Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

LUẬN VĂN: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu nông sản tại công ty xuất nhập khẩu dịch vụ – thương mại Intimex ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.2 KB, 42 trang )












LUẬN VĂN:

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động xuất khẩu nông sản tại
công ty xuất nhập khẩu dịch vụ –
thương mại Intimex


Lời nói đầu

Chúng ta đều biết rằng hoạt động xuất khẩu có một vai trò hết sức quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia , đặc biệt là đối với Việt Nam
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu đã trở thành một tiền đề hết sức cần thiết cho công
cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước cũng như góp phần cải thiện nâng cao
đời sống nhân dân bởi vì chỉ có thông qua hoạt động xuất khẩu , Việt Nam mới có thể
khai thác được hết các tiềm năng sẵn có của mình đồng thời tận dụng được tối đa
những nguồn vốn từ bên ngoài để thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển nền kinh tế
quốc dân . Chính vì vậy , việc đẩy mạnh hiệu quả hoạt động xuất khẩu , nâng cao kim
ngạch xuất khẩu luôn là mối quan tâm chung của chính phủ Việt Nam và các doanh
nghiệp ngoại thương . Nghị quyết trung ương VIII của Đảng đã nhấn mạnh “ Giữ vững


độc lập tự chủ đi đôi với phân công lao động và hợp tác quốc tế , đa phương hoá , đa
dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại Xây dựng một nền kinh tế mở hướng mạnh về
xuất khẩu , hội nhập với khu vực và thế giới ” .
Thực hiện đường lối của Đảng , đặc biệt là chủ trương chuyển dịch cơ cấu
hướng mạnh về xuất khẩu , trong những năm qua một số doang nghiệp Việt Nam đã
chú trọng đầu tư vào sản xuất hàng hoá xuất khẩu và đã gặt hái được nhiều thành công
, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng về cả quy mô và tốc độ . Cơ cấu hàng hoá
nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực , bên cạnh những mặt hàng xuất khẩu mũi
nhọn như nông lâm sản , đã xuất hiện nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt giá trị kim ngạch
cao . Tuy nhiên , gần đây tình hình kinh tế thế giới liên tục mất ổn định cộng thêm
nhiều bất cập xuất phát từ trong nội bộ nền kinh tế của nước ta , hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu vẫn còn non nớt thiếu kinh nghiệm đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới
chiến lược phát triển kinh tế xã hội và đặc biệt tác động mạnh đến hoạt động xuất khẩu
. Do vậy , việc nghiên cứu đánh giá và đưa ra những biện pháp khắc phục nhằm nâng
cao hiệu quả xuất khẩu là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện
nay .

Với tinh thần trên , trong thời gian thực tập tại công ty xuất nhập khẩu dịch vụ -
thương mại Intimex , được sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của thầy Tuấn cùng với
các cô chú trong công ty , tôi đã quyết định chọn đề tài “ Một số biện pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động xuất khẩu nông sản tại công ty xuất nhập khẩu dịch vụ –
thương mại Intimex ” để viết thu hoạch thực tập .
Nội dung đề tài gồm 3 chương :
Chương I : Khái quát về tình hình xuất khẩu mặt hàng nông sản ở Việt Nam
Chương II : Tình hình hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của công
ty xuất nhập khẩu dịch vụ – thương mại Intimex .
Chương III : Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu
nông sản tại công ty Intimex .
Vì trình độ và khả năng cũng như lượng thông tin hạn chế nên bài viết chắc
chắn không thể tránh khỏi còn nhiều thiếu sót . Rất mong nhận được ý kiến nhận xét ,

đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài này được ngày một hoàn thiện hơn
.








Chương I

Khái quát về tình hình xuất khẩu mặt hàng nông sản ở Việt Nam

I. Vai trò của hoạt động xuất khẩu nông sản đối với nền kinh tế Việt Nam

1. Tiềm năng sản xuất hàng nông sản của Việt Nam
+ Về đất đai : Tổng diện tích đất nông nghiệp của Việt Nam là hơn 10 triệu
hecta nhưng mới chỉ sử dụng hết 65% . Số đất có thể mở rộng thêm phần lớn là đất đỏ
dễ bị thoái hoá , xói mòn . Diện tích này ở vùng miền núi Bắc bộ chiếm khoảng 45%
tổng diện tích , ở vùng khu Bốn cũ khoảng 35% tổng diện tích , vùng núi khu Năm
khoảng 45% , vùng Tây Nguyên khoảng 76% và vùng đồng bằng Nam bộ khoảng 34%
. Diện tích đất này nếu được đầu tư cải tạo thì sẽ rất thuận lợi cho việc phát triển trồng
cây công nghiệp dài ngày như cao su , cà phê , hạt tiêu . ở vùng đồng bằng sông Hồng
và sông Cửu Long , tuy diện tích đất đưa vào sử dụng khá cao nhưng tình trạng thâm
canh nông nghiệp còn lạc hậu hệ thống thuỷ lợi yếu kém , hệ số sử dụng đất trung
bình chỉ đạt 1,4 lần/năm nên nếu được đầu tư mạnh để phát triển sản xuất theo chiều
sâu thì 2 vùng này sẽ trở thành những “ mỏ vàng ” của đất nước .
+ Về khí hậu : Nằm trong vùng cận xích đạo lại có lãnh thổ trải dài từ Bắc
xuống Nam nên khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa có tính đa dạng và có

sự phân hoá rõ rệt giữa các vùng . Đây chính là điều kiện thuận lợi để phát triển và đa
dạng hoá các loại nông sản đặc biệt là lúa và các loại cây công nghiệp
+ Về nhân lực : Dân số nước ta hiện nay là hơn 80 triệu người , cơ cấu dân số
trẻ và có tới 75% làm nông nghiệp . Người Việt Nam vốn cần cù , thông minh sáng
tạo , có khả năng nắm bắt cơ hội tốt , có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp
. Đây là một thuận lợi lớn giúp cho Việt Nam vươn tới một nền sản xuất nông nghiệp
tiên tiến , tạo nguồn nông sản dồi dào cho tiêu dùng và cho xuất khẩu .


