Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Hoàn thiện quy trình nhập khẩu nguyên liệu và thành phẩm tân dược tại Công ty TNHH Thăng Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.6 KB, 63 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế của Đảng và nhà nước
ta những năm vừa qua đã đem lại cho nền kinh tế nói chung và các doanh
nghiệp dược nói riêng cơ hội to lớn để phát triển mạnh mẽ. Công ty TNHH
Thăng Long đã có những bước phát triển vượt bậc không những về chủng
loại, chất lượng sản phẩm mà cả về năng lực kinh doanh nhập khẩu đáp ứng
nhu cầu của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế,
công ty đã đóng góp một phần không nhỏ của mình trong xu thế hội nhập đó.
Nền kinh tế Việt Nam có điểm xuất phát thấp, chiến tranh kéo dài đã để lại
cho nhân dân Việt Nam biết bao bệnh tật cộng với sự đói nghèo đã ảnh hưởng
trực tiếp đến sức khoẻ nhân dân. Trước tình hình đó, một yêu cầu cấp thiết đặt
ra cho các doanh nghiệp dược là phải làm thế nào để có nguồn thuốc chất
lượng tốt, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Với công nghệ y dược của Việt
Nam hiện nay chỉ mới đáp ứng được phần nào yêu cầu đó, điều này làm cho
hoạt động nhập khẩu thành phẩm tân dược có chất lượng cao càng trở nên
quan trọng bởi bên cạnh việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân thì nhập khẩu
thuốc còn là cầu nối thông suốt nền kinh tế tiên tiến trong và ngoài nước với
nhau, chính hoạt động này cũng sẽ đóng góp vào sự phát triển ổn định của
nền kinh tế và hơn ai hết nó sẽ giúp cho mỗi con người trong cộng đồng có
được sức khoẻ, trí tuệ để tham gia hoạt động trong mọi lĩnh vực khác nhau.
Tuy nhiên, điều kiện mở cửa của kinh tế thị trường đặt ra cho công ty
những thách thức rất lớn đặc biệt là trong kinh doanh quốc tế. Cùng với sự
cạnh tranh khốc liệt là những khó khăn thách thức mới đã ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình nhập khẩu thành phẩm tân dược của Công ty TNHH Thăng
Long. Đó cũng là một trong những vấn đề mấu chốt có thể trở thành nhân tố
quan trọng đem lại thành công cho công ty trong cơ chế thị trường hiện nay,
cần nâng cao hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. Trên cơ sở vận dụng lý
thuyết được học ở trường và sự tìm hiểu thực trạng hoạt động nhập khẩu của
1 1
công ty em xin tiến hành thực hiện đề tài “Hoàn thiện quy trình nhập khẩu
nguyên liệu và thành phẩm tân dược tại Công ty TNHH Thăng Long”


Trên cơ sở đánh giá thực trạng những điểm hoàn thiện và chưa hoàn
thiện trong quy trình nhập khẩu tại công ty từ đó em xin đưa ra một số giải
pháp và kiến nghị cụ thể nhằm góp phần nhỏ bé của mình trong việc đưa
doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo hướng dẫn
PGS.TS Nguyễn Như Tiến cùng các cô chú, anh chị trong phòng kinh doanh
- nhập khẩu, Công ty TNHH Thăng Long đã giúp đỡ em hoàn thành báo cáo
thực tập này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2006
Sinh viên: Phạm Thị Mai Phương

2 2
CHƯƠNG 1
VAI TRÒ NHẬP KHẨU VÀ QUY TRÌNH NHẬP KHẨU TẠI CÁC
DOANH NGHIỆP KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU
I. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Khái niệm về nhập khẩu
Trong xu thế quốc tế hoá ngày nay đã thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc
tế diễn ra mạnh mẽ. Xuất khẩu và nhập khẩu là hai hoạt động quan trọng của
thương mại quốc tế,nếu thương mại quốc tế là sự trao đổi mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ nhằm mục tiêu lợi nhuận giữa các thương nhân có trụ sở
kinh doanh tại các quốc gia khác nhau và nói rằng xuất khẩu là một hình thức
tất yếu của các công ty kinh doanh quốc tế khi xâm nhập thị trường quốc tế
thì nhập khẩu cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng bởi vì xuất khẩu
của nước này sẽ là nhập khẩu của nước kia và ngược lại, nó là một mặt không
thể tách rời của nghiệp vụ ngoại thương. Đã có không ít những cách hiểu khác
nhau về nhập khẩu nhưng xét trên góc độ trung nhất thì nhập khẩu được hiểu
là sự mua hàng hoá dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu trong nước
hoặc tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi nhuận.
2. Các hình thức của nhập khẩu

Trong điều kiện hiện nay nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các
công ty kinh doanh quốc tế khi tham gia hoạt động nhập khẩu thường áp dụng
hai hình thức kinh doanh nhập khẩu chính : là nhập khẩu trực tiếp (nhập khẩu
tự doanh ) và nhập khẩu gián tiếp ( nhập khẩu uỷ thác ). Áp dụng hình thức
nào điều này phụ thuộc vào điều kiện kinh doanh, điều kiện cơ sở vật chất kỹ
thuật và vào yêu cầu của khách hàng.
2.1. Nhập khẩu trực tiếp (nhập khẩu tự doanh)
Trong thương mại quốc tế giao dịch trực tiếp ngày càng phát triển do các
phương tiện thị trường rất phát triển, trình độ năng lực giao dịch của người
thạm gia thương mại quốc tế ngày càng cao do đó khi nhập khẩu hàng hoá,
các đơn vị kinh doanh quốc tế có thể trực tiếp giao dịch với nhà xuất khẩu
một cách thuận tiện và dễ dàng.
Kinh doanh nhập khẩu theo hình thức trực tiếp được hiểu là việc đơn vị
kinh doanh trực tiếp nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào Việt nam với
3 3
danh nghĩa và chi phí của mình rồi sau đó tiến hành kinh doanh, bán hàng
hoá nhập khẩu cho khách hàng trong nước có nhu cầu.
Đơn vị kinh doanh theo hình thức nhập khẩu trực tiếp sẽ mang lại hiệu quả
cao do giảm được chi phí trung gian, giảm bớt sai sót, lợi nhuận thu được do
bán hàng hoá nhập khẩu lớn hơn chi phí uỷ thác nhập khẩu hàng hoá. Đồng
thời theo hình thức này đơn vị kinh doanh có điều kiện trực tiếp tiếp cận thị
trường để thích ứng với nhu cầu thị trường một cách tốt nhất, từ đó có thể chủ
động được nguồn hàng và bạn hàng trong kinh doanh.
Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi đó thì kinh doanh nhập khẩu trực tiếp cũng
gặp không ít khó khăn, hình thức này cũng chứa đầy rủi ro và mạo hiểm do
doanh nghiệp phải có đủ tiềm lực về tài chính để đầu tư, cán bộ phải có
nghiệp vụ giỏi, hình thức này nếu không tìm hiểu kỹ thị trường và đối tác thì
rất dễ bị ép giá thậm chí sau khi nhập khẩu hàng hoá về có thể bán không
được hoặc bán được với giá thấp. hình thức này không thích hợp với công ty
kinh doanh quốc tế khi lần đầu tham gia trên thị trường quốc tế hoặc kinh

