Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Quan niệm tiếng trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.35 KB, 10 trang )

Quan niệm “tiếng” và vấn đề hình thái học trong tiếng Việt
1. Tiếng Việt là một trong các ngôn ngữ chính được sử dụng tại khu vực Đơng Nam Á cùng với
tiếng Miến Điện, tiếng Thái, tiếng Khơ-me và tiếng Lào. Các ngôn ngữ này thường được coi là
các ngôn ngữ đơn âm tiết, có nghĩa là các từ đều được cấu tạo từ một âm tiết. Tuy nhiên, các từ
đơn âm tiết trong các ngơn ngữ này lại đóng vai trò là đơn vị cấu tạo từ vựng. Trong tiếng Việt,
cả ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết, có rất nhiều từ đa âm tiết (nó có thể bao gồm hai, ba hoặc bốn
âm tiết). Các từ này có đầy đủ các đặc điểm ngữ pháp cho phép chúng kết hợp với các từ khác,
tạo nên một số lượng lớn các từ ghép và từ phái sinh trong tiếng Việt. Điều đó có nghĩa là tiếng
Việt nên được coi là một ngôn ngữ đa âm tiết nhưng sở hữu các đặc điểm khác với các ngôn ngữ
đa âm tiết Ấn – Âu. Sự khác biệt nằm ở chỗ tính chất đa âm tiết của các ngôn ngữ Ấn – Âu xuất
phát từ tính chất đa âm tiết của các đơn vị cấu tạo gốc, trong khi đó, trong trường hợp của các
ngơn ngữ như tiếng Việt, đó là kết quả của sự kết hợp các “tiếng” đơn âm tiết với nhau. Trong
các loại hình ngơn ngữ như vậy, một hình vị có thể được phân tách từ một từ đa âm tiết và hoạt
động giống như một từ độc lập, ngoại trừ một số trường hợp hình vị sau khi tách ra vẫn là hình vị
vì chúng khơng thể hoạt động độc lập như từ. 1 ví dụ như quần và áo trong quần áo, nhà và cửa
trong nhà cửa có thể hoạt động độc lập sau khi tách biệt nhưng đắn trong đỏ đắn, nghếch trong
ngốc nghếch lại không thể hoạt động độc lập như từ tự do được. Nói cách khác, tiếng Việt có
tính chất tự do hơn tính chất bị giới hạn, mỗi đơn vị trên được coi là “tiếng”.
Trong quá trình tiếp xúc lâu dài với tiếng Hán, tiếng Việt đã tiếp nhận một số lượng lớn từ vựng
từ tiếng Hán. Các giai đoạn tiếp nhận khác nhau tương ứng với các giai đoạn lịch sử khác nhau,
cơ bản được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là đầu công nguyên cho đến thế kỷ thứ 9
và giai đoạn thứ hai là từ thế kỷ thứ 10 cho đến ngày nay. Các từ có nguồn gốc từ tiếng Hán
được chia làm ba nhóm: từ Hán Việt, từ Hán Việt cổ và các từ đã bị Việt Nam hóa. 2 Dưới sự ảnh
hưởng của Hán học cổ điển, các nhà nghiên cứu không phân biệt từ và âm tiết do chúng đều là tự
(字). Điều này có nghĩa là hồn tồn khơng có sự phân tích nào từ khía cạnh hình vị học, theo cựu
thuyết, Hán học cổ điển bao gồm huấn hỗ học (字字) tự thư học (字字) phân tích tự và âm vận học
(字字). Loại tự thư giảng về tự hình nghĩa là mặt chữ (字字), loại huấn hỗ giảng giải về tự nghĩa tức
là nghĩa của chữ (字字), loại vận thư giảng giải về tự âm tức là âm của chữ (字字).3 Trong quá khứ,
người Việt nam đã sử dụng chữ Hán hay chữ Nho, một chữ đồng thời là một âm tiết riêng biệt.
Sau đó, chữ quốc ngữ đã thay thế chữ Hán và được chọn là cách viết chính tả chính thống, trong
1



V.M.Solncev, Những thuộc tính về mặt loại hình của các ngơn ngữ đơn lập (trên cứ liệu tiếng Hán và tiếng Việt)
trích từ Các ngơn ngữ Đơng Nam Á, Nhà xuất bản Khoa học, Matxcova, 1970, trang 11 – 19, Lê Xuân Thại dịch,
Ngôn ngữ học số 3, 1986, trang 60 – 67.
2
Vũ Đức Nghiệu, Lược khảo lịch sử từ vựng tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2011, trang 132191.
3
Đăng lần đầu trong Khai minh thư điếm nhị thập chu niên kỉ niệm văn tập 字字字字字字字字字字字字, 1947; đăng lại trong
các cuốn Hán ngữ sử luận văn tập 字字字字字字; Long Trùng Tịnh Điêu Trai văn tập 字字字字字字字 đệ nhất sách; Vương
Lực văn tập 字字字字 đệ thập cửu quyển). Nguyễn Tuấn Cường dịch và chú thích. Dịch từ bản tiếng Trung Quốc:
Vương Lực, Tân huấn hỗ học 字字字字, in trong cuốn: Vương Lực ngữ ngôn học luận văn tập 字字字字字字字字, Thương
vụ ấn thư quán, Bắc Kinh 2000, 602 trang (phần dịch trang 498 - 510). Đây là cuốn sách về cơ bản đã phản ảnh
những tư tưởng học thuật trọng yếu của cố giáo sư Vương Lực, do hai nhà Hán ngữ học nổi tiếng là Đường Tác
Phiên 字字字 và Lí Tư Kính 字字字 tuyển chọn từ di sản nghiên cứu đồ sộ của giáo sư Vương Lực.
Nguồn internet: />
1


