Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

phát triển dịch vụ cho thuê tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 54 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG
BỘ MÔN NVNHTM



Bài thuyết trình:
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH



GVHD: TS. Trầm Thị Xuân Hương
SVTH: Lớp NH10- K33
1. Dương Thanh Dũng
2. Võ Văn Hiếu
3. Nguyễn Tấn Hưng
4. Trần Thị Minh Tâm
5. Nguyễn Phương Uyên




Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 09/ 2010
I. Tổng quan về cho thuê tài chính
1. Nguồn gốc ra đời và phát triển của hoạt động cho thuê tài chính:
Hoạt động cho thuê tài chính ra đời từ rất sớm trong các nền văn minh Babylon
và Hy Lạp khoảng 2000 năm trước công nguyên, được ghi nhận trong bộ luật
Hamurabi, với các hoạt động cho thuê dụng cụ nông nghiệp và các thiết bị khác.
Trong các tác phẩm của Aristotle cũng đề cập đến hoạt động này với câu nói rất nổi
tiếng “Sự giàu có thực sự không phải nằm trong quyền sở hữu tài sản mà là trong


quyền sử dụng nó”. Tuy nhiên, phương thức giao dịch này mang nhiều dáng dấp của
cho thuê vận hành ngày nay. Có thể nói, những người Hy Lạp cổ là những người đầu
tiên phát triển hình thức cho thuê lại các khu mỏ và cho thuê nhà băng. Hợp đồng cho
thuê nhà băng đầu tiên được ký vào năm 370 trước CN cho các tài sản bao gồm tên
của nhà băng, các khoản cầm cố, các văn phòng và nhân viên.
Mãi đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 cho thuê tài chính mới trở thành một
ngành kinh doanh thực sự và phát triển tại Anh và Hoa Kỳ, với các loại tài sản cho
thuê có giá trị lớn hơn và đa dạng hơn. Sau đó, phát triển rộng rãi sang Châu Âu và
nhiều nước trên thế giới.
Tại Hoa Kỳ, công ty cho thuê tài chính đầu tiên được thành lập vào tháng
5/1952 bởi Henry Shofeld với tên gọi United States Leasing Coporation để phục vụ
ngành vận tải đường sắt, sau đó là Công ty cho thuê Mercantile (đơn vị trực thuộc của
tổ chức tín dụng Mercantile) ra đời vào năm 1960. Gắn liền với hoạt động này, một
câu nói nổi tiếng của một đại gia dầu lửa lừng danh và là nhà tỷ phú đầu tiên trên thế
giới “Cái gì sẽ tăng giá thì hãy đi mua, cái gì sẽ mất giá thì hãy đi thuê”. Thực tế cho
thấy đa số tài sản mất giá nhiều hơn là tăng giá. Vậy có phải là chúng ta nên quyết
định đi thuê hơn là đi mua? Rõ ràng thành tựu công nghệ khiến cho các doanh nghiệp
có nhu cầu đổi mới tài sản thường xuyên hơn và đi thuê giúp cho các doanh nghiệp có
được tài sản với những điều khoản có lợi hơn là việc mua thiết bị.
Tại Châu Âu, một trong những điều luật đầu tiên nhắc tới cho thuê là Đạo luật
xứ Wales được soạn thảo vào năm 1284. Đạo luật đã sử dụng những điều luật về đất
đai làm khung pháp lý cho việc thuê các tài sản như các thiết bị nông nghiệp. Đến
năm 1960 lần đầu tiên hợp đồng cho thuê tài chính được ký kết với giá 18.000 bảng
Anh. Cùng năm, cho thuê tài chính cũng được đề cập trong Bộ luật dân sự Pháp với
tên gọi “Credit Bail”.
Tại Châu Á, Nhật Bản được xem là cái nôi của hoạt động này với sự hỗ trợ tích
cực từ các ngân hàng thương mại, các công ty thương mại tổng hợp… Năm 1963,
công ty cho thuê tài chính đầu tiên tại Nhật ra đời với tên gọi Orient Leasing
Corporation. Đến đầu những năm 70 của thế kỷ 20, hoạt động cho thuê tài chính bắt
đầu lan sang các nước Hàn Quốc, Ấn Độ, Indonesia…

Hoạt động cho thuê tài chính xâm nhập vào Việt Nam vào năm 1994, với sự đi
đầu của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Do sự xuất hiện có phần muộn hơn so với
các nước, nên dịch vụ này có phần xa lạ đối với những chủ thể cần vốn trong nền kinh
tế. Tuy nhiên sau 15 năm có mặt trên thị trường tài chính, với những ưu nhược điểm
nhất định, loại hình này được xem là có nhiều thuận lợi hơn so với các loại hình khác
và trở thành một trong những kênh cung cấp tín dụng quan trọng cho các doanh
nghiệp hiện nay, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện nay trên thế giới cho thuê tài chính là một khái niệm khá phổ biến với
khoảng 80 quốc gia có hoạt động cho thuê tài chính. Trong những năm gần đây, doanh
thu từ hoạt động cho thuê tài chính trên thế giới đã có nhiều dấu hiện khả thi, trung
bình hàng năm ở Hàn Quốc là 17 tỷ USD, ở Thái Lan 2 tỷ USD… Tại Mỹ, ngành cho
thuê tài chính chiếm khoảng 25 đến 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua
bán thiết bị hàng năm của các doanh nghiệp. Và tổng doanh thu hàng năm của “nền
công nghiệp” cho thuê tài chính ước đạt trên 500 tỷ USD với đà tăng trưởng ở tốc độ
trung bình 7%/năm. Hơn 80% các công ty – từ những công ty nhỏ mới thành lập cho
tới những doanh nghiệp nằm trong danh sách Fortune 500
1
– đều đi thuê một phần
hoặc toàn bộ máy móc thiết bị của họ. Nguyên nhân chính thúc đẩy các hoạt động cho
thuê tài chính phát triển nhanh do đây là hình thức tài trợ có tính chất an toàn cao, tiện
lợi, và hiệu quả cho các bên giao dịch.
Như vậy, xét về mặt lý thuyết thì đây là một loại hình cấp vốn khá phổ biến
trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh so với các hình thức cấp vốn khác cho các
doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Sự ra đời và phát triển của dịch
vụ cho thuê tài chính đã cho thấy sự cần thiết của một loại hình dịch vụ, một kênh
cung cấp vốn hữu hiệu. Một doanh nghiệp không nhất thiết phải sở hữu tài sản để làm
ra lợi nhuận. Với quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian nhất định cũng đủ
để sinh lời.
2. Khái niệm và đặc điểm cho thuê tài chính:
2.1. Khái niệm

Theo hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam, chuẩn mực 06 về thuê tài sản:
Thuê tài sản: là sự thoả thuận giữa bên cho thuê và bên thuê về việc bên cho
thuê chuyển quyền sử dụng tài sản cho bên thuê trong một khoảng thời gian nhất định
để được nhận tiền cho thuê một lần hoặc nhiều lần.
Cho thuê có hai loại chính là cho thuê hoạt động (operating leases) và cho thuê
tài chính (financial leases):
- Thuê tài chính: là thuê tài sản mà bên cho thuê có sự chuyển giao phần lớn rủi
ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản cho bên thuê. Thuê tài chính
(Financial leases) hay còn gọi là thuê vốn (Capital leases), nhưng cách gọi
thông dụng ở nước ta là thuê mua (Leasing).
- Thuê hoạt động: là thuê tài sản, không phải là thuê tài chính. Là loại cho thuê
ngắn hạn và trong nội dung hợp đồng thuê tài sản không thể hiện sự chuyển
giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản.
Cho thuê tài chính vừa là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, vừa là
một dạng cho thuê tài sản. Tuy nhiên, không phải một giao dịch cho thuê tài sản nào

1
Fortune 500 là danh sách xếp hạng 500 công ty đại chúng hàng đầu của Hoa Kỳ dựa trên
tổng doanh thu do Tạp chí Fortune đưa ra.
cũng được coi là cho thuê tài chính. Việc phân biệt giữa thuê tài chính và thuê hoạt
động sẽ được trình bày rõ hơn trong phần sau.
Điều 1- Nghị định 16/CP ngày 2/5/2001 về “Tổ chức và hoạt động của công ty
cho thuê tài chính” định nghĩa: “Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài
hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động
sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê
cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo
yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê
sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên
thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại
hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê”.

