NHỊ THẬP
TỨ HIẾU
二十四孝
Quách Cư Nghi ệp
Lý Văn Ph ức
2
Mục Lục
1. Giới thiệu
2. Tác giả
3. Khai m ở của tác giả
4. Phụ chú - giảng bình của Khổng Tử
5. TRUY ỆN THỨ I : NGU THU ẤN
6. TRUY ỆN THỨ II : VĂN Đ Ế
7. TRUY ỆN THỨ III : TĂNG TỬ
8. TRUY ỆN THỨ IV : MẪN TỬ KHI ÊN
9. TRUY ỆN THỨ V : TRỌNG DO
10. TRUY ỆN THỨ VI : DIỄM TỪ
11. TRUY ỆN THỨ VII : LÃO LAI T Ử
12. TRUY ỆN THỨ VIII : ĐỒNG VĨNH
13. TRUY ỆN THỨ IX : QUÁCH C Ự
14. TRUY ỆN THỨ X : KHƯƠNG THI
15. TRUY ỆN THỨ XI : THÁI THU ẬN
16. TRUY ỆN TH Ứ XII : ĐINH LAN
17. TRUY ỆN THỨ XIII : LỤC TÍCH
18. TRUY ỆN THỨ XIV : GIANG CÁCH
19. TRUY ỆN THỨ XV : HOÀNG HƯƠNG
20. TRUY ỆN THỨ XVI : VƯƠNG THÔI
21. TRUY ỆN THỨ XVII : NGÔ MÃNH
22. TRUY ỆN THỨ XVIII : VƯƠNG TƯ ỜNG
23. TRUY ỆN THỨ XIX : DƯƠNG HƯƠNG
24. TRUY ỆN THỨ XX : MẠNH TÔNG
25. TRUY ỆN THỨ XXI : DU KIỀM LÂU
26. TRUY ỆN THỨ XXII : ĐƯỜNG THỊ vợ Họ THÔI
27. TRUY ỆN THỨ XXIII : CHÂU TH Ọ XƯƠNG
28. TRUY ỆN THỨ XXIV : HOÀNG ĐÌNH KIÊN
3
Nhị thập tứ hiếu (chữ Hán:
二十四孝
) là
một tác phẩm trong văn học Trung Hoa kể lại sự
tích của 24 tấm g ương hiếu thảo do Quách Cư
Nghiệp (có sách ghi Quách Cư Kinh
郭居敬
,
bính âm: Guō Jūjìng) vào th ời nhà Nguyên biên
soạn.
Ông nổi tiếng l à một người con hiếu thảo,
và sau khi cha m ất ông đ ã xuất bản quyển n ày.
Hầu hết các ng ười con hiếu thảo l à nam gi ới báo
hiếu cho mẹ gi à. Các câu chuy ện được kể lại xảy
ra từ thời Thuấn Đế đến đời ông.
Ở Việt Nam, ông Lý Văn Phức (1785 -
1849), đ ậu Cử Nhân, làm quan dư ới ba triều vua
nhà Nguy ễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, l à
nhà văn ch ủ trương đ ạo đức, liền dịch truyện Nhị
thập tứ Hiếu của Quách Cự Nghiệp ra quốc văn
theo th ể thơ song th ất lục bát, để dễ truyền bá m à
răn dạy người đời là phải có hiếu với c ha mẹ.
Nho giáo d ạy rất kỹ về Nh ơn đạo, lấy chữ
Hiếu làm căn b ản đạo đức con ng ười (Khai nh ơn
tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu). Ng ười không
hiếu với cha mẹ th ì nhứt định không có đạo đức,
không dùng đư ợc.
4
NHỊ THẬP TỨ HIẾU
Lý Văn Ph ức
Lý Văn Ph ức tự là Lân Chi , hiệu là Khắc Trai, người làng Hồ Khẩu,
huyện Vĩnh Thuận, tỉnh H à Nội, sinh vào năm Ất Tỵ (1785).
Ông thi đ ỗ Cử nhân v ào năm 1819, niên hi ệu Gia Long thứ 18.
Ông tr ải qua ba triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị v à Tự Ðức.
Trong cu ộc đời làm quan, ông bị nhiều lần thăng giáng, v à được cử đi
công cán nhi ều nước ở Viễn đông.
Vào năm 1849, ông b ị bệnh m à mất, nhà vua li ền cho truy thụ
Lễ Bộ Hữu Thị Lang.
Nhị Thập Tứ Hiếu diễn âm
(hai mươi b ốn truyện hiếu diễn ra quốc âm )
Người tai mắt đứng trong trời đất,
Ai là không cha m ẹ sinh th ành,
Gương treo đ ất nghĩa, trời kinh,
ở sao cho x ứng chút t ình làm con.