đó mỗi âm tiết vẫn được viết như một đơn vị riêng biệt. Các đơn vị này có thể hoạt động như các
từ độc lập như ấm, chậm, sáng, tham v.v... hoặc chúng đóng có thể đóng vai trị là một thành tố
cấu tạo trong từ ghép, ví dụ như “tiếng” trong các trường hợp không độc lập như áp trong ấm áp,
chạp trong chậm chạp, sủa trong sáng sủa, lam trong tham lam v.v… Các đơn vị này không có
một ý nghĩa độc lập mà chỉ đóng vai trị là một âm tiết các từ láy trên.
Trong thực tế, quan niệm “tiếng”, bao gồm ba quan niệm ngôn ngữ học khác, đó là âm tiết, hình
vị và từ. Hơn nữa, trong tiếng Việt thơng thường, “tiếng” cũng có nghĩa là âm thanh, tiếng động
hay tiếng đồng hồ và kể cả tiếng nói hay ngơn ngữ như trong từ tiếng Việt.4
Quan niệm “tiếng” trong Việt ngữ học xuất phát từ quan niệm “tiếng” đã luôn được dùng trong
văn học truyền thống, ví dụ “tiếng” trong thể thơ lục bát của Việt Nam, trong đó một câu gồm
sáu tiếng được tiếp nổi bởi một câu gồm tám “tiếng”, bất kể số lượng thật sự của các từ trong các
dịng thơ đó là bao nhiêu.

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trơng thấy mà đau đớn lịng 5
Như đã đề cập ở trên, một “tiếng” có thể là một âm tiết, một hình vị hay một từ. Các từ đa âm
tiết là các từ có hơn một “tiếng”, hơn nữa, một “tiếng” có thể là một từ đơn âm tiết. Từ đó, rất
nhiều nhà nghiên cứu đã xác định rằng quan niệm “tiếng” trong tiếng Việt là chỉ “đơn vị ngơn
ngữ có nghĩa nhỏ nhất với cấu trúc gồm một dãy âm vị kết hợp với nhau cùng với một thanh
điệu”.6 Tức là một khối ngữ âm chỉnh thể và có thể có nghĩa hay khơng có nghĩa.
2. Vấn đề này có liên quan đến một vấn đề ngơn ngữ học khác, đó là tìm hiểu vai trị và chức
năng của “tiếng” trong tiếng Việt cũng như định nghĩa hình vị và xác định đơn vị cấu tạo cơ sở
trong tiếng Việt là gì. Đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu phân tích đặc điểm của âm tiết tiếng
Việt với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Sự khác biệt về ý kiến trong giới Việt ngữ học xuất phát
từ sự ảnh hưởng của ba trường phái ngôn ngữ học đối với Việt ngữ học, đó trường phái Châu Âu,
trường phái Mỹ và trường phái Hán học.
Đầu tiên, trường phái Hán học cổ điển chủ yếu tập trung vào lĩnh vực từ điển học và ngữ âm học
của từ, do đó, khơng nhà nghiên cứu nào áp dụng trường phái này vào việc phân tích âm tiết
tiếng Việt do các từ Hán Việt đã thay đổi các đặc điểm của chúng theo những quy tắc của tiếng
Việt. Hán học hữu ích với các nhánh khác của Việt ngữ học như ngôn ngữ học lịch sử hay từ
nguyên học, v.v... Do đó, trường phái này khơng ảnh hưởng nhiều tới khía cạnh phân tích cấu
trúc từ tiếng Việt.
Tiếp theo, hai trường phái cịn lại đóng vai trị to lớn trong khía cạnh phân tích cấu trúc của tiếng
Việt. Nguyễn Thiện Giáp7 miêu tả khá chi tiết hiện trạng khá chồng chéo và rắc rối hiện nay
trong giới Việt ngữ học trong cơng trình nghiên cứu của mình. Chủ yếu chia làm hai hướng dựa

4

Nguyễn Đình Hịa, Vietnamese, Tiếng Việt khơng son phấn, Nhà xuất bản John Benjamins North America, 1997,
trang 13.
5

Nguyễn Du, Truyện Kiều
6
Nguyễn Đình Hịa, Vietnamese … 1997, trang 13.
7
Nguyễn Thiện Giáp, Vấn đề từ trong tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2011, trang 62-71.

2


trên ảnh hưởng lý thuyết của hai trường phái Châu âu coi từ là đơn vị cơ bản cấu tạo của ngơn
ngữ trong khi trường phái Mỹ coi hình vị là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ.
Kết quả là một số nhà ngôn ngữ học xác định “từ” , tức là đơn vị ngữ âm hoàn chỉnh, là đơn vị cấu tạo cơ
bản của tiếng Việt trong khi đó, một số nhà nghiên cứu lại áp dựng lý thuyết hình vị học cho tiếng Việt, tức
là coi hình vị mới là đơn vị cấu tạo cơ bản. Điều này dẫn đến sự phân rẽ giữa các nhà nghiên cứu trong lĩnh
vực lý thuyết ngơn ngữ học, từ đó dẫn đến sự khác biệt trong q trình phân tích cũng như kết quả của q
trình đó. Có hai cách các nhà nghiên cứu sử dụng để tiếp cận vấn đề phân tích cấu trúc từ của
tiếng Việt. Cách tiếp cận đầu tiên là phủ nhận hồn tồn khái niệm hình vị là đơn vị tạo nên từ và
tìm ra một khái niệm mới thay thế. Còn cách tiếp cận thứ hai thì áp dụng quan niệm hình vị vào
tiếng Việt với sự điều chỉnh sao cho phù hợp với cấu tạo từ trong tiếng Việt. 8
Các nhà ngôn ngữ học quan niệm rằng đơn vị cấu tạo tiếng Việt là đơn vị có cấu tạo lớn hơn hay
lớn bằng hoặc nhỏ hơn một đơn vị âm tiết hay “tiếng” được mơ tả bằng sơ đồ dưới đây.9
Hình vị tiếng Việt