Điều 113- Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010 quy
định: Cho thuê tài chính là việc cấp tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho
thuê tài chính và phải thỏa mãn một trong các điều kiện sau:
(1) Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được nhận quyền sở
hữu tài sản cho thuê hoặc tiếp tục thuê theo thỏa thuận của hai bên;
(2) Khi kết thúc thời hạn thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài
sản theo giá thành danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản cho thuê tại
thời điểm mua;
(3) Thời hạn cho thuê một tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu
hao tài sản thuê đó;
(4) Tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất
phải bằng giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
2.2. Bản chất cho thuê tài chính
Từ định nghĩa trên ta có thể khái quát bản chất của hoạt động cho thuê tài chính
như sau:
Thứ nhất, tài sản thuê mua do bên thuê lựa chọn.
Cho thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một tài sản cụ
thể. Khác với các hình thức cấp tín dụng khác mà theo đó tổ chức tín dụng chuyển
giao một khoản tiền, hình thức cấp tín dụng cho thuê tài chính, tổ chức tín dụng tiến
hành cấp tín dụng bằng cách chuyển giao cho bên thuê một tài sản cụ thể để bên thuê
sử dụng trong một thời gian nhất định. Bao gồm:
- Bất động sản: cửa hàng, văn phòng làm việc, nhà ở và cơ sở sản xuất.
(Hiện nay Việt Nam chưa có loại hình này)
- Động sản: xe hơi, máy bay, tàu biển, thiết bị sản xuất, thiết bị văn
phòng.
Người thuê xác định và lựa chọn và thu xếp với các công ty cho thuê.
Tài sản được giao kết trong hợp đồng thuê mua chủ yếu là tài sản có giá trị lớn
và đặc biệt lớn. Nếu tài sản có giá trị nhỏ thì thì thông thường các doanh nghiệp có đủ
tiền để mua luôn tài sản đó và họ trở thành chủ sở hữu mà không phải đi tìm kiếm
nguồn tài trợ khác. Tuy nhiên thực tế, cũng có khi doanh nghiệp có đủ tiền nhưng họ

vẫn có thể áp dụng hình thức thuê mua này vì họ muốn dùng tiền đầu tư cho mục đích
khác mà lợi nhuận đem lại có thể sẽ lớn hơn.
Thứ hai, tính chất trọn vẹn trong thanh toán
Tổ chức tín dụng được bảo đảm về khả năng hoàn trả của khách hàng đối với
khoản tín dụng đã chuyển giao thông qua quyền nhận tiền thuê. Khi kết thúc thời hạn
thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục cho thuê tài sản đó theo các thỏa thuận trong
hợp đồng thuê.
Thứ ba về mặt pháp lý, phát sinh sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử
dụng tài sản
Điều này cũng được Uỷ ban về chuẩn mực kế toán quốc tế quy định: “Cho thuê
tài chính là loại cho thuê có khả năng dịch chuyển về cơ bản tất cả những rủi ro và
lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản”.
- Bên cho thuê thường chỉ giữ quyền sở hữu “danh nghĩa” đối với tài sản cho
thuê. Quyền này cho phép tổ chức tín dụng có thể thu hồi tài sản cho thuê nếu
bên thuê vi phạm hợp đồng.
- Người cho thuê chỉ được quyền sử dụng. Điều này có nghĩa là khi bên thuê
chưa trả hết tiền thuê tài sản hay bên cho thuê chưa thực hiện việc chuyển
giao quyền sở hữu tài sản cho bên thuê trong hợp đồng thuê mua thì bên thuê
chỉ được quyền sử dụng tài sản mà không có bốn quyền sau đây:
(i) Bán, chuyển giao, thế chấp tài sản thuê hay dùng thiết bị làm vật thế
nợ;
(ii) Thay đổi hình dáng tài sản hoặc chuyển thiết bị thuê khỏi nơi mà thiết
bị đã được lắp đặt đúng địa điểm đã nêu trong hợp đồng đã ký kết mà
không có thông báo bằng văn bản cho bên cho thuê;
(iii) Thay đổi hoặc huỷ bỏ xác nhận nguồn gốc của tài sản, thiết bị cho thuê;
(iv) Sử dụng thiết bị cho thuê với những mục đích không được thoả thuận.
Nếu Bên thuê tài sản vi phạm các quy định trên thì Bên cho thuê có quyền lấy
lại tài sản với tư cách là chủ sở hữu về mặt pháp lý đối với tài sản cho thuê.
Điều này cũng được lý giải bởi bản chất tín dụng của hoạt động cho thuê tài
chính: tổ chức tín dụng chỉ quan tâm đến khả năng thu hồi cả gốc và lãi của khoản tín

dụng, còn việc sử dụng khoản tín dụng được cấp là quyền của bên nhận tín dụng.
Thứ tư, tính “sở hữu kinh tế” của người đi thuê:
Cho thuê tài chính là một dạng cho thuê tài sản, nhưng khác về căn bản so với
các loại cho thuê tài sản khác là hầu hết các quyền năng kinh tế của chủ sở hữu được
chuyển giao cho bên thuê bao gồm cả rủi ro và các lợi ích gắn liền với quyền sở hữu
tài sản thuê.
- Bên đi thuê tài chính không phải chịu những rủi ro do sự mất giá của tài sản,
hao mòn tự nhiên.
- Chi phí cho việc vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa, bảo hiểm tài sản và các khoản
thuế phát sinh:
 Trong một hợp đồng thuê trọn dịch vụ hay thuê bao, chủ cho thuê sẽ
chịu.
 Trong hợp đồng thuê trần (net lease), có sự chuyển giao từ bên cho thuê
sang bên đi thuê.
Các giao dịch thuê tài chính hiện nay thường được ký kết dưới dạng thuê trần.
Thứ năm, xét dưới hình thức cấp vốn, cho thuê tài chính là hình thức đặc
biệt của tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên
cho thuê là công ty cho thuê tài chính với khách hàng thuê.
- Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng:
+ Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân
hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ
thể khác). Trong đó bên cho vay chuyển tiếp tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một
thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện
vốn gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh toán.
+ Trong một giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê chuyển giao tài sản thực cho
bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Trong quá trình sử dụng tài sản, bên
thuê phải thanh toán tiền thuê định kỳ cho đến khi hết hạn hợp đồng, khoản tiền thuê
này cũng bao gồm hai phần: phần vốn gốc và lãi. Đặc biệt, đối với các hợp đồng cho
thuê thanh toán một phần sau khi chấm dứt hợp đồng thuê, tiền lãi được thanh toán
đầy đủ trong thời gian sử dụng vốn, nhưng vốn gốc chưa hoàn trả đầy đủ. Trường hợp

này có ba cách giải quyết và được thực hiện trong hợp đồng:
 Người thuê đồng ý mua tài sản: phần vốn gốc đã được hoàn trả dưới dạng tiền
thanh toán mua tài sản.
 Người mua muốn thuê tiếp tài sản: phần vốn gốc được hoàn trả dưới dạng
thanh toán tiền thuê trong thời gian hợp đồng cho thuê được gia hạn.
 Người đi thuê không muốn thuê tiếp tài sản: phần vốn gốc lại được hoàn trả
dưới dạng hiện vật, tức là tài sản thuê mua.
Như vậy trong giao dịch cho thuê tài chính, nguyên tắc hoàn trả của tín dụng
luôn luôn được bảo đảm; tiền thuê và giá trị tài sản còn lại thường lớn hơn giá trị tài
sản ban đầu. Đây chính là sự trao đổi tài sản không ngang giá – bản chất của một quan
hệ tín dụng: việc quay trở về điểm xuất phát của tín dụng không phải như lúc đã
nhượng đi mà là một giá trị lớn hơn – đó gọi là tiền lãi mà người đi vay được hưởng
ngoài giá trị ban đầu của tín dụng.
+ Tài trợ thuê mua và cho vay trung và dài hạn vẫn có nhiều điểm giống nhau như:
 Người cho thuê, người cho vay chuyển giao tài sản có thời hạn cho người đi
thuê, người vay một lượng giá trị.
 Người đi thuê, người đi vay phải hoàn trả cho người cho thuê hoặc người cho
vay toàn bộ vốn gốc và lãi trong thời hạn hợp đồng.
- Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn
Trong giao dịch cho thuê tài chính, nhà cho thuê vẫn nắm giữ quyền sở hữu tài
sản và vì thế họ phải là người quản lý tài sản cho thuê. Để hợp thức hóa hành vi này,
các nhà cho thuê phải tiến hành các thủ tục đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu, đăng ký tài sản giao dịch đảm bảo… điều này sẽ phát sinh nhiều loại chi phí. Nếu
tài trợ bằng những tài sản có giá trị thấp và thời gian ngắn sẽ khó thực hiện được vì
chi phí quản lý sẽ rất cao và người đi thuê sẽ khó có thể chấp nhận. Ngược lại, nếu tài
trợ trung và dài hạn với những tài sản có giá trị cao, tuổi thọ cao thì tỉ trọng chi phí
quản lý tính trên giá trị tài sản sẽ thấp hơn. Như vậy, tài trợ trung và dài hạn dưới hình
thức cho thuê tài chính là một yêu cầu khách quan xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của
các chủ thể trong nền kinh tế.
Thứ sáu, trong thời hạn thuê, các bên không được đơn phương hủy bỏ hợp

