Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.06 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ………………………………………………………………. Trang 2
NỘI DUNG …………………………………………………………….. Trang 4
Chương I: Một số khái niệm
1. Khái niệm Đảng Cộng sản Việt Nam ……………………………. Trang 4
2. Khái niệm nguồn lực con người …………………………………. Trang 5
2.1. Các quan niệm về con người ……………………………….. Trang 5
2.2. Khái niệm nguồn lực con người ……………………………. Trang 7
Chương II: Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam
về nguồn lực con người
1. Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam ……………... Trang 8
về nguồn lực con người
1.1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về ………………... Trang 8
nguồn lực con người trước đổi mới
1.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam …………………… Trang 9
về nguồn lực con người sau đổi mới
2. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay và một số ……... Trang 12
giải pháp tiếp tục xây dựng và phát huy nguồn nhân lực
của Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay …………… Trang 12
2.2. Một số giải pháp tiếp tục xây dựng và phát huy …………... Trang 13
nguồn nhân lực của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chương III: Vai trò của nguồn lực con người trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa tại Việt Nam
1. Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế ………... Trang 17
2. Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị ……….Trang 17
3. Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hóa ………..Trang 18
4. Vai trị của nguồn lực con người trong lĩnh vực xã hội ………….Trang 18
5. Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực ……………….. Trang 19
quốc phòng-an ninh
KẾT LUẬN …………………………………………………………... Trang 21


TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………... Trang 22

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
1


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Trong bầu trời khơng có gì q hơn
nhân dân” để khẳng định tầm quan trọng của nhân tố con người trong sự nghiệp
xây dựng một đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc
năm châu của dân tộc ta. Quan điểm ấy vẫn còn đầy đủ ý nghĩa thực tiễn đến
ngày nay khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 không chỉ tạo ra những cơ
hội mà còn là thách thức, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có quyết sách đúng
đắn mới có thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhanh, bền vững. Để thực
hiện mục tiêu này, một trong những nhiệm vụ then chốt là phải chú trọng “xây
dựng và phát huy nguồn lực con người”- vì chính thời đại đang đòi hỏi con
người phải bộc lộ hơn nữa sức mạnh của mình, bằng trí tuệ, bằng cá tính độc
đáo và phẩm chất lao động sáng tạo. Đây là chiến lược, quyết sách tối ưu nhất
và cũng là giải pháp quan trọng, lâu dài nhằm bước từng bước vững vàng trên
con đường phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
thế giới của Việt Nam từ khi bắt đầu độc lập. Nhận thức được tầm quan trọng
của vấn đề, em đã lựa chọn đề tài “QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ CỦA
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA”
để hiểu sâu sắc hơn quan điểm của Đảng ta qua từng giai đoạn phát triển cụ thể
của đất nước cũng như vai trị của nguồn nhân lực - chìa khóa của thành công
đến ngày nay. Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu nhưng do kiến thức còn hạn chế,
em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cơ để bài tiểu luận được hoàn thiện
hơn !


2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : Các quan điểm, chủ trương của Đảng cộng sản
Việt Nam qua các thời kỳ về vấn đề xây dựng và phát huy nguồn con người; Vai
trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

2


Phạm vi nghiên cứu : Phạm vi không gian là nước Việt Nam. Phạm vị thời
gian là sau năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, bước sang giai đoạn
hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng xã hội chủ nghĩa trên cả nước.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu : Hiểu rõ quá trình nhận thức Đảng ta và vai trò của
nguồn lực con người để đóng góp cho thực tiễn Việt Nam hiện nay và tương lai.
Nhiệm vụ nghiên cứu : Làm sáng tỏ các quan điểm của Đảng qua thời
gian, những thành tích đạt được, hạn chế cịn tồn đọng, đề ra một số giải pháp và
nhấn mạnh vai trò của nguồn lực con người.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận : Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh
Phương pháp nghiên cứu : Đề tài sử dụng phương pháp lơgic, phân tích,
tổng hợp, khái quát hóa và hệ thống hóa.
5. Kết cấu bài tiểu luận
Bài tiểu luận gồm có 3 chương,

NỘI DUNG
Chương I: Một số khái niệm
1. Khái niệm Đảng Cộng sản Việt Nam

3



Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động, của dân tộc mà nó là một bộ phận hợp thành;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân quốc tế, nhân dân lao động
và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới và nhân loại tiến bộ; là bộ tham mưu
chiến đấu cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản trên toàn hành tinh.
Trong điều kiện phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu đến thế kỷ XIX,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu và đặt sự quan tâm chủ yếu của mình vào
vấn đề thành lập các đảng cộng sản ở những nước tư bản chủ nghĩa, mà nhiệm
vụ trọng tâm của nó là lãnh đạo giai cấp vơ sản và quần chúng lao động ở các
nước tư bản phát triển tiến hành cách mạng vơ sản - cịn gọi là cách mạng xã hội
chủ nghĩa hay cách mạng cộng sản chủ nghĩa. Ở đó giai cấp vơ sản, thơng qua
đảng của mình là Đảng Cộng sản, lãnh đạo cuộc cách mạng đó, nhằm trực tiếp
lật đổ chế độ tư bản để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng chỉ rõ, giai cấp vô sản
sẽ trở thành một lực lượng cách mạng tự giác khi nào nó thành lập được đảng
cơng nhân độc lập của mình.
Đến V.I.Lênin, khi chủ nghĩa tư bản đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, vấn đề dân tộc và thuộc địa đã được đặt ra như một vấn đề bức thiết cần
được giải quyết trong phần lớn các quốc gia dân tộc trên thế giới, và chính VI
Lênin đã đưa ra một luận điểm hết sức quan trọng về điều kiện đảm bảo thắng
lợi triệt để cho việc tiến hành cách mạng ở những nước thuộc địa lạc hậu và khả
năng những nước này có thể đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa. Theo VI Lênin, điều kiện đó chính là phải có sự lãnh đạo của
đảng cộng sản. Đảng lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng lý luận và gắn
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như truyền thống
của dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân. Nhưng quần chúng nhân dân phải được giác ngộ, tổ chức và

lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn của đảng cộng sản thì mới trở thành lực