Hình vị = Âm tiết

Hình vị ≠ Âm tiết

Hình vị < Âm tiết

Hình vị > Âm tiết


Đa số các nhà nghiên cứu gọi đơn vị cấu tạo là từ hoặc coi nó là hình vị nhưng hình vị của tiếng
Việt gồm những đơn vị song âm tiết hoặc đa âm tiết do những yếu tố vơ nghĩa tạo thành, dưới
góc nhìn đồng đại, như bù nhìn, bồ hóng và phần lớn đơn vị đơn âm tiết có nghĩa như nhà cửa
trong nhà cửa, quốc và kỳ trong quốc kỳ. Số thứ hai cho rằng mọi “tiếng”, bất kỳ có nghĩa hay
khơng đều là hình vị và đều là một từ. Số thứ ba cho rằng khơng chỉ có hình vị bằng hoặc lớn
hơn âm tiết (tiếng) mà cịn có hình vị nhỏ hơn âm tiết, ví dụ từ láy bền bỉ được phân tách thành
đơn vị bền, phụ âm b và vần i.
Trong khuynh hướng coi “tiếng” là từ, Nguyễn Tài Cẩn 10 cho “tiếng” là đơn vị cơ bản trong
truyền thống ngữ văn Việt Nam, là thành tố tạo nên cả từ ghép lẫn từ đơn. Ông coi “tiếng” là một
đơn vị đứng ở điểm giao nhau của hai hệ thống nhỏ. Đó là hệ thống cú pháp và hệ thống từ vựng.
Hệ thống 1 – thuộc cú pháp, có tính chất nửa tổ chức nửa chức năng, bao gồm từ, cú vị, câu. Hệ
thống 2 – thuộc từ vựng, có tính đơn thuần tổ chức, có tiếng, tổ hợp cố định (bao gồm từ ghép)
và tổ hợp tự do (bao gồm đoản ngữ). Ví dụ như từ thuyền buồm là tổ hợp cố định, chỉ một loại
thuyền sử dụng buồm còn thuyền Pháp là một tổ hợp tự do, do “tiếng” thuyền và “tiếng” Pháp
khơng kết dính chặt chẽ với nhau, đơn thuần dùng để phân biệt với từ khác như thuyền Mỹ,
thuyền Trung Quốc.

8

Hoàng Văn Hành, Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khanh, Từ tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gịn, Viện Khoa
học xã hội Việt Nam, Viện Ngơn ngữ học, Thành phố Hồ Chí Minh, 2008, trang 28-29.
9
Hoàng Văn Hành, Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khanh, Từ tiếng Việt, … 2008, trang 40.
10
Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ pháp tiếng Việt, Tiếng – từ ghép – đoản ngữ, Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội, 1975, trang 11, 53, 54,

3



Nguyễn Thiện Giáp11 cũng đồng tình với quan điểm trên, coi “tiếng” là từ. Trong nghiên cứu về
từ tiếng Việt, ông cũng cũng trình bày hiện trạng chồng chéo và rắc rối khi các đường ranh giới
mà các nhà nghiên cứu vạch ra đối với hình vị tiếng Việt, do các quan niệm khác nhau về hình
vị. Với hơn 300 định nghĩa về từ, mỗi người áp dụng theo cách khác nhau thì tất nhiên tạo ra các
phân tích khác nhau. Ơng đã phân tích và phân biệt các định nghĩa của từ, như từ từ điển khác
với từ chính tả, từ ngữ âm, từ hoàn chỉnh, từ biến tố. Khi phân tích các đơn vị “tiếng” khác nhau
dựa trên tiêu chí của các loại từ nói trên, ơng rút kết luận rằng “đường ranh giới rành mạch nhất,
hiển nhiên nhất bao giờ cũng là đường ranh giới đối lập giữa một bên là “tiếng” (từ điển hình, từ
khơng điển hình) và một bên là tổ hợp “tiếng” (bao gồm cái gọi là từ ghép và các tổ hợp cố định
cịn lại).12 Như vậy, ơng cũng cho rằng tất cả các tiếng, đơn vị một âm tiết, đều là hình vị, từ đó
ơng lý giải rằng ý nghĩa của một số từ đã bị mờ đi rồi biến mất do hiện tượng đồng âm dẫn đến
vấn đề từ láy không rõ tiếng gốc. Ví dụ các từ láy như lơ thơ, ngất ngưởng thì khơng thể xác định
được thành tố nào là gốc thành tố nào là láy. Khác với các trường hợp đơn giản như đo đỏ, vuông
vắn, chúng ta dễ dàng biết được đỏ và vuông là các thành tố gốc. Ơng lý giải rằng chúng có xuất
phát từ các từ ghép láy nghĩa, bao gồm hai đơn vị có nghĩa tương tự và có sự tương đồng hoàn
toàn hoặc bộ phận về ngữ âm (cũng là cách gọi của Nguyễn Tài Cẩn). Do sự biển thể ngữ âm của
đơn vị gốc, sau đó xảy ra q trình mờ nghĩa mà những từ đó được nhận thức như từ láy, còn các
từ mà các yếu tố chưa mờ nghĩa thì được coi là từ ghép. Ơng xếp các từ láy không rõ tiếng gốc
vào các trường hợp trung gian giữa láy và ghép. Tuy nhiên, có một nhóm từ láy được cấu tạo từ
vần -ấp chiếm một số lượng không nhỏ, mà theo nghiên cứu khá chi tiết của nhà nghiên cứu Phi
Tuyết Hinh, chúng có một sự tương đồng về ngữ nghĩa. Ví dụ như chập chừng, chập chờn, ngập
ngừng, đều thể hiện trạng thái không liên tục, ngắt quãng, hay ngất ngưởng, chất chưởng, vất
vưởng đều thể hiện một trạng thái không ổn định, không theo quy luật. Phi Tuyết Hinh gọi nó là
tính có lý do về mặt ngữ âm của các khuôn vần, nghĩa là thành phẩn nhỏ hơn tiếng có ý nghĩa
nhất định, điều này phù hợp với lý thuyết hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của L.Bloomfield.
Trong trường hợp này Nguyễn Thiện Giáp nói nếu dựa vào tính độc lập về nghĩa mà các từ như
mấp trong mấp mô, bấp trong bấp bênh ko được coi là từ mà là hình vị thì ơng coi đó là tha hình
vị, một biến thể ngữ âm của /x-âp/. Tuy nhiên, ông vẫn theo quan điểm tiếng là đơn vị nhỏ nhất.
Đồng tình với lý thuyết trên, có các nhà nghiên cứu khác như Vũ Bá Hùng. Ông cũng chia sẻ