đồng.
Hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng thanh toán trọn vẹn và không thể hủy
ngang vì tài sản cho thuê thường có giá trị lớn và thời gian khấu hao dài. Tuy nhiên
theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Nghị định 16/2001/NĐ-CP, công ty cho thuê tài
chính có thể chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước hạn (sẽ được trình bày rõ
hơn trong phần II)
Thứ bảy, hợp đồng thuê mua phải được ký bằng văn bản và phải ghi rõ việc
xử lý hợp đồng chấm dứt trước hạn.
Về hình thức, hợp đồng thuê mua phải được lập bằng văn bản phù hợp với quy
định của pháp luật. Đây là điều kiện bắt buộc và cũng chính là một trong những đặc
điểm của hợp đồng thuê mua để có thể phân biệt hợp đồng này với các hợp đồng
thương mại khác. Đồng thời nó là điều khoản không thể thiếu được trong hợp đồng.
Đối với cả hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng cho thuê vận hành cũng đều phải
tuân theo quy định trên.
2.3. Sự khác nhau giữa thuê tài chính với thuê hoạt động:
Thông thường để phân biệt một hợp đồng cho thuê có phải là cho thuê tài chính
hay không người ta thường dựa vào các tiêu chí sau:
Chỉ tiêu
Thuê hoạt động
(Thuê vận hành)
Thuê tài chính
1. Quyền sở hữu tài
sản và quyền chọn mua

Không có thỏa thuận về
việc chuyển quyền sở
hữu hoặc bán lại tài sản
cho thuê
Trong hợp đồng được ký kết có
quy định rõ vào thời điểm cuối

hợp đồng:
- Hoặc chuyển giao quyền sở
hữu cho người thuê,
- Hoặc có quyền được mua tài
sản với điều kiện ưu đãi,
- Hoặc cho thuê với thời hạn
tiếp theo.
2. Thời hạn cho thuê Ngắn so với thời gian
hữu dụng của tài sản
Trung và dài hạn, tối thiểu phải
bằng 60% thời gian hữu dụng
của tài sản đó.
3. Mức thu hồi vốn Tổng số tiền thuê của
một hợp đồng nhỏ hơn
nhiều so với giá trị của
tài sản cho thuê.
Hiện giá của các khoản tiền thuê
phải tương đương hoặc lớn hơn
giá trị tài sản tại thời điểm thuê.
4. Quyền hủy bỏ hợp
đồng
Được hủy ngang Không được phép hủy ngang trừ
những trường hợp bất khả kháng
hoặc có thỏa thuận khác.
5. Trách nhiệm đảm
bảo cho tài sản thuê
trong quá trình vận
hành (sửa chữa, bảo
hiểm, thuế…)
Bên cho thuê - Thuê trần: bên đi thuê (chủ

yếu)
- Thuê trọn dịch vụ: bên cho
thuê
6. Trách nhiệm về rủi
ro
Bên cho thuê thường
gánh chịu phần lớn rủi
ro liên quan đến tài sản
trừ những trường hợp do
lỗi của bên đi thuê
Bên đi thuê chịu phần lớn rủi ro
Những điểm khác nhau trên đây chỉ mang tính lý thuyết. Trong thực tế, hai loại
hình cho thuê tài sản này được vận dụng hết sức linh hoạt và đôi lúc ranh giới cũng
không rõ ràng.
3. Chủ thể tham gia trong hoạt động cho thuê tài chính
3.1. Các bên tham gia
a. Bên cho thuê (bên tài trợ)
Bên cho thuê sử dụng vốn của mình để mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác để xác lập quyền sở hữu của mình đối với các tài sản đó
rồi chuyển giao cho bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất định.
Bên cho thuê là các công ty cho thuê tài chính được phép hoạt động về cho
thuê tài chính.
b. Bên thuê
Bên thuê là tổ chức và cá nhân hoạt động tại Việt Nam, trực tiếp sử dụng tài
sản thuê cho mục đích hoạt động của mình.
Bên thuê được sử dụng tài sản thuê, thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn
thuê đã được hai bên thoả thuận và không được hủy bỏ hợp đồng thuê trước thời hạn.
Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục
thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã được thoả thuận trong hợp đồng.
c. Nhà cung cấp

Nhà cung cấp là đơn vị sản xuất, kinh doanh những tài sản, thiết bị máy móc
mà bên thuê cần có để sử dụng. Nhà cung cấp là bên có nghĩa vụ chuyển giao, lắp đặt
tài sản cho bên thuê theo các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng.
3.2. Quyền và nghĩa vụ các bên
a. Quyền lợi và nghĩa vụ của bên cho thuê
Quyền lợi
- Yêu cầu bên thuê cung cấp các báo cáo kế toán và các kế hoạch có liên quan đến
việc sử dụng tài sản thuê.
- Kiểm tra việc quản lý và sử dụng tài sản cho thuê.
- Yêu cầu bên thuê bồi thường thiệt hại khi bên thuê vi phạm hợp đồng cho thuê tài
chính (ví dụ bên thuê không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bảo quản, sửa chữa, thanh toán
tiền bảo hiểm trong thời hạn cho thuê).
- Chuyển nhượng các quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng cho thuê tài chính
cho một công ty cho thuê tài chính khác. Trong trường hợp này, bên cho thuê chỉ cần
thông báo trước bằng văn bản cho bên thuê.
- Yêu cầu bên thuê đặt tiền ký cược hoặc có người bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho
thuê tài chính nếu thấy cần thiết.
- Giảm tiền thuê, gia hạn thời hạn trả tiền thuê, bán tài sản cho thuê theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước.
- Thu hồi tài sản khởi kiện trong trường hợp bên thuê không trả tiền thuê hoặc không
thanh toán đúng hạn
Nghĩa vụ
- Ký hợp đồng mua tài sản với bên cung ứng. Bên cho thuê không chịu trách nhiệm về
việc tài sản cho thuê không được giao hoặc giao không đúng với các điều kiện do bên
thuê thoả thuận với bên cung ứng.
- Mua, nhập khẩu tài sản cho thuê theo yêu cầu của bên thuê.
- Đăng ký quyền sở hữu, làm thủ tục mua bảo hiểm đối với tài sản cho thuê.
- Bồi thường thiệt hại cho bên thuê khi bên cho thuê vi phạm hợp đồng
b. Quyền lợi và nghĩa vụ của bên thuê
Quyền lợi

- Lựa chọn, thoả thuận với bên cung ứng về đặc tính kỹ thuật, chủng loại, giá cả, cách
thức và thời hạn giao nhận, lắp đặt và bảo hành tài sản cho thuê.
- Trực tiếp nhận tài sản cho thuê từ bên cung ứng theo thoả thuận trong hợp đồng mua
tài sản.
- Quyết định việc mua tài sản hoặc tiếp tục thuê sau khi kết thúc hợp đồng cho thuê tài
chính.
- Yêu cầu bên cho thuê bồi thường thiệt hại khi bên cho thuê vi phạm hợp đồng cho
thuê tài chính.
Nghĩa vụ
- Sử dụng tài sản thuê đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính;
không được chuyển quyền sử dụng tài sản thuê cho cá nhân, tổ chức khác nếu không
được bên cho thuê đồng ý bằng văn bản.
- Cung cấp các báo cáo quý, quyết toán tài chính năm và tình hình hoạt động sản xuất
kinh doanh, các vấn đề liên quan đến tài sản thuê khi bên cho thuê yêu cầu; tạo điều
kiện để bên cho thuê kiểm tra tài sản cho thuê.
- Trả tiền thuê theo thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính và thanh toán các chi
phí có liên quan đến việc nhập khẩu, thuế, lệ phí đăng ký quyền sở hữu, bảo hiểm đối
với tài sản thuê.
- Chịu mọi rủi ro về việc mất mát, hư hỏng đối với tài sản thuê và những rủi ro mà tài
sản thuê gây ra đối với tổ chức và cá nhân khác trong quá trình sử dụng tài sản thuê.
- Bảo dưỡng, sửa chữa tài sản thuê trong thời hạn thuê.
- Không được dùng tài sản thuê để thế chấp, cầm cố hoặc để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ khác.
4. Lợi ích, vai trò của nghiệp vụ cho thuê tài chính:
4.1. Đối với bên cho thuê
Thứ nhất, mở rộng khách hàng và nâng cao năng lực kinh doanh
Việc ra đời và áp dụng phương thức tài trợ thuê mua không phải là loại hình
thay thế cho các phương thức tài trợ cổ điển như tín dụng trung và dài hạn bằng tiền
hay bán hàng trả góp mà nó là loại hình tài trợ bổ sung và tồn tại song song với các
loại hình tài trợ khác. Chính tính chất bổ sung và song song tồn tại này đã tạo điều