doanh mặt hàng mới trên thị trường mới.
2.2. Nhập khẩu gián tiếp ( nhập khẩu uỷ thác ).
Trên thực tế hiện nay có nhiều đơn vị kinh doanh quốc tế không đủ điều
kiện về nhân lực, cơ sở vật chất để tiến hành nhập khẩu trực tiếp do đó họ sẽ
cần đến trung gian làm cầu nối giữa công ty nhập khẩu và đối tác là công ty
xuất khẩu.
Kinh doanh nhập khẩu theo hình thức uỷ thác là việc đơn vị ngoại
thương ( bên nhận uỷ thác ) đóng vai trò trung gian để thực hiện nghiệp vụ
nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào Việt nam theo yêu cầu của bên uỷ thác
với danh nghĩa của mình nhưng bằng chi phí của bên uỷ thác.
Theo khái niệm về nhập khẩu uỷ thác có thể thấy rằng khi đơn vị kinh
doanh theo hình thức này thì đơn vị ngoại thương không phải bỏ vốn của
mình ra đem đi nhập khẩu, vốn này do bên uỷ thác cấp tuy nhiên đợn vị kinh
doanh vẫn phải chịu chi phí về nghiên cứu thị trường, đối tác khi thực hiện
hình thức nhập khẩu này hoàn toàn yên tâm về đầu ra do chỉ phải nhập khẩu
hàng hoá theo yêu cầu của người uỷ thác, điều này tạo ra một độ an toàn nhất
định cho công ty kinh doanh quốc tế.
4 4
Về phía bên uỷ thác là những đơn vị kinh doanh có nhu cầu về hàng hoá
nhập khẩu nhưng do điều kiện có thể không đủ trình độ nghiệp vụ để đứng ra
nhập khẩu hàng hoá hoặc có thể họ có vốn nhập khẩu nhưng lại không có
chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu.
Mối liên hệ giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác thể hiện ở hoạt động
ký kết giữa hai bên và những tài liệu, giấy tờ liên quan mà bên uỷ thác gửi
cho đơn vị ngoại thương. Và chính đây là cơ sở quan trọng để bên được uỷ
thác tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng nhập khẩu với đối tác ở nước ngoài.
Sau khi công việc nhập khẩu hoàn tất, đơn vị được uỷ thác bàn giao hàng hoá
đúng như yêu cầu cho bên uỷ thác gọi là chi phí uỷ thác khoảng 1% giá trị
hợp đồng, chi phí này có thể ít hơn hoặc nhiều hơn 1% phụ thuộc vào mối
quan hệ giữa bên bán uỷ thác và bên nhận uỷ thác cũng như giá trị của hợp

đồng.
Trên thực tế kinh doanh theo hình thức này lợi nhuận thu được không cao
vì chỉ là phí uỷ thác nhưng lại đảm bảo tránh rủi ro, mạo hiểm đạt được mức
độ an toàn, chắc chắn trong kinh doanh của đơn vị ngoại thương tiến hành
nhập khẩu hàng hoá.
3. 3. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Bất kì quốc gia nào cũng không thể tự sản xuất để đáp ứng một cách đầy
đủ mọi nhu cầu trong nước, đặc biệt trong xu thế ngày nay, đời sống nhân dân
ngày càng nâng cao, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, thoát khỏi
nền kinh tế tự cung tự cấp, lạc hậu. Mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân
dựa rất nhiều về lợi thế so sánh, ở đó mỗi quốc gia sẽ đẩy mạnh sản xuất có
lợi thế để phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu đi các quốc gia khác.
Trong thực tế không có quốc gia nào là có lợi thế về tất cả các mặt hàng, các
lĩnh vực, sự bổ sung hàng hoá giữa các quốc gia đã đẩy mạnh hoạt động xuất
nhập khẩu. Những quốc gia phát triển thường xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu
rất nhiều và ngược lại những nước kém phát triển thì kim nghạch nhập khẩu
lớn hơn xuất khẩu.
Với Việt Nam, một quốc gia mới chuyển sang nền kinh tế thị trưường
gần 20 năm lại chịu nhiều hậu quả từ sự tàn phá chiến tranh. Do đó hoạt dộng
nhập khẩu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình khôi phục nền kinh
5 5
tế và tiến tới quá trình CNH – HĐH đất nước. Cụ thể những vai trò những vai
trò được thể hiện rõ nét như sau:
+ Trước hết nhập khẩu sẽ bổ xung kịp thời những hàng hoá còn thiếu mà
trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đủ tiêu dùng làm cân
đối kinh tế, đảm bảo cho sự phát triển ổn định và bền vững, khai thác tối đa
khả năng và tiềm năng của nền kinh tế.
+ Nhập khẩu làm đa dạng hoá hàng tiêu dùng trong nước, phong phú chủng
loại hàng hoá, mở rộng khả năng tiêu dùng, nâng cao mức sống của người
dân.

+ Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền toàn khu vực và trên thế giới, xoá
bỏ nền kinh tế lạc hậu tự cung, tự cấp. Tiến tới sự hợp tác giữa các quốc gia là
cầu nối thông suốt của nền kinh tế tiên tiến trong và ngoài nước, tạo lợi thế để
phát huy lợi thế so sánh trên cơ sở CNH.
+ Nhập khẩu sẽ thúc đẩy sản xuất trong nước không ngừng vươn lên, không
ngừng tìm tòi nghiên cứu để sản xuất ra hàng hoá có chất lượng cao, đảm
bảo, tăng cường sức cạnh tranh với hàng ngoại.
+ Nhập khẩu sẽ tạo ra quá trình chuyển giao công nghệ, điều này tạo ra sự
phát triển vượt bậc của nền sản xuất hàng hoá, tạo ra sự cân bằng giữa các
quốc gia về trình độ sản xuất, tiết kiệm chi phí và thời gian.
Ngoài ra nhập khẩu còn có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy xuất khẩu,
góp phần nâng cao giá trị cũng như chất lượng hàng hoá xuất khẩu thông qua
trao đổi hàng hoá đối lưu, giúp Việt Nam nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh
tế khu vực và thế giới tham gia nhiều tổ chức kinh tế đặc biệt vững bước để
tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO.
Những vai trò to lớn đó của nhập khẩu mỗi quốc gia luôn luôn cố gắng để
tận dụng tối đa, đem lại sự phát triển vượt bậc trong nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên để vận dụng tối đa vai trò đó là cả một vấn đề đặt ra với đường lối
phát triển của mỗi quốc gia, với những quan điểm của Đảng lãnh đạo.
Ở Việt Nam, có nền kinh tế xuất phát điểm rất kém, trước kia lại vận hành
trong cơ chế quan liêu bao cấp, nền kinh tế chỉ là tự cung, tự cấp, công nghệ
trang thiết bị lại lạc hậu, quan hệ kinh tế lại không phát triển, hoặc chỉ phát
triển trong hệ thống các nươớc Xã Hội Chủ Nghĩa trong khi đấy các nước này
cũng có nền kinh tế kém phát triển. Vận hành trong nền kinh tế như thế sẽ
6 6
kìm hãm sự phát triển kinh tế và hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra với kim
nghạch nhỏ bé, bó hẹp trong một vài quốc gia cùng chế độ. Đặc biệt là quan
hệ kinh tế Việt Nam với Liên Xô cũ dưới hình thức viện trợ và mua bán theo
nghị định thư hoặc trao đổi hàng hoá đối lưu, cộng thêm vào đó là sự quản lí
cứng nhắc của nhà nước làm mất đi sự năng động linh hoạt trong quan hệ