quan điểm rằng “tiếng” hay âm tiết là đơn vị nhỏ nhất trong tiếng Việt, đây là một đơn vị đặc
biệt, ở mức độ cao hơn âm vị, cấu trúc của nó được hình thành bởi một số âm vị mà thành phần
chính là một ngun âm chính, chức năng của nó là tạo nên một vỏ ngữ âm cho một đơn vị có
nghĩa. Các trường hợp âm tiết tạo nên bởi một âm vị và thanh ngang như u, ô, a, v.v… có thể bị
hiểu lầm là một âm vị. Tuy nhiên, trong tiếng Việt, đơn vị phát âm tự nhiên trong chuỗi âm thanh
vẫn là một âm tiết, hơn nữa, thanh điệu là đặc điểm phân biệt giữa một âm tiết và một âm vị.13
Bên cạnh đó, sự kết hợp quan niệm hình vị và âm tiết thành một là khá phổ biến nhưng khơng
nhận được sự đồng tình của tất cả các nhà nghiên cứu. V.S. Panfilov 14 phủ nhận rằng ơng theo
quan niệm cổ điền về hình vị và âm tiết. Nguyễn Tài Cẩn 15 thì coi tất cả các âm tiết đều là hình
vị, ơng đặt ra thuật ngữ hình vị âm tiết được dùng để chỉ ra sự trùng khớp này. Từ đó, ơng chia
hình vị ra làm hai loại, loại tự do có thể hoạt động như một từ độc lập và loại giới hạn đóng vai
11

Nguyễn Thiện Giáp, Vấn đề từ trong tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2011, trang 62-71.
Nguyễn Thiện Giáp, Về mối quan hệ từ và tiếng trong Việt ngữ, Ngôn ngữ học, Hà Nội, 1984, số 3
13
Vũ Bá Hùng, Vấn đề âm tiết của tiếng Việt, Ngôn ngữ số 3, Hà Nội, 1976, trang 37– 45.
14
V.S. Panfilov, Vietnamska morfemska, V Ja, P985, No. 4, trang 84-89, dịch bởi Vũ Thế Thạch, Ngôn ngữ học số
2, Hà Nội, 1986, trang 55 – 67.
15
Bystrov I.S., Nguyễn Tài Cẩn, Stankevich N.V., Ngữ pháp tiếng Việt, L. 1975, mục lục bài báo, trang 67.
12

4


trò làm thành tố trong cấu trúc từ. Các vần iêc, ăn, âp được xếp vào hình vị chứ khơng phải âm
tiết. N.V. Stankevich cũng đưa ra một quan niệm mới cho loại hình ngơn ngữ đơn lập cho đơn vị
khơng thể xem xét được mà chỉ dựa vào tính chất của âm tiết hay của hình vị. Tuy nhiên bà

không đưa ra một cách tiếp cận cụ thể nào cho ý kiến của mình.
Nguyễn Quang Hồng đưa ra thuật ngữ tiết vị. Ơng lập luận rằng khơng phải là âm vị đóng vai trị
của đơn vị ngữ âm cơ bản trong cấu trúc của hình vị mà chính là tiết vị theo cách gọi của ơng.
Ơng cũng khẳng định rằng các tiết vị trong tiếng Việt không nên được xem xét giống cách áp
dụng với các ngôn ngữ biến hình khác (inflectional languages). Theo khái niệm mới của ơng thì
nếu như các âm vị là đơn vị ngữ âm tạo nên các đơn vị có nghĩa thì tiết vị có thể là một đơn vị
độc lập, hơn nữa, nó cũng tham gia vào quá trình cấu tạo ngữ nghĩa và hình vị. Ngồi ra, tiết vị
cũng có thể bị phân tách thành các đơn vị nhỏ hơn , trái lại, một âm vị khơng thể làm điều đó vì
nó là đơn vị nhỏ nhất và không thể chia nhỏ hơn trong các ngơn ngữ biến hình.16
Diệp Quang Ban17 đồng tình với tình hình hiện tại chưa có một cách lý giải cho quan niệm
“tiếng” phù hợp với quan niệm truyền thống “tiếng” trong tiếng Việt. “Tiếng” giống như một
quan niệm bao trùm cả âm tiết, hình vị và từ. Theo ý kiến của ông, “tiếng” nên được coi là đơn vị
ngữ pháp và âm tiết là một đơn vị ngữ âm. Do đó, ơng chấp nhận cả “tiếng” có nghĩa và những
“tiếng” khơng có nghĩa. Từ trong tiếng Việt có thể được phân biệt theo tiếng thành từ có một
tiếng từ đơn và từ có nhiều tiếng hay từ phức. Ông nhập quan niệm tiếng thành từ, mặc dù điều
này khơng tn theo lý thuyết ngữ pháp nhưng nó phản ánh thực tế của tiếng Việt. Trong phân
tích của mình, ơng chọn ra hai đơn vị cấu tạo từ là từ (chính là tiếng) và từ tố , thuật ngữ mà ơng
gọi thay cho hình vị. Do đó, “tiếng” có thể có hơn một âm tiết. Do đó, bên cạnh các từ đơn, ông
cũng xếp loại các từ phức, nghĩa là các từ có hơn một âm tiết, vào từ đơn tố - monomorpheme
(do một hình vị cấu tạo nên), polymorpheme - từ đa tố tương ứng từ ghép và từ láy. Như vậy
nghĩa là một từ láy có thể là từ đơn tố hoặc từ đa tố. Điều kiện của sự phân chia này là chúng ta
phải xác định nghĩa của một tiếng trong các từ đó. Điều đó cũng có liên hệ với định nghĩa tiếng
nào là tiếng gốc và tiếng nào là tiếng láy trong cơ chế láy.
Khuynh hướng thứ hai có sự góp mặt của nhiều nhà nghiên cứu, như Nguyễn Kim Thản, Hoàng
Tuệ, Lưu Vân Lăng, Hồ Lê, Nguyễn Hiến Lê, Trương Văn Chình, Đỗ Hữu Châu, v.v… Tuy có
sự khác biệt ít nhiều nhưng có sự đồng nhất giữa các nhà nghiên cứu này đó là nhận diện từ tiếng
Việt dựa trên tiêu chí nhất thể về ngữ âm, hồn chỉnh về ngữ nghĩa, độc lập về cú pháp, đồng
thời chấp nhận và áp dụng khái niệm hình vị vào để phân tích cấu trúc từ của tiếng Việt, nghĩa là
phủ nhận “tiếng” là đơn vị cấu tạo nên từ.
Lê Văn Lý phân tích từ láy bền bỉ thành ba hình vị, đó là bền, b và i. Trần Ngọc Thêm sử dụng