2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu nông sản
Nhận biết được những thế mạnh trên , tại Đại hội Đảng VI , Đảng ta đã nhận
định rằng cần phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đầu tư phát triển nông
nghiệp , coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Còn công nghiệp nặng thì chỉ phát triển
có chọn lọc và chủ yếu là để nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ là chính . Mặt khác , Đảng ta cũng thấy được rằng , trong xu thế hội
nhập và phát triển mạnh mẽ như hiện nay , muốn ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
, ổn định đời sống nhân dân , đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo đói và kém phát
triển , bắt kịp với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới thì việc cấp thiết và tất yếu
là phải mở rộng hoạt động ngoại thương tận dụng triệt để những nguồn lực bên ngoài
để phát huy tối đa hiệu quả của những lợi thế bên trong , thực hiện chiến lược hướng
mạnh về xuất khẩu , thay thế nhập khẩu có chọn lọc Trong hoàn cảnh nền kinh tế còn
yếu kém và lạc hậu thì việc mở rộng hoạt động ngoại thương trước hết phải dựa trên
những thế mạnh sẵn có là đất đai và nguồn lao động dồi dào , đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu nhất là xuất khẩu hàng nông sản - mặt hàng mà nước ta có lợi thế về những
điều kiện sản xuất nhằm tạo cơ hội phát triển và hỗ trợ cho những ngành công nghiệp
thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước .
Sau hơn 15 năm đổi mới , nền kinh tế của nước ta đã thu được nhiều thành tựu
khả quan . Sản xuất nông nghiệp đã có được những kết quả đáng kể và có những
chuyển biến tiến bộ . Sản lượng lương thực tăng nhanh và ổn định năm sau cao hơn
năm trước , tăng từ 18,4 triệu tấn năm 1986 lên 21,5 triệu tấn năm 1990 ; 31,8 triệu tấn

năm 1998 tăng lên 48 triệu tấn năm 2000 rồi 53,7 triệu tấn năm 2001 , bình quân mỗi
năm tăng hơn 2,3 triệu tấn . Cùng với việc gia tăng về sản lượng lương thực , hoạt
động xuất khẩu nông sản cũng cũng có những dấu hiệu đáng mừng .

Biểu 1 : Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt nam(1993-2001)
Đơn vị : triệu USD

Năm

KNXK hàng nông
sản

T
ổng kim
ngạch
T
ỷ trọng trên tổng
kim ngạch <%>
1993

1444

2984

48.4

1994

1948


4058

48

1995

2521

5445

46.3

1996

3267

7255


45

1997

3250

9185

36.5

1998


4300

9361


45.9

1999

4400

11540

38.2

2000

4777

14455

33

2001

5386

15027


35.8


Nguồn : Số liệu xuất khẩu nông sản từ 1993 - 2001 của Bộ thương mại

Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản đều tăng qua các năm và luôn chiếm tỷ
trọng lớn trên tổng kim ngạch . Kim ngạch nông sản xuất khẩu năm 1991 là 1081 triệu
USD tăng lên 3267 triệu USD năm 1996 , tăng hơn 3,1 lần và đến năm 2001 đã vượt
ngưỡng 5 tỷ USD ; tốc độ tăng bình quân hàng năm của giá trị kim ngạch xuất khẩu là
16,3% . Năm 1996 , tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 7,2 tỷ USD tăng 33% so năm 1995 ,
gấp 3 lần năm 1990 ; trong đó tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu năm 1996 là 3,26 tỷ
USD tương đương 45% trên tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước . Nhưng từ năm
1999 trở đi , tỷ trọng nông sản xuất khẩu bắt đầu có xu hướng giảm dần , năm 1998 tỷ
lệ này là 45,9 % nhưng sang đến năm 2001 giảm xuống còn có 35,8 % . Điều này một
mặt phản ánh sự thay đổi hợp lý trong cơ cấu kinh tế chung phù hợp với yêu cầu phát
triển của các nước theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhưng mặt khác cũng
phản ánh những hạn chế trong việc gia tăng giá trị hàng nông sản là chưa tương xứng

với tiềm năng sản xuất đồng thời bộc lộ nhưng điểm yếu của hoạt động xuất khẩu
nông sản trong tình hình thị trường nông sản thế giới hiện đang có nhiều biến động bất
lợi .

II . Tình hình xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong những năm gần đây .

1. Cơ cấu nhóm mặt hàng
Trong những năm qua , cơ cấu mặt hàng nông sản Việt Nam cũng đã có những
bước chuyển dịch đáng kể . Nước ta đã hình thành nên 10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
, sáu trong số 10 mặt hàng đó là hàng nông sản : gạo , cà phê , cao su, chè , hạt điều ,
lạc nhân . Tình hình xuất khẩu 3 mặt hàng nông sản chính là gạo , cà phê và cao su qua
các năm như sau :




Biểu 2 : Cơ cấu sản lượng XK nông sản chủ yếu theo mặt hàng
của Việt Nam qua các năm
Đơn vị : nghìn tấn

Năm


199
1

199
2

199
3

199
4

199
5

199
6

199
7


199
8

199
9

200
0

200
1
G
ạo

1033

1946

1722

1983

1988

3003

3553

3800


4550

3477


3729

%


76.15

83.64

79.93

77.59

74.54

80.81

81.17

83.02

82.35

72


69

Cà phê

93.5

116.2

122.7

176.4

248.1

283.7

389.3

379

488

734


931

%



6.8

4.9

5.6

6.9

9.3

7.6

8.8

8.2

8.8

15

17

Chè


8.0

13.2


21.2

23.5

18.8

20.8

32.3

34

37

56

68

%


0.58

0.56

0.98

0.91

0.70


0.55

0.73

0.74

0.67

1.17

1.26

Cao su

62.9

81.9

96.7

135.7

138.1

149.5

194.6

185


263

273

308

%

4.63

3.52

4.48

5.3

5.17

4.02

4.44

4.04

4.76

5.7

5.7


L
ạc
nhân
78.9

62.8

105.4

119.2

110

127

83.3

87

56

76

78

%

5.8


2.69

4.8

4.6

4.12

3.4

1.9

1.9

1.0

1.6

1.45


Nguồn : Số liệu xuất khẩu nông sản từ 1993 - 2001 của Bộ thương mại
+ Mặt hàng gạo

Gạo là mặt hàng đứng vị trí số một trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ
yếu của Việt Nam trong những năm qua . Gạo luôn chiếm từ 70% đến 90% tổng sản
lượng xuất khẩu nông sản của cả nước . Năm 1989 , tỷ trọng gạo xuất khẩu đạt mức
cao nhất là 89,39% ; sau đó vào những năm 1993-1995 vào khoảng 75-79% , giảm
gần 10% ; đến năm 2001 thì chỉ còn ở mức 62% . Tuy nhiên gạo vẫn luôn luôn khẳng
định và giữ được vị trí trung tâm trong cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu .

Trong khoảng 12 năm (1989 - 2001) , cơ chế điều hành xuất khẩu gạo tạo được
sự thông thoáng và có tác dụng khuyến khích mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu gạo ở
nước ta . Xuất khẩu gạo tăng trưởng cả về số lượng và kim ngạch Năm 1989 là năm
đánh dấu một bước ngoặt lớn đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành ngoại
thương Việt Nam nói riêng . Nước ta từ một nước phải nhập khẩu lương thực từ nước
ngoài trở thành một nước không những đáp ứng được thị trường trong nước mà còn dư
thừa để xuất khẩu ra nước ngoài . Với sản lượng xuất khẩu ban đầu năm 1989 - 1,425
triệu tấn tăng lên gần 2 triệu tấn năm 1995 . Năm 1996 với sản lượng xuất khẩu 3003
triệu tấn , Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới sau Thái Lan .
Năm 1997 , Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo và vượt qua ngưỡng
3,5 triệu tấn tăng hơn 0,5 tấn so với năm 1996 . Năm 1999 , sản lượng xuất khẩu gạo
của Việt Nam đã tăng lên 4550 triệu tấn . Tuy nhiên , những năm gần đây , sự cạnh
tranh giữa các thị trường xuất khẩu gạo như Thái Lan , Trung Quốc diễn ra ngày càng
mạnh Gạo của Việt Nam tuy có ưu thế là rẻ hơn và cước phí vận chuyển thấp hơn
nhưng về mặt chất lượng thì lại không bằng , chỉ phù hợp với những thị trường nhập
khẩu thông thường chứ không đáp ứng được nhiều cho những thị trường có nhu cầu
cao , do đó khả năng cạnh tranh bị giảm sút . Đồng thời , do cạnh tranh nên giá gạo
xuất khẩu ngày một giảm . Nếu như năm 1999 , Việt Nam xuất khẩu được 4550 tấn
gạo tương đương với 1,025 tỷ USD thì đến năm 2001 , lượng xuất khẩu chỉ còn 3729
tấn tương đương 643 triệu USD .
+ Mặt hàng cà phê

Cà phê là cây công nghiệp lâu năm có diện tích gieo trồng lớn trên thế giới
nhưng mới được trồng ở Việt Nam từ năm 1944 . Từ đó , càng ngày cây cà phê càng
phát triển , nhanh chóng gia tăng cả về số lượng với năng suất và hiện đang đứng thứ
hai về sản lượng nông sản xuất khẩu . Năm 1989 , lượng cà phê xuất khẩu mới chỉ
chiếm tỷ trọng 3,6% trên tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản thì năm
1994 đã tăng lên 6,9% , đặc biệt năm 1995 tỷ lệ này đạt tới mức cao nhất là 9,3% .
Đứng thứ hai sau gạo , cà phê có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân . Chỉ
trong một thời gian ngắn , cây cà phê Việt nam đã thâm nhập được vào thị trường thế

giới và vươn lên đứng hàng thứ ba trong 10 nước xuất khẩu cà phê lớn nhất TG . Từ
năm 1989 trở về trước , kim ngạch xuất khẩu cà phê là không đáng kể . Năm 1985 ,
xuất khẩu 9200 tấn ; năm 1987 , xuất khẩu 25600 tấn ; năm 1988 , xuất khẩu 33806
tấn . Nhưng từ năm 1990 , nhờ sự thay đổi cơ chế quản lý kinh tế đã dẫn tới sự thay
đổi cơ bản tình hình xuất khẩu cà phê .Tiềm năng cà phê được khai thác một cách có
hiệu quả , cà phê nhanh chóng trở thành 1 trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của
Việt Nam .
Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu cà phê mấy năm gần đây của nước ta đang rơi
vào một hoàn cảnh rất khó khăn do thị trường cà phê thế giới biến động hết sức bất lợi
. Tình trạng cung vượt quá cầu , đồng thời thị trường cà phê thế giới lại có sự cạnh
tranh rất quyết liệt , giá cà phê lên xuống thất thường . Năm 1992 , có thời điểm giá cà
phê xuống thấp nhất chỉ có 600USD /tấn . Chỉ xét trong vòng bốn năm trở lại đây , sự
lên xuống thất thường của giá cả đã có ảnh hưởng lớn tới kim ngạch xuất khẩu cà phê
của Việt Nam . Sản lượng xuất khẩu năm 1999 đạt 488 nghìn tấn tăng 109 nghìn tấn so
với năm 1998 nhưng do giá giảm khiến cho kim ngạch thu được giảm 9 triệu USD .
Tương tự như vậy , sản lượng năm 2000 cũng tăng 251 nghìn tấn so với năm 1999
nhưng kim ngạch vẫn giảm 74 triệu USD và điển hình là vào năm 2001 khi sản lượng
tăng tới 197 nghìn tấn nhưng kim ngạch lại giảm mất 110 triệu USD .
+ Mặt hàng cao su

Cao su là mặt hàng đứng vị trí thứ 3 trong cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu
. Tỷ trọng sản lượng cao su dao động trong khoảng 3%-6% trong tổng khối lượng
nông sản xuất khẩu . Năm1990 , cao su chiếm tỷ trọng 3,8% và tăng dần lên 5,3% năm
1995 , sau đó giảm xuống 4,7% năm 1999. Đến 2 năm gần đây thì tỷ lệ này cố định ở
mức 5,7% . Nhìn chung tình hình xuất khẩu cao su ít có biến động hơn so với gạo và
cà phê . Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này giảm mạnh nhất là vào năm 1998 ( giảm
63 triệu USD so với năm 1997 - tương đương 33% ) Nguyên nhân bởi vì ngành công
nghiệp ô tô ở khu vực Châu á năm đó , đặc biệt ở những nước bạn hàng như Singapore
, Malaysia … đã giảm mạnh việc sản xuất và tiêu thụ do chịu ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế Châu á ( 1998 ) nên đã khiến cho giá cao su xuất khẩu cũng giảm mạnh

theo . Mấy năm gần đây , giá cao su có giảm không đáng kể nên tuy sản lượng tăng
nhưng kim ngạch cũng không tăng được bao nhiêu .