kinh tế quốc dân chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước với cơ cấu tổ chức bộ
máy cồng kềnh, bị độc quyền, hoạt động theo tư tưởng quan liêu, tốc độ công
việc nhập khẩu diễn ra trì trệ kém hiệu quả hoạt động nhập khẩu phải trải qua
nhiều công đoạn đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ quan chức trách. Trong khi
trên khu vực và trên thế giới nền kinh tế đã phát triển mạnh mẽ, linh hoạt và
đem lại hiệu quả cao. Xu thế tất yếu ấy đã đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi để
phù hợp với nền kinh tế trên thế giới, những tư tưởng lạc hậu ấy cần được cải
tiến và xoá bỏ thay thế vào đó là những cái mới tiến bộ hơn, linh hoạt hơn. Đó
chính là vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước
theo định hướng XHCN.
Từ khi nền kinh tế thị trường thay thế nền kinh tế tự cung, tự cấp đã có
nhiều thay đổi tiến bộ theo hướng có lợi cho đất nước. Nền kinh tế đóng đã
hoàn toàn bị diệt vong thay thế vào đó là nền kinh tế mở, hợp tác, quan hệ
trên cơ sở cùng có lợi chuyển từ tư tưởng đối đầu sang đối thoại. Các chính
sách mở rộng nhập khẩu đã bước đầu phát huy được vai trò to lớn của nó, tạo
ra thị trường sôi động với khối lượng hàng hoá đa dạng, phong phú, tạo ra sự
cạnh tranh mạnh mẽ về hàng hoá không ngừng tăng lên về giá trị và chất
lượng, thu hút được sự tham gia của của các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần theo đường lối của Đảng. Một lần nữa khẳng định vai trò của hoạt động
nhập khẩu. Để tiếp tục bước đi trên con đường đúng đắn đó và tiến thêm
những bước vững chắc hơn trong tương lai thì trách nhiệm không thuộc về
riêng ai, cần hơn ai hết sự lãnh đạo, chỉ đường và động viên của các cơ quan
chức trách, tinh thần học hỏi, lao động, nghiên cứu tìm tòi cố gắng hết mình
của từng doanh nghiệp, từng cán bộ công nhân viên hoạt động trong xuất
nhập khẩu nói chung và trong nhập khẩu nói riêng. Cụ thể sự cố gắng hết
mình đó phải được thể hiện trên các góc độ.
+ Thu hút và mở rộng sự tham gia của mọi thành phần kinh tế và hoạt
động ngoại thương nhưng dưới sự quản lí của nhà nước
7 7
+ Hoạt động kinh tế đối ngoại phải đảm bảo được nguyên tắc trong quan

hệ thương mại quốc tế
+ Không ngừng tạo ra chữ tín đối với các đối tác, tôn trọng chủ quyền của
nhau, bình đẳng cùng có lợi.
+ Lấy hiệu quả kinh tế chung của xã hội làm đầu, kết hợp giữa lợi ích
riêng của đơn vị kinh doanh với lợi ích của toàn xã hội.
Muốn thực hiện được những chủ trương đặt ra đòi hỏi phải biết:
+ Sử dụng triệt để lợi thế, phát huy tối đa năng lực sẵn có, không được
để xảy ra tình trạng khan hiếm ngoại tệ.
+ Hoạt động phải mang lại hiệu quả kinh tế cao mà không vi phạm các
điều ước quốc tế.
+ Nhập khẩu nhưng phải thúc đẩy và bảo vệ sản xuất trong nước
+ Cân đối giữa kim nghạch xuất khẩu và nhập khẩu
+ Ưu tiên nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu
+ Xây dựng thị trường nhập khẩu lâu dài, ổn định, bền vững
Thực hiện những nguyên tắc trên sẽ gặp phải không ít những khó khăn từ
sự tác động chủ quan và khách quan. Các doanh nghiệp rất cần đến sự hỗ trợ
kịp thời thích đáng của các cơ quan lãnh đạo nhà nước để các doanh nghiệp
từng bước tiến kịp trình độ quốc tế.
II. NỘI DUNG QUY TRÌNH NHẬP KHẨU TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH
XUẤT NHẬP KHẨU
1. Nghiên cứu về môi trường kinh doanh.
Khi tiến hành hoạt động nhập khẩu để tránh rủi ro đáng tiếc xảy ra
trong quá trình kí kết và thực hiện hợp động nhập khẩu, đơn vị ngoại thương
cần tiến hành nghiên cứu về môi trường kinh doanh từ đó để có những quyết
định đúng đắn và giảm chi phí không cần thiết để đem lại hiệu quả cao cho
hoạt động nhập khẩu.
1.1. Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh quốc tế đặc biệt là hoạt động
nhập khẩu là bước khởi đầu không ít khó khăn của các đơn vị ngoại thương,
sự tất yếu của công tác nghiên cứu thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu thu thập

8 8
các thông tin về thị trường chính xác kịp thời tuỳ từng yêu cầu về nghiệp vụ
mà có thể nghiên cứu thị trường chi tiết hoặc khái quát.
Nghiên cứu khái quát thị trường thực chất là nghiên cứu vĩ mô, nghiên
cứu những nét khái quát của thị trường còn nghiên cứu chi tiết thị trường,
thực chất là nghiên cứu đối tượng giao dịch và hàng hoá mà doanh nghiệp
kinh doanh.
Để có thị trường một cách đầy đủ và kịp thời, chuẩn bị tốt nhất trong
quá trình ra quyết định khi lựa chọn đối tác, giao dịch, đàm phán kí kết hợp
đồng một cách có hiệu quả, cần thiết phải nghiên cứu những nội dung sau.
1.1.1. Nghiên cứu thị trường trong nước.
* Nghiên cứu về hàng hoá nhập khẩu
Hàng hoá là đối tượng quan trọng của hoạt động kinh doanh quốc tế.
Khi đơn vị ngoại thương tiến hành hoạt động nhập khẩu thuộc đối tượng nào?
Việc lựa chọn hàng hoá phụ thuộc vào cung cầu trong nước. Nhập khẩu dù
không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước song nó phải phù hợp với điều kiện và
mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiên cứu về mặt hàng
cần phải nghiên cứu trên những góc độ sau:
+ Nghiên cứu về nhu cầu trong nước, tình hình tiêu dùng, tình hình này
phụ thuộc vào tập quán, thói quen và thu nhập của người tiêu dùng.
+ Nghiên cứu về quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, nhãn mác, thương
hiệu, … của sản phẩm.
+ Nghiên cứu xem sản phẩm đã xuất hiện trên thị trường được bao lâu,
đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống của sản phẩm? Từ đó đánh giá xem thị
hiếu tiêu dùng đang ở mức độ nào để đưa ra quyết định về số lượng nhập
khẩu tránh tình trạng hàng nhập tồn đọng và mất giá hoặc thiếu hụt. Có như
vậy mới nâng cao hiệu quả quy trình nhập khẩu cũng như kết quả kinh doanh.
+ Khi tiến hành nhập khẩu phải sử dụng đến ngoại tệ mà ngoại tệ thì
luôn luôn biến động, để đảm bảo hiệu quả về thị trường thì việc nghiên cứu tỉ
suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là rất quan trọng. Doanh nghiệp phải xem xét tỉ