hình vuông Greenberg để chia từ láy ngất ngưỡng thành hai hình vị trong đó gồm khn vần đơi
[ất] và [ương] và phụ âm đầu [ng], tương tự như vậy, với từ chon von, ơng cũng phân tích thành
cặp phụ âm đầu [ch-v] và vần [on].
Đái Xuân Ninh chia hình vị ra làm ba loại : nghĩa từ vựng, nghĩa khu biệt và nghĩa ngữ pháp.
Ngữ từ vựng là khái niệm về sự vật, về q trình hay tính chất. Ví dụ như đất, nước, nhà cửa.
Nghĩa khu biệt để phân biệt sự vật cùng loại với nhau, ví dụ hấu trong dưa hấu, đẽ trong đẹp đẽ,
dàng trong dễ dàng. Nghĩa ngữ pháp là nghĩa trừu tượng, khái quát về giống, số, thể, về quan hệ
16

Nguyễn Quang Hồng, Âm tiết tiếng Việt, chức năng và cấu trúc của nó, Ngơn ngữ học, số 3, Hà Nội, 1976, trang
29 – 36.
17
Diệp Quang Ban, Ngữ pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2005, trang 563.

5


của các từ trong cụm từ trong câu. 18 Ông phân biệt sự khác nhau giữa hình vị và âm tiết và vì thế
ơng phản đối ý kiến của các nhà nghiên cứu chủ trương “tiếng” hay âm tiết là đơn vị cơ sở của
ngữ pháp tiếng Việt như Nguyễn Tài Cẩn. Ơng chủ trương hình vị là đơn vị cơ sở của tiếng Việt.
Hoàng Văn Hành áp dụng lý thuyết của L.Bloomfield và phản đối quan điểm cho rằng tất cả các
“tiếng” hay âm tiết hay từ đều là hình vị. Theo L.Bloomfied, hình vị là đơn vị nhỏ nhất có
nghĩa. Trong tiếng Việt, ở mức độ cấu tạo từ, có rất nhiều đơn vị thỏa mãn tiêu chí đó, ví dụ tuổi
trong tuổi tác, lão trong lão hóa v.v… Tuy nhiên, cũng có tồn tại rất nhiều các đơn vị khơng thỏa
mãn tiêu chuẩn đó, và chúng được chia thành ít nhất 4 nhóm sau:
- Các đơn vị mà ý nghĩa của chúng đã bị mờ đi từ từ gốc cổ xưa như tác trong tuổi tác, han

trong hỏi han, cả trong giá cả, v.v…
- Các đơn vị được coi là thành tố láy trong từ láy chắn trong chín chắn, xơm trong xơm xốp,


v.v…
- Các đơn vị mà ý nghĩa của chúng cũng bị mờ đi và chúng hoạt động như thành phần bổ

nghĩa trong một số từ nhất định. Vị trí của chúng có thể là ở trước hay sau thành tố chính
như cà trong cà khổ (trashy, gimcrack), cà lăm (to stammer), bồ trong bồ câu (dove), bồ
nông (pelican), hoặc hấu trong dưa hấu (water melon), lè trong xanh lè (green, unripe),
v.v…
- Các thành tố mà ý nghĩa đã bị đi kết hợp với các thành tố khác cũng như vậy tạo nên các từ

như bù và nhìn trong bù nhìn (scarecrow, puppet), bồ và hóng trong bồ hóng (soot, smut),
v.v…
Hồng Văn Hành chia ra làm ba loại hình vị trong tiếng Việt: hình vị gốc, tha hình vị và á hình
vị.
- Một là hình vị gốc hay hình vị từ vựng hay cịn gọi là hình vị thực, chúng là đơn vị ngơn

ngữ nhỏ nhất, có ý nghĩa và là thành tố trực tiếp cấu tạo từ. Loại này được chia làm hai
loại: hình vị tự do và hình vị hạn chế. Hình vị tự do thực chất bao gồm những tiếng được
coi như từ đơn, hoạt động độc lập, hoặc các tiếng Hán nhưng có khả năng kết hợp với
nhiều hình vị khác để tạo từ. Hình vị hạn chế thì phạm vi hoạt động của nó nhỏ hẹp hơn,
chính là cách giải quyết cho các tổ hợp như xanh lè, dai nhách, xe hỏa , tàu thủy.
- Thứ hai là tha hình vị, được coi là biến thể của hình vị do quá trình mờ nghĩa hoặc biến