Chữ hiếu niệm cho tr òn một tiết,
Thì suy ra tr ăm nết đều n ên,
Chẳng xem thuở tr ước Thánh Hiền,
Thảo hai mươi b ốn, thơm ngh ìn muôn thu
5
Giới thiệu và Kết luận
Để giới thiệu truyện Nhị Thập Tứ Hiếu , trong ph ần Khai M ào, Lý V ăn
Phức đã nói qua v ề sự hiếu thân l à trọng trong đạo l àm ngư ời. Con ng ười quên
công sinh thành c ủa cha mẹ không c òn xứng đáng đứn g trong tr ời đất nữa:
Người tai mắt đứng trong trời đất
Ai là không cha m ẹ sinh th ành,
Gương treo đ ất nghĩa trời kinh,
Ở sao cho xứng chút t ình làm con.
Chữ hiếu niệm cho tr òn một tiết
Thì suy ra tr ăm nết đều n ên,
Chẳng xem thuở tr ước Thánh Hiền,
Thảo hai m ươi bốn, th ơm ngh ìn muôn thu .
Trong ph ần Kết luậ n, tác gi ả tóm tắt lại những ý chính trong bao nhi êu
truyện của các bậc hiếu tử, từ những ng ười đỗ đạt ra l àm quan cho đ ến những
hạng thứ dân, không ai có thể v ượt qua đạo lý cổ nhân, v à không ai quên đư ợc
Tam cương và Ng ũ thường. Cho n ên, m ọi người đều phải xem chữ hiếu l à trọng:
Bấy nhiêu cổ tích cổ nhân về tr ước.
Cách nghìn x ưa như t ạc một l òng,
Kể chi kẻ đạt ng ười cùng,
Lọt lòng ai tr ốn khỏi v òng di luân,
Buổi công hạ cảm thân d ày đội,
Xa hương quan g ần cõi Thánh Hi ền,
Trông vào nh ững thẹn bóng đ èn,
Muốn lưu gia ph ạm, nên truy ền quốc âm
6
Phụ chú
Khổng tử ở nhà. Tăng Sâm đ ến gặp.
Khổng tử hỏi:
- "Cái đức trị dân của các vua đời tr ước, thuận lòng ng ười, dân
chúng vui kính, trên dư ới không oán giận chủ yếu l à chi, ngươi có bi ết
chăng? ".
Tăng tử đáp:
- "Sâm này ngu t ối. Xin hỏi là làm sao? "
Khổng tử đáp:
- "Này đây, HIẾU là căn b ản của ĐỨC, do giáo d ục mà sinh ra.
Hãy ng ồi trở xuống, ta nói cho ngươi bi ết. Thân th ể, hình hài, tóc tai, da
thịt là do cha m ẹ sinh ra không đ ược gây h ư hại là nết đầu của chữ Hiếu.
Sau lo l ập thân, hành đạo để lại tiếng th ơm cho đ ời sau là nết cùng của
chữ Hiếu . Này đây, chữ Hiếu lấy việc phụng d ưỡng cha mẹ l àm đầu, kế
đến thờ vua, sau rốt là lập thân .
*************
Trong Đại Nhã có nói r ằng: "Há ch ẳng nghĩ đến tổ tông của n gươi mà
lo trau gi ồi đức hạnh".
Chương 2 .
Khổng tử nói: "Thương cha m ẹ mình thì ch ưng không dám làm ác v ới cha
mẹ người. Kính cha mẹ m ình thì ch ưng không dám khinh nh ờn cha mẹ
người. Trọn niềm y êu kính cha m ẹ thì cái đức có thể trải rộng ra dạy dỗ
trăm h ọ, thành lu ật định khắp bốn bể. Trong Phủ hình có ghi r ằng: Một
người có phúc, triệu người được lợi.
Chương 3 .
Ở trên ch ẳng kiêu, thì cao mà không nguy; gìn giữ có độ, thì đầy mà
không tràn. Cao mà không nguy là cái đ ể giữ ngôi sang lâu d ài. Đầy mà
không đ ể tràn là cái đ ể giữ m ãi sự giàu vậy. Giàu sang ch ẳng lìa người
thân của mình, rồi sau giữ đ ược nhân dân x ã tắc của m ình. Đó là Đ ức
Hiếu của các Ch ư Hầu vậy! Kinh Thi có câu: "Nơm n ớp, chăm chăm
như tới vực sâu, như đi trên băng m ỏng".
7
TRUY ỆN THỨ I
NGU THUẤN
Một vị vua trong Ngũ Đế thời th ượng cổ họ Di êu tên là Thu ấn, một trang
hiếu tử. Sau đ ược vua Nghi êu, hiệu là Đào Đư ờng gả hai ng ười con gái l à Nga
Hoàng và N ữ Anh, rồi lại truyền ngôi báu cho.