giá hối đoái giữa VNĐ và ngoại tệ và sau đó xem xét so sánh với tỉ suất ngoại
tệ hàng nhập khẩu. Nếu tỉ giá hối đoái lớn hơn thì không nhập khẩu, nếu tỉ
suất ngoại tệ hàng nhập khẩu lớn hơn thì nên nhập khẩu
* Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh.
9 9
Dưới áp lực của nền kinh tế thị trường – Nền kinh tế mở thì sự cạnh
tranh càng trở nên khốc liệt. Kinh doanh cùng một mặt hàng sẽ có vô số các
doanh nghiệp khác nhau, cần biết rõ số lượng về đối thủ cạnh tranh, những
điểm yếu, thế mạnh của đối thủ, tình hình kinh doanh, đặc biệt cần nghiên cứu
kĩ phương hướng chiến lược kinh doanh của đối thủ cũng như khả năng thay
đổi chiến lược kinh doanh. Từ đó rút ra thời cơ và thách thức cho hoạt động
kinh doanh của đơn vị mình để có phương án cụ thể đối phó với khó khăn, với
điểm mạnh của đối thủ và khai thác tối đa điểm yếu của họ từ đó đem lại hiệu
quả cao trong kinh doanh.
* Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến dung
lượng thị trường.
Sau khi nghiên cứu kĩ về hàng nhập khẩu, đối thủ cạnh tranh, sẽ tiến
hành nghiên cứu dung lượng của thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó
để trả lời được câu hỏi nhập với số lượng bao nhiêu thì đủ. Công việc này đòi
hỏi khảo sát nhu cầu thực tế của khách hàng cũng như khả năng cung cấp của
doanh nghiệp nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu vừa đủ của thị trường, tránh
trường hợp nhập quá nhiều làm dư thừa hàng hoá và nhập quá ít không đem
lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Để nghiên cứu dung lượng được chính
xác cần phải được xác định các nhân tố ảnh hưởng đến nó để ra quyết định
đúng đắn về số lượng hàng nhập khẩu.
+ Nhân tố thứ nhất: Khoa học kĩ thuật và công nghiệp làm cho dung
lượng thị trường biến đổi, các biện pháp, các chính sách của nhà nước, tập
quán, thói quen của người tiêu dùng.
+ Dung lượng thị trường biến đổi có thể do sự xuất hiện của những hàng
hoá thay thế, càng nhiều hàng hóa thay thế càng gây khó khăn cho hoạt động

nhập khẩu của đơn vị ngoại thương
+ Dung lượng thị trường còn phụ thuộc vào sự vận dộng của vốn, đặc
điểm của sản xuất lưu thông và phương pháp của sản phẩm của từng thị
trường đối với mỗi loại hàng hoá.
+ Một số nhân tố khách quan như thời tiết, bị hạn hán, bão lụt, sự biến
động về khủng hoảng tài chính, mất giá tiền tệ, sự giảm sút của thương hiệu
hàng hoá.
10 10
Mỗi nhân tố có mức độ tác động khác nhau, cần có sự đánh giá đúng mức
ảnh hưởng của từng nhân tố đóng vai trò quyết định, nhân tố nào đóng vai trò
thứ yếu, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn chính xác về nhu cầu thực của hàng
nhập khẩu đã lựa chọn.
1.1.2. Nghiên cứu thị trường quốc tế.
Nghiên cứu thị trường quốc tế phải bắt đầu từ việc nghiên cứu các
chính sách của chính phủ nước xuất khẩu, những chính sách đó là hạn chế
hay khuyến khích xuất khẩu từ đó đưa ra những thuận lợi cũng như khó khăn
đối với đơn vị ngoại thương khi tiến hành nhập khẩu hàng hoá, hoạt động này
cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của tình hình chính trị, chế độ của nước xuất
khẩu. Bên cạnh đó nguồn hàng cung cấp sẽ tác động bởi vị trí địa lí của quốc
gia do quá trình vận chuyển sẽ đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh.
Mặt khác, trên thị trường quốc tế do chịu sự tác động của nhiều yếu tố
trên đã làm cho giá cả không ngừng biến đổi. Doanh nghiệp kinh doanh nhập
khẩu phải hiểu biết và kinh nghiệm để dự báo được xu thế biến động của quy
luật thị trường. Doanh nghiệp đánh giá trên nhiều thị trường khác nhau với
các nhà cung cấp khác nhau. Từ đó tiến hành so sánh và chọn ra nhà cung cấp
đem lại thuận lợi tối ưu nhất cho mình.
Để công tác nghiên cứu thị trường quốc tế đem lại hiệu quả cao, kết
quả nghiên cứu thực sự có ý nghĩa với doanh nghiệp không phải là việc dễ
dàng do đó cần tiến hành theo đúng trình tự, hệ thống một cách chặt chẽ và
phương pháp nghiên cứu mang tính chất khoa học cao.

1.2. Nghiên cứu đối tác:
Trước khi bước vào giaop dịch, đàm phán và kí kết hợp đồng, sau khi
nghiên cứu kĩ thị trường và đưa ra những thông tin chính xác, doanh nghiệp
nhập khẩu tiến hành lựa chọn đối tác trên cơ sở thị trường đã nghiên cứu
nhưng phải đảm bảo được các tiêu chuẩn về giá cả, chất lượng và chi phí phù
hợp, đảm bảo đúng mục tiêu của doanh nghiệp và không trái pháp luật
Khi lựa chọn đối tác, đơn vị ngoại htương cần quan tâm đến
+ Tư cách pháp nhân
+ Khả năng và năng lực trong kinh doanh
+ Mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh
+ Uy tín trong hoạt động kinh doanh
11 11
+ Tình hình sản xuất
+ Khả năng tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật
+ Thái độ chính trị, đặc điểm văn hoá và tập quán kinh doanh.
+ Diều kiện địa lí: Cho phép ta đánh giá được các ưu thế địa lý của phía đối tác
để giảm thiểu chi phí vận tải bảo hiểm
1.3. Lập phương án kinh doanh
Sau khi hoàn tất các công tác nghiên cứu thị trường trong nước, quốc tế
và các đối tác, đơn vị kinh doanh ngoại thương tiến hành lập phương án kinh
doanh hàng nhập khẩu.
Phương án kinh doanh thực chất là một chương trình hành động quát
hướng tới việc thực hiện những mục đích cụ thể của doanh nghiệp trong kinh
doanh. Trong sự biến đổi nhanh chóng của thị trường thì khâu lập phương án
kinh doanh gặp nhiều khó khăn trở ngại, nhiều doanh nghiệp đã bỏ qua bước
này hoặc thực hiện một cách sơ sài đã đem lại hiệu quả hoạt động kinh doanh
không như mong muốn, Để lập được phương án kinh doanh tốt doanh nghiệp
cần tiến hành
Quy trình xác định phương án kinh doanh
* Phân tích để lựa chọn thị trường và mặt hàng kinh doanh.