2. Cơ cấu thị trường
Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế là sự chuyển đổi về thị trường xuất khẩu
hàng nông sản Việt Nam từ khu vực thị trường truyền thống (Liên xô cũ và các nước
Đông Âu) sang thị trường Châu á . Hiện nay , thị trường các nước khu vực Châu á -
Thái Bình Dương chiếm khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam , các nước
Châu âu chiếm 13% , các nước SNG 3% , phần còn lại thuộc các nước Châu Phi và
Châu Mỹ . Ba bạn hàng lớn nhất của Việt Nam là Singapore Nhật Bản và Hồng Kông
. Trong đó , Singapore là bạn hàng lớn nhất chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất
khẩu , Nhật Bản chiếm 13% , với 8% là cà phê và cao su , Hồng Kông chiếm 10%
gồm chủ yếu là gạo , hoa hồi . Đối với mỗi mặt hàng nông sản xuất khẩu khác nhau ,
thị trường cũng có sự chuyển đổi khác nhau .
+ Về thị trường gạo : Thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam từ năm
1989 là khu vực Châu á chiếm khoảng 50% sản lượng gạo xuất khẩu . Đặc biệt vào
năm 1995 , thị trường Châu á nhập khẩu tới 70% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam .
Sau thị trường Châu á , Châu Phi cũng là thị trường nhập khẩu tương đối lớn , đạt 49%

năm 1989 nhưng có xu hướng giảm dần vào những năm gần đây . Thị trường Châu Mỹ
thì dao động lên xuống thất thường còn thị trường Châu Âu lại có xu thế tăng nhanh ,
tuy nhiên nhìn chung Châu á , Châu phi vẫn là thị trường nhập khẩu gạo chủ yếu của
Việt Nam hiện nay , chiếm từ 70% - 80% lượng gạo xuất khẩu hàng năm . Hiện nay
Nhật Bản và Trung Quốc cũng đã mở rộng thị trường để nhập khẩu gạo Việt Nam .
67%
17%
8%
6%
2%
Ch©u ¸

Ch©u Phi
CHLB Nga
T©y ¢ u


Biểu đồ tỷ lệ lượng gạo xuất khẩu sang các nước năm 2001

Mặc dù gạo Việt nam đã có mặt trên hơn 80 quốc gia thuộc tất cả các châu lục
nhưng phần gạo xuất khẩu qua trung gian vẫn còn chiếm đáng kể . Thực sự Việt Nam
chưa xây dựng được cho mình hệ thống bạn hàng trực tiếp tin cậy , lại bị giảm thu
nhập xuất khẩu cho khoản hoa hồng . So với Thái Lan và Mỹ là những nước xuất khẩu
gạo truyền thống từ nhiều thập niên nay và đã có được nhiều mối quan hệ làm ăn lâu
dài và ổn định thì Việt Nam thua kém về cả mặt chất lượng lẫn những mối giao dịch
làm ăn quốc tế .
Giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam luôn thấp hơn giá gạo thế giới
Năm1991 , chênh lệch mới chỉ ở mức 7USD/ tấn nhưng đến năm 1996 đã tăng lên
80USD/tấn và năm 1998 là 100USD/tấn , đến năm 2001 lại giảm xuống còn khoảng
10USD /tấn . Sự chênh lệch giữa giá gạo Việt nam và thế giới góp phần tăng khả năng

cạnh tranh của gạo Việt Nam song nếu sự chênh lệch tăng quá cao như năm 1998 thì
sẽ không đảm bảo được tính hiệu quả trong kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như đảm
bảo lợi ích cho người trồng lúa và người hoạt động kinh doanh , thúc đẩy sản xuất .
+ Về thị trường cà phê : Thị trường cà phê của Việt Nam ngày càng được mở
rộng , phát triển và có sự chuyển dịch lớn . Trước đây , cà phê Việt Nam chủ yếu được
xuất khẩu sang Liên Xô cũ và các nước Đông Âu . Trước khi Mỹ bỏ cấm vận đối với
Việt Nam , cà phê của Việt Nam phải xuất khẩu qua các nước trung gian , chủ yếu là
Singapore ( chiếm gần 70% lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam ) , kế đó là Đức ,
Pháp , Ba lan và ý .

7%

74%
19%
Ch©u ¸
T©y ¢ u


Biểu đồ tỷ lệ lượng cà phê xuất khẩu sang các nước năm 2001
Sau khi Mỹ bỏ chính sách cấm vận , lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam sang
Singapore đã giảm dần - niên vụ 1995/1996 chỉ còn chiếm 3,65% , lượng xuất khẩu
sang thị trường Mỹ tăng lên nhanh chóng , từ 15,2% niên vụ 1994/1995 lên tới trên
33,42% niên vụ 1997-1998 . Hiện nay , Việt Nam đã xuất khẩu cà phê trực tiếp được
sang rất nhiều nước đứng đầu là Mỹ , sau đó đến Thuỵ Sỹ , Đức , Hà Lan , Anh ,ý ,
Nhật Bản…

+ Về thị trường cao su : Thị trường xuất khẩu cao su chủ yếu của Việt Nam
trước đây là Liên xô cũ và các nước đông âu , chiếm 78,21% năm 1986 đã giảm mạnh
xuống còn 1,06% năm 1995 . Hiện nay thị trường tiêu thụ cao su xuất khẩu của Việt
Nam chủ yếu là các nước Châu á chiếm khoảng 75% tổng kim ngạch , đứng đầu là
Trung Quốc rồi đến Singapore , Hàn Quốc , Đài Loan …
75%
14%
1%
10%
Ch©u ¸
T©y ¢ u

§ «ng ¢ u

biểu đồ tỷ lệ lượng cao su xuất khẩu sang các nước năm 2001


Các nước Đông Âu chiếm 10% , còn lại là Mỹ và Tây Âu . Về thị trường tiêu
thụ cao su xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập . Tuy Trung Quốc là thị
trường tiêu thụ lớn của Việt Nam song phần lớn lượng cao su xuất khẩu qua đường
tiểu ngạch , chủ yếu là biên mậu nên yếu tố rủi ro trong thanh toán rất cao.