Vua Thu ấn lên ngôi đặt niên hiệu là Đường Ngu. Nguyên cha của Thuấn
là người hung bạo, không phân biệt được người hay kẻ d ở, người đương th ời đặt
tên là C ổ Tẩu (người mù mắt).
Mẹ của Thuấn mất sớm, Cổ T ẩu tục huyền với ng ười đàn bà sau này sinh
ra Tượng. V ì có lời gièm pha c ủa người kế mẫu v à đứa em ngỗ nghịc h cùng cha
khác m ẹ, Cỗ Tẩu không ưa Thu ấn và định bụng giết đi. Biết thế, nh ưng Thu ấn
vẫn trọn g ìn chữ hiếu đối với cha v à ngư ời dì ghẻ ác nghiệt, h òa thu ận với đứa
em độc ác, không một lời than oán.
Khi cha b ắt đi cày ở đất Lịch S ơn cốt tìm cách tr ừ đi, vì nơi đây có ti ếng
là nhiều thú dữ hay ăn thịt ng ười, nhưng tấm lòng hi ếu thảo v à hòa m ục của
Thuấn động đến l òng trời, cả đàn voi ra giúp Thu ấn cày đất và muông chim vô
số đáp xu ống nhặt cỏ hộ. Thấy không hại đ ược Thuấn Cổ Tẩu và ngư ời dì ghẻ
sai Thu ấn đánh cá ở Hồ Lôi Trạch, n ơi có nhi ều sóng to gió lớn, nh ưng khi
Thuấn đến th ì sóng lặng gió y ên. Đ ến khi đ ược vua Đ ường Nghi êu truy ền ngôi,
suốt 18 năm trị v ì, Đế Thuấn chỉ ngồi gảy đ àn hát khúc Nam Phong mà tr ị bình
thiên h ạ, nhà nhà đ ều lạc nghiệp âu ca.
8
Vì đoạn này tôi có bi ết thêm một số chi tiết có thể nói r õ hơn tình
cảnh của vua Thuấn. Nhận thấy nh ư vậy nên tuỳ tiện th êm vào ch ứ không
có ý tự chỉnh sửa sách của tiền nhân. Nếu không vừa ý các bạn có thể xoá
đi khi chia s ẻ với ng ười khác.
Đời vua Thuấn: Phụ ngoan, mẫu dâm, đệ ngạo, Thuấn vi
khắc tận hiếu đạo (cha ngoan c ố, mẹ dâm đ ãng song ông Thu ấn
hết lòng làm tròn đạo Hiếu) .
Cha của vua Thuấn rất ngoan cố. Tên của ông ta l à Cổ Tẩu
(ông già mù) , ý nói ông ta có m ắt nhưng không tr òng, vì không bi ết
đạo lý trắng đen, đúng sai, thẳng cong, thiện ác là gì cả. Ông có con
là vua Thu ấn, một người con rất hiếu thảo m à không bi ết nữa. Bà
mẹ của vua Thuấn l à bà m ẹ kế; bà này dâm lo ạn, nham hi ểm chẳng
bao giờ nói tới luân lý, chỉ nghĩ đén chuy ện vô luân . Ông Thu ấn có
người em khác mẹ t ên là Tư ợng cũng hết sức ngạo mạn, không
cung kính anh mình. Tuy vậy trong gia đ ình, ông Thu ấn hết sức
hiếu thảo với cha mẹ, hết sức th ương yêu lo l ắng cho em. Lúc bấy
giờ, ngưòi em c ủa ông Thuấn với b à mẹ kế nghĩ cách l àm hại ông,
nên một ngày nọ kêu ông vào kho g ạo để quét dọn. Chờ đến khi
ông vào trong r ồi mới tức khắc nổi l ưả đốt nh à. Nhà kho b ắt lửa
bừng cháy dữ dội. Họ thầm nghĩ ông Thuấn chắc sẽ bị lửa đốt chết
nhưng ch ẳng mấy chốc lại thấy ông Thuấn về nh à. Người em liền
hỏi nguyên do thì ông Thu ấn đáp rằng: "Khi tôi th ấy lửa cháy, tôi
lượm hai cái bừng cỏ che thân rồi leo l ên mái nhà nh ảy thoát ra
ngoài, cho nên ch ẳng bị th ương c ũng không bị thi êu đốt".
Một lần khác, khi ông Thu ấn ra giếng lấy n ước thì hai
người ấy lại nghĩ các h để hại ông. Lúc ông Thu ấn leo xuống giếng
thì họ đem một tảng đá lớn đến bịt miệng giếng không cho ông l ên.