âm. Tha hình vị được chia làm bốn loại. Loại chúng ta quan tâm nhất là tha hình vị láy âm,
ngồi ra có tha hình vị láy nghĩa, tha hình vị định tính và tha hình vị tạo từ. Theo Hồng
Văn Hành, loại tha hình vị láy âm là sự biến dạng của hình vị gốc trong từ láy, được giải
thích theo cơ chế láy. Vấn đề với các từ láy có yếu tố gốc mờ nghĩa, có hai hướng giải
quyết. Cách một là dùng cơ chế láy giải thích, nhưng khơng thể xác định được nghĩa của
hình vị gốc. Do yếu tố hình vị phải có nghĩa, nên ơng khơng coi đó là các hình vị được.
Cách thứ hai là coi cả tổ hợp là hình vị đồng thời là từ song âm tiết. Đa số các nhà nghiên
cứu thừa nhận. Tha hình vị láy nghĩa là thành tố của các từ ghép hội nghĩa. Như vậy ông

xếp các từ như hỏi han, tuổi tác là từ ghép chứ khơng phải láy. Tha hình vị định tính như
trong các từ xanh ngắt, nguội ngắt, trắng nhởn, v.v… Tha hình vị tựa phụ tố vốn là hình vị
gốc nhưng trải qua q trình chuyển hóa về ngữ nghĩa và chức năng trở thành đơn vị như
phụ tố ví dụ như hóa trong vơi hóa, viên như hội viên, loại này chia làm hai loại 1 là hình
vị thuần việt, 2 là hình vị vay mượn ,chủ yếu từ tiếng Hán.
- Á hình vị là những chiết đoạn ngữ âm được phân xuất ra một cách tiêu cực, thuần túy dựa

vào hình thức, khơng rõ nghĩa, song có giá trị khu biệt, làm chức năng cấu tạo từ. ví dụ như
hấu trong dưa hấu, gang trong dưa gang, v.v…
18

Đái Xuân Ninh, Hoạt động của từ tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học ã hội, Hà Nội, 1978, trang 63-68

6


Trên đây là tóm tắt các ý kiến khác nhau của các nhà ngôn ngữ học về đơn vị “tiếng” trong tiếng
Việt. Sự đa dạng trong các cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu cho thấy tính đa dạng và
phức tạp của đơn vị “tiếng” này. Tuy nhiên trong giới hạn của bài này, cho dù cách tiếp cận là gì
thì đơn vị được gọi là “tiếng” ấy vẫn hiển nhiên là đơn vị tham gia và quá trình cấu tạo từ láy và
từ ghép – hai phương thức tạo từ quan trọng và chính yếu trong tiếng Việt. Và cho dù có bao
nhiêu sự khác nhau trong cách nhìn nhận và phân tích “tiếng” trong tiếng Việt đi nữa thì có một
sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu, xét trong phương diện cấu tạo từ nói chung và từ láy nói
riêng, thì “tiếng” là đơn vị cấu tạo từ cơ bản tham gia vào quá trình tạo từ láy.
3. Từ láy trong tiếng Việt với hai “tiếng” là loại chiếm đa số, chỉ một số lượng nhỏ từ láy ba hay
từ láy tư. Vấn đề là việc xác định “tiếng” nào là “tiếng” gốc và “tiếng” nào là “tiếng” láy. Ở khía
cạnh ngữ nghĩa, rất khó để xác định thành tố gốc trong từ láy. Theo từ điển từ láy tiếng Việt, có
khoảng gần 6000 từ láy. Trong đó có khoảng 2000 từ láy khơng xác định được “tiếng” gốc theo
Hà Quang Năng.19, mặc dù đã có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau được áp dụng để tìm ra thành
tố gốc trong từ láy, tuy nhiên kết quả vẫn khơng đủ thuyết phục. Ơng cũng đưa ra vấn đề liệu có

cần thiết phải xác định thành tố gốc trong từ láy là một hình vị hay khơng.
Ơng chỉ ra rằng từ láy trong tiếng Việt cũng như các ngơn ngữ láng giềng khác, q trình cấu tạo
được thể hiện ở khía cạnh ngữ âm. Do đó, chúng ta khơng nhất thiết phải tìm ra thành tố nào là
thành tố gốc, tức là thành tố mang nghĩa độc lập mà cần thiết hơn là phải xác định thành tố nào
tham gia vào cơ chế láy theo quy tắc nào. Trong tiềm thức của người Việt Nam, từ láy được phân
loại thành hai nhóm chính, dựa trên hình thức ngữ âm của chúng. Từ láy là từ đa âm tiết, được
tạo nên bởi một sự kết hợp ngữ âm giữa các “tiếng”. “Tiếng” có thể có hoặc khơng tương ứng
với quan niệm hình vị, điều đó khơng quan trọng. Thực tế là tiếng, đối với người bản ngữ, là một
phân đoạn ngữ âm hoàn chỉnh và một đơn vị không thể rút gọn được trong truyền thống của
ngôn ngữ cũng như văn học, có nghĩa là đó là vừa là một đơn vị cấu tạo vừa là một đơn vị chức
năng.20 Do vậy, đơn vị cấu tạo của từ láy là “tiếng”. Trong kết luận, ông chỉ ra vì sao tiếng được
coi là đơn vị cấu tạo cơ bản của cơ chế láy, do các nguyên nhân dưới đây:
- Một, cho dù có sự khác biệt như thế nào trong sự phân loại từ láy, nghĩa là có từ láy đơi, từ
láy ba và từ láy tư, thì chúng đều dựa vào số lượng tiếng của từ láy. Bởi vì một từ láy được
xếp vào từ láy đơi, từ láy ba hay từ láy tư là vì điều đó dựa trên số lượng “tiếng” của từ láy
đó.
- Hai, sự phân loại từ láy thành hai loại từ láy hoàn toàn và từ láy bộ phận, một cách phân
loại đã trở thành truyền thống trong lịch sử nghiên cứu từ láy của Việt ngữ học, thực ra dựa
trên cấu trúc âm tiết hay chính là cấu trúc của tiếng. Sự phân loại này hoàn toàn dựa vào
đặc điểm âm tiết của tiếng Việt, đó là sự chia nhỏ một âm tiết thành các thành tố nhỏ hơn
(phụ âm đầu, vần) và sự kết hợp giữa các thành tố đó theo các quy luật của thanh điệu.
- Ba, sự phân bố thanh điệu trong từ láy dựa trên quy luật âm cao và thấp. Hầu hết các từ láy
đều có sự phân bố thanh điệu ở cùng âm vực, nếu khơng thì chúng khơng được coi là
những từ láy chân chính. Có khoảng 400 từ láy khơng theo quy luật thanh điệu này.
- Bốn, khả năng kết hợp các vần và phụ âm đầu là những nhân tố tạo nên các loại từ láy khac
snhau. Không chỉ thế, vần cũng có thể được phân thành các yếu tố nhỏ hơn và đó chính là
cơ sở tiêu chuẩn cho sự phân loại từ láy.
19