Chương II

Tình hình hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập
khẩu dịch vụ - thương mại Intimex

I . Lịch sử hình thành và phát triển của công ty

1. Lịch sử hình thành
Công ty Intimex được hình thành từ 3 công ty trực thuộc Bộ Thương mại :
công ty xuất nhập khẩu hàng nội thương và hợp tác xã Hà Nội , tổng công ty bách
hoá tổng hợp . Sự hợp nhất này được thực hiện theo NĐ 388 ngày 28-5-1993 và
công nhận công ty là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Thương mại . Tên giao
dịch đối ngoại : FOREIGN TRADE ENTEPRISE INTIMEX ( viết tắt là INTIMEX
) . Công ty thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập , tự chủ tài chính , có tư cách
pháp nhân , được mở tài khoản tại ngân hàng , được sử dụng con dấu riêng theo thể
thức nhà nước qui định Công ty chịu trách nhiệm kinh tế và dân sự về các hoạt
động và tài sản của mình . Công ty hoạt động theo pháp luật của Nhà nước và Luật
doanh nghiệp .
Về cơ sở vật chất , công ty INTIMEX có khoảng 1800 m2 đất sử dụng gồm
: khu vực văn phòng 96 Trần Hưng Đạo ( 2000 m2 ) , khu vực 22-32 Lý Thái Tổ là
khu vực cửa hàng kinh doanh và các dịch vụ tổng hợp ( 4000 m2 ) xí nghiệp may
ở Văn Điển ( 7000-8000 m2 ) , khu vực kho hàng ở cảng Hải Phòng ( 4000-5000
m2 ) . Ngoài ra còn có các cửa hàng và các kiốt thuê ở nhiều nơi như Hải Phòng ,
Hà Nội .

Tài sản cố định của công ty hiện nay vào khoảng 15 tỷ VND .

2. Quá trình phát triển

Ngay từ khi mới thành lập , công ty đã được giao một nhiệm vụ tưởng như
đơn giản nhưng thực ra hết sức nặng nề trong bối cảnh kinh tế nước ta lúc bấy giờ :
trao đổi hàng hoá của ngành nội thương và hợp tác xã với nước ngoài Nhiệm vụ
này lúc đó có nghĩa là xuất khẩu những mặt hàng ngoài Nghị định chính thức của
chính phủ Việt Nam với các nước để nhập khẩu các mặt hàng vật tư , nguyên liệu
và hàng tiêu dùng thiết yếu bổ sung vào quỹ hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng trong
nước . Tổng số vốn ban đầu công ty được nhà nước giao là 34.662.000 VND bao
gồm :
+ Vốn cố định : 10.828.000 VND chiếm 31,2% .
+ Vốn khấu hao : 3.430.000 VND chiếm 10% .
+ Vốn lưu động ; 20.360.000 VND chiếm 58,8% .
Trong các nguồn vốn nhà nước giao , nguồn vốn do công ty tự tích luỹ bổ
sung để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh chiếm gần 60% . Đội ngũ cán bộ đầu
tiên của công ty chỉ có trên dưới 10 người đã lao động , phấn đấu không ngừng
theo cơ chế “ tự trang trải ” - một cơ chế còn rất xa lạ với nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung và chính sách nhà nước độc quyền ngoại thương thời bấy giờ .
Trong 23 năm hoạt động , mặc dù đã gặp không ít khó khăn song với
sự chỉ đạo và giúp đỡ của Bộ và các cơ quan lãnh đạo , công ty Intimex đã vươn
dần lên theo sự tiến trển của nền kinh tế Việt Nam .
Trong quá trình phát triển của mình , công ty Intimex đã trải qua 3 giai đoạn
:
+ Giai đoạn từ khi thành lập đến năm 1985 : Đây là giai đoạn xây dựng và
trưởng thành . Trong giai đoạn này , công ty đã kết hợp với ngành ngoại thương
thực hiện giao hàng xuất khẩu . Từ 1 triệu rúp chuyển nhượng năm 1980 , đến năm
1985 , công ty đã đạt tới con số xuất nhập khẩu là 11 triệu rúp . Từ một cơ sở nhỏ
bé ở Minh Khai , công ty đã mở thêm chi nhánh tại Hải Phòng , Đà Nẵng , thành

phố Hồ Chí Minh và trở thành tổng công ty nội thương và hợp tác xã . Từ chỗ chỉ
quan hệ với 2 , 3 bạn hàng nước ngoài tổng công ty đã trở thành bạn hàng tin cậy