4


lượng to lớn như con thuyền phải có người cầm lái vững vàng theo một phương
hướng đúng đắn thì thuyền mới vượt qua được gió to sóng cả để cập bến.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam hiện nay theo Hiến
pháp, đồng thời là chính đảng duy nhất được phép hoạt động trên đất nước Việt
Nam.
Theo tinh thần của Mác-Lênin và TTHCM, từ khi ra đời đến nay Đảng
Cộng sản Việt Nam ngày càng phát huy được bản chất của mình trong quá trình
lãnh đạo cách mạng vì Đảng khơng chỉ đại diện cho lợi ích của giai cấp cơng
nhân mà cịn đại diện cho là ích của nhân dân và của toàn dân tộc.
2. Khái niệm nguồn lực con người
2.1. Các quan niệm về con người
Trong lịch sự phát triển của nhân loại có rất nhiều quan niệm khác nhau
về con người. Triết học Phương Đơng có các quan điểm duy tâm, quy cuộc đời
con người vào vai trò quyết định của “thiên mệnh” như “thiên nhân vô nhị” (trời
với người là một), “tâm của thánh nhân và trời là một”, “trời là người, người là
trời”, “vạn vật trong trời đất với con người vốn là nhất thể”. Đến triết học
Phương Tây lại khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa. Tư
tưởng ấy được thể hiện rõ qua luận điểm nổi tiếng của Pitago: “Con người là
thước đo tất thảy mọi vật”. Nhìn chung, các nhà triết học phương Tây (Hy Lạp
cổ đại) đều cho mục tiêu cao quý của con người là chinh phục tự nhiên để phục
vụ cho mình. Con người trong quan hệ với thiên nhiên, nhìn chung là tích cực,
thể hiện tinh thần vươn lên làm chủ giới tự nhiên của con người Hy Lạp cổ đại.

Điều này cũng khác với triết học phương Đông – thường đề cập con người chính
trị-xã hội, con người với những số phận khác nhau; con người trong quan hệ hài
hoà với tự nhiên.

5


Các quan điểm trên đều có những thành tựu nghiên cứu nhất định, tiến bộ
nhưng còn phiến diện do hạn chế của thời đại. Chỉ đến khi triết học Mác-Lênin
ra đời mới đưa ra được một quan niệm về con người khái quát và toàn diện nhất
khi nghiên cứu con người trong quan hệ sản xuất, quá trình sinh hoạt, từ đó lý
giải các quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ con người - con người
cũng như các quy luật chi phối. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, đầu tiên các ông
cho rằng con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội.
Con người là một động vật cao cấp nhất, là sản phẩm tiến hóa lâu dài của tự
nhiên. Con người không chỉ là một thực thể tự nhiên, một cấu trúc sinh học, mà
con người còn là một thực thể xã hội, mang bản chất xã hội. Xã hội ngày càng
phát triển, con người càng hòa trong cộng đồng xã hội, mối quan hệ giữa con
người với con người càng bền chặt hơn. Một khi quan hệ của con người được
mở rộng thì con người nhận thức về xã hội càng rõ hơn, đầy đủ hơn, và vai trị
của nó trong xã hội lại càng tăng. Con người không thể tồn tại được một khi tách
khỏi xã hội. Chỉ trong xã hội con người mới có thể trao đổi lao động, thơng qua
đó mà thỏa mãn. Thứ hai, con người vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là chủ thể
tạo ra lịch sử Thời đại nào thì sản sinh ra con người ấy, đồng thời con người
cũng mang tính lịch sử, kế thừa những tinh hoa của quá khứ và cũng mang
những khuyết tật phản ánh nhiều nét lạc hậu tiêu cực của quá khứ. Thứ ba, con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mục
tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, tạo điều kiện để
con người phát huy tài năng cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, đặt con người
vào vị trí trung tâm. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của nhân dân lao

động, do nhân dân lao động tiến hành. Cuộc cách mạng này chỉ có thể thành
cơng khi người lao động tự giác tham gia với tinh thần tích cực chủ động sáng
tạo, tạo nên động lực mạnh mẽ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời vận dụng một
cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là bước tiến mới, gắn liền độc lập gắn liền