kiện cho các tổ chức tài chính mở rộng khách hàng và nâng cao năng lực kinh doanh.
Thứ hai, thuê mua là hình thức tài trợ ít rủi ro
- Người cho thuê với tư cách là chủ sở hữu về mặt pháp lý. Vì vậy, họ được
quyền quản lý và kiểm soát tài sản theo các điều khoản hợp đồng thuê mua. Trong
trường hợp người thuê không thanh toán tiền thuê theo đúng điều khoản của hợp đồng
thì người cho thuê được quyền thu hồi tài sản đồng thời buộc bên đi thuê bồi thường
thiệt hại nếu có.
- Việc hoàn trả tiền thuê được đảm bảo bằng chính hoạt động của tài sản, có
nghĩa là người đi thuê sẽ trả tiền thuê bằng kết quả thu được từ việc sử dụng tài sản.
- Đối tượng thuê được thực hiện dưới dạng tài sản cụ thể gắn với mục đích kinh
doanh của người đi thuê. Nhờ vậy nó giúp cho người đi thuê sử dụng vốn đúng mục
đích và tạo ra thu nhập đáng kể hoàn trả tiền thuê đúng hạn.
- Mặc dù tài trợ thuê mua mang tính chất dài hạn nhưng việc thanh toán tiền
thuê theo định kỳ, chính kỹ thuật này đã nâng cao tính thanh khoản của tài trợ thuê
mua.
- Bên đi thuê sẽ bồi thường thiệt hại nếu bên đi thuê không thanh toán tiền
đúng hạn hoặc ngay cả khi bên đi thuê bị phá sản thì tài sản vẫn có thể thu hồi được vì
tài sản không bị phát mãi.
- Mặt khác, do tài trợ bằng hiện vật nên giá tị của vốn tài trợ luôn được giữ
vững mà không bị ảnh hưởng của lạm phát. Với hình thức tài trợ bằng cách xuất quỹ
cho vay, có thể làm biến động lưu lượng tiền mặt và gây ra lâm phát
Thứ ba, lợi ích từ là chắn thuế làm giảm thuế thu nhập phải nộp.
Tuy nhiên về bản chất là khác so với lợi ích từ lá chắn thuế của bên đi thuê. Lợi
ích từ thuế của bên cho thuê có được từ việc sở hữu tài sản, nghĩa là chi phí khấu hao
được khấu trừ ra khỏi thu nhập chịu thuế chứ không phải là số tiền thuê nhận được.
4.2. Đối với bên đi thuê
Thứ nhất, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành phát triển kinh
doanh trong điều kiện thiếu vốn, nhất là những doanh nghiệp có mức rủi ro cao,
khó được ngân hàng cho vay trung và dài hạn.
Những trường hợp sau đây hoạt động cho thuê thường mang lại lợi ích cho người

sử dụng:
- Không đủ vốn tự có để mua tài sản hoặc thiếu vốn đối ứng trong các hợp đồng
vay để mua tài sản.
- Các doanh nghiệp thiếu tín nhiệm trong quan hệ vay vốn.
- Kết hợp giữa mua tài sản và thuê để đảm bảo hiệu quả tốt nhất.
Những lợi ích chính là:
- Giảm được những hạn chế của các kênh tín dụng khác: theo hình thức tài trợ
trung và dài hạn bằng tiền, người đi vay theo thông lệ phải có vốn chủ sở hữu
tham gia ít nhất là 30% giá trị công trình hoặc giá trị tài sản đầu tư. Nhưng đối
với phương thức tài trợ thuê mua người cho thuê có thể tài trợ 100% chi phí
mua tài sản hay nói cách khác người đi thuê có thể không cần tham gia vốn chủ
sở hữu. Do đó, thuê tài sản được xem là hình thức huy động nợ dễ dàng nhất vì
hợp đồng thuê được xem như một khoản nợ có đảm bảo bằng chính tài sản
thuê.
- Việc thuê tài sản có khả năng không làm tăng tỷ số nợ của công ty. Điều này
không gây áp lực lớn cho công ty về khả năng vay nợ bằng các hình thức khác
trong tương lai.
- Doanh nghiệp không bị ứ đọng vốn đầu tư vào tài sản cố định, tiếp nhận được
công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại. Khi doanh nghiệp lựa chọn thuê thiết bị
thay vì mua, sẽ tránh được một khoản tiền trả ngay lớn. Bằng cách dãn khoản
thanh toán ra theo vòng đời của tài sản, doanh nghiệp có thể bù đắp được chi
phí thiết bị với các khoản sinh lời từ việc đầu tư đó. Thêm vào đó, việc trả các
khoản thanh toán cố định hàng tháng giúp cân đối được các khoản phải trả dự
tính, tạo thuận lợi cho việc thu xếp nguồn vốn và báo cáo số liệu.
- Hoạt động cho thuê tài chính sẽ tạo khả năng dự trữ được các nguồn tín dụng
cho tương lai của doanh nghiệp cũng như giúp doanh nghiệp vượt qua được
những giai đoạn khó khăn về tài chính trước mắt.
- Thậm chí việc thuê tài sản có thể tốn kém hơn việc đi mua, nhưng nếu dòng
tiền là một vấn đề quan trọng, vậy thì thuê tài chính sẽ là một lựa chọn rất hấp
dẫn.

Thứ hai, tránh được các rủi ro do sở hữu tài sản do tính kịp thời và nhanh
chóng, trong đó rủi ro về sự lạc hậu của tài sản là rủi ro lớn nhất.
- Rút ngắn thời gian đầu tư thiết bị và tiếp cận các loại tài sản đa dạng, công
nghệ hiện đại. Bên đi thuê có thể tìm kiếm, lựa chọn tài sản trước từ nhà cung
cấp, sau đó yêu cầu công ty cho thuê tài chính tài trợ. Ưu thế này cho phép
người thuê rút ngắn thời gian đầu tư thiết bị. Bên cạnh đó là việc tiếp cận được
với rất nhiều loại tài sản, từ những thiết bị văn phòng như máy photocopy, máy
tính, đến các phương tiện và các dây chuyền sản xuất hiện đại.
- Các doanh nghiệp có điều kiện khẩn trương đầu tư để có thể nhanh chóng đón
bắt cơ hội kinh doanh. Nếu doanh nghiệp cần máy móc, thiết bị ngay lập tức,
việc đi thuê sẽ được chấp thuận nhanh hơn nhiều so với các khoản vay tín
dụng, và không cần nhiều thủ tục giấy tờ phiền hà, các yêu cầu về tín dụng
cũng dễ chịu hơn, nhất là với các doanh nghiệp đang ở giai đoạn khởi đầu.
Thư ba, tính linh hoạt trong thuê tài chính
- Những thỏa thuận chặt chẽ trong hợp đồng tín dụng thường không cần thiết
phải có trong hợp đồng thuê mua.
- Phương thức thanh toán tiền thuê linh hoạt, thích ứng với hoàn cảnh, điều kiện
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm khác nhau của mỗi doanh nghiệp hoặc cá nhân.
- Trong nhiều hợp đồng thuê, người đi thuê chấm dứt hợp đồng thuê trước hạn
và chịu một khoản phạt nhất định. Điều này giúp cho người đi thuê phản ứng
nhanh trước sự thay đổi của thị trường so với việc sở hữu tài sản, đặc biệt trong
môi trường công nghệ.
- Tính linh hoạt và hiệu quả trong nhu cầu sử dụng tài sản không thường xuyên.
Thứ tư, lợi ích về thuế:
Theo quy định, chi phí thuê tài chính sẽ được tính vào chi phí và được trừ ra
khỏi thu nhập trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Do đó, nếu công ty có lợi
nhuận thì sẽ được hưởng một lợi ích không nhỏ từ lá chắn thuế. Trường hợp công ty
bị thua lỗ thì công ty không thể giảm được chi phí thuê. Do đó, chi phí thuê thực sự
mà người đi thuê phải chịu là chi phí thuê sau khi từ đi phần giảm thuế. Về mặt này,
chi phí thuê được xem như chi phí chi trả lãi vay.