Hà Quang Năng, Từ láy, những vấn đề còn bỏ ngỏ, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Trung tâm Khoa học Xã hội

và Nhân văn Quốc gia, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, 1998, trang 12.
20
Hà Quang Năng, Từ láy, những vấn đề … 1998, trang 20 – 22.

7


Tóm lại, Hà Quang Năng coi “tiếng” là đơn vị cơ bản với tất cả các đặc điểm của một đơn vị
chức năng cũng như một đơn vị cấu tạo , tham gia vào cơ chế láy trong tiếng Việt.21
4. “Tiếng” xuất hiện trong nhiều khía cạnh của ngơn ngữ. Một từ tiếng Việt có thể gồm một, hai,
ba hoặc bốn âm tiết. Ở mức độ từ, hình vị, một bộ phận của từ hay từ vị, được gọi với nhiều tên
gọi khác nhau tiếng, từ tố, hình vị, ngữ vị, mc-phim – morpheme, v.v… Ở cả hai khía cạnh
hình vị học và cú pháp học, quan niệm “tiếng” trong tiếng việt hoạt động như một đơn vị ngữ
pháp và được sử dụng trong quá trình cấu tạo từ, ngữ và câu. “Tiếng” trong cú pháp là các từ
được kết hợp với nhau theo những quy tắc cú pháp nhất định. Cịn ở khía cạnh ngữ pháp, “tiếng”
được hiểu là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa và hoạt động độc lập như từ (trong câu).
Tuy nhiên, “tiếng” vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng là từ hay hình vị, nhưng có một điều khơng
thể phủ nhận được rằng tiếng đã trở thành một quan niệm truyền thống đối với người bản ngữ.
Trong giới hạn xem xét qua các từ láy tiếng việt, “tiếng” lại được rộng rãi công nhận là đơn vị
cấu tạo của từ láy.
Như đã trình bày một hiện trạng còn khá ngổn ngang của Việt ngữ học khi mà vấn đề cơ bản là
cấu trúc ngôn ngữ chưa có lời giải đáp thống nhất. Điều đó thể hiện tính trung gian của hình thái
học tiếng Việt, có nghĩa là quan niệm ngơn ngữ đơn lập khơng hồn tồn đáp ứng với tiếng Việt
hiện đại đồng thời khơng thể áp dụng đơn thuần lý thuyết của các ngôn ngữ biến hình cho tiếng
Việt. Sự chuyển biến ngữ pháp từ một ngôn ngữ chịu ảnh hưởng to lớn của Hán Văn sang một
trạng thái mới với sự thu nhận nhiều yếu tố của ngơn ngữ biến hình Châu Âu chính là ngun
nhân khó khăn của việc tìm ra một lý thuyết cấu trúc chung cho tiếng Việt.
Phan Ngoc trong cuốn Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á 22 có đề xuất nghiên cứu tiếng Việt kết
hợp giữa ngữ pháp, ngữ nghĩa và hình thái học. Ơng cho rằng ngữ pháp tiếng Việt bao gồm 3 hệ
thống ngữ pháp chi phối đó là ngữ pháp của tiếng Việt thuần Việt, thứ hai là ngữ pháp dưới ảnh

hưởng của Hán Văn cổ và thứ ba là ngữ pháp chịu ảnh hưởng của các ngôn ngữ Châu Âu, bao
gồm tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh. Điều đó gợi ý một cách xử lý đa chiều hơn với cấu trúc
tiếng Việt. Những từ có nghĩa đối với người Việt thì được coi là từ thuần Việt, còn lại sẽ là từ
mượn. Các từ mượn từ tiếng Châu Âu thì dễ nhận ra, vậy còn lại là từ Hán-Việt. Sự thay đổi ngữ
nghĩa của nhiều từ gốc Hán trong tiếng Việt chứng tỏ đây đều là các từ tiếng Việt với tính chất
Việt cả về nội dung lẫn hình thức. Về hình thức nó khơng cịn là hình thức của các từ trong tiếng
Hán cổ, hay tiếng Thái cổ, v.v… Về nội dung, nghĩa của nó dù có quan hệ chặt chẽ với nguồn
gốc hay có đi xa nguồn gốc cũng là nghĩa bị quy định ở cấu trúc ngữ nghĩa của tiếng Việt, chứ
khơng phải của tiếng khác. Qua đó, ơng khẳng định cách nhìn có hệ thống đối với ngơn ngữ sẽ
cho ta thấy lịch sử phát triển của ngôn ngữ đó. Lịch sử và hệ thống khơng mâu thuẫn nhau mà
chính là hệ thống giúp chúng ta hiểu lịch sử một cách nhất quán và ngược lại, nhờ khảo sát lịch
sử mà chúng ta thấy tính hệ thống thực chặt chẽ.23
Theo Phan Ngọc24, mọi ngơn ngữ đều có hình thái học, tuy cách biểu hiện có thể khác nhau.
Phần lớn các nhà ngôn ngữ ngữ học khi nghiên cứu một ngơn ngữ đơn tiết khơng biến hình như
tiếng Việt đều có xu hướng nhìn tiếng Việt theo khn mẫu các ngơn ngữ đa tiết biến hình, trong
21