của nhiều công ty hàng đầu ở các nước thuộc Liên Xô cũ , Đông Âu và một số
nước trong khu vực Châu á đồng thời công ty đã thực sự trở thành trung tâm xuất
nhập khẩu của ngành nội thương và hợp tác xã Việt Nam .
+ Giai đoạn phát triển 1986-1990 : Sau thời gian chuẩn bị những điều kiện
cần thiết cùng với việc điều chỉnh tổ chức để tiến đến việc sát nhập công ty Hữu
nghị ( một công ty lâu đời của ngành nội thương ) vào tổng công ty Intimex , tổng
công ty đã đạt tốc độ phát triển có thể gọi là “ phi mã ” trong tất cả các lĩnh vực .
Kim ngạch xuất khẩu năm 1990 đạt 33 triệu rúp và đô la tăng gấp 3 so với năm
1985 . Kinh doanh thương nghiệp và đầu tư vào sản xuất trong nước cũng gặt hái
được những thành công lớn . Diêm , bột giặt , xà phòng kem Intimex và những sản
phẩm chất lượng cao đầu tiên của công ty tại các tỉnh phía Bắc đều được khách
hàng ưa chuộng . Tổng công ty Intimex trở thành một tổng công ty có tiềm lực kinh
tế mạnh , có uy tín lớn ở trong và ngoài nước .
+ Giai đoạn từ năm 1990 tới nay : Đây là giai đoạn đầy những thay đổi và
những thử thách mới . Đầu thập kỷ 90 , trong bối cảnh thị trường lớn truyền thống
của Việt Nam là Liên Xô và các nước Đông âu bị tan rã , nền kinh tế trong nước
thực sự bước vào cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước , bản thân tổng
công ty trong một thời gian ngắn cũng có sự thay đổi tổ chức ( năm 1993 tách
thành 2 công ty : Intimex Hà Nội và Intimex thành phố Hồ Chí Minh - vốn , cơ sở
vật chất và thị trường bị chia cắt ; năm 1995 hợp nhất với công ty Gesevina ) , công
ty Intimex phải đối đầu với một loạt những thách thức mới .
Điều quan trọng đặt ra trước mắt là phải có những chuyển biến nhanh chóng
và phù hợp để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển trong tình hình mới Trong hoàn
cảnh đó , công ty đã tập trung toàn bộ nguồn lực sẵn có của mình để đầu tư , phát
triển về chiều sâu , tiến hành những cải cách mang tính bước ngoặt trên mọi
phương diện , cải tiến chất lượng sản phẩm , mở rộng loại hình hoạt động , mở
rộng thị trường bên ngoài nhằm đẩy mạnh xuất khẩu .


Xác định thị trường là yếu tố quyết định trong kinh doanh xuất nhập khẩu .
Những hạn chế trước đây của công ty là phạm vi của công tác thị trường bị thu hẹp
, cơ chế khoán gọn của công ty vốn chỉ phù hợp trong giai đoạn nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp , nay đã bộc lộ nhiều nhược điểm phân tán , manh mún ,
không có sự gắn bó đoàn kết giữa các đơn vị , phòng ban trực thuộc làm hạn chế
rất nhiều cho công tác xuất khẩu . Vì vậy trong những năm gần đây , công ty đã tập
trung ưu tiên cho việc khai thác mở rộng thị trường ; đầu tư trích trong vốn ngoại tệ
tự có để cử và đài thọ cho các đoàn làm công tác khảo sát , đàm phán ký kết hợp
đồng với khách hàng nước ngoài phát triển các mối quan hệ làm ăn buôn bán với
bên ngoài , tham gia các Hội chợ quốc tế để quảng cáo thâm nhập mở rộng thêm
thị trường . Ngoài việc duy trì và củng cố mối quan hệ với những thị trường truyền
thống như CHLB Nga , Ucraina , khối các nước Đông Nam á , Trung Quốc , Nhật
Bản …. hiện nay công ty đã có quan hệ làm ăn với khoảng 33 khách hàng ngoài
nước , với những mặt hàng xuất khẩu ổn định chiếm tỷ trọng xuất khẩu lớn như :
cà phê hạt tiêu , lạc , cao su . Ngoài ra, năm 2002 công ty cũng đã bắt đầu mở rộng
xuất khẩu một số mặt hàng nông sản mới như sắn lát , hạt điều , hải sản .
Đối với khách hàng trong nước , bằng chữ tín của mình công ty đã đặt được
những mối quan hệ vững chắc , ổn định với nhiều cơ sở làm hàng xuất khẩu . Đối
với các đơn vị , phòng ban trực thuộc , khi giao chỉ tiêu kế hoạch hàng năm , công
ty đặc biệt quan tâm đến khu vực có thế mạnh về nguồn hàng , khả năng khai thác
hàng xuất khẩu của từng đơn vị , tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị thực hiện chỉ
tiêu nhanh chóng và có hiệu quả , đồng thời tiến hành xem xét , xây dựng một hệ
thống quy chế quản lý , điều hành kinh doanh đồng bộ , thông thoáng , phù hợp với
tình hình thực tiễn của đơn vị đảm bảo lợi ích hài hoà giữa từng đơn vị , công ty,
và người lao động .
Với những nỗ lực đổi mới và đầu tư trên phương diện hoạt động kinh doanh
đồng thời cải cách về tổ chức cũng như phương pháp quản lý của một tập thể thống
nhất trong một thời gian dài , công ty xuất nhập khẩu dịch vụ thương mại Intimex


đã gặt hái được những thành quả đáng khích lệ . Doanh thu xuất khẩu hàng năm
tăng liên tiếp một cách đáng kể : năm 1995 là 190 tỷ VND , 1996 - 207 tỷ , 1997 –
239 tỷ , 1998 - 260 tỷ , 2000 – 360 tỷ , 2001 800 tỷ , 6 tháng đầu năm 2002 doanh
thu đạt được đã lên tới 450 tỷ VND Nguồn vốn của công ty hiện nay đã lên tới 40
tỷ đồng , trong đó 17 tỷ là vốn cố định , 23 tỷ là vốn lưu động . Liên tục mấy năm
liền công ty được Bộ Thương mại , chính phủ khen thưởng và tặng cờ đơn vị thi
đua xuất sắc .

II . Tình hình kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của công ty Intimex trong
thời gian qua

1. Tình hình xuất khẩu nông sản của công ty
+ Về mặt hàng :
Công ty Intimex là một công ty kinh doanh xuất khẩu đa dạng hoá mặt hàng
nhưng hướng đi chính hiện nay là tập trung vào những mặt hàng chủ lực đem lại
lợi nhuận cao đặc biệt là nhóm hàng nông sản xuất khẩu gồm 4 loại : cà phê , hạt
tiêu đen , lạc nhân , cao su .