Họ tin rằng ông Thuấn lần n ày sẽ chết (là dồn đến đ ường cùng
vậy). Song dư ới giếng lại có một cái động n ên ông Thu ấn lại n ương
vào đó mà b ò lên (có nơi lại nói ở đó có con h ồ li trắng hay tới lui
nơi đó và nh ờ nó m à ông thoát) . Bấy giờ t ên Tượng nghĩ rằng ông
Thuấn đã chết nên về nhà nói v ới mẹ chuyện chia gia t ài. Y nói:
"Dê với bò để cho cha mẹ, lương th ực cũng để cho cha mẹ. Tôi
không c ần những t hứđó. Tôi ch ỉ cần cái ống ti êu, chiếc đàn ngũ
huyền cầm, đồ luyện v õ và hai bà v ợ của ông Thuấn (tức là Nga
Hoàng và N ữ Anh cả hai đều là con gái vua Nghiêu đư ợc vua đặc
biệt hứa gả để phục dịch ông) ". Nói xong tên Tư ợng vào phòng thì
thấy ông Thuấn ngồi c hễm chệ tr ên giư ờng. Tượng sợ quá, ông
Thuấn liền đến an ủi ng ười em đừng sợ. L òng người lúc đó xấu xa
như vậy, hãm hại ngài nhiều lần m à Vua Thu ấn truớc sau nh ư một
để rôi cuối c ùng cả nhà êm ấm, chỉ ngồi gảy đ àn hát khúc Nam
Phong mà tr ị bình thiên h ạ, nhà nhà đ ều lạc nghiệp âu ca.
9
Nguyên bản:
Đội đội canh điền t ượng,
Phân Phân vân th ảo cầm,
Phụ Nghiêu đăng báo v ị,
Hiếu cảm động thi ên tâm
Có ngh ĩa là:
Hàng đàn voi v ề cày ruộng,
Hàng b ầy chim đến nhặt cỏ,
Giúp vua Nghiêu lên ngôi báu,
Hiếu thảo động l òng trời.
Diễn Quốc Âm:
Đức Đại Thánh họ Ngu, vua Thuấn,
Buổi tiềm long gặp vận h àn vi,
Tuổi xanh khuất bóng từ vi
Cha là C ổ Tẫu ng ười thì ương ương,
Mẹ ghẻ tính c àng khe kh ắt,
Em Tư ợng th êm rất mực đi êu ngoa,
Một mình thu ận cả vừa ba,
Trên chi ều cha mẹ d ưới hòa cùng em.
Trăm cay đ ắng một niềm ngon ngọt,
Dẫu tử sinh không chút biến dời,
Xót tình khóc t ối kêu mai
Xui lòng ghen chét hóa vui d ần dần,
Trời cao thẳm mấy lần cũng đến
Vật vô tri cũng mến lọ ng ười.
Mấy phen non lịch pha phôi,
Cỏ chim v ì nhặt, ruộng voi vì cày.
Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh,
Mệnh tr ương dung trao chánh như ờng ngôi
Cầm thi xi êm áo th ảnh th ơi,
Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen.
10
TRUY ỆN THỨ II
VĂN ĐẾ
Tên th ật là Hằng, con ng ười vợ thứ của Hán Cao Tổ L ưu Bang em cùng
cha khác m ẹ với v ua Hu ệ Đế. V ì người vợ cả của Hán Cao Tổ có tính hay ghen
dữ tợn v à sợ con của ng ười vợ thứ sau n ày dành ngôi, nên không mu ốn cho
Hằng và mẹ là Bạc Hậu ở triều.
Theo lời đề nghị của đ ình thần, vua Hán Cao Tổ liền phong cho Hằng
chức Đại V ương ở đất Đại. Hằ ng tính tình hi ếu thuận đ ược triều thần nh à Hán
cũng nh ư thần dân đều mến phục. Sau khi anh l à vua Hu ệ Đế mất, không con
nối nghiệp, các quan liền ra đất Đại r ước Hằng về l ên ngôi, t ức là Hán Văn Đ ế.
Khi làm vua r ồi, mẹ là Bạc Hậu lại đau yếu trong suốt ba năm liền, Văn Đế,
ngoài nh ững buổi chầu, vẫn mặc đại phục của vị V ương đ ế và đứng hầu mẹ,
biếng ăn bỏ ngũ, đ êm thức canh chừng bệnh mẹ. Th ường ngự y dâng thuốc l ên,
Văn Đ ế đở lấy rồi nếm tr ước sợ có thuốc độc.
Các quan trong tri ều cũng nh ư ngoài dân chúng biết Văn Đế l à ngư ời
hiếu tử đều bắt ch ước theo. Nhờ đó, ng ười trong n ước đều giữ l òng hi ếu thảo
hòa m ục và thiên h ạ thái b ình th ạnh trị không khác g ì ở thời Tam Đại thuở tr ước
(Tam Đ ại gồm có các đời vua nh à Hạ, nhà Thương, nhà Chu) .
11
Nguyên b ản:
Nhân hi ếu lâm thi ên hạ,
Nguy nguy quân bách Vương,
Hán đ ình sự hiền mẫu,
Thang dư ợc tất tiến th ường.