Hà Quang Năng, Từ láy, những vấn đề … 1998, trang 20 – 22.
Phan Ngọc, Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, Sự tiếp xúc ngữ nghĩa giữa tiếng Việt và tiếng Hán , Vấn đề ngữ
nghĩa của từ Hán Việt, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2011, trang 150 – 154.
23
Phan Ngọc, Tiếp xúc … trang 193.
24
Phan Ngọc, Hình thái học trong từ láy tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội, 2013, trang
56-57.
22

8



đó các âm tiết láy gần như vắng mặt. Ơng khẳng định, chính việc nghiên cứu từ láy trong các
ngơn ngữ như tiếng Việt sẽ bổ sung cho lý luận hình thái học. Ngữ nghĩa của các thành tố trong
một âm tiết, theo khảo sát bước đầu 25 của ông thì ơng muốn chứng minh tiếng Việt là một ngơn
ngữ có chính tố, phụ tố như mọi ngơn ngữ. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu còn chỉ là bước sơ
khảo chưa điều gì được khẳng định.
Quan niệm “tiếng” cho dù được phân tích bằng nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau nhưng
vẫn khơng thể phủ nhận tính truyền thống của nó trong ngơn ngữ tiếng Việt. Trong nhận thức của
người bản ngữ đó là một khái niệm vừa dễ hiểu vừa dể diễn đạt vì nó phù hợp với cách hiểu của
người Việt Nam về ngơn ngữ của chính mình. Cho tới tận bây giờ, vẫn chưa có một lý thuyết đủ
thuyết phục tất cả các nhà ngôn ngữ học về đơn vị cấu tạo từ của tiếng Việt. Đây chính là một
thách thức khơng nhỏ với bất kỳ nhà Việt ngữ học nào, tuy nhiên lại là một thử thách hết sức lý
thú. Nó địi hỏi rất nhiều thời gian và cơng sức cũng như sự đóng góp của nhiều lĩnh vực khoa
học không chỉ của ngôn ngữ học để chúng ta có thể tìm ra câu trả lời thỏa đáng nhất.
Sách tham khảo:
Bystrov I.S., Nguyễn Tài Cẩn, Stankevich N.V., Ngữ pháp tiếng Việt, L. 1975
Đái Xuân Ninh, Hoạt động của từ tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978
Vương Lực, Tân huấn hỗ học 字 字 字 字 , Vương Lực ngữ ngôn học luận văn tập 字 字 字 字 字 字 字 字 ,
Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2000, Nguyễn Tuấn Cường dịch và chú thích.
Diệp Quang Ban, Ngữ pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2005
Hà Quang Năng, Từ láy, những vấn đề còn bỏ ngỏ, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Trung tâm
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, 1998
Hoàng Văn Hành (chủ biên), Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khanh, Từ tiếng Việt, Nhà xuất bản
Văn hóa Sài Gịn, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Ngơn ngữ học, Thành phố Hồ Chí
Minh, 2008
Nguyễn Đình Hịa, Vietnamese, Tiếng Việt khơng son phấn, Nhà xuất bản John Benjamins
North America, 1997
Nguyễn Du, Truyện Kiều
Nguyễn Quang Hồng, Âm tiết tiếng Việt, chức năng và cấu trúc của nó, Ngôn ngữ học số 3, Hà
Nội, 1976
Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ pháp tiếng Việt, Tiếng – từ ghép – đoản ngữ, Nhà xuất bản Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1975
Nguyễn Thiện Giáp, Vấn đề từ trong tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2011
Nguyễn Thiện Giáp, Về mối quan hệ từ và tiếng trong Việt ngữ, Ngơn ngữ học số 3, Hà Nội,
1984
Phan Ngọc, Hình thái học trong từ láy tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà
Nội, 2013
Phan Ngọc, Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, Sự tiếp xúc ngữ nghĩa giữa tiếng Việt và tiếng
Hán (Vấn đề ngữ nghĩa của từ Hán Việt), Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2011
V.S. Panfilov, Vietnamska morfemska, V Ja, P985, No. 4, trang 84-89, Vũ Thế Thạch dịch, Ngôn
ngữ học số 2, Hà Nội, 1986
Vũ Bá Hùng, Vấn đề âm tiết của tiếng Việt, Ngôn ngữ số 3, Hà Nội, 1976
V.M.Solncev, Những thuộc tính về mặt loại hình của các ngôn ngữ đơn lập (trên cứ liệu tiếng
Hán và tiếng Việt) trích từ Các ngơn ngữ Đơng Nam Á, Nhà xuất bản Khoa học, Matxcova,
1970, trang 11 – 19, Lê Xuân Thại dịch, Ngôn ngữ học số 3, 1986.
Vũ Đức Nghiệu, Lược khảo lịch sử từ vựng tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội,
2011.
25

265 dẫn chứng từ khảo sát các từ láy có vần bắt đầu bằng nguyên âm a, các từ láy được cấu tạo từ các vần a, ang,
au, am, an, ap, at, ai, ao ở vị trí hậu tố hoặc tiền tố, cũng theo sách trên, trang 61-115.

9


10



×