campuchia và Việt Nam đều là nước đang phát triển, cần thu hút nhiều sự
đầu tư, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp để tăng cường tiến bộ khoa học

kỹ thuật trong nông nghiệp, nhằm tăng năng suất, tăng sản lượng, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hơn 1.000 km biên giới, trải dài qua 10 tỉnh Việt Nam, cùng với 9 cửa khẩu
quốc tế chính là cơ hội thuận lợi cho hóa giữa Việt Nam và Campuchia. Thêm vào
đó, thói quen tiêu dùng của người Campuchia gần với Việt Nam, phù hợp với khả
năng cung cấp của các nhà sản xuất Việt Nam. Những điều kiện và nền tảng thuận
lợi như vậy sẽ là cơ sở cho sự phát triển nhanh và ổn định về quan hệ thương mại
giữa hai nước trong tương lai, đặc biệt là trong lĩnh vực xuaatss nhập khẩu sản
phẩm nông nghiệp.
Trong khoảng 10 năm gần đây, tốc độ tăng trưởng thương mại hai chiều
giữa Việt Nam và Campuchia luôn đạt mức trung bình trên 32,5%. Riêng năm
2011, kim ngạch hai chiều giữa hai nước đạt 2,8 tỷ USD, tăng hơn 55% so với
năm 2010.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Campuchia là phân bón,
dụng cụ cơ khí, hàng thủy sản, rau quả, thực phẩm và nhập từ Campuchia các mặt
hàng gỗ nguyên liệu, gạo, sắn lát, hạt điều và mủ cao su.
Theo Báo cáo hợp tác với Campuchia trong lĩnh vực nông nghiệp ngày 12
tháng 4 năm 2012, trong giai đoạn 2001-2011, Việt Nam và CPC đã hợp tác trong
các lĩnh vực hợp tác khoa học kỹ thuật, kiểm dịch động ,thực vật, lâm nghiệp,
thủy sản và đầu tư.
3.2.1.Về hợp tác khoa học kỹ thuật
1. Hợp tác khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp và PTNT với
Campuchia chưa triển khai được nhiều do không có nguồn vốn. Tháng
6/2010, Bộ Nông nghiệp và PTNT Việt Nam và Bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp
Campuchia đã thành lập một Tiểu ban Nông nghiệp và Kinh doanh Nông
nghiệp, tuy nhiên Tiểu ban vẫn chưa đi vào hoạt động mặc dù Bộ Nông
nghiệp và PTNT đã gửi thư mời phía Campuchia họp Tiểu ban để xây dựng
cơ chế và kế hoạch hợp tác.
2. Các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông trong khu vực Tam
giác Phát triển giữa ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia có hỗ trợ giống

cây trồng, vật nuôi theo yêu cầu của các tỉnh bạn (giống cây điều ghép cao
sản, kỹ thuật trồng, nhân giống và chăm sóc cây ăn quả, hệ thống tổ chức
sản xuất lúa và hoạt động khuyến nông)
3.2.2. Về hợp tác trong lĩnh vực kiểm dịch động, thực vật
1. Kiểm dịch động vật: Kể từ năm 2008, Cục Thú y Việt Nam và Cục
Thú y và Chăn nuôi Campuchia đã thành lập nhóm công tác và tiến hành
họp song phương hàng năm. Hai bên đã thiết lập đầu mối trao đổi thông tin
dịch bệnh. Hai bên đã thống nhất chọn 12 cặp cửa khẩu (tại 8 tỉnh biên giới
Campuchia và 7 tỉnh Việt Nam) để thiết lập 12 chốt kiểm tra động vật và
sản phẩm động vật xuất nhập khẩu.
Năm 2010, Việt Nam đã hỗ trợ cho Campuchia 40.000 liều vắc-xin lở mồm
long móng tam giá để tiêm phòng cho gia súc các tỉnh biên giới.
2. Kiểm dịch thực vật: Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Nông Lâm Ngư
nghiệp Campuchia đã ký Bản ghi nhớ về hợp tác phòng chống rầy nâu và
bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá (tháng 11/2006), đồng thời thiết lập kênh trao
đổi, lịch làm việc giữa các tỉnh của hai nước có chung đường biên giới. Việt
Nam cũng hỗ trợ một số thiết bị chẩn đoán bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá và
thuốc BVTV cho Campuchia (máy chẩn đoán ELISA, bơm động cơ phun
thuốc, thuốc BVTV Buprofezin và Fenobucarb).
3.2.3.Về hợp tác trong lĩnh vực lâm nghiệp
Hiện nay giữa Việt Nam và Campuchia chưa có Thỏa thuận hoặc Bản Ghi
nhớ về hợp tác trong lĩnh vực lâm nghiệp, chủ yếu được thực hiện qua khuôn khổ
hợp tác ASEAN.
3.2.4. Về hợp tác trong lĩnh vực thủy sản
Tháng 11/2010, Bộ Nông nghiệp và PTNT (Tổng cục Thủy sản) đã tổ chức
một đoàn công tác sang làm việc với Tổng cục Thủy sản Campuchia. Hai bên nhất
trí ký kết một Bản Thỏa thuận (MOU) về hợp tác thủy sản, tập trung vào một số
nội dung hợp tác trong các lĩnh vực sau: bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản, đa
dạng sinh học, hệ sinh thái, bảo vệ các loài động vật thủy sinh quý hiếm; hợp tác
nuôi trồng thủy sản; chế biến, xuất khẩu thủy sản, đào tạo cán bộ ngành thủy sản;