Có ngh ĩa là:
Lấy đạo nhân hiếu dạy thi ên hạ,
Công đ ức cao h ơn trăm vua khác,
Phụng dưỡng mẹ n ơi công đ ình nhà Hán,
Thuốc thang tự tay nếm tr ước.
Diễn Quốc Âm:
Kìa Văn Đ ế vua hiền Hán Đại,
Vâng ấn phong ngo ài cõi phiên V ương,
Quên mình ch ức cả quyền sang,
Phụng thờ Bạc Hậu lẽ th ường chẳng sai,
Đến khi nối ngôi trời trị n ước,
Vẫn lòng này s ăn sắc như xưa.
Mẹ khi ngại gió kinh m ưa.
Ba năm h ầu hạ th ường nh ư một ngày.
Mắt chong bóng dám sai giấc ngủ.
Áo luôn mình dám s ổ đai lưng.
Thuốc thang mắt xét tay nâng.
Có tư ờng trong miệng mới dâng d ưới màn.
Tiếng nhân hiếu đồn vang thi ên hạ,
Thói thu ần lương hóa c ả lê nguyên,
Hai mươi năm l ẽ kiền khôn.
Đã sau Tam Đại, hãy còn Th ành, Khang.
Ấy hai vị đế V ương đ ời trước,
Chữ hiếu d ành đá t ạc vàng in,
Còn ra s ĩ thứ, đấng hiền.
Đếm xem mấy kẻ tiếng truyền đến nay.
12
TRUY ỆN THỨ III
TĂNG TỬ
Tên là Sâm, t ự là Tử Dư, ngư ời ở ấp Vũ Th ành thu ộc nước Lỗ, sinh v ào
đời Xuân Thu, l à học trò giỏi nhất của Khổng Tử.
Tăng T ử được liệt v ào hàng t ứ phối, nghĩa l à trong s ố bốn ng ười, cùng
được phối h ưởng với Khổng Tử.
Ông thờ cha mẹ rất hiếu thảo, bữa ăn n ào cũng cố gắng t ìm đũ rượu thịt
cho cha m ẹ dùng. Khi cha m ẹ dùng bữa xong, c òn thừa món ăn nào, ông h ỏi cha
mẹ cho a i thì ông vâng mà cho ng ười ấy.
Một hôm ông vắng nh à để vào rừng kiếm củi, có ng ười khách đến ch ơi,
mẹ ông muốn cho ông về ngay, nh ưng không bi ết phải l àm cách nào, li ền cắn
vào đầu ngón tay để động l òng con mình. Qu ả nhiên ở trong rừng ông cảm cảm
thấy trong l òng qu ặn đau, vội v ã gánh c ủi về nh à.
13
Nguyên b ản:
Mẫu chỉ t ài phương khi ết,
Nhỉ tâm thống bất căm,
Phụ tân qui vị v ãn,
Cốt nhục chí t ình thâm.
Có ngh ĩa là:
Mẹ vừa cắn ngón tay,
Con qu ặn đau trong dạ,
Vội vàng đội cũi về,
Cốt nhục tình linh c ảm.
Diễn Quốc Âm:
Đời Chu Mạt có thầy Tăng Tử,
Thờ mẹ cha thời giữ chí th ành,
Bữa thường rượu thịt ngon l ành,
Cho ai, vâng c ứ đinh ninh chẳng rời,
Nhà bần bạc th ường vui hái củi,
Quảng mù xanh thui th ủi non xâu.
Mẹ ngồi tựa cửa bóng sau,
Nhân khi khách đ ến trông mau con về.
Rối trong dạ nhân khi c ùng túng.
Cắn ngón tay cho động l òng con.
Trông non b ỗng chốc bồn chồn.
Quặn đau khúc ruột b ước dồn gót chân.
Quỳ dưới gối ghé gần th ưa hỏi.
Lắng bên tai nghe gi ải nguồn c ơn.
Cho hay t ừ hiếu, t ương quan.
Non Đ ồng khi lỡ, khôn h àn tiếng chuông.
14
TRUY ỆN THỨ IV
MẪN TỬ KHIÊN
Tên chữ là Tồn, học tr ò Khổng Tử, sinh v ào đời Xuân Thu, mẹ ông mất
sớm, người cha có v ợ khác v à sinh h ạ được hai con.
Người dì ghẻ đối với ông vô c ùng kh ắc nghiệt, nh ưng ôn g vẫn một l òng
hiếu thuận. M ùa Đông giá rét, hai con riêng c ủa bà thì được mặc áo lót bông,
riêng M ẫn Tử Khi ên thì m ặc áo độn hoa lau ở b ên trong. Tuy không đ ủ ấm,
nhưng ông ch ẳng bao gi ò hở môi.