4.3. Đối với nền kinh tế
Thứ nhất, ảnh hưởng không nhỏ tới vốn cho nền kinh tế
Đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị là yêu cầu bức thiết nhằm tăng tính cạnh
tranh của doanh nghiệp trong hội nhập. Nếu không đầu tư thì doanh nghiệp thật khó
có khả năng phát triển. Thế nhưng một câu hỏi nan giải là “lấy vốn ở đâu ra?”. Dĩ
nhiên là tự bản thân doanh nghiệp không thể đáp ứng mọi nhu cầu vốn của mình.
Trong những tình huống đó, các doanh nghiệp phải tìm kiếm những kênh cung cấp
vốn trong nền kinh tế:
- Tăng nguồn vốn chủ sở hữu. Mặc dù cách này không gây áp lực lớn về chi
phí lãi cũng như hoàn trả vốn gốc. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, giải pháp này thường khó khả thi.
- Vay các ngân hàng thương mại. Đây được xem là lựa chọn mang tính truyền
thống. Tuy nhiên, việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng có thể nói là hết sức
khó khăn do những hạn chế nhất định, chẳng hạn về vấn đề thủ tục. Một doanh
nghiệp mới đi vào hoạt động hay một doanh nghiệp nhỏ thật khó có thể đủ tài
sản thế chấp cũng như thiếu căn cứ để chứng minh uy tín của mình khi đi vay.
Trong những trường hợp đó, thuê tài chính có thể xem là một giải pháp tối ưu.
- Thuê tài chính. Với sự phát triển mạnh ở nhiều nước, thuê tài chính có thể
được xem là một giải pháp thay thế đơn giản và thuận lợi cho tín dụng trung và
dài hạn. Tuy nhiên, thuê tài chính khác với tín dụng trung và dài hạn ở chỗ đó
là một phương tiện tài trợ ở mức thấp hơn, người ta có thể sử dụng phương
thức này để tài trợ cho một vài thiết bị chứ không phải để tài trợ cho toàn bộ
một dự án đầu tư lớn.
Thị trường cho thuê tài chính ra đời đã góp một phần để giải quyết bài toán khó
về vốn cho nền kinh tế. Phát triển tốt thị trường cho thuê tài chính sẽ giúp cho các
doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất của doanh nghiệp cũng như của
toàn nền kinh tế. Đặc biệt thông qua hình thức cho thuê tài chính có thể thu hút một
lượng vốn lớn từ dân cư qua các hình thức huy động vốn trung, dài hạn hoặc liên
doanh với nước ngoài để tạo ra nguồn vốn từ bên ngoài vào cho nền kinh tế.
Thứ hai, góp phần đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật.

Cho thuê tài chính gắn chặt với việc trang bị và đổi mới máy móc, công nghệ
và mở rộng sản xuất đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất của các ngành công nghiệp
vừa vào nhỏ thuộc khu vực dân doanh. Phát triển tốt thị trường cho thuê tài chính sẽ
giúp cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất của doanh nghiệp
cũng như của toàn nền kinh tế.
5. Nhược điểm của cho thuê tài chính là gì?
Không có sở hữu:
Bất lợi chính của đi thuê tài chính là công ty đi thuê không có quyền sở hữu sản
phẩm. tài sản cho thuê vẫn là tài sản của công ty cho thuê trong và sau khi cho thuê
nếu như không có cam kết chuyển giao quyền sở hữu khi kết thúc hợp đồng thuê tài
chính.
Vì công ty đi thuê không sở hữu các sản phẩm nên không thể bán nó trong
trường hợp nó không còn cần thiết, và công ty cũng không thể nâng cấp lên một sản
phẩm mới hơn hoặc tốt hơn nếu không có sự đồng ý của bên cho thuê, hoặc phải trả
một khoản phí lớn để hủy bỏ hợp đồng.
Mặc dù thuê mua cũng cho phép công ty đi thuê sở hữu sản phẩm khi kết thúc
thời hạn thuê trong hợp đồng nhưng thường khó khăn.
Chi phí dài hạn
Mặc dù cho thuê cho phép công ty đi thuê tránh phải trả một khoản tiền lớn
một lần vào thời điểm công ty cần thiết bị mới, nhưng nếu tính toán qua một thời gian
dài công ty đi thuê sẽ trả nhiều hơn chi phí mua sắm thiết bị mà không thực sự sở hữu
nó trong những năm đó.
Bảo trì
Mặc dù công ty đi thuê không sở hữu các thiết bị mà bạn thuê, công ty vẫn chịu
trách nhiệm về bảo trì và sửa chữa nó (trong trường hợp thuê trần- net lease). Điều
này đã được chứng minh là rất tốn kém trong trường hợp lỗi của thiết bị là nghiêm
trọng, sẽ làm tăng các khoản thanh toán hàng tháng của công ty đi thuê.
6. Quy trình cho thuê tài chính



Bước 1: Nhà cung cấp và bên đi thuê ký kết hợp đồng sơ bộ hoặc thỏa thuận về các
nội dung có liên quan đến tài sản, thiết bị.
Bước 2: Bên đi thuê tiến hành các thủ tục tài trợ của một công ty cho thuê tài chính.
Bao gồm:
- Nộp đơn xin thuê tài chính.
- Phương án khai thác, sử dụng các tài sản đi thuê
- Hồ sơ có liên quan đến tài sản thiết bị mà mình cần thuê kèm theo hợp đồng sơ
bộ đã ký kết với nhà cung cấp.
Sau khi tiếp nhận hồ sơ, bên cho thuê phải tiến hành thẩm định việc cho thuê
tài chính. Nếu kết quả thẩm định cho thấy có nhiều rủi ro thì bên cho thuê sẽ từ chối.
Nếu phương án sử dụng thiết bị có hiệu quả thì bên cho thuê thông báo cho khách
hàng về việc chấp nhận tài trợ.
Bên cho thuê cần phân tích những nội dung sau:
- Phân tích khả năng thanh tài chính, khả năng thanh toán
- Thẩm định kỹ những yếu tố được nêu trong hồ sơ như:
 Trình độ máy móc thiết bị lạc hậu hay tiên tiến sẽ ảnh hưởng khả năng thanh
toán của bên đi thuê và việc thu hồi vốn của bên cho thuê.
 Giá cả của tài sản đi thuê cao hay thấp hơn giá thị trường sẽ ảnh hưởng lợi
nhuận bên đi thuê và khả năng thanh toán tiền thuê.
 Năng lực nhà cung cấp: bên cho thuê nếu xét thấy nhà cung cấp không đủ khả
năng cung cấp hàng theo đúng hợp đồng thì có thể yêu cầu bên đi thuê thay đổi
nhà cung cấp tốt hơn.
Bước 3: Sau khi ký hợp đồng với khách hàng, bên cho thuê và nhà cung cấp ký kết
một hợp đồng mua bán các tài sản thiết bị theo yêu cầu của bên đi thuê.
Bước 4: Cho thuê (giải ngân)
a. Nhà cung cấp tiến hành giao hàng, lắp đặt, chạy thử, nghiệm thu tài sản giao nhận
cho bên thuê.
b. Nhà cung cấp gởi các chứng từ hóa đơn kèm theo thư yêu cầu thanh toán cho công
ty cho thuê tài chính để yêu cầu thanh toán.
c. Bên cho thuê thanh toán tiền mua tài sản cho nhà cung cấp, bao gồm giá mua, chi

phí vận chuyển, chi phí lắp đặt, chạy thử Sau khi thanh toán, công ty cho thuê tài
chính chính thức xác lập quyền sở hữu của mình đối với tài sản, thiết bị đó.
d. Bên cho thuê bàn giao tài sản, thiết bị cho bên thuê theo thời hạn đã ký kết trong
hợp đồng. Hợp đồng cho thuê tài chính bắt đầu có hiệu lực về phương diện kinh tế.
Bước 5: Giám sát việc sử dụng và quản lý tài sản
- Bên đi thuê phải sử dụng và quản lý tài sản đúng quy trình kỹ thuật theo những điều
khoản trong hợp đồng đi thuê.
- Phương pháp giám sát : giám sát theo định kì hoặc kiểm tra đột xuất hoặc kết hợp cả
hai.
- Nội dung giám sát:
 Kiểm tra quy trình bảo dưỡng, việc đóng bảo hiểm tài sản của bên đi thuê.
 Kiểm tra môi trường vận hành và tình trạng hoạt động của tài sản
 Kiểm tra cường độ sử dụng tài sản.
 Giám sát việc thanh toán tiền thuê và hiệu quả tài chính của việc sử dụng vốn.
Bước 6: Xử lý tài sản khi chấm dứt hợp đồng cho thuê
Tóm tắt quy trình:

7. Các loại hình cho thuê tài chính:
Cho thuê tài chính được phân loại thành nhiều phương thức tuỳ theo tiêu chí
phân loại và mục đích phân loại.
Theo nguồn gốc sở hữu của tài sản thuê, cho thuê tài chính bao gồm các loại
hình cho thuê tài chính giản đơn(thuê mua thương mại và thuê mua thuần), các loại
hình cho thuê tài chính đặc biệt (tái thuê mua, thuê mưa hợp tác, thuê mua giáp
lưng…)
Theo bản chất của tín dụng bao gồm cho thuê tài chính không hoàn lại tài sản
thuê và cho thuê tài chính có hoàn lại tài sản thuê.
7.1. Phân loại theo nguồn gốc sở hữu của tài sản thuê
7.1.1. Các loại hình cho thuê tài chính cơ bản:
a. Cho thuê tài chính hai bên (Thuê mua thương mại)
Theo phương thức này, trước khi thực hiện nghiệp vụ cho thuê, tài sản cho thuê

đã thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê bằng cách mua hoặc tự xây dựng. Hình thức
này thường do các công ty bất động sản và các công ty sản xuất máy móc thiết bị thực
hiện, các tổ chức tài chính rất ít thực hiện phương thức này.
Hình thức này chỉ bao gồm hai bên: bên cho thuê và bên thuê.
Quy trình nghiệp vụ:

Trong đó:
(1) Hai bên ký hợp đồng thuê mua
(2a) Bên đi thuê làm thủ tục chuyển giao quyền sử dụng tài sản cho bên
thuê
(2b) Bên cho thuê chuyển giao tài sản cho bên đi thuê
(3) Bên đi thuê thanh toán tiền thuê theo định kỳ.
Ưu điểm: Thủ tục đơn giản do chỉ có 2 bên tham gia.
Nhược điểm:
- Với bên đi thuê: có thể tài sản thuê mua không đạt tiêu chuẩn kỹ thuật theo
yêu cầu.
- Với bên cho thuê: nhiều khi phải mua dự trữ tài sản để có thể kịp thời đáp ứng
nhu cầu của bên đi thuê khi cần thiết.
Với những nhược điểm trên, hình thức này chỉ phù hợp với việc cho thuê tài
sản thông dụng, có giá trị nhỏ và vừa phải.
b. Cho thuê tài chính ba bên ( Thuê mua thuần- net lease)
Là hình thức thuê mua mà trong đó có sự tham gia của ba bên: bên cho thuê,
bên đi thuê và nhà cung cấp tài sản thuê mua.
Theo hình thức này bên cho thuê chỉ thực hiện việc mua tài sản theo yêu cầu
của bên đi thuê theo thỏa thuận trong hợp đồng thuê, bên đi thuê lựa chọn tài sản ḿnh
cần thuê và lựa chọn nhà cung cấp theo yêu cầu của ḿnh. Do đó, trước khi nghiệp vụ
thuê mua xảy ra, bên cho thuê chưa nắm quyền sở hữu về tài sản.
Quy trình nghiệp vụ:

Trong đó:

(1a) Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng thuê mua.
(1b) Bên cho thuê và nhà cung cấp ký hợp đồng mua tài sản
(2a) Bên đi thuê và nhà cung cấp ký hợp đồng phụ như: bảo hành, bảo dưỡng
và vận hành tài sản. Nhà cung cấp lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu tài sản
cho bên thuê.
(2b) Bên cung cấp chuyển giao tài sản cho bên đi thuê
(2c) Bên cho thuê thanh toán tiền mua tài sản
(2d) Bên cho thuê làm thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho bên thuê
(3) Bên đi thuê thanh toán tiền thuê theo định kỳ.
Đây là phương thức được áp dụng phổ biến nhất tại các nước, chiếm hơn 80%
các hợp đồng cho thuê tài chính do có những ưu điểm sau:
- Đối với bên cho thuê:
 Bên cho thuê không cần dự trữ tài sản tồn kho để cho thuê nên tránh
được tình trạng bị ứ đọng vốn, làm tăng vòng quay của vốn.
 Bảo đảm tín dụng được thiết lập theo đó bên cho thuê nắm quyền sở hữu
tài sản.
 Việc chuyển giao tài sản được thực hiện trực tiếp giữa bên đi thuê và
bên cung cấp, đồng thời họ cũng thường chịu trách nhiệm trực tiếp về
tình trạng hoạt động của tài sản, bảo hành. Điều này làm cho gánh nặng
của bên cho thuê về tình trạng hoạt động của tài sản sau đi thuê cũng
như tâm lý lo ngại về việc bảo quản tài sản không tốt trong quá trình vận
hành được trút bỏ.
 Hạn chế được rủi ro liên quan đến việc từ chối nhận hàng của bên đi
thuê do những sai sót kỹ thuật hoặc hư hỏng trê đường vận chuyển.
- Đối với bên đi thuê: Lựa chọn được đúng thiết bị mình cần.
6.1.2. Các loại hình cho thuê tài chính đặc biệt
a. Tái cho thuê (Lease Back)
Tái cho thuê còn tồn tại dưới một cái tên ít thông dụng hơn là bán và cho thuê
lại (Sale and lease Back), đây là một dạng đặc biệt của thuê mua thuần với sự tham gia
của hai bên.

Quy trình nghiệp vụ:

Trong đó:
(1a) Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng mua tài sản
(1b) Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng thuê mua
(2a) Bên đi thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu cho bên cho thuê
(2b) Bên cho thuê thanh toán tiền mua tài sản cho bên đi thuê
(2c) Bên cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho bên đi thuê
(3) Bên đi thuê thanh toán tiền thuê theo định kỳ.
Trường hợp và cơ chế áp dụng:
Trường hợp thứ nhất:
Hình thức này phù hợp với các doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác
tài sản cố định hiện có của mình đồng thời không đủ điều kiện để vay vốn của các
ngân hàng. Để giải quyết tình trạng này, doanh nghiệp bán một phần hoặc toàn bộ tài
sản của mình cho tổ chức tài trợ, sau đó thuê lại tài sản này để duy trì quyền sử dụng.
Trường hợp thứ hai: giải quyết các khoản nợ quá hạn
Trong thực tế, cũng có nhiều trường hợp các định chế tài chính cũng thường áp
dụng loại hình tài trợ này như một trong những biện pháp để giải quyết các khoản nợ
quá hạn khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng tài chinh khó khăn mà không cần phải
tiến hành thanh lý tài sản. Nghĩa là, nếu như doanh nghiệp đã vay nợ ngắn hạn của
ngân hàng hoặc các khoản nợ đã đế hạn thanh toán nhưng không thanh toán đúng hạn
thì ngân hàng có thể yêu cầu doanh nghiệp đó bán lại một phần tài sản cho công ty
thuê mua thuộc sở hữu ngân hàng để thanh toán nợ quá hạn, sau đó thuê mua lại tài
sản để sử dụng. Như vậy, thuê mua trong trường hợp này được coi là một biện pháp
để giải quyết các khoản cho vay có vấn đề của ngân hàng.
Thực chất hai trường hợp cho thuê tài chính trên trong phương thức tái cho
thuê là sự chuyển hóa từ cho vay ngắn hạn sang tài trợ trung và dài hạn. Nhưng tại sao
các định chế tài chính lại chấp nhận điều này? Để trả lời cho câu hỏi này có thể nêu ra
hai lý do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, như đã trình bày ở các phần trên, hoạt động cho thuê tài chính ít rủi

ro hơn các loại hình cấp tín dụng khác nên nó được lựa chọn để giải quyết khó khăn
ngắn hạn về tài chính khi không còn cách nào khác.
Thứ hai, nếu không lựa chọn một cách thức giải quyết thì tình trạng tài chính
của doanh nghiệp ngày càng khó khăn hơn và rất có thể lâm vào tình trạng phá sản.
trong trường hợp đó thiệt hại của ngân hàng sẽ lớn hơn.
b. Thuê mua hợp tác (cho thuê bắc cầu- Leveraged Lease)
Cho thuê hợp tác có thể nói là một phương thức tài trợ đặc biệt, là một dạng
biến tướng của loại hình cho thuê tài chính ba bên. Đây là hình thức thuê mua trong
đó bên cho thuê được sự tài trợ của các tổ chức tín dụng (một phần hoặc phần lớn) để
mua tài sản cho thuê.
Quy trình nghiệp vụ:
Khác với các hình thức trước, hình thức này có sự tham gia của 4 bên: bên cho
thuê, bên đi thuê, nhà cung cấp và người cho vay.