Sau khi nghiên cứu thu thập các thông tin về thị trường một cách đầy
đủ, chính xác, người lập phương án kinh doanh sẽ đánh giá tổng quát tình
hình hiện tại của môi trường và thị trường, đồng thời phải dự đoán được
những biến động của thị trường trong tương lai, có như vậy mới tận dụng
được các cơ hội, kết hợp với việc xác định nhu cầu trong nước, khả năng cung
cấp giữa các đối tác và điểm mạnh yếu của các doanh nghiệp so với đối thủ
cạnh tranh từ đó lựa chọn thị trường và mặt hàng kinh doanh của doanh
nghiệp.
* Xác định mục tiêu.
Sau khi đã phân tích để lựa chọn thị trường và mặt hàng kinh doanh,
đơn vị ngoại thương phải xác định mục tiêu cụ thể của phương án kinh doanh
đặt ra cần đạt được đồng thời đây cũng là các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả
kinh tế của phương án kinh doanh. Các mục tiêu cụ thể là doanh thu lợi nhuận
và uy tín …
* Phác thảo các phương án kinh doanh:
12 12
Sau khi mục tiêu đã xác định, đơn vị kinh doanh sẽ tiến hành phác thảo
các phương án kinh doanh các mặt hàng đã lựa chọn trên thị trường mục tiêu.
Một phác thảo phương án kinh doanh cần phải :
+ Mô tả chi tiết tình hình kinh doanh trên thị trường mục tiêu, mô tả về
mặt hàng kinh doanh, đối tác dung lượng, giá cả vận chuyển, ngân hàng…
xác định đối tác và dự kiến mức giá mua, giá bán số lượng nhập khẩu và lợi
nhuận dự tính.
+ Xác định cách thức, tiến hành kinh doanh.
+ Dự toán các tình huống có thể xảy ra và phương pháp ứng xử.
+ các phương pháp kiểm tra và đánh giá kết quả.
* Lựa chọn phương án kinh doanh: Sau khi phương án kinh doanh được
phác thảo tiế hành lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu nhất, lựa chọn
phương án nào phải dựa trên cơ sở là hệ thống các chỉ tiêu như doanh thu, lợi
nhuận, tỉ suất lãi trên vốn, tỉ suất chi phí phát sinh, mức độ rủi ro, khả năng

thực hiện …
* Đề ra các biện pháp thực hiện.
Để quá trình giao dịch, đàm phán, kí kết hợp đồng diễn ra thuận lợi cần thiết
phải đề ra các biện pháp thực hiện trong kinh doanh nhập khẩu. Hàng hoá và
doanh nghiệp là đối tượng, là kế hoạch cụ thể của người giao dịch mua bán.
Mặt khác phương án kinh doanh là cơ sở để cán bộ thực hiện nhiệm vụ của
mình, phải đề ra các bước tiến hành cụ thể để đạt được những mục tiêu của
phương án. Đề ra ra các biện pháp cụ thể dựa trên những phân tích của các
bước trước đó, dựa vào hàng hoá, đặc điểm và khả năng của doanh nghiệp
trong từng giai đoạn cụ thể để đề ra các biện pháp cho phù hợp. Khi tiến hành
đề ra các bước thực hiện cần đảm bảo khâu tổ chức nhập khẩu hàng hoá, kiểm
định hàng hoá, tiếp nhận hàng hoá và xúc tiến bán hàng, quảng cáo đẩy mạnh
tiêu thụ hàng hoá.
Thực hiện đầy đủ các bước đề ra doanh nghiệp sẽ tiến hành kinh doanh
hiệu quả, lấy được nguồn hàng nhập khẩu tốt nhất và tiêu thụ hàng hoá thuận
lợi đem lại kết quả như mong muốn.
2. Hợp đồng nhập khẩu.
Kí kết hợp đồng nhập khẩu là bước tiếp theo cần tiến hành sau khi đã
nghiên cứu kĩ môi trường kinh doanh, hoạt động nhập khẩu là sự cam kết của
13 13
người mua và người bán, coi đó là cơ sở để thực hiện nghĩa vụ của các bên
cũng như những quyền lợi hai bên được hưởng.
Hoạt động nhập khẩu là sự thoả thuận giữa các đương sự có có trụ sở kinh
doanh ở các quốc gia khác nhau, theo đó một bên gọi là bên bán( bên xuất
khẩu) có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu về hàng hoá hoặc dịch vụ cho bên
nhập khẩu. Bên nhập khẩu có nghĩa vụ trả tiền và nhận hàng.
2.1 Giao dịch.
Giao dịch là hoạt động được tiến hành khi bên bán tiếp cận với bên
mua, quá trình giao dịch là quá trình trao đổi thông tin về các điều kiện
thương mại giữa các bên tham gia.

Quy trình giao dịch:
2.1.1 Hỏi giá:
Đây là bước khởi đầu của giao dịch. Hỏi giá là việc người mua đề nghị
người bán cho biết giá cả và các điều kiện thương mại cần thiết khác để mua
hàng. Hỏi giá không dễ dàng bắt buộc trách nhiệm pháp lí của người hỏi giá.
Do đó người có thể gửi hỏi giá đi nhiều nơi tới các nhà cung cấp tiềm năng để
nhận được những baó giá, sau đó đánh giávà chọn ra báo giá tối ưu nhất.
2.1.2 Chào hàng.
Đây là một đề nghị kí kết hợp đồng mua bán hàng hoá được chuyển
cho một hay nhiều người xác định. Nội dung cơ bản của một chào hàng gồm
các điều kiện: Tên hàng, số lượng, quy cách, phẩm chất, giá cả, phương thức
thanh toán, địa điểm và thời hạn giao hàng, bao bì…
Chào hàng có thể do người mua và người bán đưa ra, người nhập khẩu
đưa ra lời chào hàng phải căn cứ gọi là chào mua hàng. Khi xác định chào
hàng, người chào hàng phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể để cân nhắc các
vấn đề sao cho thích hợp nhất.
2.1.3 Đặt hàng
Đặt hàng là lời đề nghị kí kết hợp đồng thương mại của người mua, về
nguyên tắc hợp đồng của người đặt hàng phải đầy đủ các nội dung cần thiết
cho việc kí kết hợp đồng.
14
Xác nhận
Chào hàng
Hoàn giáĐặt hàngHỏi giá
14
Tuỳ vào mối quan hệ của nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu mà nội dung
đặt hàng có thể bị lược bỏ bớt và chỉ nêu những điều kiện riêng biệt đối với
mỗi mặt hàng nếu hai bên có quan hệ thường xuyên hoặc kí những hợp đồng
dài hạn.
2.1.4. Hoàn giá.

Khi người nhận chào hàng không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó
mà đưa ra những đề nghị mới thì đề nghị mới này gọi là hoàn giá, khi có hoàn
giá thì chào hàng trước coi như không còn hiệu lực.
2.1.5. Chấp nhận.
Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng,
khi đó hợp đồng được thành lập. Một chấp nhận có hiệu lực về mặt pháp lí
phải đảm bảo các điều kiện sau:
+ Phải được người nhận chào hàng chấp nhận.
+ Phải chấp nhận hoàn toàn nội dung.
+ Phải chấp nhận trong thời gian hiệu lực của chào hàng.
+ Chấp nhận phải được chuyển đến cho người được chào hàng.
2.1.6 Xác nhận.
Sau khi thống nhất với nhau các điều kiện giap dịch hai bên ghi lại các
kết quả ghi lại các kết qủa đã đạt được rồi trao cho nhau, đó là xác nhận. Xác
nhận thường được lập thành hai bản, được hai bên kí kết và mỗi bên giữ một
bản.
2.2.Đàm phán.
Việc đàm phán để đi đến kí hợp đồng nhập khẩu thường được tiến hành kết
hợp giữa các hình thức sau:
+ Giao dịch, đàm phán qua thư tín: Đây là hình thức giao dịch chủ yếu giữa
công ty đối với các đối tác nước ngoài. Sử dụng hình thức này có thể tiết kiệm
được chi phí đồng thời tạo điều kiện cho cả hai bên cân nhắc suy nghĩ vấn đề
một cách thấu đáo. Bằng cách này, Công ty có thể giao dịch cùng một lúc với
nhiều đối tác ở nhiều nước khác nhau. Tuy nhiên đàm phán theo cách này
thường mất rất nhiều thời gian chờ đợi, có thể cơ hội mua bán tốt sẽ trôi qua
và rất khó đoán được ý đồ thật của đối phương. Khi sử dụng thư tín để giao
dịch đàm phán cần phải luôn nhớ rằng thư từ là “ sứ giả” của mình đến với
khách hàng bởi vậy cần hết sức lưu ý trong việc viết thư.
15 15
+ Giao dịch, đàm phán qua fax và điện thoại: Hình thức này giúp cho