Một hôm, cha ông dạo ch ơi ông theo đ ẩy xe, v ì quá rét, tay c óng lại rời
tay xe ra. Cha ông th ấy thế biết l à người kế mẫu ác nghiệt để cho ông chịu rét
lạnh, liền có ý định đuổi ng ười đàn bà cay nghi ệt kia đi , Ông khóc lóc và kêu
van với cha xin đừng đuổi kế mẫu đi vì người kế mẫu c òn, chỉ có mình ông ch ịu
rét, nếu bà đi rồi, cả hai em chịu rét v à khổ sở lây. Cha ông nghe theo, v à người
kế mẫu hiểu biết chuyện hiếu thảo của ng ười con chồng, từ đó b à thay đ ổi cách
cư xử và trở nên bậc hiền mẫu.
15
Nguyên bản:
Mẫn thị hữu hiền lang,
Hà tằng oán văn n ương,
Đường tiền l ưu mẫu tại,
Tam tử miễn phong s ương
Có ngh ĩa là:
Nhà nọ mẫn có đứa con hiền,
Không bao gi ờ oán trách mẹ kế,
Trước mặt cha xin mẹ kế ở lại,
Để ba con c ùng kh ỏi phải khổ sở
Diễn Quốc Âm:
Thầy Mẫn Tử rất đ ường hiếu nghĩa,
Xót nhà huyên qu ạnh quẻ đ ã lâu,
Thờ cha sớm viếng khuya hầu.
Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng n àn.
Trời đương ti ết đông h àn lạnh lẻo.
Hai em th ời kép áo d ày bông,
Chẳng th ương chút ph ận long đong.
Hoa lau n ở để lạnh l ùng một thân,
Khi cha d ạo theo chân xe đẩy.
Rét căm căm xe đ ẩy rời tay,
Cha nh ìn ngẫm nghĩ mới hay.
Nghiến răng rắp cắt đứt dây x ướng tùy,
Gạt nước mắt chân quỳ miệng gởi.
Lạy cha xin xét lại nguồn c ơn,
Mẹ còn chịu một thân đ ơn.
Mẹ đi luống để c ơ hàn c ả ba,
Cha trông xu ống cũng sa giọt tủi.
Mẹ nghe lời cũng đổi l òng xưa,
Cho hay hi ếu cảm nên từ.
Thấm lâu nh ư đá cũng rừ lọ ai?
16
TRUY ỆN THỨ V
TRỌNG DO
Trọng Do, ng ười ở ấp Biện, thuộc n ước Lỗ, sinh v ào đời Xuân Thu, học
trò Kh ổng Tử Lộ. Thờ cha mẹ rất có hiếu.
Nhà nghèo, ông thư ờng đi đội gạo đ ường xa h àng trăm d ặm về nuôi cha
mẹ. Không có ti ền mua thức ăn, phải t ìm các th ứ rau về nấu canh dâng lên cha
mẹ dùng tạm.
Sau khi cha m ẹ mất, ông sang n ước Sở, đ ược vua Sở trọng dụng, phong
ban tư ớc cao sang, cấp nhiều bổng lộc. Ông th ường than phiền l à không còn cha
mẹ để được phụng d ưỡng nh ư xưa, đ ể ngày ngày đ ội gạo, bữa bữa nấu canh rau.
Khổng Tử th ường khen Tử Lộ l à ngư ời hiếu để v à thận trọng từng h ành vi.
17
Nguyên b ản:
Phụ mễ cung cam chỉ,
Ninh T ừ bách lý lao,
Thân hoàn thân d ĩ một,
Do niệm cựu c ù lao
Có ngh ĩa là:
Đội gạo để cung cấp ng ọt bùi cho cha me,
Không n ề đường d ài xa trăm d ặm.
Đến khi sung s ướng cha mẹ đ ã khuất.
Vẫn hằng nhớ công khó nhọc của cha mẹ.
Diễn Quốc Âm:
Thầy Tử Lộ cũng ng ười nước Lỗ,
Thờ hai thân từng bữa canh l ê.
Thường khi đội gạo đi về.
Xa xôi trăm d ặm nặng nề hai vai,
Đỉnh Hoa biểu từ kh ơi bóng h ạc.
Gót Nam Du nh ẹ bước tang bồng.
Xe trăm c ỗ, thóc muôn chung.
Ngồi chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao,
Thân phú quý ng ẫm vào thêm t ủi.
Đức cù lao ch ạnh tới c àng đau.
Nào khi đ ội gạo canh rau,
Muốn còn như cũ dễ hầu đ ược ru.
Lòng th ắc mắc ngh ìn thu v ẫn dễ,
Biết bao gi ò cam ch ỉ đền công,
Cho hay d ạ hiếu khôn c ùng.