nghiên cứu khoa học thủy sản; khai thác thủy sản bao gồm quản lý khai thác và
hợp tác khai thác hải sản trong vùng biển của mỗi nước.
3.2.5. Về hợp tác đầu tư
Tính đến ngày 20/9/2011, Việt Nam có 98 dự án đầu tư tại Campuchia với
tổng số vốn đạt khoảng 2,23 tỷ USD. Campuchia hiện là quốc gia đứng thứ hai
trong thu hút vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam trong tổng số 50 quốc gia và
vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều dự án
với quy mô vốn hàng trăm triệu USD như dự án Mạng lưới viễn thông của Tổng
Công ty Viễn thông Quân đội (150 triệu USD), dự án thành lập Công ty cổ phần
đầu tư phát triển Campuchia của BIDV và Công ty Phương Nam (vốn đầu tư 100
triệu USD), dự án Trồng cây cao su của Công ty Hoàng Anh Gia Lai (vốn đầu tư
100 triệu USD), dự án sản xuất, thu mua hàng hóa, chế biến, dự trữ, bảo quản,
kinh doanh, sản xuất lương thực của Tổng công ty Lương thực miền Nam với số
vốn đầu tư 30 triệu USD.
Đầu tư trồng cao su của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam.
Các dự án đầu tư trồng cao su tại Campuchia của Tập đoàn Công nghiệp
Cao su Việt Nam được triển khai từ năm 2007. Tổng diện tích đất được giao (tính
đến tháng 8/2011) cho Tập đoàn, các công ty thành viên của Tập đoàn và các đơn
vị thuộc Hiệp hội Cao su Việt Nam là 132.341 ha. Tập đoàn hiện đang triển khai
15 dự án, 3 dự án mới và 1 dự án đang chuẩn bị.
Tổng diện tích trồng (tính đến tháng 8/2011) 50.607 ha, trong đó năm 2007
là 260 ha; 2008 là 2.155 ha; năm 2009 là 8.165ha; năm 2010 là 16.530 ha và năm
2011 là 23.497 ha (chi tiết trong biểu kèm theo). Tổng số vốn đầu tư cho các dự
án là 13.816 tỷ đồng với 100% vốn của nhà đầu tư Việt Nam. Đến thời điểm
9/2011, số vốn đã chuyển ra nước ngoài là 3.832,7 tỷ đồng. Do các dự án đầu tư
tại Campuchia hiện nay đang ở giai đoạn trồng mới và KTCB nên chưa có lợi
nhuận. Mỗi dự án sẽ xây dựng một nhà máy chế biến, quy mô sẽ tăng dần theo
sản lượng mủ khai thác.
Năm 2009, tại buổi gặp của Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
(A&RD) với Thủ tướng Hen Sun, Thủ tướng có đề cập Campuchia có thể dành

cho Việt Nam đầu tư trồng cây công nghiệp với diện tích 300.000 ha. Bộ Nông
nghiệp và PTNT đã nhiều lần đề nghị với Bộ NLN nghiệp Campuchia trực tiếp
hoặc qua về việc Campuchia dành 300.000 ha đất cho các nhà đầu tư Việt Nam
trồng cây công nghiệp nhưng chưa được phía Campuchia quan tâm.
Danh mục tham khảo
Văn bản
Báo cáo Phát triển Nông nghiệp Campuchia - Viện Kinh tế Campuchia (6-6-
2006)
Phát triển Nông nghiệp bền vững ở Campuchia - Nhean Choch (9-12/2008)
Đánh giá Chương trình hỗ trợ ngành đối với khu vực Nông nghiệp và phát
triển nông thôn của Campuchia - ASHOK K. LAHIRI (2009)
Nông nghiệp Campuchia - Thách thức và Triển vọng - Sok Siphana, Chap
Sotharith, Chheang Vannarith (1-2011)
Websites
Trang web hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia
/>d=campuchia&f=campuchiachitiet&campuchia_id=5
/>campuchia-nhng-nm-gn-ay.html
Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại-Bộ công thương
/>nam.gplist.142.gpopen.25727.gpside.1.asmx

×