6


với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là
vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn
bộ nội dung tư tưởng của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh ln quan tâm đến nhu
cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho
con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu
như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân khơng được quan tâm thỏa đáng thì
tính tích cực của họ sẽ khơng thể phát huy được. Quan niệm về con người của
Hồ Chí Minh, coi con người là một thực thể thống nhất của "cái cá nhân" và "cái
xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với cộng
đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở
con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải
phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người.
2.2. Khái niệm nguồn lực con người
“Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực” được xem xét trên nhiều
khía cạnh khác nhau. Theo TS Hồ Anh Dũng thì “nguồn lực con người” được
xem như là một nguồn sức mạnh và là động lực cho sự phát triển và tiến bộ của
xã hội nói chung. Nguồn lực con người được đặt trong mối quan hệ với nguồn
tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, cơ sở vật chất của thế hệ trước để lại và sức
mạnh thời đại…” Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: “Nguồn nhân lực là
trình độ lành nghề là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người

hiện có thực tế, hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế-xã hội trong một cộng
đồng”. Còn tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng: “Nguồn nhân lực là lực
lượng lao động, là tổng thể các tiềm năng lao động của con người, của một quốc
gia đã được chuẩn bị ở một mức độ nhất định, có khả năng huy động vào quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”.
Mặc dù tiếp cận với nhiều khía cạnh khác nhau, song trong quan hệ so
sánh với các nguồn lực khác của sự phát triển xã hội, các tác giả đều cho rằng
con người đóng vai trò nguồn lực trọng yếu nhất. Sự phát triển xã hội luôn cần

7


đến một hệ thống các nguồn lực khác nhau như tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao
động,... Trong đó, con người thể hiện như một nguồn tài nguyên quý giá nhất.
Các nguồn lực vật chất ngoài con người đương nhiên là cần thiết cho sự phát
triển, song chúng là những nguồn lực hữu hạn, nghĩa là có thể bị cạn kiệt và một
số trong đó là khơng thể tái tạo được; hơn nữa, chúng cũng chỉ thực sự phát huy
giá trị khi được kết hợp với nguồn lực con người. Đặc biệt, trong điều kiện cách
mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh như ngày nay, trí tuệ được coi là
nguồn tài ngun vơ hạn; đồng thời, lao động trí tuệ của con người có ảnh
hưởng quyết định đối với năng suất, chất lượng lao động và do vậy, con người
trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất đối với sự phát triển bền vững.
Nguồn lực con người còn được hiểu là tổng thể những yếu tố thuộc về thể
chất, tinh thần, đạo đức, trình độ tri thức… tức là kết cấu bên trong của nguồn
lực con người, bao gồm cả sức mạnh về thể lực và trí tuệ và sự kết hợp hai yếu
tố đó tạo thành năng lực sáng tạo của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên.
Ở cách tiếp cận này nguồn lực con người còn bao hàm cả những yếu tố như
truyền thống, kinh nghiệm lao động sáng tạo của một quốc gia, một dân tộc
được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu
hiện tại và tương lai của đất nước.

Nguồn lực con người còn dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn của dân cư, khả
năng huy động tham gia vào quá trình cải tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho
xã hội. Trong đó những yếu tố như số lượng, cơ cấu dân số đóng vai trị quan
trọng. Trong q trình phát triển của mình, hầu hết các nước phải trải qua quá
trình từ dân số trẻ, đến dân số vàng và đến dân số già. Trong mối quan hệ với
trình độ phát triển kinh-xã hội thì các nước đang phát triển chủ yếu là cơ cấu dân
số trẻ có nguồn nhân lực dồi dào. Một cơ cấu dân số hợp lý sẽ là một điều kiện
lý tưởng để phát triển kinh tế-xã hội.
Như vậy, có thể hiểu: “nguồn lực con người” là kết hợp hữu cơ giữa thể
lực và trí lực của con người tạo thành năng lực của cộng đồng người. Năng lực
đó khi được sử dụng và phát huy sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

8


Chương II: Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về
nguồn lực con người
1. Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nguồn lực con
người
1.1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nguồn lực con người trước
đổi mới
Từ sau khi giành độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh
chóng giải quyết các vấn đề tồn động để nhanh chóng xây dựng lại đất nước từ
đống đổ nát cũng như tạo tiềm lực ứng phó với các thế lực chống phá bên ngoài.
Một trong những hành động đầu tiên của Người là phát động tồn nhân thực
hiện xóa nạn mù chữ, chống giặc dốt, giặc ngoại xâm, đưa ra những lời kêu gọi
và chính sách mới để những người tài ra làm việc giúp nước. Chính quyền cơng
nơng coi phát triển kinh tế, văn hóa giáo dục, nâng cao dân trí phát huy nhân tố
con người là nhiệm vụ chiến lược quan trọng hàng đầu. Mọi nỗ lực của Đảng và
Nhà nước đều hướng tới con người, vì con người.

Những năm 1960, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra
rất ác liệt nhưng nhờ sự chuẩn bị trước nguồn nhân lực chất lượng cao để phục
vụ cuộc kháng chiến cứu nước và về lâu dài là phục vụ cơng cuộc kiến thiết
nước nhà, Bộ Chính trị (khóa III) đã ra Nghị quyết về đào tạo bồi dưỡng cán bộ,
trong đó khẳng định “Muốn học sinh giỏi vào các trường đại học, phải có kế
hoạch phát triển và bồi dưỡng học sinh giỏi ngay từ lớp 7, lớp 8”. Sau năm
1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất và bước sang một giai đoạn tập trung
hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng xã hội chủ nghĩa trên cả nước thì
Bộ Chính trị (khóa IV) ra Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 11/01/1979 về cải
cách giáo dục, trong đó yêu cầu “Trong hệ thống giáo dục phổ thông cần mở
những trường - lớp phổ thông cho những học sinh có năng khiếu đặc biệt...”
nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài cho đất nước. Tiếp theo
Nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo dục, Bộ Chính trị (khóa IV) đã ban