Biểu 3 : Cơ cấu xuất khẩu nông sản theo mặt hàng của công ty Intimex
Đơn vị : 1000 USD

Stt



Mặt hàng
Chính

1999


2000

2001
So sánh( % )

2000/1999

2001/2000

1

Cà phê

9956

24500

26055

246

106,3

2

Tiêu đen

7930

20362,7


15220

256,8

73,8

3

Cao su

849,4

1700

4022

200

236,6

4

L
ạc nhân

792

1683


1696

206,8

100.8



T
ổng KN

19527,4

48245,7

46973

247

97,36


Nguồn : Báo cáo tổng kết của công ty Intimex từ 1999 - 2000

Nhìn vào biểu trên ta thấy :
Tình hình xuất khẩu nông sản năm 2000 đã có một bước tiến bộ vượt bậc so
với năm 1999 . Kim ngạch xuất khẩu của toàn bộ 4 mặt hàng đều tăng hơn 100% ,
tổng kim ngạch tăng 147% , đánh dấu bước phát triển mới trong hoạt động xuất
khẩu nông sản của công ty sau cuộc khủng hoảng Châu á năm 1998 . Nguyên nhân
chủ yếu là do trong năm 2000 công ty đã có những cải cách đúng đắn , phù hợp về

mọi mặt , từ công tác tổ chức , sắp xếp đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên ;
công tác nghiên cứu tiếp cận mở rộng thị trường cho đến từng hoạt động sản xuất
kinh doanh .
Nhưng sang năm 2001 , trước một loạt những khó khăn khách quan của tình
hình thị trường thế giới mà nổi bật nhất là tình trạng xuống giá của mặt hàng nông
sản đã gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty . Hầu hết
các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam bị mất giá so với năm 2000 , giá cà phê giảm
40,5% , giá hạt tiêu giảm 59,4% làm cho kim ngạch xuất khẩu giảm đáng kể . Bên
cạnh đó , tình hình suy thoái của kinh tế thế giới ( Mỹ và Nhật Bản ) , đặc biệt là sự
tăng trưởng chậm của các nước trong khu vực , thậm chí tăng trưởng âm tại Nhật
cộng với tác động của cuộc khủng bố ngày 11 - 9 lên toàn bộ nền kinh tế thế giới
đã ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam . Do vậy , mặc dù trong năm 2001
công ty đã hết sức cố gắng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu , tăng mạnh về số lượng
các mặt hàng xuất khẩu truyền thống nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản
vẫn giảm 2,64% . Cụ thể về từng mặt hàng như sau :
Mặt hàng cà phê xét về mặt lượng là đạt gần gấp rưỡi so với năm 2000
nhưng kim ngạch thì chỉ tăng có 6,3% . Đáng buồn nhất là mặt hàng hạt tiêu đen ,
tuy số lượng xuất khẩu đạt hơn gấp đôi năm 2000 nhưng do giá xuất khẩu bình

quân quá thấp nên kim ngạch không những không tăng mà còn giảm hơn 24% .
Kim ngạch mặt hàng lạc nhân thì hầu như không có sự thay đổi , riêng chỉ có mặt
hàng cao su do giá xuất khẩu trên thị trường thế giới không biến động nhiều nên do
lượng xuất khẩu tăng 130 % nên kim ngạch tăng 136,6% .
+ Về thị trường :
Thị trường kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của công ty Intimex từ năm
1979 – 1990 chủ yếu là các nước Đông Âu và Liên Xô cũ . Thời đó , việc xuất
khẩu thường thông qua các Nghị định thư và mang tính chất hàng đổi hàng là chính
. Do vậy mà việc tìm kiếm , ngiên cứu , xử lý thông tin nhằm phát triển và mở rộng
thị trường của công ty gần như không được quan tâm đến . Từ năm 1991 trở đi ,
tình hình quốc tế đã có sự thay đổi lớn : thị trường Đông Âu ngày càng co hẹp , thị

trường Tây Âu , Châu Phi , Châu á ngày càng mở rộng , cơ chế hoạt động cũng rất
khác so với thị trường Đông Âu cũ .
Để giải quyết những khó khăn này , công ty đã kịp thời đã có những biện
pháp hợp lý nhằm tìm hiểu , tiếp cận những thị trường mới đồng thời tìm ra những
phương thức kinh doanh mới . Lúc đầu thâm nhập vào những thị trường mới này ,
công ty thực sự gặp phải nhiều khó khăn vì ở đây hoạt động kinh doanh thực sự
mang tính kinh doanh , quan hệ kinh tế là quan hệ về quyền lợi và lợi ích của các
bên và hoạt động cạnh tranh diễn ra rất khốc liệt nhưng trải qua một thời gian dài
nỗ lực để đổi mới , thích nghi , đến nay công ty đã đứng vững và mở rộng quan hệ
với nhiều thị trường lớn , giàu tiềm năng lại có vị trí rất gần với Việt Nam như :
Nhật Bản , Hàn Quốc , Malaysia Singapore , Philipin , Thái Lan , Trung Quốc …
Hàng năm , lượng hàng nông sản xuất khẩu sang các thị trường này đều chiếm từ
65% đến 80% tổng lượng hàng nông sản xuất khẩu . Ngoài ra , công ty còn có mối
quan hệ làm ăn với cả những nước như Mỹ , Pháp , Bỉ , khối SNG …
Tuy nhiên , để đáp ứng tốt hơn nữa cho nhu cầu thị trường bên ngoài và tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh , trước khi tiến hành giao dịch xuất

khẩu công ty cần phải tiến hành một cách cẩn thận công tác nghiên cứu thị trường
bao gồm :
+ Đánh giá tình hình xuất khẩu nông sản của các nước trên thế giới xác
định lượng hàng cần cho tiêu dùng nội địa , xác định kim ngạch xuất khẩu xem xét
chính sách hỗ trợ cũng như bảo hộ của các chính phủ liên quan đến hoạt động nhập
khẩu hàng nông sản của các nước này .
+ Đánh giá khả năng nhập khẩu của các nước này thông qua tình hình
nhập khẩu , tốc độ tăng trưởng một số năm gần đây ; xác định mục đích nhập khẩu
.
Qua kết quả thu được , công ty sẽ nắm bắt được khái quát về nhu cầu nhập
khẩu của thị trường thế giới để có những giải pháp và hướng đi đúng đắn cho mình
, đồng thời hoạch định được chiến lược xuất khẩu một cách có hiệu quả nhất .