Trong đó:
(1a) Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng thuê mua
(1b) Bên cho thuê và nhà cung cấp ký hợp đồng mua tài sản
(1c) Bên cho thuê và người cho vay ký hợp đồng tín dụng.
(1d) Bên đi thuê và nhà cung cấp ký các hợp đồng phụ như: vận hành, bảo
dưỡng, thiết bị…
(2a) Nhà cung cấp lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu cho bên cho thuê. Nhà
cung cấp chuyển tài sản cho bên đi thuê
(2c) Bên cho thuê thanh toán tiền mua tài sản cho nhà cung cấp. Phần thiếu do
ngân hàng cho vay.
(3a) Bên đi thuê thanh toán tiền thuê theo định kỳ.
(3b) Bên cho thuê trả nợ cho người cho vay.
Trường hợp áp dụng:
Đối với tài sản thuê có giá trị lớn, một bên cho thuê không đủ vốn để tài trợ
hoặc sợ rủi ro vì tập trung vốn quá lớn vào một khách hàng nên một hoặc một số bên

cho thuê hợp tác với một hoặc một số bên cho vay để cùng tài trợ. Trong trường hợp
có nhiều bên cho thuê thì có thể ủy thác cho một bên cho thuê đứng ra ký kết hợp
đồng và quản lý vốn. Tương tự, nếu có nhiều bên cho vay thì cũng có thể làm tương
tự.
Tuy nhiên, cần chú ý đây không phải là phương thức đồng tài trợ mà bên cho
thuê vẫn là trái chủ trong quan hệ cho thuê, bên cho vay là trái chủ của bên cho thuê.
Nguồn vốn hình thành nên tài sản cho thuê bao gồm hai phần: (i) một phần vốn của
bên cho thuê, (ii) một phần vốn của bên cho vay. Thông thường, vốn vay thường
chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số tiền tài trợ, khoảng 60-80% và khoản cho vay được
đảm bảo bằng chính tài sản cho thuê, nên có thể xem đây như là hình thức cho vay có
tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay. Theo đó công ty cho thuê phải trả nợ vay từ
tiền cho thuê và hưởng phần chênh lệch còn lại.
c. Thuê mua giáp lưng (Back-To-Back Lease hay Under Lease)
Cho thuê giáp lưng là phương thức cho thuê mà theo đó bên cho thuê đồng ý để
bên đi thuê thứ nhất cho bên đi thuê thứ hai thuê lại tài sản đó. Bên đi thuê thứ nhất
trở thành trung gian giữa bên cho thuê và bên đi thuê thứ hai.
Xét về mặt pháp lý, bên đi thuê thứ nhất vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực
hiện hợp đồng với bên cho thuê. Do đó tiền thuê mà bên đi thuê thứ hai phải trả
thường cao hơn tiền thuê mà bên đi thuê thứ nhất phải trả. Bên đi thuê thứ nhất sẽ
hưởng phần chênh lệch giữa hai khoản tiền này. Đây được coi như là khoản hoa hồng
cho phần trách nhiệm mà họ phải gánh chịu.
Trường hợp áp dụng:
Trường hợp 1:
Doanh nghiệp không đủ điều kiện để trực tiếp thuê tài sản của bên cho thuê.
Phương thức cho thuê tài chính mặc dù được xem là một phương thức tài trợ ít
rủi ro nên có thể nói rằng các công ty cho thuê tài chính có thể tài trợ cho cả những
doanh nghiệp có độ tín nhiệm không cao. Nhưng điều đó không có nghĩa là các công
ty cho thuê tài chính sẽ cho thuê đối với tất cả các đối tượng. Trong thực tế, có rất
nhiều doanh nghiệp có nhu cầu thuê tài sản nhưng không đủ điều kiện để đi thuê từ
những nhà cho thuê chuyên nghiệp. Ví dụ như: doanh nghiệp đã thực hiện các hợp

đồng kinh tế trong quá khứ, hoạt động kinh doanh yếu kém hoặc doanh nghiệp đó còn
là một tên tuổi khá mới mẻ nên mức độ tin cậy không cao. Thậm chí những công ty
cho thuê tài chính nước ngoài chỉ cho thuê đối với các công ty lớn của Việt Nam trong
khi các công ty vừa và nhỏ là những đối tượng cần vốn nhất. Trong những tình huống
như thế thì phương thức cho thuê tài chính giáp lưng ra đời đã đáp ứng được yêu cầu
đó.
Trường hợp 2:
Bên thuê thứ nhất thuê tài sản và đã sử dụng tài sản đó nhưng sau đó không có
nhu cầu sử dụng tài sản đó nữa thì có thể cho bên khác thuê lại với sự đồng ý của bên
cho thuê và trong hời hạn của hợp đồng đi thuê.
Quy trình nghiệp vụ:

Trong đó:
(1a) Bên cho thuê ký hợp đồng thuê mua với bên đi thuê thứ nhất.
(1b) Bên đi thuê thứ nhất và bên đi thuê thứ hai ký hợp đồng cho thuê .
(2) Bên cho thuê giao tài sản cho bên đi thuê thứ hai.
(3a) Bên đi thuê thứ hai trả tiền thuê cho bên đi thuê thứ nhất.
(3b) Bên đi thuê thứ nhất trả tiền thuê cho bên cho thuê.
d. Cho thuê tài chính liên kế (Syndicate Lease)- đồng tài trợ:
Là phương thức cho thuê tài chính mà theo đó sẽ có nhiều bên cho thuê cùng
tài trợ cho một bên đi thuê.
Trường hợp áp dụng: Tài sản đi thuê thường có giá trị lớn, một người cho thuê
sẽ không đủ vốn tài trợ hoặc nếu đủ vốn tài trợ cũng ngại rủi ro do tập trung vốn quá
lớn vào một khách hàng. Với phương thức này các công ty tài chính vẫn có được
khách hàng và có thể tạo lợi nhuận với rủi ro không quá lớn.
Để phương tức này được thực thi cũng như để đảm bảo an toàn trong hoạt động
cho thuê tài chính, tùy vào từng thời điểm và mục đích cụ thể Ngân hàng nhà nước sẽ
quy định tỷ lệ cho thuê tối đa đối với một khách hàng và đối với nhóm khách hàng.
Hiện nay giới hạn này là:
- Tổng mức cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá

30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính.
- Tổng mức cho thuê tài chính đối với một nhóm khách hàng có liên quan không
được vượt quá 80% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính, trong đó mức cho
thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định tại
khoảng trên.
d. Thuê mua trả góp (purchase lease):
Đây là phương thức khá đặc biệt của cho thuê tài chính vì xét về bản chất là
hình thức mua trả góp tài sản với thời hạn từ 1- 5 năm
Trong thực tế, thuê mua trả góp là hình thức tài trợ vốn cho doanh nghiệp
không có vốn thế chấp. Doanh nghiệp thuê mua tài sản theo hình thức này phải tiến
hành kí kết hợp đồng thuê mua với chủ tải sản, thỏa thuận số tiền phải trả ngay
(thường từ 1/4-1/3 giá trị của tải sản) khi giao tài sản và trong những kỳ tiếp theo. Khi
hợp đồng đáo hạn thì người mua nhận quyền sở hữu tài sản.
Thuận lợi chính cho người đi thuê trong hình thức này là họ có ngay tài sản sử
dụng mà không phải trả ngay một khoản tiền lớn.
6.2. Phân loại theo bản chất tín dụng:
a. Cho thuê tài chính không hoàn lại tài sản thuê
Đây là phương thức cho thuê tài chính mà theo đó, bên thuê có quyền sở hữu
tài sản thuê khi chấm dứt hợp đồng thuê. Khi kết thúc hợp đồng, bên cho thuê có
nghĩa vụ tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết để chuyển giao quyền sở hữu cho bên
thuê.
Đối với phương thức này:
- Số tiền thuê thường không thấp hơn giá trị tài sản thuê tại thời điểm giao kết
hợp đồng.
- Khi chuyển giao quyền sở hữu, bên thuê chỉ phải thanh toán theo giá danh
nghĩa thấp hơn giá trị thực của tài sản tại thời điểm chuyển giao.
b. Cho thuê tài chính có hoàn lại tài sản thuê
Là phương thức cho thuê tài sản mà theo đó, tài sản thuê không đương nhiên
được chuyển giao quyền sở hữu khi chấm dứt hợp đồng thuê.
Với phương thức cho thuê này, số tiền thuê có thể thấp hơn giá trị của tài sản