9


hành Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 20/4/1981 về “Chính sách khoa học và kỹ
thuật”, trong đó chỉ rõ “Trên cơ sở đảm bảo sự bình đẳng thực sự về quyền lợi
học tập cho mọi người và phổ cập giáo dục cho toàn dân, cần quan tâm đào tạo
cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, những nhân tài của đất nước”.
Chính những đường lối, chính sách kịp thời và đúng đắn ấy đã giúp cho
không chỉ đời sống, khả năng của nhân dân được cải thiện mà còn khẳng định sự
sáng suốt, tầm quan trọng không thể thiếu của nguồn lực con người. Từ đó đến
nay trong đường lối của Đảng và chính sách của Nhà Nước, chiến lược con
người ln đặt ở vị trí trung tâm, nhân tố con người Việt Nam được phát huy
cao độ, có hiệu quả, nhất là trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ.
1.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nguồn lực con người sau
đổi mới

Đại hội VI của Đảng đề cập đến quyền làm chủ của nhân dân lao động,
“thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân
dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới”.
Đến Đại hội VII (năm 1991), vấn đề con người được đề cập cụ thể, trực
tiếp trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội”, Đảng ta khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội con người được
giải phóng, nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện để phát triển cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo.
Vì vậy, phương hướng, mục tiêu lớn của chính sách xã hội được đề cập trong
Cương lĩnh là: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ cơng dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu
cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng
xã hội”. Ngoài ra, Đảng ta xác định đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào

10


tạo, khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người động lực trực tiếp của sự phát triển. Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa VII nhấn
mạnh: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu
phấn đấu cao nhất của chế độ ta... Chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc những giá trị
lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo,
mọi nguồn gốc của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia,
phải xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc nhằm phát triển con người toàn
diện, xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, thiết lập quan hệ thật sự tốt đẹp
và tiến bộ giữa con người với con người trong sản xuất và trong đời sống”.
Đại hội VIII, sau hơn 10 năm đổi mới đã đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Bên cạnh đó, thuật ngữ “nguồn lực con người” lần đầu đầu tiên được

sử dụng trong Văn kiện của Đảng: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Vấn đề con người và chiến lược con
người đã được cụ thể hóa thành các quốc sách lớn thích ứng với u cầu của thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là các chính sách nhằm phát huy nguồn
lực con người và thực hiện công bằng xã hội. Mục đích cao nhất của hệ thống
chính sách này nhằm phát triển trí tuệ của người Việt Nam, nguồn vốn quyết
định nhất, quý giá nhất của chúng ta trong sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Nhất quán tư tưởng chiến lược phát triển con người trong thời kỳ đổi mới,
văn kiện Đại hội IX của Đảng khẳng định: Xã hội ta là xã hội vì con người và
con người ln giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế, xã hội. Ngoài ra,
cũng chỉ rõ: “phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững”

11


Đến Đại hội X, Đảng tiếp tục khẳng định: chiến lược con người phải nằm
ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mọi chủ trương, chính sách nhằm phát huy
nhân tố con người đều xuất phát từ quan điểm cho rằng nhân dân là người sáng
tạo ra lịch sử, là chủ nhân thực sự của xã hội, là chủ thể của mọi hoạt động kinh
tế, văn hóa, xã hội và mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng là phục vụ
nhân dân.
Tiếp nối các kỳ Đại hội trước và kết hợp tình hình thực tiễn phát triển của
nước ta, Đại hội XI đã có những thay đổi so với đặc trưng về con người được
nêu lên tại đại hội IX, đó là từ “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất

cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển tồn diện” thành “Con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện”.
Về mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng đã xác định ba
khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược” được khẳng định là
khâu đột phá thứ hai. Đồng thời, Đại hội XI đưa ra quan điểm phát huy nhân tố
con người trên cơ sở “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi
con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”. Đặc
biệt Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đã chỉ rõ: “Giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của
toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong
các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. Nghị quyết số
33-NQ/TW ngày 9-6-2014 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước tiếp tục khẳng định việc: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam
phát triển tồn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học.

12


Tại Đại hội XII, vấn đề “phát triển con người toàn diện” được Đảng ta xác
định là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 20162020: “xây dựng... con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội XII nhấn mạnh phải “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội
ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài”; “phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao...”, “Thu hút và phát huy

mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản
lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh
xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Đại hội xác định:
“Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung
xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm
việc; xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh” là nhiệm vụ trọng tâm cuối cùng
trong sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII. Thêm vào đó cịn xác
định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một
mục tiêu của chiến lược phát triển”. Như vậy, Văn kiện Đại hội XII đã kế thừa
quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển con người từ các kỳ Đại hội
Đảng, đồng thời bổ sung, phát triển nhiều nội dung mới, cụ thể hơn, tồn diện,
hệ thống hơn. Con người được nhìn nhận trên cả hai phương diện cá nhân và
cộng đồng, đồng thời thể hiện rõ những điều kiện về vật chất và tinh thần đảm
bảo cho con người phát triển toàn diện hơn.
2. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay và một số giải pháp
tiếp tục xây dựng và phát huy nguồn nhân lực của Đảng Cộng sản
Việt Nam
2.1. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay

13


Việt Nam là một đất nước không ngừng chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế trong xu thế tồn cầu hóa. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế
(WTO); được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp
quốc (nhiệm kỳ 2 năm 2008 - 2009, làm Chủ tịch 1 năm); năm 2010 Việt Nam
làm Chủ tịch luân phiên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN); gia
nhập Hiệp định CPTPP. Điều này giúp nước ta có nhiều cơ hội để phát triển, thu
hẹp dần khoảng cách tụt hậu về phát triển kinh tế so với nhiều nước trong khu

vực và trên thế giới và hơn bao giờ hết, con người Việt Nam đang khát khao
cống hiến nhằm đưa đất nước tiến nhanh và bền vững. Hiện nay, lợi thế lớn nhất
của Việt Nam là có lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Theo
Tổng cục Thống kê, năm 2018, Việt Nam có khoảng 94 triệu lao động, trong đó,
lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chiếm khoảng 55,16 triệu người. Tỷ lệ lao
động 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2018 ước tính là 54 triệu người, bao gồm
20,9 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (chiếm
38,6%); khu vực công nghiệp và xây dựng 14,4 triệu người (chiếm 26,7%); khu
vực dịch vụ 18,7 triệu người (chiếm 34,7%). Thêm vào đó, năng suất lao động
của Việt Nam cũng có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và
là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong khu vực ASEAN. Theo
Tổng cục Thống kê, năng suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm
2018 ước tính đạt 102 triệu đồng/lao động (tương đương 4.512 USD), tăng 346
USD so với năm 2017. Tính theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2018 tăng
5,93% so với năm 2017, bình quân giai đoạn 2016-2018 tăng 5,75%/năm, cao
hơn mức tăng 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015.
Tuy nhiên, bên cạnh các thành tựu và thuận lợi về nguồn lực con người thì
chất lượng nguồn nhân lực tại nước ta cũng là một thách thức lớn. Trong bối
cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và sự mở cửa nền kinh tế, các nhà quản trị
doanh nghiệp buộc phải thích ứng nhanh về mọi mặt, trong đó việc tuyển chọn,
sắp xếp, đào tạo đội ngũ nhân sự mang đến hiệu quả kinh doanh tích cực và
ngày càng được doanh nghiệp quan tâm. Thế nhưng theo kết quả điều tra, có tới

14


55,63% số chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa có trình độ học vấn từ trung cấp trở
xuống, trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ
thông các cấp. Về lực lượng lao động, có tới 75% lực lượng lao động trong các
doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Trong khi đó

nhân lực được coi là yếu tố then chốt của sự phát triển bền vững doanh nghiệp.
Đặc biệt, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực Việt
Nam đạt mức 3,79 điểm (trong thang điểm 10) xếp hạng thứ 11 trong số 12 quốc
gia được khảo sát tại châu Á. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt
5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm. Như vậy, nhân lực nước ta còn yếu về chất
lượng, thiếu năng động và sáng tạo, tác phong cơng nghiệp. Bên cạnh đó, cạnh
tranh giữa nước ta với các nước trên thế giới trong việc cung cấp nguồn lao động
chất lượng cao ngày càng tăng đòi hỏi chất lượng giáo dục nghề nghiệp phải
được cải thiện đáng kể theo hướng tiếp cận được các chuẩn của khu vực và thế
giới nhằm tăng cường khả năng công nhận văn bằng chứng chỉ giữa Việt Nam
và các nước khác. Không những thế, Việt Nam sẽ phải đối mặt với vấn đề già
hóa dân số sẽ làm cho lợi thế lực lượng lao động trẻ mất dần đi theo thời gian.
Một vấn đề khác hiện nay đã được đề cập từ Hội nghị đại biểu tồn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng khi chỉ ra bốn thách thức và đồng thời cũng là
bốn nguy cơ lớn trong quá trình phát triển của những năm tới ở Việt Nam:
“Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới do điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc,
lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội
chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính
sách và chỉ đạo thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ
diễn biến hịa bình của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật
thiết với nhau, tác động lẫn nhau”. (1)
Chú thích (1): Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục Dạy nghề, Viện Nghiên cứu phát triển phương Đông: Đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012.

Việc chỉ ra bốn nguy cơ như vậy là rất chính xác. Đến các Đại hội sau đó và gần
đây nhất là Đại hội XII của Đảng (2016), Đảng đều khẳng định sự nhận định
15



đúng đắn của Nghị quyết Hội nghị này. Trong giai đoạn hiện nay, nguy cơ lớn
nhất, nguy cơ của mọi nguy cơ là: nguy cơ mất chế độ chính trị đang xây dựng;
và như vậy, rất khó khăn cho việc xây dựng con người Việt Nam.
2.2. Một số giải pháp tiếp tục xây dựng và phát huy nguồn nhân lực của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2.2.1. Giải pháp trên lĩnh vực kinh tế
Đầu tiên là nước ta cần tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là
khai thác sử dụng mọi tiềm năng kinh tế trong các giai tầng xã hội, khai thác sử
dụng mọi tiềm năng của con người. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần sẽ
tạo điều kiện cho các chủ thể sở hữu các thành phần kinh tế chủ động phát huy
tiềm năng, tài năng trong sản xuất kinh doanh lưu thơng, sáng chế phát minh…
đó là mơi trường thuận lợi để mỗi công dân phát huy tinh thần chủ động sáng
tạo, dám làm giàu và làm giàu chính đáng. Kinh nghiệm những năm đổi mới cho
thấy, nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy các nguồn lực tiềm ẩn trong xã hội,
trong đó có nguồn lực con người tham gia vào các hoạt động phát triển kinh tếxã hội. Trong giai đoạn tiềm năng này vẫn còn rất lớn, nếu biết kích thích và sử
dụng đúng đắn sẽ góp phần rất lớn vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức là một chủ trương nhất quán của Đảng ta, được Đại hội XII khẳng
định. Những hạn chế về ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tâm lý tiểu nông, tâm
lý sản xuất nhỏ sẽ được khắc phục khi chúng ta thực hiện được cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Biến nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn. Tạo cơ hội
giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tăng cường khối liên
minh cơng- nơng- trí trong cách mạng XHCN. Đó khơng chỉ là giải pháp để phát
huy nguồn lực con người ở một nước đa số là cư dân nơng nghiệp mà cịn là
biện pháp để đưa nông thôn tiến kịp thành thị, miền núi tiến kịp đồng bằng, làm
cho nông thôn, nông dân văn minh, hiện đại.