Dẫu Tam công chẳng đổi l òng th ần hôn
18
TRUY ỆN THỨ V I
DIỄM TỪ
Diễm Tử sinh v ào đời nhà Chu, th ờ cha mẹ hết l òng. Cha m ẹ già, đôi
mắt lòa không trông rõ, thèm muốn được uống sửa h ươu. Diễm Tử liền lấy da
hươu khô làm áo m ặc vào giả hươu con vào r ừng đến gần các h ươu m ẹ có sửa,
vắt lấy đem về dâng cho hai thân. Một hôm, Diễm Tử gặp bọn săn t ưởng lầm là
hươu, dùng cung tên toan b ắn Diễm Tử vội v àng bỏ lớp h ươu ra trình bày m ọi
lẽ, bọn thợ săn thôi không bắn nữa.
Nguyên b ản:
Thân lão t ư lộc nhữ,
Thân phi l ộc bì y,
Nhược bất cao thanh ngữ,
Sơn trung đ ới tiền quy.
19
Có ngh ĩa là:
Cha mẹ già thèm u ống sửa h ươu,
Mình khoác lên vai l ớp áo da h ươu,
Nếu không kịp k êu la to tiếng,
Bị trúng phải t ên bắn trong núi.
Diễn Quốc âm:
Chu Điễm Tử l àm con r ất thảo,
Chiều hai thân tuổi l ão cao niên,
Mắt trần khuất nguyệt mờ sao,
sửa hươu ngư ời những ước ao từng ng ày,
Vật khó kiếm th ường khôn hay th ường đôi,
Phải lo ph ương t ìm tỏi cho ra,
Hươu khô t ìm lấy lột da.
Mặc làm sắc áo để h òa lẫn theo.
Chốn non thẳm t ìm vào b ầy lứa,
Sẽ dần d à lấy sửa nuôi thân,
Bỗng đâu gặp lũ đi săn,
Rắp buông cung bắn không phân vật ng ười.
Đem tâm s ự tới n ơi bày t ỏ,
Chút hi ếu tình nghe rõ c ũng thôi,
Cho hay cung m ột tính trời,
Mảnh son cũng động đ ược người vũ phu.
20
TRUY ỆN THỨ VII
LÃO LAI TỬ
Lão Lai T ử vốn ng ười ở nước Sở, sinh v ào đời Xuân Thu, đ ã 70 tu ổi mà
cha mẹ vẫn c òn sống, ông th ờ cha mẹ rất có hiếu.
Không mu ốn cha mẹ thấy con gi à nua mà lo bu ồn, ông thư ờng mặc áo
sặc sỡ, rồi tay múa miệng hát tr ước mắt cha mẹ. Lại có khi b ưng nư ớc hầu cha
mẹ, ông giả vờ trợt té rồi ngồi khóc oa oa tr ước mặt cha mẹ nh ư trẻ nít mới l ên
5, 3 tu ổi vậy. Cha mẹ vui c ười trước trò ngộ nghĩnh của con m ình.
Nguyên b ản:
Hý Vũ học Kiều sy
Xuân phong đ ộng thái y
Song thân khai kh ẩu tiếu,
Hỷ sắc m ãn đình vi.
21
Có ngh ĩa là:
Chơi đùa như tu ồng trẻ con,
Gió xuân lay đ ộng áo hoa sặc sỡ,
Cha mẹ cùng nhau m ở miệng c ười,
Cảnh nh à cửa đầy cả cửa nh à.
Diễn Quốc âm:
Lão Lai T ử đời Chu , cao sĩ,
Thờ hai thân chẳng trễ ngọt b ùi,
Tuổi già đã đúng bảy mươi,
Nói năng ch ẳng chút hở môi rằng gi à,
Khi thong th ả mẹ cha ngồi tr ước,
Ghé gần vào bắt chước trẻ th ơ,
Thấp cao điệu múa nhởn nh ơ,
Xênh xoang màu áo b ạc phơ mái đ ầu,
Chốn đường th ượng khi hầu bưng nư ớc,
Giả làm điều ngã trước thềm hoa,
Khóc lên m ấy tiếng oa oa,
Tưởng chừng l ên bảy lên ba thu ở nào.
Trên tu ổi tác trông v ào vui v ẻ,
Áng đình vi gió th ụy mưa xuân,
Cho hay nhân th ử sự thân,
Trong trăm năm đư ợc mấy lần ng ày vui.