2. Các nghiệp vụ trong hoạt động xuất khẩu của công ty
+ Nghiệp vụ giao dịch đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu :
Để đi đến việc ký kết một hợp đồng xuất khẩu không riêng gì công ty
Intimex mà mọi công ty xuất nhập khẩu đều phải qua bước giao dịch đàm phán .
Việc giao dịch đàm phán được thực hiện bằng nhiều hình thức , có thể tiến hành
giao dịch trực tiếp hay qua trung gian , tuỳ từng điều kiện hoàn cảnh mà áp dụng .
Tuy nhiên với hệ thống thiết bị thông tin hiện đại thì dù dưới hình thức nào thì vấn
đề giao dịch đàm phán hiện nay đối với công ty đều đã trở nên hết sức thuận tiện .
Sau khi nghiên cứu thị trường và mặt hàng xuất khẩu , tìm hiểu đối tác đàm
phán ký kết , thoả thuận mọi điều kiện có liên quan thì công ty sẽ tiến hành ký kết
hợp đồng xuất khẩu . Khi hợp đồng được ký kết có nghĩa là hai bên đã ràng buộc
với nhau thông qua các điều khoản quy định trong hợp đồng vì thế trước khi quyết
định ký kết , công ty phải cân nhắc kỹ lưỡng các điều khoản của hợp đồng căn cứ
theo những tiêu chuẩn sau :
- Lợi nhuận .

- Định hướng kế hoạch của Nhà nước , các chính sách chế độ , các chuẩn
mục kinh tế - xã hội hiện hành .
- Khả năng phát triển của sản xuất - kinh doanh , chức năng hoạt động kinh
doanh của mỗi bên .
- Nhu cầu thị trường
- Tính hợp pháp của hợp đồng kinh tế và khả năng đảm bảo về tài sản của
mỗi bên khi tham gia ký kết hợp đồng .
Sau khi ký kết hợp đồng , công ty sẽ bắt tay vào tạo nguồn hàng và thực
hiện các nghiệp vụ để xuất khẩu hàng hoá cho đối tác theo đúng các điều khoản và
các nghĩa vụ ghi trong hợp đồng .
Hiện nay trong hoạt động xuất khẩu , công ty sử dụng nhiều hình thức mua
bán nhưng phổ biến nhất là hình thức mua bán trực tiếp và hình thức mua bán theo
giá của thị trường giao dịch cà phê kỳ hạn Luân Đôn ( đối với mặt hàng cà phê ) .
Với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận , công ty cũng đang áp dụng một cách đa dạng

các loại hình xuất khẩu như xuất khẩu trực tiếp , xuất khẩu uỷ thác , tái xuất , xuất
khẩu trả nợ nhưng hình thức chủ yếu vẫn là xuất khẩu trực tiếp .
+ Nghiệp vụ tạo nguồn hàng nông sản xuất khẩu :
Sau khi ký kết hợp đồng thì công việc đầu tiên là phải thu gom chuẩn bị
hàng xuất khẩu . Phần lớn lượng hàng nông sản xuất khẩu của công ty được thu
mua từ những đối tác truyền thống . Đó là các cơ sở sản xuất , doanh nghiệp sản
xuất chế biến , doanh nghiệp thu mua thu gom đã được công ty đánh giá là đối tác
có uy tín trong kinh doanh .
Để tạo được nguồn hàng ổn định , đảm bảo chất lượng , giá cả hợp lý thì
nghiệp vụ thu mua và tạo nguồn hàng là rất quan trọng bao gồm các khâu tìm kiếm
nguồn hàng ; nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng , phương thức mua ký hợp đồng
mua bán trong đó phải lựa chọn khu vực đặt hàng , địa điểm giao hàng sao cho phù
hợp và thuận tiện cho việc chuyên chở , bảo quản và xuất khẩu hàng hoá ; hình
thành nguyên đơn hàng xuất khẩu . Hiện nay , công ty thường huy động nguồn

hàng xuất khẩu dưới các hình thức : mua đứt bán đoạn , xuất khẩu uỷ thác , liên
doanh liên kết sản xuất hàng xuất khẩu . Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà công ty sẽ
căn cứ vào yêu cầu của bên nhập khẩu tình hình thực tế của công ty , đội ngũ cán
bộ kỹ thuật viên , đội ngũ lao động … để lựa chọn hình thức nào cho phù hợp .


Biểu 5 : Đối tác của công ty
M
ặt hàng

Nh
ập

Xu
ất


L
ạc nhân

Công ty xu
ất nhập khẩu
Nghệ An , xí nghiệp dầu
xuất khẩu Vinh
Leading PTE Singapore

Cà phê

Công ty nông s
ản xuất khẩu
Đắc Lắc
Prodexport Rumani

H
ạt tiêu

Công ty nông s
ản xu
ất khẩu
Đắc Lắc , công ty xuất nhập
khẩu Nha Trang
Holding PTE Ltd

Singapore , Trung Quốc Hà
Lan


Nguồn : Báo cáo tổng kết của công ty Intimex năm 2001

Việc ký kết hợp đồng thu mua hàng xuất khẩu thường được thực hiện một
cách rất cẩn thận , có sự thoả thuận rõ ràng bằng văn bản giữa hai bên về các điều
khoản như chất lượng , số lượng sản phẩm , tiêu chuẩn kỹ thuật , bao bì , kẻ ký mã
hiệu , giá cả , thời gian địa điểm giao hàng , mức độ thưởng phạt phương thức
thanh toán . Việc ký hợp đồng phải được thực hiện dựa theo pháp lệnh kinh tế ban
hành ngày 21- 9-1989 đối với hàng nông sản . Sau khi ký hợp đồng , phải hình
thành nguyên đơn hàng nông sản nhằm phân định rõ các mẫu mã tiện cho việc
kiểm tra , giám sát thực hiện hợp đồng , đồng thời giúp cho người nhập khẩu nhận
và kiểm hàng được thuận lợi . Phương pháp hiện nay đang được sử dụng là lập
bảng kê chi tiết ( packing list ) trong đó hàng hoá được đóng gói theo yêu cầu ,
được đánh số thứ tự , sau đó ghi chi tiết lên bảng kê gồm : số lượng hàng bên trong
, trọng lượng tịnh của từng kiện hàng .
+ Nghiệp vụ kiểm tra , bảo quản và vận chuyển hàng hoá :
Nghiệp vụ này được chia làm 6 khâu chính :

×