16



2.2.2. Giải pháp trên lĩnh vực chính trị
Đảng và Nhà nước ta tiếp tục ban hành những chủ trương, chính sách,
pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân. Triển khai thực hiện các công tác nâng cao ý thức về
quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân
dân. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tăng cường quyền làm chủ của nhân
dân bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh
vực chính trị và kinh tế. Đồng thời có chính sách chăm lo hạnh phúc và sự phát
triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của con người, tơn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền
con người mà ta đã ký kết. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng
của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Phát huy dân chủ đi đôi với xử lý
nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc,
làm mất ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội. Ngoài ra, phải đảm bảo cho
con người sống trong mơi trường lành mạnh, có điều kiện phát huy năng lực
sáng tạo cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ phẩm giá, tài sản,
tính mạng của mình. Tạo cơ chế và điều kiện để con người sống và làm việc
theo Hiến pháp , pháp luật. Quan trọng nhất là khắc phục được quan liêu, tham
nhũng, phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân, đảm bảo phát huy nguồn
lực con người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã để dân tin, dân làm, giữ vững
sự ổn định, trong sạch và phát triển đất nước.
2.2.3. Giải pháp trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa
Thứ nhất, Đảng ta đẩy mạnh cuộc cách mạng tư tưởng, văn hoá, bồi
dưỡng đạo đức cách mạng, phát triển trí tuệ con người Việt Nam. Hội nghị
Trung ương 9 khóa XI, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 về xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững

17



đất nước, nhấn mạnh vai trị, vị trí đặc biệt quan trọng của chiến lược xây dựng,
phát triển con người. Coi phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong
những khâu đột phá để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Nghị quyết đề ra mục tiêu cụ thể là: “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa
và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách,
đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa
vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân
tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cợng
đờng, xã hội và đất nước”. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân. Nâng cao trí lực, bồi
dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và
xã hội học tập. Mặt khác, cần đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con
người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Và
để xây dựng và phát huy nhân tố con người con người ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay, cần giữ gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp của nền văn hóa truyền
thống, những phẩm chất cao quý của con người Việt Nam truyền thống đó là
lịng u nước, tính siêng năng cần cù trong lao động ý thức cộng đồng cao, lối
sống thanh cao, tình nghĩa. Đồng thời cương quyết loại bỏ những tư tưởng cổ hủ
lạc hậu, những phong tục tập quán lạc hậu đã ăn sâu vào nếp nghĩ , lối làm việc
của người Việt nam đó là những trở lực đang cản trở sự phát triển con người, và
tiếp thu những tinh hoa của con người hiện đại, để hồn thiện con người trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ hai, Đảng ta chủ trương phát triển khoa học và công nghệ gắn với
phát triển giáo dục và đào tạo nhằm phát triển nhanh nguồn nhân lực nhất là
nguồn nhân lực có chất lượng cao, đi đôi với sử dụng và phát huy nhân tố con
người. Đại hội XII của Đảng xác định: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn
nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng

bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong

18


các nhà trường”. Đây là một cách tiếp cận mới về nhiệm vụ của giáo dục và đào
tạo. Trong chính Văn kiện Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan điểm
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo phải gắn với phát triển nguồn nhân
lực. Bởi lẽ phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là
đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh, phát triển khoa học và công
nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và lợi thế cạnh
tranh quan trọng nhất, đảm bảo cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Theo đó, nội dung quan điểm này được thể hiện xuyên suốt trong các Văn kiện
Đại hội XII và được xác định là một nội dung trong 6 nhiệm vụ trọng tâm trong
nhiệm kỳ Đại hội. Đó là việc tiếp tục thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược
là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ.
2.2.4. Giải pháp trên lĩnh vực xã hội
Làm theo lời Bác căn dặn: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân khơng
phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”, Đảng ta ln tìm mọi cách để giải phóng
và phát huy tiềm năng của từng con người, của từng cơ cấu tổ chức, của mỗi
cộng đồng người để phát huy ở mức cao nhất tính tích cực và sáng tạo cá nhân
cần phải lên án chủ nghĩa cá nhân nhưng đồng thời phải tôn trọng cá nhân, tạo
điều kiện phát triển riêng biệt, phù hợp. Tiếp theo đó là tích cực giải quyết có
hiệu quả các vấn đề an sinh xã hội, xây dựng môi trường sinh thái lành mạnh.
Trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, hệ thống chính sách an sinh xã hội được
Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng và phát triển đem lại hiệu quả rõ rệt. Các
nguồn lực của nhà nước, xã hội được huy động để giải quyết các vấn đề an sinh
xã hội, góp phần rất lớn vào việc phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh

thần cho người dân. Giải quyết tốt các vấn đề về an sinh xã hội, xây dựng được
môi trường sinh thái lành mạnh sẽ góp phần rất lớn vào xây dựng nguồn lực con
người của nước ta hiện nay. Đến lượt mình, nguồn lực con người ngày càng phát