tại thời điểm thuê. Khi kết thúc hợp đồng thuê, bên thuê có quyền thuê tiếp hoặc mua
lại tài sản thuê. Nếu được chuyển nhượng thì giá chuyển nhượng sẽ được các bên
thương lượng dựa trên giá trị còn lại của tài sản thuê.
II. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ cho thuê tài chính
1. Hợp đồng cho thuê tài chính
1.1. Khái niệm
Hợp đồng cho thuê tài chính là thoả thuận giữa bên cho thuê và bên thuê về
việc cho thuê một hoặc một số máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và động sản
khác, phù hợp với quyền và nghĩa vụ của các bên.
Các yêu cầu cơ bản của một hợp đồng cho thuê tài chính:
- Phải được lập thành hai bản, mỗi bên giữ một bản và có giá trị ngang nhau.
- Phải đăng ký tại ngân hàng nhà nước và cơ quan quản lý hợp đồng nơi công ty
cho thuê tài chính đóng trụ sở chính.
- Bên thuê và bên cho thuê không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng cho thuê
tài chính.
- Hợp đồng phải ghi rõ việc xử lý khi hợp đồng chấm dứt trước hạn.
1.2. Điều kiện chấm dứt hợp đồng trước hạn
a. Bên cho thuê có quyền chấm dứt hợp đồng cho thuê trước hạn trong các trường
hợp:
- Bên thuê không trả tiền thuê theo quy định trong hợp đồng cho thuê tài chính;
- Bên thuê vi phạm các điều khoản của hợp đồng cho thuê tài chính;
- Bên thuê bị phá sản, giải thể;
- Người bảo lãnh bị phá sản, giải thể và bên cho thuê không chấp thuận đề nghị
chấm dứt bảo lãnh hoặc đề nghị người bảo lãnh khác thay thế của bên thuê.
b. Bên thuê có thể chấm dứt hợp đồng trước hạn trong các trường hợp:
- Bên cho thuê không giao đúng hạn tài sản cho thuê;
- Bên cho thuê vi phạm hợp đồng.
c. Hợp đồng cho thuê tài chính được chấm dứt trước hạn cho thuê trong trường
hợp tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sửa chữa.
2. Vấn đề kỹ thuật trong hoạt động cho thuê tài chính

2.1. Số tiền cho thuê
Giá trị cho thuê tài chính là tổng số tiền mà bên cho thuê thanh toán chi trả cho
việc hình thành nên tài sản cho thuê, bao gồm:
- Chi phí mua tài sản.
- Chi nộp thuế nhập khẩu.
- Phí mua bảo hiểm tài sản.
- Chi phí vận chuyển, vận hành chạy thử và các khoản chi phí khác được tính
vào nguyên giá của tài sản thuê.
Tuy nhiên, trong hợp đồng thuê hai bên có thể thỏa thuận khác chẳng hạn bên
thuê phải trả chi phí lắp đặt, chạy thử.
Lưu ý:
Nếu trong hợp đồng cho thuê có thỏa thuận bên thuê phải thanh toán trước cho
bên cho thuê một phần, thì giá trị cho thuê không bao gồm khoản tiền trả trước của
bên thuê.
Ví dụ 1:
Công ty cho thuê tài chính đồng ý cho công ty HP thuê một thiết bị sản xuất
với nội dung chi tiết như sau (đơn vị 1.000 đ):
- Giá mua thiết bị : 4.000.000
- Vận chuyển lắp đặt: 150.000
- Chi phí khác: 50.000
Bên thuê trả trước 30% giá mua thiết bị cho bên cung ứng, phần chi phí còn lại
sẽ được công ty tài chính thanh toán đầy đủ cho các bên có liên quan.
Giá trị cho thuê :
Giá trị tài sản tài sản thuê:
4.000.000 + 150.000 + 50.000 = 4.200.000 (ngàn đồng)
Số tiền trả trước của bên thuê:
4.000.000 * 30% = 1.200.000 (ngàn đồng)
Giá trị cho thuê tài chính (P):
P = 4.200.000 – 1.200.000 = 3.000.000 (ngàn đồng)
2.2. Thời hạn cho thuê

Thời hạn cho thuê là khoảng thời gian tính từ thời điểm bên thuê nhận tài sản
cho đến khi bên thuê thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán hết nợ gốc, lãi thuê tài chính
và các khoản chi phí khác cho bên cho thuê.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp mà thời điểm thanh toán tiền mua tài sản
của bên cho thuê và thời điểm nhận tài sản của bên đi thuê có khoảng cách đáng kể,
đặc biệt trong trường hợp bên cho thuê thanh toán trước thì bên cho thuê phải giải
quyết chi phí liên quan đến quỹ đi vay dùng để tài trợ. Bên cho thuê có thể lựa chọn
một trong hai cách xử lý sau:
- Nếu thời hạn thuê tính từ thời điểm nhận tài sản thì trong chi phí thuê phải
cộng thêm chi phí quỹ mà bên cho thuê ứng trước để mua. Nếu quy đổi ra lãi
suất tài trợ thì lãi suất này phải cao hơn bình thường.
- Hai bên cũng có thể thỏa thuận thời gian cho thuê kể từ khi bên cho thuê ứng
vốn thanh toán việc mua tài sản
Thời hạn hợp đồng được chia ra làm 2 phần:
- Thời hạn cơ bản (Basic Leasing Period): là thời hạn được ký lần đầu của hợp
đồng thuê mua. Trong thời hạn này hai bên đi thuê và cho thuê không được đơn
phương hủy ngang.
- Thời hạn gia hạn thêm: là thời hạn mà bên đi thuê được thuê tiếp sau khi
chấm dứt thời hạn cơ bản trong thời hạn này bên đi thuê được quyền hủy hợp
đồng trước hạn và trả lại tài sản cho bên cho thuê.
Việc xác định thời hạn thuê dựa trên cơ sở sau:
- Thời gian hoạt động của tài sản.
- Tốc độ lỗi thời của tài sản
- Mức độ rủi ro có thể có trong giao dịch thuê mua.
2.3. Lãi suất thuê mua:
Lãi suất được xác định trên cơ sở kết quả thương lượng giữa bên cho thuê và
bên đi thuê. Lãi suất này phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Lãi suất trên thị trường
- Phi giao dịch và quản lý
- Mức độ rủi ro về phía bên đi thuê.

Có hai loại lãi suất được áp dụng trong tài trợ thuê mua như sau:
- Lãi suất cố định: lãi suất được thỏa thuận theo hợp đồng và được áp dụng
trong suốt thời gian thuê.
- Lãi suất thả nổi: là lãi suất biến động được điều chỉnh cho mỗi định kỳ thanh
toán, căn cứ vào lãi suất thị trường.
Trong hợp đồng thuê mua chỉ quy định những cơ sở để xác định lãi suất. Ví dụ:
Hợp đồng quy định lãi suất LIBOR + 3% và xác định ngày tính lãi suất LIBOR. Trong
điều kiện lạm phát không thể dự đoán chắc chắn và có khả năng biến động lớn thì lãi
suất thả nổi được các bên chấp nhận.
2.4. Phương thức tính số tiền cho thuê
Tiền thuê thực chất là vốn gốc và lãi mà bên đi thuê phải trả cho bên cho thuê.
Về nguyên tắc việc tính tiền thuê cũng tương tự như việc xác định mức trả nợ trong
cho vay, tức là dựa trên tổng số tiền tài trợ, thời hạn cho thuê và lãi suất. Ngoài ra, để
tính tiền thuê các bên liên quan còn phải xác định các yếu tố sau:
- Kỳ hạn thanh toán tiền thuê
Trong cho thuê tài chính việc thanh toán tiền thuê được chia làm nhiều kỳ hạn.
Dựa trên đặc điểm sản xuất và luân chuyển vốn của doanh nghiệp đi thuê mà chọn
một trong hai cách sau:
 Kỳ hạn thanh toán đều đặn, thông thường là theo tháng, quý, năm
 Kỳ hạn thanh toán thời vụ
- Thời điểm thanh toán:
Thông thường, tiền thuê được thanh toán đầu mỗi định kỳ và trong một số
trường hợp đặc biệt tiền thuê có thể thanh toán cuối kỳ.
- Mức hoàn vốn trong thời hạn tài trợ.
- Tiền thuê phân phối đều hay không đều cho các kỳ hạn.
- Lãi suất tính tiền thuê là cố định hay thả nổi.
-

×