việc đàm phán diễn ra nhanh chóng ngay khi có vấn đề nảy sinh. Tuy nhiên
thời gian dành cho đàm phán không nhiều do cước phí fax và điện thoại quốc
tế rất đắt. Ngoài ra, đàm phán bằng điện thoại chỉ thoả thuận bằng miệng,
không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận quyết định trao đổi. Bởi
vậy điện thoại chỉ được dùng những trường hợp rất cần thiết, khẩn trương
hoặc trường hợp mà mọi điều kiện đã thoả thuận xong, chỉ còn chờ xác nhận
một số chi tiết.
+ Giao dịch, đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: Thực tế cho thấy,
do hai bên trực tiếp gặp nhau nên có thể trao đổi một số vấn đề liên đến hợp
đồng và dễ dàng đi đến thống nhất, thậm chí còn còn tạo điều kiện cho việc
hiểu biết nhau tốt hơn và duy trì được quan hệ tốt lâu dài với nhau. Tuy nhiện,
đây cũng là cũng là hình thức đàm phán khó khăn nhất trong hình thức đàm
phán, để đạt được kết quả tốt trong đàm phán thì đòi hỏi người đàm phán
phải nắm chắc nghiệp vụ và ngoại ngữ, có khả năng ứng sử nhạy bén, linh
hoạt trong mọi tình huống để có thể tỉnh táo, bình tĩnh nhận xét, nắm được ý
đồ, sách lược của đối phương, nhanh chóng có biện pháp đôúi phó kịp thời.
Hơn nữa chi phí cho việc gặp gỡ là hết sức tốn kém.
2.3. Kí kết hợp đồng nhập khẩu.
Hợp đồng nhập khẩu là sự thoả thuận giữa bên mua và bên bán ở nước
ngoài, trong đó quy định bên bán phải cung cấp hàng hoá, bên mua phải thanh
toán tiền và nhận hàng.
Theo điều 81 của luật thương mại Việt Nam, hợp đồng nhập khẩu có
đầy đủ khi có đầy đủ các điều kiện sau:
+ Chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp lí
+ Hàng hoá của hợp đồng là hàng hoá được phép mua, bán theo quy
định của pháp luật.
+ Hợp đồng mua bán quốc tế phải có nội dung chủ yếu mà pháp luật
quy định
+ Hình thức của hợp đồng chủ yếu là văn bản.
* Đặc điểm của hợp đồng nhập khẩu

+ Chủ thể của hợp đồng nhập khẩu là các pháp nhân có quốc tịch khác nhau.
+ Hàng được chuyển từ nước này sang nước khác.
16 16
+ Đồng tiền thanh toán là ngoại tệ hay có nguồn gốc ngoại tệ đối với
một hay hai bên kí hợp đồng
Hợp đồng ngoại thương có vai trò rất quan trọng vì:
+ Là bằng chứng đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia kí kết hợp đồng.
+ Là bằng chứng để quy trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng.
Hợp đồng nhập khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống kê, theo
dõi, kiểm tra việc thực hiện hợp đồng.
* Những phương thức kí kết trong buôn bán ngoại thương
+ Hai bên cùng kí vào hợp đồng mua bán.
+ Người mua nhận bằng văn bản là người mua đã đồng ý với các điều
kiện và điều khoản của một chủ hàng tự do nếu người mua viết viết đúng thủ
tục cần thiết và trong thời gian hiệu lực của thư chào hàng.
+ Người bán hàng xác nhận bằng văn bản đơn đặt hàng của người mua
có hiệu lực
+ Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được những thoả thuận trong đơn đặt
hàng trước đây của hai bên ( Nêu ró điêù kiện được thoả thuận ). Hợp đồng
chỉ có thể coi là kí kết chỉ trong trường hợp hai bên đã kí vào hợp đồng.
* Nội dung của hợp đồng nhập khẩu bao gồm các điều kiện:
+ Tên hàng
+ Số lượng và cách xác định. Đặc biệt lưu ý tới từng loại hàng để xác
định số lượng mới chuẩn xác
+ Quy cách phẩm chất và cách xác định.
+ Đóng gói, bao bì mã hiệu phải phù hợp với hàng hoá
+ Thời hạn, phương tiện và địa điểm giao hàng.
+ Giá cả, giá trị, điều kiện giao hàng
+ Phương thức thanh toán và chứng từ thanh toán
+ Bảo hiểm

+ Phạt và bồi thường thiệt hại
+ Tranh chấp và giải quyết tranh chấp
+ Bảo hành, khiếu nại.
+ Kiểm tra và giám định hàng hoá nhập khẩu
+ Trường hợp bất khả khách hàng
3. Quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
17 17
Sau khi hợp đồng nhập khẩu được kí kết, đơn vị kinh doanh xuất nhập
khẩu- với tư cách một bên kí kết – phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là
công việc rất quan trọng và phức tạp, nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và
quốc tế, đồng thời phải đảm boả được quyền lợi của quốc gia và uy tín của
doanh nghiệp. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công
việc để thực hiện hợp đồng, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu phải cố gắng
tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao doanh lợi và hiệu quả toàn bộ hoạt động
giao dịch.
Để thực hiện hợp đồng nhập khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành
theo trình tự các công việc sau:
3.1 Xin giấy phép nhập khẩu.
Theo nghị định số 57/1998/ CP quy định các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế được thành lập theo quy định pháp luật được phép xuất
nhập khẩu hàng hoá theo nghành nghề đã đăng kí theo giấy chứng nhận đăng
kí kinh doanh - điều này khẳng định quyền nhập khẩu hàng hoá theo nghành
nghề đã đăng kí của các doanh nghiệp được thành lập hợp pháp có giấy chứng
nhận đăng kí kinh doanh – với các hàng hoá không thuộc danh mục hàng hoá
cấm nhập khẩu có điều kiện thì doanh nghiệp có quyền nhập khẩu mà không
cần xin giấy phép nhập khẩu. Tuy nhiên, khi tiến hành nhập khẩu doanh
nghiệp phải đăng kí mã số kinh doanh xuất nhập khẩu tại cục hải quan tỉnh,
thành phố. Còn nếu loại hàng hoá mà doanh nghiệp cần nhập khẩu thuộc danh
mục hàng nhập có điều kiện thì doanh nghiệp phải xin hạn nghạch nhập khẩu
hoặc giấy phép nhập khẩu của Bộ thương mại hoặc bộ quản lí chuyên nghành.