19


triển thì góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra các nguồn lực vật chất để
mở rộng hệ thống an sinh xã hội, giải quyết các vấn đề về mơi trường sinh thái
như ơ nhiễm, khí thải, chặt phá rừng… Tóm lại, an sinh xã hội vừa tạo điều kiện
cơ bản và thuận lợi giúp cho các đối tượng đặc biệt có cơ hội để phát huy hết thế
mạnh của cá nhân đồng thời thể hiện thái độ, trách nhiệm của nhà nước trong
cơng cuộc góp phần ổn định phát triển và tiến bộ xã hội.
Chương III: Vai trò của nguồn lực con người trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa tại Việt Nam
1. Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế
Con người là nhân vật trung tâm của xã hội, là chủ thể chân chính sáng
tạo ra mọi giá trị vật chất - tinh thần để phục vụ lại chính đời sống của mình.
Nhấn mạnh vai trị của con người trong q trình sản xuất Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng khẳng định: “Xã hội có cơm ăn, áo mặc, nhà ở là nhờ lao động của con
người”. Ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển, hàm lượng chất
xám trong giá trị hàng hóa ngày càng cao, thì vai trị của người lao động có trí
tuệ là càng quan trọng trong lực lượng sản xuất. Con người khi được làm chủ
những tư liệu sản xuất, được đào tạo một cách chu đáo những kiến thức quản lý
kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng đất đai, biết kết
hợp các yếu tố của quá trình sản xuất như huy động vốn, động viên khuyến
khích người lao động làm việc có hiệu quả, quản lý chặt chẽ nguyên liệu vật tư,
do vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ tốt hơn. Ngày nay, vai trò người quản lý
trong sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên quan trọng, các quốc gia thường
quan tâm tới đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này

2. Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng nhà nước
chun chính vơ sản. Hồ Chí Minh nhiều lần lưu ý rằng, nước ta phải đi đến dân
chủ thực sự, “chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao

20


đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”. Trên lĩnh vực chính trị,
người dân có tri thức, có năng lực, cũng có trách nhiệm của mình trong việc lựa
chọn những người có đức, có tài vào các cơ quan nhà nước sẽ góp phần xây
dựng chính quyền vững mạnh. Cán bộ nhà nước có hiểu biết lý luận, hiểu biết
thực tiễn, thấy được trách nhiệm của mình đối với nhân dân, sẽ hết lòng phụng
sự nhân dân và thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân sẽ được dân mến,
dân tin, dân ủng hộ. Bên cạnh đó, cán bộ tích cực tun truyền đường lối của
đảng, phổ biến luật pháp của nhà nước đến nhân dân, làm cho dân hiểu, dân tin;
người dân chủ động tích cực thực hiện đường lối đó, có ý thức tôn trọng luật
pháp, thực hiện những nghĩa vụ công dân, hiểu rõ quyền lợi của mình, kiên
quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong xã hội sẽ làm tăng sức
mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
3. Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hóa
Hệ thống báo chí, phát thanh truyền hình do nhà nước quản lý nhằm phục
vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho quần chúng nhân dân
lao động. Mặt khác, quần chúng nhân dân lao động cũng là những người góp
phần xây dựng nên những cơng trình văn hóa, những người sáng tạo ra các tác
phẩm nghệ thuật có giá trị cao như: những bộ phim hay, những điệu múa đẹp,
những tác phẩm văn học có nội dung phong phú… những cơng trình văn hóa,
nghệ thuật như vậy dễ đi vào lịng người, có tác dụng giáo dục đạo đức, góp
phần hình thành nhân cách cho mỗi con người trong xã hội. Con người có văn

hóa cũng là những người có nghĩa vụ bảo tồn những di sản văn hóa tinh thần của
đất nước, của nhân loại. Quan trọng hơn, trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày
càng mở rộng, mỗi con người chúng ta có điều kiện tiếp cận với các nền văn hóa
trên thế giới. Trình độ tri thức của mỗi người về văn hóa sẽ là tiền đề cho họ tiếp
nhận những giá trị tốt đẹp của dân tộc khác, loại bỏ những yếu tố không phù hợp
để làm giàu cho nền văn hóa dân tộc mình, làm phong phú đời sống tinh thần cá