22
TRUY ỆN T HỨ VIII
ĐỒNG VĨNH
Người đời nh à Hậu Hán, nh à tuy nghèo nhưng V ĩnh rất hiếu thảo. Khi
cha ch ết trong nh à không ti ền để lo việc ma chay cho ấm cúng, Vĩnh liền đến
làng khác vay ti ền một ng ười nhà giàu, h ứa sẽ dệt trả công 300 tấm lụa để trả
vào số tiền mượn, số tiền công dệt lụa kia trội h ơn gấp mấy lần tiền vay. Vay
được tiền Đồng Vĩnh về lo việc tang ma cho cha xong xuôi, thu xếp việc gia
đình định đến nh à người nhà giàu để dệt trả công. Dọc đ ường Đồng Vĩnh gặp
người con gái c ùng nhau h ứa hẹn kết l àm chồng vợ, nh ưng hẹn dệt xong 300
tấm lụa, rồi sau sẽ th ành hôn. Ngư ời con gái n ày giúp V ĩnh dệt xong 300 tấm lụa
rất nhanh để trả món nợ cho ng ười nhà giàu .
Khi cả hai cùng trở về đến ngay chỗ gặp, ng ười con gái lúc tr ước, nàng
ấy biến mất. Đó l à vì lòng hiếu thảo của Đồng Vĩnh động l òng Tr ời sai ti ên nữ
xuống giúp.
23
Nguyên b ản:
Táng Ph ụ thải khổng ph ương,
Tiên cô l ộ thượng ph ùng,
Chức khiêm thư ờng trái chủ,
Hiếu cảm động th ượng khung.
Có ngh ĩa là:
Vay tiền để chôn cất cha gi à,
Giữa đường liền gặp n àng tiên,
Dệt lụa trả công chủ nợ,
Lòng hiếu cảm động đến Trời.
Diễn Quốc Âm:
Đời Hậu Hán có ng ười Đông Vĩnh.
Nhà rất ngh èo mà tính r ất thành,
Thấu chăng, chẳng thấu trời xanh.
Phụ tang để đo, nhân t ình còn chi,
Liều thân thể l àm thuê công vi ệc,
Miễn cầu cho th ể phách đ ược yên.
Cực người thay, nhẽ đồng tiền,
Đem thân hi ếu tử, băng miền phú gia.
Bỗng gặp kẻ đ àn bà đâu đó.
Xin k ết làm phu ph ụ cùng đi,
Lụa ba trăm tấm dệt thu ê,
Trả xong nợ ấy mới về c ùng nhau.
Tới chốn gặp bỗng đâu thoắt biến.
Là tiên cô tr ời khiến giúp công,
Mới hay trời vốn ở l òng,
Há rằng cao thẳm ngh ìn trùng mà xa.
24
TRUY ỆN THỨ IX
QUÁCH CỰ
Người đời nh à Hán, th ờ mẹ chí hiếu, nhân khi cửa nh à sa sút, thư ờng
bữa ông thấy mẹ không dám ăn no, cứ bớt phần c ơm để đưa cho con của ông
mới vừa lên 3 tu ổi ăn. Hai vợ chồng c ùng nhau bàn b ạc: Mẹ gi à không đ ủ ăn,
mà vợ chồng ta c òn sinh đẻ được, nếu để con m ình chia x ẻ ngọt b ùi của mẹ là
không ph ải đạo. Thế rồi hai vợ chồng định đ ào hố chôn con đi. Khi hai vợ chồng
đào h ố xuống chừn g được phân nữa, th ì bỗng tìm thấy một hủ v àng, trên mi ệng
có đề hàng ch ữ:
Hiếu Tử Quách Cự, Ho àng Kim nh ất hủ dung dĩ tứ nhữ.
Nghĩa là: Người con hiếu l à Quách C ự một hủ v àng đầy để cho nh à
ngươi. Nh ờ đó m à hai v ợ chồng khỏi phải chôn con v à có đủ tiền phụng
dưỡng mẹ gi à.
25
Nguyên b ản.
Quách C ự tự cung cấp,
Mai nhi nguy ệt mẫu tồn.
Hoàng kim thiên s ở tứ,
Quang thái chi ếu hàn môn
Có ngh ĩa là:
Quách C ự chỉ lo phụng d ưỡng mẹ,
Đem chôn con đ ể mẹ đ ược sống.
Trời cho đ ào đư ợc hủ v àng,
Đương nghèo tr ở nên giàu có.
Diễn Quốc âm:
Hán Quách C ự cửa nh à sa sút,
Thờ mẫu thân chăm chút mọi bề.
Con còn ba tu ổi biết g ì,
Bữa ăn từ mẫu th ường th ì bớt cho.
Trông th ấy mẹ bữa no, bữa đói.
Với hiền th ê than n ỗi khúc nôi,
Mẹ già đã chẳng hay nuôi.
Để con xẻ ngọt chia b ùi sao đ ang,
Vợ chồng ta c òn phen sinh đẻ.
Mẹ già rồi hồ dễ đ ược hai,
Nói thôi! gi ọt vắn giọt d ài,
Đào ba thư ớc đất để v ùi tình thâm.
May đâu th ấy ho àng câm m ột hu,
Chữ Trời cho đề r õ rành rành,
Cho hay tr ời khéo ngọc th ành.
Hiếu tâm đâu dễ đoạn tình cha con.