3.2 Mở L/C
Nếu là phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, bên mua phải làm
thủ tục mở L/C. Thông thường L/C được mở trước 20 ngày đến 25 ngày trước
thời gian giao hàng. L/C là một văn bản pháp lí trong đó ngân hàng mở L/ C
cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu họ trình được chứng từ thanh toán phù
hợp với nội dung của L/C. Căn cứ để mở L/C là các điều khoản của hợp đồng.
Bộ hồ sơ mở L/C bao gồm
+ Đơn xin mở thư tín dụng
+ Giấy phép nhập khẩu của Bộ thương mại cấp
+ Hợp đồng thương mại ( bản sao)
18 18
Ngoài ra còn phải nộp một số giấy tờ có liên quan đến thủ tục thanh
toán và kí quỹ như:
+ Uỷ nhiệm chi ngoại tệ để trả thủ tục phí
+ Uỷ nhiệm chi ngoại tệ để kí quỹ mở L/C
Hoặc đơn xin mua ngoại tệ để kí quỹ và trả thủ tục phí.
Hoặc hợp đồng vay ngoại tệ tiềnVNĐ ( trong trường hợp xin vay để
thanh toán L/C)
Trong đơn xin mở L/C phải đề cập đầy đủ những nội dung chính sau:
+ Tên ngân hàng thông báo
+ Loại L/C, số, ngày, ngày phát hành
+ Thời gian và địa điểm hết hiệu lực của L/C
+ Tên và địa chỉ của người thụ hưởng.
+ Tên và địa chỉ của người xin mở L/C
+ Trị giá thư tín dụng
+ Bộ chứng từ phải xuất trình để thanh toán
+ Mô tả hàng hoá
+ Đơn giá
+ Điều kiện giao hàng
+ Điều kiện về hàng hoá: Bao bì, đóng gói, kí mã hiệu

+ Phương thức vận chuyển
Tên cảng đi, Tên cảng đến: cho phép/ không cho phép
+ Thời hạn giao hàng
+ Điều kiện đặc biệt về:
Phí phát sinh ngoài địa phận nước Việt Nam
Phí tu chỉnh L/C do bên bán hoặc bên mua chịu
+ Chỉ thị do ngân hàng về thanh toán lô hàng và cách thức gửi bộ
chứng từ thanh toán
+ Mức kí quỹ của đơn vị nhập khẩu
3.3. Thuê phương tiện vận tải
Trong trường hợp nhập khẩu FOB chúng ta phải tiến hành thuê tàu
dựa vào các căn cứ sau:
+ Những điều khoản của hợp đồng
+ Đặc điểm của hàng hoá mua bán
19 19
+ Điều kiện vận tải
Lựa chọn thuê tàu được căn cứ vào khối lượng và đặc điểm hàng hoá
chuyên trở sao cho thuận lợi nhất.
Thực tế điều kiện về tàu ở nước ta nay rất hạn chế, kinh nghiệm thuê
tàu nước ngoài chưa nhiều nên thông thường là nhập khẩu theo điều kiện
3.4 Mua bảo hiểm cho hàng nhập khẩu.
Trường hợp nhập khẩu theo điều kiện CFR thì đơn vị phải mua bảo
hiểm cho lô hàng đó. Số tiền bảo hiểm thường bằng 110% trị giá CIF của lô
hàng, các rủi được bảo hiểm phải khớp với quy định của thư tín dụng.
Hợp đồng bảo hiểm thư\ờng có hai loại chủ yếu: Hợp đồng bảo hiểm
chuyến và hợp đồng bảo hiểm bao
Hợp đồng bảo hiểm chuyến là hợp đồng bảo hiểm một chuyến từ một
địa điểm này đến một địa diểm khác đã ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Người
bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về hàng hoá trong phạm vi một chuyến khi
mua bảo hiểm chuyến, đơn vị ngoại thương phải gửi đến Công ty bảo hiểm

một văn bản gọi là “ Giấy yêu cầu bảo hiểm” Dựa trên “ Giấy yêu cầu bảo
hiểm “ này, đơn vị và Công ty bảo hiểm đàm phán kí kết hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng này được thể hiện dưới hai hình thức: Đơn hay giấy chứng nhận
bảo hiểm
Nội dung của hợp đồng bảo hiểm gồm các điểm chú ý sau
+ Ngày cấp đơn bảo hiểm, sáng hay chiều
+ Tên và địa chỉ người mua bảo hiểm
+ Tên hàng được bảo hiểm
+ Quy cách đóng gói, bao bì, kí mã hiệu của hàng
+ Tên tàu
+ Cách xếp hàng trên tàu
+ Cảng khởi hành, cảng chuyển tải ( nếu có ) cảng đến
+ Ngày tàu khởi hành
+ Trị giá hàng được bảo hiểm.
+ Điều kiện hàng được bảo hiểm.
+ Phí bảo hiểm.
20 20
+ Địa chỉ và và giám định viên nơi đến.
+ Nơi trả tiền bồi thường, do người được bảo hiểm chọn.
+ Số bán đơn bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng trong đó người bảo hiểm nhận bảo
hiểm một khối lượng hàng vận chuyển trong nhiều chuyến kế tiếp nhau ( thời
hạn là 1 năm ), và khi kí kết hợp đồng bảo hiểm chưa rõ khối lượng hàng là
bao nhiêu. Hợp đồng bảo hiểm này quy định, khi giao hàng xuống tàu xong
đơn vị chỉ gửi đến Công ty bảo hiểm một thông báo bằng văn bản gọi là
“giâý báo bắt đầu vận chuyển” theo mẫu
Trong hợp đồng này, hai bên thoã thuận các vấn đề chung nhất có tính
nguyên tắc như: Nguyên tắc chung -Phạm vi trách nhiệm -Việc đóng gói hàng
---loại phương tiện vận chuyển ---cách yêu cầu bảo hiểm -Cách tính trị giá
bảo hiểm --- Phí bảo hiểm và thanh toán phí bảo hiểm --- Giám định khiếu

nại, đòi bbồi thường --- Hiệu lực của hợp đồng ---Xử lí tranh chấp
Các đơn vị ngoại thương Việt Nam thường bảo hiểm hàng nhập khẩu
theo hợp đồng bảo hiểm bao
3.5 Làm thủ tục hải quan
Chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày khi hàng nhập cảng, đơn vị ngoại
thương phải tiến hành làm thủ tục để thông quan xuất nhập khẩu
Bước1: Tự kê khai, áp mã, và tính thuế xuất nhập khẩu
Tự kê khai đầy đủ, chính xác những nội dung ghi trên tờ khai hải qua
mẫu HQ2002-XNK
Dựa vào căn cứ tính thuế đã khai và xác định mã số hàng hoá, thuế
suất, giá tính thuế theo quy định để tính toán số thuế phải nộp của từng loại
thuế theo quy định để tính toán số thuế phải nộp của từng loại thuế và từng
loạ hàng hoá
Bộ hồ sơ khai Hải quan gồm có các loại giấy tờ phải nộp hoặc xuất
trình khi làm thủ tục:
+ 01 bản sao giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh
+ 01 bản sao giấy chứng nhận đăng kí mã số doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu
+ 03 tờ khai hàng nhập khẩu
+ 01 bản sao hợp đồng mua bán.
21 21
01 bản chính và 02 bản sao hoá đơn thương mại.
+ 01 bản chính và 02 bản sao phiếu đóng gói
+ 01 đơn vận tải
+ Giấy phép xuất nhập khẩu
+ Giấy chứng nhận xuất xứ giấy chứng nhận phẩm chất, số lượng (bản
chính)
Bước 2: Nhân viên hải quan kiểm tra tờ khai hải quan và bộ hồ sơ, nếu
đầy đủ và hợp lệ theo từng loại hình xuất nhập khẩu thì cho đăng kí tờ khai.
Xem hồ sơ hàng hoá của mình được phân vào luồng nào( xanh - được