21


nhân. Thêm vào đó, con người có tri thức khoa học, có năng lực nghiên cứu tạo
ra những khả năng cho họ có những đóng góp xứng đáng trong sự phát triển
khoa học của đất nước. Đảng và Nhà nước ta ln quan tâm đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ trí thức, tạo điều kiện cho họ cống hiến hết khả năng trí tuệ cho đất
nước, cho sự phát triển của xã hội. Nhất là trong nền kinh tế tri thức, tồn cầu
hóa và cách mạng cơng nghiệp đã sang giai đoạn 4.0 hiện nay thì vai trị của đội
ngũ trí thức ngày càng được nâng lên.
4. Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực xã hội
Những vấn đề xã hội bao gồm: vấn đề việc làm, thực hiện cơng bằng xã
hội, xóa đói, giảm nghèo… Muốn giải quyết tốt những vấn đề ấy, đòi hỏi chúng
ta phải phát huy tốt vai trò nguồn lực con người. Đầu tiên, muốn giải quyết tốt
vấn đề lao động việc làm, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn lực
con người từ nâng cao sức khỏe, trình độ học vấn, tay nghệ, năng lực quản lý,
tới ý thức chính trị cho người lao động. Chính sách xóa đói, giảm nghèo là một
chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Chính sách này chỉ phát huy
hiệu quả khi chính những người nghèo thấy được trách nhiệm của mình, cố gắng
nỗ lực phấn đấu vươn lên, đồng thời được sự đồng tình ủng hộ của tồn xã hội,
sự giúp đỡ của Nhà nước… Nguồn lực con người không khai thác, khơng phát
huy được là lãng phí lớn nhất. Đặc biệt là đối với đội ngũ trí thức càng hoạt
động, càng nghiên cứu, càng làm việc trí tuệ của họ càng đa dạng, càng phong

phú và sâu sắc. Nước ta đang còn là một nước nghèo, kinh tế kém phát triển, thì
việc phát huy nguồn lực con người để xây dựng đất nước càng trở nên quan
trọng.
5. Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, Việt Nam vẫn giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm
quốc phịng, an ninh và trật tự, an tồn xã hội. Nhận thức về mục tiêu, yêu cầu

22


bảo vệ Tổ quốc; về vị trí, vai trị của quốc phịng, an ninh trong tình hình mới;
về quan hệ đối tác, đối tượng có bước phát triển. Chủ động, kiên quyết đấu tranh
bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển, đảo, vùng trời và giữ
được hịa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Quốc phịng toàn dân là quan điểm cơ bản của Ðảng, Nhà nước ta trong
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, xây dựng nền quốc phịng của đất nước. Xác định
đúng vị trí, vai trị quốc phịng phản ánh tầm nhìn chiến lược của Ðảng về sự cần
thiết phải tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phòng, đồng thời chỉ rõ mối quan hệ
khơng thể tách rời giữa quốc phịng, an ninh, đối ngoại, kinh tế. Văn kiện đại hội
XI của Ðảng đã xác định một trong nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của
Ðảng, Nhà nước và toàn dân là tăng cường quốc phịng, giữ vững an ninh quốc
gia, trật tự, an tồn xã hội. Luận điểm ấy vừa nêu bật vị trí nổi trội, vai trò, tầm
quan trọng của quốc phòng, đồng thời khẳng định ý thức trách nhiệm, quyền lợi,
nghĩa vụ của mọi cơng dân, mọi tổ chức phải đóng góp tài năng và trí tuệ vào
việc thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ mới.
Nhận thức rõ ràng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng
nòng cốt trong việc tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy cần được tiếp tục xây dựng

vững mạnh tồn diện, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có
số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao. Lực lượng dự bị
động viên phải được phát triển hùng hậu, dân quân tự vệ được xây dựng rộng
khắp, chất lượng chính trị ngày càng cao, khả năng chiến đấu đa dạng. Nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự đáp ứng yêu cầu phát triển
của quân đội trong giai đoạn hiện nay.

23


KẾT LUẬN
Ông cha ta đã thường căn dặn: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” hay
theo tư tưởng của Các Mác thì con người là yếu tố số một của lực lượng sản
xuất. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ
thuật, khoa học - cơng nghệ,... có mối quan hệ nhân - quả với nhau, nhưng trong
đó chỉ có nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối các nguồn lực
khác và quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Do đó, đề tài
“QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA” không chỉ có giá trị lý luận mà
cịn có giá trị thực tiễn đối với những người làm công tác nghiên cứu, lãnh đạo,
các cán bộ ban-bộ-ngành và đặc biệt là với từng người dân Việt Nam nhằm nâng
cao nhận thức, thôi thúc hành động vì sự phát triển con người cũng như sự phát
triển đất nước. Đặc biệt, khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện sự phát triển kinh tế xã hội chưa cao thì yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa
quyết định tới sự thành công của sự nghiệp đổi mới. Đảng ta xác định phải lấy
việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững; là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nhằm phát triển bền vững; là điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng cũng như từng

bước vững vàng trên con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

“Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam thời kỳ hội nhập: Cơ hội và thách
thức”, tác giả Hương Giang, Tạp chí Tài chính-Cơ quan thơng tin của Bộ
Tài chính, đăng ngày 13/03/2019.

2. “Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam xếp hạng thứ 11/12 quốc gia tại
châu Á”, tác giả Minh Ngọc, Báo điện tử VNMedia.vn, đăng ngày
23/12/2019.
3. Giáo trình mơn “Nguồn lực con người”, bài giảng mơn “Nguồn lực con
người” của ThS Nguyễn Minh Thành.
4. “Một số vấn đề về xây dựng con người Việt Nam”, tác giả GS, TS Mạch
Quang Thắng, Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
5. “Nhân tố con người trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế”, Bài
đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ II, số tháng 7/2016.
6. “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư”, tác giả Phạm Thị Hạnh, Tạp chí Cộng sản,
đăng ngày 21/02/2020.
7. “Quan điểm của Đảng về phát huy nhân tố con người trong phát triển đất
nước”, tác giả Đoàn Nam Đàn, Tạp chí Xây dựng Đảng, đăng ngày
10/12/2018.
8. Tiểu luận “Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Slideshare.net, đăng ngày

28/09/2014.

25


×