ưu tiên thực hiện thủ rục kiểm tra giản đơn, hàng sẽ được kiểm hoá nhanh
ngay sau khi kiểm hoá ngay; Luồng vàng – hàng hoá có những vướng mắc
nhỏ ; Luồng đỏ – hàng hoá có nhiều vướng mắc thì phải nhanh chóng hoàn tất
thủ tục thì hàng của mình mới được giải phóng.
Bước 3: Nhận thông báo thuế của Hải Quan và tổ chức để hải quan
kiểm tra hàng hoá
Bước 4: Căn cứ vào kết quả kiểm hoá và khai báo của ta Hải quan sẽ
xác định chính xác số thuế mà ta phải nộp và quyết định điều chỉnh số thuế
phải nộp và ra quyết định số thuế phải nộp nếu cần.
Bước 5: Sau khi đã nộp đủ thuế Hải quan sẽ đóng dấu “ đã làm thủ tục
Hải quan” lên trang đầu tờ khai và giao cho ta nhận một bản. Từ đây hàng của
ta được giải phóng.

3.6 Nhận hàng nhập khẩu
Khi hàng hoá đã về tới cảng Hải quan sẽ thông báo cho người nhận.
Công ty khi nhận phải tiến hành một số công việc sau:
+ Kí kết hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải về việc nhận hàng
+ Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng hoá từng quý,
từng năm, cơ câú hàng hoá, lịch tàu, điều kiện kĩ thuật khi bốc dỡ, vận chuyển
giao nhận.
+ Cung cấp tài liệu cần thiết cho việc nhận hàng hoá( Vận đơn, lệnh
giao hàng…) Nếu tàu biển không giao những tài liệu đó cho cơ quan vận tải.
+Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập biên bản về hàng
hoá và giải quyết trong phạm vi của mình những vấn đề xảy ra trong việc giao
nhận.
22 22
+ Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc
xếp, bảo quản và vận chuyển hàng hoá nhập khẩu
+ Thông báo cho các đơn vị đặt hàng chuẩn bị nhận hàng hoá.
+ Chuyển hàng hoá về kho của doanh nghiệp hoặc trực tiếp giao cho

các đơn vị đặt hàng
3.7 Kiểm tra hàng nhập khẩu.
Hàng hoá nhập khẩu về qua cửa khẩu phải đưpợc kiểm tra. Mỗi cơ quan
tiến hành kiểm tra theo theo chức năng và quyền hạn của mình. Nếu phát hiện
thấy dấu hiệu không mua bình thường thì mời bên kiểm định đến lập biên bản
giám định có sự chứng kiến của bên bán và bên mua, hãng vận tải, công ty
bảo hiểm. Biên bản giám định phải có chữ kí của các bên và đây là cơ sở bên
mua khiếu nại, đòi bồi thường bên có liên quan.
3.8 Thanh toán tiền hàng nhập khẩu
Thanh toán là khâu quan trọng trong thương mại quốc tế. Do đặc điểm
buôn bán của người nước ngoài rất phức tạp nên thanh toán trong thương mại
quốc tế phải thận trọng, tránh để xảy ra tổn thất. Có nhiều phương thức thanh
toán khác nhau:
* Phương thức tín dụng chứng từ ( thanh toán bằng thư tín dụng) :
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó một ngân
hàng( ngân hàng mở L/C ) theo yêu cầu của khách hàng ( người nhập khẩu )
trả tiền cho người thứ ba hoặc cho bất cứ người nào theo yêu cầu của người
thứ ba đó, hoặc sẽ trả, chấp nhận, hay mua hối phiếu khi xuất trình đầy đủ đã
quy định mọi điều kiện đặt ra đều được thực hiện đầy đủ
* Phương thức chuyển tiền :
Là phương thức trong đó người mua (người nhập khẩu) yêu cầu ngân
hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người xuất khẩu tại một địa
điểm nhất định.
3.9 Khiếu nại khi và giải quyết tranh chấp ( Nếu có ) :
Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng xuất nhập khẩu phát
hiện thấy hàng bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát, thì lập hồ sơ khiếu nại.
Đối tượng khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nại. Đối tượng khứu
nại có thể là người vận tải, Công ty bảo hiểm… Tuỳ theo tính chất tổn thất.
Bên nhập khẩu phải viết đơn khiếu nại và gửi cho bên bị khiếu nại và gửi cho
23 23

bên bị khiếu nại trong thời hạn quy định, đơn khiếu nại phải có kèm các
chứng từ về tổn thất.
Cách giải quyết khiếu nại tuỳ vào nội dung đơn khiếu nại. Trường hợp
không tự giải quyết được thì làm đơn gửi lên cho trọng tài kinh tế theo quy
định trong hợp đồng.

24 24
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA
CÔNG TY TNHH THĂNG LONG TRONG THỜI GIAN QUA
I. VÀI NÉT VỀ VỀ CÔNG TY TNHH THĂNG LONG
1. Lịch sử ra đời và phát triển
Trong những giai đoạn đầu nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế
tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, trong thời kỳ này để đáp ứng
nhu cầu phát triển của xã hội công ty mới được thành lập. Cũng trong thời
điểm đó công ty THHH Thăng Long được thành lập theo quyết định số 1149
ngày 25/9/1992 của UBND thành phố Hà Nội và giấy phép kinh doanh số
001153 ngày 5/10/1992 của trọng tài kinh tế Hà Nội, và được lấy tên là công
ty TNHH Thăng Long.
Người có công lớn trong việc thành lập công ty đó là dược sỹ Nghiêm
Thanh Sơn (chính là giám đốc cho đến nay) và bà Trần Minh Phú, hai người
này là hai sáng lập viên của công ty ngoài ra còn có bảy thành viên khác tham
gia cùng góp vốn. Các thành viên tham gia thành lập công ty họ đều là chủ
Nhà nước, họ có kinh nghiệm kinh doanh và hiểu biết thị trường nên họ tổ
chức bộ máy hoạt động kinh doanh rất gọn nhẹ nhưng rất hiệu quả đáp ứng
được nhu cầu thị trường khi đó. Bộ máy tổ chức đó gồm: Ban giám đốc có
một giám đốc và một phó giám đốc, các phòng chức năng gồm có 1 phòng
kinh doanh, 1 phòng tài vụ và 2 cửa hàng tại 31 Láng Hạ, và trụ sở chính của
công ty đóng tại 69 Tràng Thi Hà Nội. Với một số vốn đăng ký kinh doanh
ban đầu là 300.000.000 đồng, công ty đã phát huy thế mạnh sẵn có của mình

vào kinh doanh dược phẩm và dụng cụ y tế thông thường.
Đến năm 1994 tình hình tổ chức và quản lý của công ty đã đi vào hoạt
động rất hiệu quả, cùng với việc chớp lấy thời cơ phát triển mạnh mẽ của kinh
tế trong nước công ty đã xin cấp giấy phép bổ sung ngành nghề kinh doanh để
mở rộng hoạt động của mình với nội dung sau:
• Bổ sung ngành nghề kinh doanh: được Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp
ngày 12/5/1994 theo giấy phép này thì công ty có các chức năng sau: Kinh
25 25

×